Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Sự thích ứng của thanh niên nông thôn di cư làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.5 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------

PHAN THANH NGUYỆT

SỰ THÍCH ỨNG CỦA THANH NIÊN NÔNG THÔN
DI CƢ LÀM VIỆC TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP,
KHU CHẾ XUẤT HIỆN NAY

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số : 62 31 03 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ XÃ HỘI HỌC

Hà Nội, năm 2017


Công trình đƣợc hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng Nguyên Anh

Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Đình Tấn
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Hoa
Phản biện 3: TS. Trần Thị Minh Thi

Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Khoa học xã hội
Vào hồi …… giờ….. phút, ngày ….. tháng ….. năm ……


Có thể tìm hiểu luận án tại thƣ viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tăng trưởng kinh tế gắn với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở nước
ta đã và đang hình thành nên nhiều khu công nghiệp (KCN) với số lượng lao
động tập trung, gắn với những luồng di cư lớn từ nông thôn và các địa phương
đến các KCN. Theo báo cáo của Viện Công nhân và Công đoàn thuộc Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam, năm 2014 có gần 2 triệu lao động làm việc tại
các KCN trong đó 60% là người ngoại tỉnh [53], và gần 70% lao động ngoại tỉnh
là dưới 30 tuổi, trong đó đa phần là thanh niên [14].
Sự dịch chuyển của lao động nông thôn đến các KCN về bản chất phản
ánh sự chuyển đổi từ nền nông nghiệp cổ truyền sang sản xuất công nghiệp hiện
đại như đã diễn ra ở nhiều quốc gia khác. Đương nhiên, sự chuyển đổi này
không hề dễ dàng về mặt xã hội. Thực tế cho thấy, thanh niên nông thôn (TNNT)
di cư gặp không ít khó khăn cả về đời sống vật chất, đời sống tinh thần, cũng như
về trình độ tay nghề, chuyên môn, nhất là trong việc tuân thủ kỷ luật lao động, và
tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục... Trước những khó khăn đó, nhiều cá nhân và
nhóm lao động đã có những giải pháp, và thay đổi linh hoạt để thích ứng với sự
biến đổi. Việc trụ lại ở thành phố và các KCN là mục đích cũng như phương thức
sinh kế của TNNT. Câu hỏi đặt ra là họ đã sử dụng những biện pháp nào, trông
cậy vào ai trong quá trình thích ứng đó? Liệu họ có vượt qua được những khó
khăn hàng ngày không? Xã hội và cộng đồng cần làm gì để giúp đỡ họ? Đây là
những câu hỏi chưa được nghiên cứu xem xét và rất cần được tìm hiểu một cách

thấu đáo trên bình diện lý luận và thực tiễn.
Cho đến nay, tuy đã có khá nhiều các công trình, đề tài, bài viết về di cư,
nhưng chủ đề về sự thích ứng của lao động di cư còn khá mỏng, chưa tập trung
nhiều vào từng nhóm đối tượng riêng, đặc biệt là khả năng thích ứng của TNNT di
cư đến cư trú và làm việc tại các KCN. Nghiên cứu sinh mạnh dạn lựa chọn đề tài
luận án: “Sự thích ứng của thanh niên nông thôn di cư làm việc tại các khu công
nghiệp, khu chế xuất hiện nay” với hy vọng khỏa lấp dần khoảng trống nghiên
cứu và đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Mục đích
Làm rõ thực trạng sự thích ứng và các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng
của TNTN di cư với đời sống và việc làm tại KCN. Trên cơ sở đó, đề xuất một số
kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, điều kiện làm việc và tăng cường
năng lực thích ứng cho TNNT di cư trong bối cảnh CNH, HĐH đất nước.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự thích ứng của thanh niên nông thôn di cư làm việc tại KCN hiện nay.


2

3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Về không gian: Cuộc nghiên cứu được tiến hành tại KCN Bắc
Thăng Long (Hà Nội) và KCN Tân Thuận (TP. Hồ Chí Minh).
3.2.2. Về thời gian: Đó là thời gian bắt đầu từ khi TNNT đến làm việc tại
KCN cho đến thời điểm triển khai khảo sát.
3.2.3. Về vấn đề nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung vào sự thích ứng của
TNNT di cư ở hai chiều cạnh là thích ứng với đời sống và việc làm tại KCN.
3.3 Khách thể nghiên cứu: TNNT di cư làm việc tại KCN; Cán bộ quản lý,
cán bộ chính quyền địa phương, doanh nghiệp sử dụng lao động, chủ nhà trọ tại các
KCN nơi TNNT cư trú sau giờ làm việc.

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
- TNNT đến làm việc tại các KCN có gặp khó khăn không? Nếu có, thì đó
là những khó khăn trên phương diện gì?
- Trước các khó khăn, TNNT đã làm gì để thích ứng? Các đặc điểm về môi
trường sống, về nhân khẩu học có ảnh hưởng như thế nào trong việc thích ứng đó?
- Liệu việc khắc phục khó khăn để thích ứng như vậy chỉ diễn ra ở một số
ít người, hay ở số đông và có mang tính qui luật trong tiến trình CNH, HĐH?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
- TNNT di cư đến làm việc tại các KCN gặp rất nhiều khó khăn cả trên hai
phương diện: đời sống cũng như lao động, việc làm.
- Trước những khó khăn đó, TNNT đã chủ động, sáng tạo để khắc phục,
như dựa vào mạng lưới xã hội của mình, cân nhắc và lựa chọn từng phương án để
giải quyết… Các đặc điểm về môi trường, nhân khẩu học của cá nhân cũng có
ảnh hưởng đến quá trình thích ứng của họ.
- Việc không ngừng khắc phục khó khăn để thích ứng diễn ra ở đại đa số
TNNT đến làm việc ở cả KCN – đây là hiện tượng mang tính qui luật của một xã
hội đang chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống sang tiến trình CNH, HĐH.
4.3. Phương pháp luận
Nghiên cứu lựa chọn vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử làm cơ sở phương pháp luận – với ý nghĩa cơ bản là: thế giới tự
nhiên và thế giới xã hội được hình thành, tồn tại và phát triển có tính qui luật, do
đó bằng các phương pháp khoa học người ta hoàn toàn thể nhận thức về chúng.
Theo nguyên lý đó, sự thích ứng của TNNT làm việc tại các KCN cũng là hiện
tượng xã hội mà chúng ta có thể nhận thức được, mang tính quy luật, để từ đó
rút ra các bài học phục vụ và đáp ứng sự nghiệp CHN, HĐH đất nước.
4.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích tài liệu: Tổng hợp, phân tích những lý thuyết, công trình nghiên
cứu trong và ngoài nước được đăng tải trên các sách, báo, tạp chí về những vấn đề
liên quan đến thích ứng, di cư và sự thích ứng của TNNT di cư làm việc tại KCN.



3

- Nghiên cứu định lượng: Khảo sát bằng bảng hỏi 600 TNNT di cư đến làm
việc tại KCN tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, phiếu được nhập, xử lý và số liệu
được phân tích bằng chương trình SPSS 20.0.
- Nghiên cứu định tính: Tiến hành 18 cuộc PVS, 4 cuộc TLN, mà thành
phần bao gồm: TNNT di cư, cán bộ quản lý, cán bộ địa phương, chủ nhà trọ,
doanh nghiệp sử dụng lao động.
- Quan sát: Được kết hợp với phương pháp phỏng vấn sâu nhằm làm
phong phú và kiểm chứng các thông tin thu được.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Cho đến nay, đã có khá nhiều nghiên cứu về di cư, song chưa nhiều công
trình có chủ đề thích ứng của người lao động di cư tại nơi đến. Hơn nữa, các
nghiên cứu mới chỉ tập trung vào thích ứng của đối tượng lao động di cư tự do
đến các thành phố mà chưa chú ý đến sự thích ứng của lao động trẻ di cư từ
nông thôn tới các KCN, nhất là thanh niên. Đây là một xu hướng dịch chuyển
lao động mới ở nước ta và gia tăng nhanh trong những năm gần đây. Bằng việc
khảo sát, mô tả và phân tích hiện tượng xã hội mới mẻ này, luận sẽ góp phần bổ
sung một khía cạnh hiểu biết mới vào nguồn tri thức về di cư hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1.Ý nghĩa lý luận
- Qua việc làm sáng tỏ các khái niệm như “sự thích ứng”, “thanh niên
nông thôn di cư”, đề tài đã làm phong phú và sâu sắc hơn cả về nội hàm và
ngoại diên cho các khái niệm xã hội học như di cư, di động xã hội.
- Về mặt lý thuyết, đề tài cũng góp phần kiểm chứng tính phổ biến, độ
chính xác và khả năng ứng dụng của một số lý thuyết được vận dụng trong luận
án là lý thuyết mạng lưới xã hội và lý thuyết lựa chọn hợp lý.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Bức tranh thực tiễn về quá trình thay đổi và thích ứng của TNNT hiện đang
sống và làm việc tại các KCN mà nghiên cứu mang lại không chỉ giúp chính
quyền địa phương, doanh nghiệp và Ban Quản lý các KCN có thêm các luận cứ
khoa học trong việc quản lý và hoạch định chính sách một cách tối ưu mà còn đáp
ứng tốt hơn nhu cầu an sinh của người lao động, góp phần ổn định xã hội.
7. Cơ cấu của báo cáo luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, báo cáo luận án được trình bày trong 4 chương. Cụ thể: Chương 1 dành
cho việc tổng quan tình hình nghiên cứu; Chương 2 xây dựng cơ sở lý luận và
thực tiễn của đề tài; Chương 3 mô tả và phân tích thực trạng thích ứng với đời
sống và việc làm của TNNT di cư làm việc tại KCN; sau cùng, Chương 4 tập
trung phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng với đời sống, việc làm
của TNNT di cư làm việc tại KCN. Kết cấu này nhằm đáp ứng được mục tiêu và
các vấn đề nghiên cứu đặt ra trong đề tài này.


4

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc
Di cư là một hiện tượng xã hội mang tính phổ quát toàn nhân loại và
xuyên lịch sử, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Cùng với thực tiễn sôi động đó, trên thế giới cũng đã xuất hiện không ít các
công trình khoa học tập trung tìm hiểu hiện tượng đó. Chẳng hạn, tại Ấn Độ,
Seleena (2013) thuộc Tổ chức Lao động và Phát triển của New Delhi đã công bố
kết quả nghiên cứu về “Điều kiện sống và làm việc của người di cư ở Gurgaon Ấn Độ”. Dù chưa đi sâu tìm hiểu các biện pháp ứng phó trước khó khăn, những
thay đổi để thích ứng với môi trường sống mới, song công trình này đã mô tả và
phân tích khá sinh động về thực trạng đời sống và việc làm của người lao động
trong các KCN ở Gurgaon, Ấn Độ.

Ở Trung Quốc, nghiên cứu của Cai Fang (1998) về sự thích ứng và biến
đổi của các nhóm cư dân từ nông thôn lên thủ đô Bắc Kinh. Sự chuyển cư này
diễn ra khá chủ động: người ra đi thường có sự chuẩn bị trước, hơn thế họ còn
luôn sử dụng thông tin từ các mạng lưới di cư để có sự thích ứng tốt nhất. Tác
giả cho rằng quá trình chuyển cư đã làm biến đổi người ra đi theo hướng tiến bộ.
Bổ sung cho nghiên cứu của Cai Fang là công trình của Wang Tianhong (2000)
về di cư nông thôn – đô thị và thị trường lao động ở Đông Bắc Trung Quốc. Qua
những vấn nạn được khảo sát khá chi tiết như tình trạng ô nhiễm môi trường,
bấp bênh về an sinh xã hội, thiếu nước sinh hoạt, rác thải, tiếng ồn, bệnh tật và
tai nạn lao động, công trình này đã khắc họa nên một bức tranh tổng thể về khó
khăn và hạn chế của lao động di cư. Cùng chủ đề này, May Wong (2013) với
công trình “Giới tính thứ hai và công nhân hạng hai – nữ công nhân nhập cư
miền Nam Trung Quốc” đã chỉ ra những khó khăn của nữ công nhân về vấn đề
việc làm song đại đa số vẫn phải cam chịu vì không có biện pháp gì để ứng phó.
Không dừng lại ở phạm vi của mỗi nước, công trình nghiên cứu “Di cư
nông thôn – đô thị và tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển” do D.
Sirin Saracoglu, Terry L. Roe (chủ biên) thực hiện vào năm 2004 còn chỉ ra đa
phần di cư đi làm ăn ở các trung tâm và thành phố lớn thường có thu nhập cao
hơn so với những người lao động nông thôn thuần túy. Tuy nhiên chi phi sinh
hoạt hàng ngày lớn, buộc những người di cư phải tích góp, tiết kiệm và làm
thêm rất nhiều công việc phụ, hoặc phải làm tăng ca để có thêm thu nhập mưu
sinh ở các thành phố lớn.
1.2 Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
Việt Nam là quốc gia có lịch sử di cư từ lâu đời: các hình thức di cư lấn
biển, di cư từ phía Bắc tiến dần vào phương Nam, di cư mở cõi, rồi di cư từ các


5

tỉnh thuộc châu thổ sông Hồng đi lên khai hoang Tây Bắc...Ngày nay, trong bối

cảnh của tiến trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, hiện tượng di cư ở Việt
Nam diễn ra trên phạm vi cả nước, đã có không ít các nghiên cứu khoa học ghi
nhận và phản ánh hiện tượng này.
Có thể kể đến nghiên cứu của Hà Thị Phương Tiến và Hà Quang Ngọc
(2000) tại ba đô thị lớn là Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh như một
trong những nghiên cứu đầu tiên về lao động nữ di cư tự do nông thôn – đô thị ở
Việt Nam và sự thích ứng của họ trong quá trình hội nhập với môi trường mới.
Nét nổi bật của nghiên cứu này là các tác giả đã đi sâu phân tích những vấn đề
về nữ giới di cư tự do từ nông thôn ra đô thị. Cùng chủ đề này, Nguyễn Thị Bích
Nga, trong một nghiên cứu về di cư theo thời vụ từ nông thôn ra Hà Nội, còn chỉ
ra những khó khăn ở môi trường làm việc mới của họ như ế hàng, bị quỵt tiền,
trả công thấp, bị bắt làm thêm giờ...Đặc biệt, khi gặp những cảnh ngộ éo le đó,
người di cư thường có tâm lý chấp nhận để yên ổn làm ăn “nơi đất khách quê
người”.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Tâm, (2007-2009) về “Sự thích ứng
của người di cư tự do từ nông thôn vào các thành phố và các vùng phụ cận Nghiên cứu trường hợp tại Hà Nội”. Tác giả đã chỉ ra quá trình thích ứng và sự
hoà nhập với việc làm, điều kiện sống, môi trường sống mới của người di cư tự
do với những khó khăn phải đương đầu là sự cạnh tranh lao động, dịch vụ xã hội
và chính sách quản lý di cư. Trong đó, nam giới thường làm trong lĩnh vực xây
dựng, sửa chữa, bốc vác…, còn phụ nữ tham gia bán hàng, giúp việc nhà, thu
gom phế liệu…
Cần nhấn mạnh là, cùng với các tác giả Việt Nam, tổ chức UNFPA
(2007), cũng góp sức nghiên cứu “Hiện trạng di cư trong nước ở Việt Nam”,
Nghiên cứu này đã chỉ ra bức tranh về mức độ và hình thái di cư trong nước ở
Việt Nam, vấn đề quyết định di cư, sự thích nghi với cuộc sống tại nơi ở mới,
nhất là sự thích nghi về vấn đề nhà ở.
Một nghiên cứu về thanh thiếu niên di cư làm việc trong khu vực phi
chính thức tại Hà Nội, Nguyễn Thị Thiềng và cộng sự (2012) không chỉ cho biết
những khó khăn về nhà ở và việc làm, mà cả khó hòa nhập với nơi đến (do thời
gian làm việc quá nhiều, cộng đồng chưa chấp nhận- chưa coi họ là một bộ phận

của cộng đồng dân cư). Đại bộ phận thanh niên làm việc trong khu vực phi
chính thức không được ký hợp đồng và hưởng phúc lợi xã hội, dù họ có việc
làm ngay, được người thân và bạn bè giúp đỡ. Họ không có bảo hiểm y tế, ốm
đau thông thường thì tự chữa, nếu bệnh nặng họ chọn phương án quay về quê để
người nhà chăm sóc. Các dịch vụ công khác như sử dụng điện, nước, đăng ký
khai sinh, đăng ký xe máy, vay vốn..., họ đều gặp cản trở khi muốn tiếp cận.
Tuy nhiên nghiên cứu mới tập trung nghiên cứu đối tượng thanh thiếu niên di cư
từ 15-24 tuổi, làm việc trong khu vực phi chính thức, đồng thời tập trung nhiều


6

vào thực trạng đời sống, việc làm, mà ít đề cập đến những biện pháp để thích
ứng của thanh thiếu niên di cư trước những khó khăn đó.
Cũng cần nhắc tới ở đây công trình “Tình hình di chuyển lao động từ nông
thôn ra thành thị và các khu công nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia nhập
WTO” của Cục Việc làm, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2013). Đây là
một nghiên cứu quy mô, khảo sát thực trạng đời sống và việc làm của lao động
di cư từ nông thôn ra thành thị và KCN tại 15 tỉnh, thành phố của Việt Nam.
Nghiên cứu cho thấy phần lớn lao động di cư tự tìm kiếm việc làm hoặc thông
qua sự hỗ trợ từ bạn bè, người thân. Có tới 47,1% người lao động di cư “tự thân
vận động” tìm kiếm việc làm ở lần di cư đầu tiên. Tỷ lệ này ở lần di cư hiện tại
đã tăng thêm 7,6% với 54,7%. Đối với họ mạng xã hội với những quan hệ họ
hàng, bạn bè, đồng hương có vai trò rất quan trọng trong quá trình di cư và tìm
kiếm việc làm. Dù đã khảo sát đối tượng lao động di cư từ nông thôn ra các
KCN nhưng nghiên cứu này chưa tập trung vào đối tượng TNTN di cư, cũng
chưa chỉ ra những biện pháp ứng phó, những thay đổi để thích ứng trước những
khó khăn của họ trong quá trình di cư.
Tương tự như vậy, kết quả Điều tra Quốc gia Di cư nội địa (2015) của
Tổng cục Thống kê [63], với mục đích thu thập thông tin về di cư nội địa ở cấp

quốc gia, cấp vùng kinh tế - xã hội và hai thành phố chính là Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh, đã cho thấy khó khăn lớn nhất đối với người di cư đến là
“chỗ ở” (47,5%); các khó khăn tiếp theo lần lượt là “không có nguồn thu nhập”
(36,2%); “không tìm được việc làm” (26,1%) và “không thích nghi với nơi ở
mới” (28,3%). Cuộc Điều tra quốc gia này cũng tập trung phân tích thực trạng
của các vấn đề nêu trên mà chưa đi sâu mô tả và phân tích về khả năng thích ứng
của người di cư.
1.3. Việc kế thừa và định hƣớng nghiên cứu của đề tài
Việc điểm luận các nghiên cứu về di cư nông thôn - đô thị, đến các KCN
của nam nữ thanh niên trong bối cảnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế đã mang
lại nhiều bài học bổ ích cả về nội dung và phương pháp nghiên cứu. Về nội
dung, đó là những nguyên nhân dẫn đến di cư, chính sách di cư của mỗi nước,
các vấn đề về đời sống và việc làm tại môi trường sinh sống mới, kể cả kinh
nghiệm của người di cư trong việc khai thác các mạng lưới xã hội của họ trước
khi đi và sau khi đã đến nơi ở mới. Về phương pháp, bên cạnh một vài nghiên
cứu chỉ sử dụng các phương pháp định tính, thì đại đa số các nghiên cứu còn lại
đã cho thấy việc kết hợp cả định tính và định lượng trong phân tích là phương án
phù hợp.
Điểm luận nghiên cứu nói trên cho thấy rằng, mặc dù các nghiên cứu di
cư nông thôn – đô thị khá đa dạng và phong phú, song những nghiên cứu về sự
thích ứng của thanh niên nông thôn di cư làm việc tại các KCN lại khá khiêm
tốn. Vẫn chưa rõ trước những khó khăn, lao động di cư đã làm gì để thích ứng?


7

Liệu việc khắc phục khó khăn để thích ứng như vậy chỉ diễn ra ở một số ít
người, hay ở số đông lao động? Sự khác biệt giữa các nhóm
Đây cũng chính là lý do quan trọng để chúng tôi đề xuất thực hiện đề tài
luận án này, với hy vọng góp thêm đôi nét chấm phá vào bức tranh khoa học mà

các tác giả đi trước đã dày công khơi dựng.


8

CHƢƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Các khái niệm làm việc
2.1.1. Di cư
Di cư là một khái niệm xã hội học, có nội hàm và ngoại diên sâu rộng.
Trong nghiên cứu này, khái niệm “di cư” liên quan đến hiện tượng thanh niên
nông thôn từ các địa phương đến làm việc tại 2 KCN được khảo sát trong đề tài,
có mặt tại nơi cư trú ít nhất 6 tháng. Quyết định di cư đến các KCN không phụ
thuộc vào sự hỗ trợ của Nhà nước hay các cấp chính quyền cũng như tổ chức
doanh nghiệp nơi làm việc.
2.1.2. Thanh niên nông thôn di cư
Thanh niên nông thôn di cư đó là những lao động trong độ tuổi 16-30 di
cư từ nông thôn đến làm việc tại KCN Bắc Thăng Long (Hà Nội) và Tân Thuận
(TP. Hồ Chí Minh).
2.1.3. Thích ứng của người di cư
Thích ứng của người di cư với hàm ý là những thay đổi, những biện pháp,
những cách ứng phó khi gặp khó khăn; cùng với những xem xét, đánh giá về
mức độ hài lòng về đời sống và việc làm hiện tại và dự định trong tương lai để
thấy được sự thích ứng của người di cư trong môi trường sống và làm việc mới.
Khái niệm này được thể hiện tập trung ở hai phương diện cơ bản là đời sống
sinh hoạt và việc làm mà việc thao tác hóa khái niệm ở một mục 2.2 sẽ làm rõ.
2.1.4. Khu công nghiệp
Khu công nghiệp là khu tập trung chuyên sản xuất hàng công nghiệp và
thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định,
không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định

thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất. Khu chế
xuất là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất
hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất, giới địa xác định, không có
dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành
lập. Khu công nghiệp, khu chế xuất được gọi chung là khu công nghiệp, trừ
trường hợp quy định cụ thể


9

2.2. Thao tác hóa khái niệm
Khái niệm cần được thao tác hóa để làm việc của nghiên cứu này là “Sự
thích ứng của TNNT di cư”. Dưới đây là lược đồ đó.
Thích ứng của
TNNT di cư

Đời sống

Những
khó
khăn

Biện
pháp
thích
ứng

Việc làm

Sự

hài
lòng

Những
khó
khăn

Biện
pháp
thích
ứng

Sự
hài
lòng

2.3. Tiếp cận lý thuyết của đề tài
Ngoài việc định nghĩa và thao tác hóa khái niệm làm việc, chúng tôi còn
lựa chọn hai lý thuyết xã hội học làm cơ sở lý luận cho việc triển khai nghiên
cứu.
2.3.1. Lý thuyết mạng lưới xã hội
Là lý thuyết hướng vào việc mô tả và phân tích mối quan hệ giữa các chủ
thể trong mạng lưới, từ việc hình thành, khai thác đến những biến chuyển của
những mối quan hệ đó, nhất là làm sáng tỏ của các mối quan hệ đối với hành
động xã hội của các chủ thể.
Trong mấy thập niên gần đây, trên qui mô thế giới, ngày càng có nhiều
thêm các nhà khoa học, nhất là xã hội học, luận bàn và ứng dụng lý thuyết mạng
lưới xã hội trong các nghiên cứu của mình. Ở Việt Nam, dù còn khá mới mẻ,
song ngay từ những năm 2000, đã có không ít tác giả như Đặng Nguyên Anh,
1998; Lê Ngọc Hùng, 2003...) vận dụng quan điểm lý thuyết về mạng lưới xã

hội và thu được kết quả nghiên cứu rất khả quan.
Vận dụng lý thuyết mạng lưới xã hội vào việc nghiên cứu sự thích ứng
của TNNT di cư làm việc tại các KCN ở Việt Nam hiện nay, chúng ta dễ dàng
nhận thấy các mạng lưới quan hệ xã hội đó đã tạo ra nguồn “vốn xã hội” –
không chỉ là tiền bạc, mà các thông tin, quan hệ xã hội và sự hỗ trợ trực tiếp –
giúp người lao động di cư ứng phó được với rủi ro, bất trắc. Trong nghiên cứu
này, việc khai thác tính hiệu quả của mạng lưới xã hội của người di cư sẽ được
kiểm chứng cả trước khi đi cũng như khi đã đến làm việc tại các KCN trên địa
bàn nghiên cứu.


10

2.3.2. Lý thuyết lựa chọn hợp lý
Trong đời sống hàng ngày, từ “lựa chọn” được dùng để chỉ sự phải cân
nhắc, tính toán trước khi quyết định một vấn đề nào đó nhằm đạt được hiệu quả
tối ưu trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực. Còn trên bình diện lý luận, lý
thuyết này cho rằng mọi hành động của con người đều được cân nhắc, lựa chọn
mang tính duy lý để mang lại lợi ích cao nhất và kết quả của hành động đó phụ
thuộc vào nhận thức và kinh nghiệm mà chủ thể có được trong quá khứ.
Ở nghiên cứu này, lý thuyết lựa chọn hợp lý sẽ được vận dụng nhằm phân
tích và giải thích chiến lược thích ứng của TNNT di cư trước những khó khăn của
điều kiện sống và môi trường làm việc mới. Cụ thể là, trước khi ra đi, không ít
người di cư đã có sự tìm hiểu sự được mất và đi đến quyết định đến KCN, do đó
họ có khả năng thích ứng nhanh hơn so với những người chưa có mục tiêu hay
động cơ từ trước khi di cư. Khi đã chuyển đến sinh sống tại các KCN cũng vậy,
việc lựa chọn các biện pháp, cách ứng phó, và những quyết định thay đổi mang
tính duy lý hợp lý khiến cho sự thích ứng đối với đời sống và việc làm của TNNT
trở lên dễ dàng hơn. Những tiền đề lý thuyết này sẽ được kiểm chứng qua các dữ
liệu nghiên cứu thực nghiệm của đề tài luận án.

2.4. Bối cảnh kinh tế - xã hội và lƣợc đồ phân tích
Bối cảnh kinh tế - xã hội (CNH, HĐH, kinh tế thị trường, chính sách của nhà
nước, thực tế ở khu công nghiệp…) góp phần hình thành nên cơ sở thực tiễn của đề
tài, được kết nối với các vấn đề lý thuyết và thể hiện ở khung lược đồ phân tích sau
đây:
Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước

- Đặc điểm nhân
khẩu học của
TNNT di cư;
- Đặc điểm khu
vực, vùng miền;
- Tính chất, loại
hình và sự ổn
định của công
việc;
- Các lý do xã hội
khác…

Thích ứng
của TNNT
di cư tại
các KCN

Tác động xã hội
- Những tác
động đến gia
đình và xã hội
- Những vấn đề

đặt ra và chính
sách an sinh xã
hội


11

CHƢƠNG 3
THỰC TRẠNG THÍCH ỨNG VỚI ĐỜI SỐNG VÀ VIỆC LÀM
CỦA TNNT DI CƢ TẠI KCN
3.1. Thích ứng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày
3.1.1. Về nhà ở
Kết quả cho thấy đại đa số (91%) TNNT di cư làm việc tại KCN hiện nay
đều phải ở nhà thuê trọ. Trong đó, nhà cấp 4 (59,2%), nhà mái bằng (21,2%).
Diện tích nhà trọ chật chội nhưng chỉ có 14,3% số người sống một mình, còn
85,7% phải sống cùng người khác. Đã thế, họ còn gặp những khó khăn khác như an
ninh, trật tự tại khu trọ chưa được đảm bảo(39,0%), giá thuê phòng cao (37,7%),
các dịch vụ sinh hoạt điện, nước đều cao (35,5%). Trước thực tế đó, họ phải khắc
phục bằng cách hạn chế sử dụng các dịch vụ sinh hoạt (47,2%), tìm người ở ghép
để giảm tiền thuê nhà (27%).
Phương thức thích ứng thứ hai là phát huy vai trò của mạng lưới xã hội đã có
hoặc mới được xây dựng, chẳng hạn, nhờ sự giúp đỡ của bạn bè, người đồng
hương (26,6%), hoặc nhờ cha mẹ, anh em, họ hàng, người thân (20,7%). Cũng có
người chấp nhận trả thêm tiền để có nơi ở tốt hơn, nhưng số người này không nhiều
(6,5%) vì tiền lương họ kiếm được vừa phải để thuê nhà, chi tiêu sinh hoạt, thậm
chí còn phải tích lũy để gửi tiền về cho gia đình ở quê. Nhìn chung, TNNT di cư
chấp nhận ở trong những căn phòng cho thuê chật chội, chấp nhận ở ghép, tiết kiệm
chi phí sinh hoạt.
3.1.2. Về thu nhập – chi tiêu
Có 64,3% TNNT di cư trong mẫu nghiên cứu cho biết với mức thu nhập

và chi tiêu như hiện nay họ khó có thể trang trải dễ dàng cho đời sống sinh hoạt
hàng ngày. Để có thể trụ vững tại môi trường mới, họ buộc phải lựa chọn và sự
lựa chọn mà họ cho là hợp lý hơn cả là „thắt lưng buộc bụng‟, cắt giảm những
chi phí chưa thật sự cần thiết đó là giảm chi tiêu cho vui chơi, giải trí (48,7%),
giảm các chi phí sinh hoạt như điện, nước, xăng xe, điện thoại… (40,%), thậm
chí giảm chi tiêu cho ăn uống (31,3%). Nhưng bên cạnh những đối tượng trên,
cũng có những người rất năng động, họ tìm cách để thay đổi hoàn cảnh trong đó
có tới 31% tìm kiếm việc làm thêm, 14% tìm công việc khác có thu nhập cao.
3.1.3. Về tiếp cận dịch vụ y tế
Kết quả điều tra cho thấy, đa số TNNT di cư (50,7%) khi ốm đau thường
ra hiệu thuốc tự mua thuốc về uống mà không đi khám, vì kinh phí khám bệnh
khá tốn kém và thủ tục cũng rườm rà. Cùng bất đắc dĩ họ mới chấp nhận đến cơ
sở khám chữa bệnh. Có đến 84% số người được hỏi cho rằng họ có gặp khó khăn
trong tiếp cận với các dịch vụ y tế. Cụ thể, là giá dịch vụ y tế, giá thuốc cao, họ
không biết tìm nơi nào chữa bệnh có giá cả phù hợp. Ứng phó với khó khăn này, có
tới 65% người di cư đã tìm hỏi chủ nhà trọ, người cùng trọ, bạn bè, người thân về
những địa điểm khám chữa bệnh có giá cả phù hợp. Trong trường hợp phải chi trả


12

thêm tiền chữa bệnh, họ cũng sẽ cố gắng thu xếp, vay mượn để trang trải, không
nhiều người lựa chọn biện pháp quay về quê chữa bệnh do tính chất công việc
không thể xin nghỉ được.
3.1.4. Về tiếp cận giáo dục của con em người di cư
Có đến 82,2% TNNT di cư gặp khó khăn trong vấn đề này. Ngoài khó
khăn trong việc tìm kiếm cơ sở giáo dục, họ còn phải chi trả tiền học quá cao
cho con cái (48,6%). Thời gian gửi trẻ không thuận tiện, không phù hợp với thời
gian lao động của cha mẹ, rồi việc không có hộ khẩu thường trú tại nơi làm việc
cũng khiến họ gặp không ít rắc rối. Trước tình cảnh đó, gần 1/2 TNNT di cư

trong mẫu lựa chọn nhà trẻ tư nhân để gửi con em mình. Nhưng do lo lắng cho
sự thiếu an toàn khi gửi con cho nhóm trông trẻ tư nhân, cùng với chi phí tốn
kém, một tỷ lệ đáng kể (35,9%) đã lựa chọn phương án cho con về quê nhờ người
thân trông hộ.
3.1.5. Về vui chơi, giải trí và sinh hoạt cộng đồng
Số liệu khảo sát mẫu cho thấy chỉ có 2,5% số người thường xuyên tham
gia các hoạt động vui chơi, giải trí; 79,7% thỉnh thoảng tham gia; và gần 20%
không bao giờ tham gia. Khó khăn lớn nhất là không có tiền (58,3%) và không
có thời gian (46,3%) cho các hoạt động này. Nhưng một phần cũng vì nơi ở và
nơi làm việc không có địa điểm vui chơi giải trí (43,0% và 44,3%), hoặc họ
thiếu các thông tin về các hoạt động này để tham gia (34,3%). Tuy nhiên, để bù
lại nhiều người đã tự khắc phục khó khăn bằng cách trang bị các phương tiện
như ti vi, đài, điện thoại di động để thư giãn, giải trí (39,6%). Những ai không tự
trang bị được các phương tiện giải trí thì chủ động khai thác mạng lưới xã hội
của mình ngay tại nơi cư trú như bạn bè (17,3%), chủ nhà trọ (13,7%), người
thân (12,1%)…Tuy nhiên, những phương thức này càng làm giảm đi khả năng
TNNT di cư gặp gỡ, giao lưu trực tiếp với nhau.
Việc tham gia các hoạt động cộng đồng cũng là một biểu hiện về sự hội nhập
của người di cư tại môi trường sống mới. Tuy nhiên chỉ có 21,3% số người cho
rằng họ đã tham gia các hoạt động này, trong khi có đến 78,8% chưa bao giờ tham
gia bất cứ hoạt động nào mà địa phương tổ chức. Về lý do không tham gia có
46,6% TNNT cho rằng họ không có thời gian để tham gia; 33,1% không biết
cách để tham gia; 20,8% nói họ không thuộc diện được tham gia và 17,8%
không được mời mặc dù rất mong muốn tham gia.
3.1.6. Về an ninh trật tự và nạn ô nhiễm môi trường
Với 3 mức độ đánh giá về tình hình an ninh trật tự, chỉ có 23,5% số người
cho rằng an ninh trật tự tại địa phương ở mức tốt; 53% đánh giá ở mức độ bình
thường và có tới 23,5% cho là không tốt. Để thích ứng, phần đông trong số họ
phải tự bảo quản tài sản của mình (58,5%), trang bị các kiến thức tự bảo vệ bản
thân (44,7%) hoặc nhờ chủ nhà trọ can thiệp giúp đỡ (39,2%). Nhìn chung,

TNNT di cư có tâm lý mình là người ngoại tỉnh nên thường nín nhịn, tránh xung


13

đột, mâu thuẫn, do đó thường không chủ động thông báo hoặc tố cáo với cơ
quan, đơn vị, hay chính quyền để được bảo vệ. Đây là một vấn đề cần được tiếp
tục tìm hiểu sâu hơn trong các nghiên cứu khác.
Về tình trạng ô nhiễm môi trường, có 6,5% số người được phỏng vấn cho
rằng môi trường xung quanh nơi họ sống và làm việc ở mức độ tốt; 71,3% cho là
bình thường và 22,2% cho là môi trường bị ô nhiễm. Trong đó, có 55,3% nói họ
đang chịu ô nhiễm do rác thải; 39,4% nói ô nhiễm nguồn nước; ngoài ra là ô
nhiễm về tiếng ồn, ô nhiễm không khí do các công ty, nhà máy xả ra. Trước tình
hình đó, thái độ chung của TNNT di cư tại các KCN là phải cố chịu đựng vì họ
xác định đây là vấn đề chung khó có thể thay đổi được (41,4%) và cần trang bị
thêm các thiết bị bảo hộ để tự bảo vệ mình (36,9%).
3.1.7. Mức độ hài lòng với đời sống hiện tại của TNNT di cư
Bên cạnh những khó khăn thách thức, thì việc đến sống và làm việc tại
các KCN cũng mở ra một vận hội mới đối với TNNT. Điều này thể hiện ở sự hài
lòng của họ. Kết quả khảo sát đã chỉ ra: có 15% TNNT di cư cảm thấy rất hài
lòng hoặc hài lòng với cuộc sống hiện tại; 59,3% số người cho rằng bình
thường; chỉ có 15,7% không hài lòng với cuộc sống thực tại. Các số liệu này đã
cho thấy dù vẫn còn không ít khó khăn, vất vả song tiến trình CNH, HĐH đã bắt
rễ sâu vào cả trong chuyển đổi nhận thức cũng như thái độ của lớp trẻ trưởng
thành từ nông thôn và trở thành một xu thế không thể đảo ngược. Ý định quay
lại quê hương sinh sống là ít đặt ra, và cần được tính đến trong các quy hoạch,
chiến lược chính sách phát triển đô thị trong những năm tới.
3.2. Thích ứng với việc làm tại KCN
Bên cạnh đời sống sinh hoạt hàng ngày, TNNT còn gặp không ít khó khăn
về công việc và các vấn đề có liên quan. Trong số 600 người được phỏng vấn,

có tới 225 người nói công việc của họ chịu căng thẳng, áp lực; trung bình cứ xấp
xỉ 3 người lao động có 1 người rơi vào tình trạng này. Tuy nhiên, hầu hết trong
số họ đã chủ động thay đổi để thích ứng – biểu hiện cụ thể như sau:
3.2.1. Thích ứng với máy móc và kỹ thuật công nghiệp
TNNT không tránh khỏi sự bỡ ngỡ với kỹ thuật, máy móc công nghệ đối
với sản xuất công nghiệp, nhất là ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
các doanh nghiệp với các ngành nghề sản xuất lắp ráp linh kiện điện tử, công
nghiệp chế biến với dây chuyền thiết bị hiện đại... Người càng mới đến càng bỡ
ngỡ và gặp càng nhiều khó khăn. Nhưng đại đa số TNNT không lùi bước. Chưa
quen với máy móc, họ dành thời gian, tìm hiểu để quen dần với máy móc. Tay
nghề chưa cao họ sẵn sàng học tập để nâng cao tay nghề, đáp ứng yêu cầu của
công việc (41,5%), thậm chí đầu tư sức lực và cả tiền của để học tiếp lên cao để
có công việc phù hợp hơn. Điều đó phản ánh sự năng động của lực lượng lao
động trẻ ở các KCN để có thể đáp ứng tốt nhất đòi hỏi của công việc.


14

3.2.2. Thích ứng với môi trường làm việc có tính kỷ luật cao
KCN là môi trường làm việc có tính kỷ luật cao, khác hẳn với môi trường
sản xuất nông nghiệp ở làng quê. Cho nên, không phải ngẫu nhiên kết quả điều tra
cho thấy có đến 23,6% TNNT cho tự rằng chưa tuân thủ các điều kiện, yêu cầu về
an toàn lao động; 20% vi phạm về thời gian làm việc và 19,9% ý thức kỷ luật
trong khi làm việc chưa cao. Một điều rất đáng ghi nhận là đại đa số TNNT di cư
ở cả KCN Bắc Thăng Long (Hà Nội) và KCN Tân Thuận (TP. Hồ Chí Minh) đều
không phải là những người bảo thủ, cố chấp. Họ đều ý thức được rằng do được
sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên chưa mang tác phong công nghiệp, chưa quen
với cung cách làm việc mới, nhưng phần đông đều thể hiện quyết tâm thay đổi,
quyết tâm tuân thủ nội qui, qui chế và tính kỷ luật của doanh nghiệp để làm việc
và trưởng thành từ môi trường làm việc mới.

3.2.3. Về tính chất và sự ổn định của công việc
Có 29,7% TNNT di cư trong mẫu khảo sát cho biết công việc của họ đòi
hỏi về tay nghề, chuyên môn cao. Họ phải chịu đựng về tiếng ổn, bụi bẩn
(19,5%), sự độc hại (13,2%) và nguy hiểm (6,8%). Thế nhưng, nhiều người vẫn
phàn nàn là công việc của họ chưa ổn định (33%), công việc lúc có, lúc không
(23,3%), thường xuyên phải nghỉ việc (3,8%) hoặc không có việc phải cắt giảm
lao động (5,8%). Trước tình hình đó, đại đa số TNNT di cư cho rằng họ vẫn tiếp
tục bám trụ tại doanh nghiệp (37,9%) và cố gắng làm thêm các công việc khác để
có thêm thu nhập. Một bộ phận không nhỏ (27,0%) có ý định tìm một công việc
khác ổn định hơn hoặc tốt hơn. Đây là sự lựa chọn duy lý, có cân nhắc tính toán
để phát triển, chứ không đơn thuần là hành động nhất thời của lao động trẻ. Rất ít
người lựa chọn con đường quay trở về quê cũ và kết thúc hành trình di cư của
mình.
3.2.4. Thích ứng với những khó khăn khác
Ngoài những khó khăn và biện pháp thích ứng như đã nêu, TNNT di cư
còn gặp không ít những khó khăn về lao động và việc làm tại KCN. Chẳng hạn,
về mặt thời gian, có đến 2/3 TNNT di cư được phỏng vấn đánh giá việc quản lý
thời gian của các doanh nghiệp là quá chặt chẽ. Cụ thể, doanh nghiệp chỉ cho nghỉ
khi có giấy xác nhận ốm đau, bệnh tật của cơ sở y tế (24,8%); vi phạm thời gian
thì bị tính vào ngày công, tiền thưởng; thậm chí không ít người nói áp lực về thời
gian đến mức họ không có thời gian nghỉ ngơi (17,5%). Trong khi đó, mức lương
đa phần là thấp, nhất là đối với những người đang ở giai đoạn thử việc, học nghề
hay đang làm quen với công việc mới. Từ góc độ giới, cứ 2 nam giới thì có 1
người gặp khó khăn về thu nhập thấp, tỷ lệ cao gấp 1,5 lần so với nữ giới. Ứng
phó với những khó khăn này, hầu hết trong số họ đã dựa vào mạng lưới xã hội
của mình – đó là sự giúp đỡ của bạn bè (58,0%), của gia đình và người thân
(40,5%). Sau đó mới là sự giúp đỡ của tổ chức, chẳng hạn, của doanh nghiệp
(12,5%), của đoàn thể (7,5%), của Trung tâm hỗ trợ việc làm (3,8%).



15

3.2.5. Sự hài lòng với công việc hiện tại và những dự định về tương lai
Cuộc khảo sát đã chỉ ra số người cảm thấy hoàn toàn hài lòng hoặc hài
lòng với công việc hiện tại. Tỷ lệ hài lòng chỉ đạt 14,1%, số người thấy bình
thường chiếm tới 49,3%, còn tỷ lệ không hài lòng khá cao (36,5%). Còn về dự
định tương lai, có đến 42,2% cho rằng họ sẽ tiếp tục làm việc tại đây (trong đó
có 3% còn muốn đưa gia đình đến cùng sinh sống); 43,2% muốn tiếp tục làm
việc để tích lũy vốn; chỉ có 12,2% muốn thôi làm việc để trở về quê. Tuy nhiên,
đáng lưu ý là sự nổi trội trong tỷ lệ cảm thấy công việc hiện tại là bình thường,
cũng như tỷ lệ người muốn ở lại các KCN khá cao đã cho thấy quyết tâm và nỗ
lực vượt qua khó khăn, thử thách của TNNT di cư để thích ứng với môi trường
mới.
 Như vậy, xét trên cả hai phương diện là đời sống sinh hoạt hàng ngày và
việc làm tại KCN Bắc Thăng Long (Hà Nội) cũng như Tân Thuận (Thành phố
Hồ Chí Minh), kết quả nghiên cứu cho thấy TNNT di cư đã gặp vô vàn khó
khăn, song họ cũng có không ít biện pháp trực tiếp hoặc gián tiếp để thích ứng.
Khung cảnh đằng sau các KCN này là xã hội Việt Nam đang chuyển đổi từ nền
văn minh nông nghiệp cổ truyền sang nền văn minh công nghiệp và hiện đại, do
đó quá trình chuyển đổi này cố nhiên không dễ dàng và cũng không phải diễn ra
một sớm, một chiều. Nhưng tuổi trẻ Việt Nam, kể cả TNNT di cư như cuộc
nghiên cứu cho thấy, không phải chỉ biết lựa chọn chỗ đứng cũng như lựa chọn
các biện pháp về đời sống và việc làm một cách hợp lý, họ còn biết vận dụng,
khai thác và cả mở rộng mạng lưới xã hội vốn có của bản thân để thích ứng. Các
lý thuyết xã hội học về mạng lưới xã hội và lựa chọn hợp lý đã giúp chung tôi lý
giải và nhận thức sâu thêm thực tế đó.


16


CHƢƠNG 4
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ THÍCH ỨNG CỦA TNNT DI
CƢ LÀM VIỆC TẠI CÁC KCN
Chương 3 đã mô tả và phân tích sự thích ứng nói chung của TNNT di cư
làm việc tại KCN trên hai phương diện là đời sống và việc làm, thì nội dung
Chương 4 sẽ đi sâu xem xét sự thích ứng ấy chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố
khác nhau như nhân khẩu học, khu vực/vùng miền, công việc chuyên môn và
chính sách xã hội. Nhìn chung, mỗi nhóm người khác nhau theo cấu trúc xã hội
đều gặp những khó khăn riêng cả về đời sống và công việc và họ cũng tìm ra
những cách thức khác nhau để thích ứng. Ở đây, các lý thuyết xã hội học đã được
chọn là lý thuyết mạng lưới xã hội và lý thuyết lựa chọn hợp lý, thêm một lần
nữa, đã giúp rất nhiều cho việc triển khai và lý giải các vấn đề đặt ra của cuộc
nghiên cứu.
4.1. Yếu tố nhân khẩu học
4.1.1 Về giới tính
Trước những khó khăn về đời sống sinh hoạt hàng ngày, nam giới thường
chủ động, tự tin và mạnh mẽ tìm biện pháp thích hợp để thay đổi, trong khi nữ
giới với sự e ngại, rụt rè, ngại thay đổi nên các biện pháp ứng phó thường mang
tính chịu đựng nhiều hơn. Chẳng hạn, khi giá nhà thuê, giá điện nước cao, nữ
giới có xu hướng hạn chế sử dụng để giảm chi phí so với nam giới (tỷ lệ tương
ứng là 54,3% và 38,8%), mức ý nghĩa thống kê p<0.05. Khi gặp các vấn đề an
ninh trật tự, nữ giới thường im lặng, nín nhín và phải tự bảo quản tài sản của
mình, trong khi nam giới chủ động trang bị thêm các kỹ năng để tự bảo vệ hay
tìm cách chuyển nơi ở, nơi làm việc hoặc báo chính quyền, các đơn vị chức năng
để được bảo vệ.
Với vấn đề việc làm, nam giới cũng có sự chủ động và sẵn sàng chấp nhận
thay đổi để thích ứng hơn nữ giới. Chẳng hạn, nam giới chủ động học tập để
nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu công việc nhiều hơn (nam: 50%; nữ: 34,2%),
p<0,001; Học tiếp lên cao để tìm kiếm công việc phù hợp hơn (nam 25,5%; nữ:
16,8%), p<0,05; hoặc khi gặp khó khăn về việc làm, họ chỉ chấp nhận làm tạm

một thời gian chờ một công việc khác, tỷ lệ nam giới lựa chọn biện pháp này
cũng cao hơn nữ giới (nam: 39,2%; nữ: 25,2%), p<0,001. Khi gặp khó khăn về
tình hình công việc thất thường, ít việc làm hoặc không có việc làm (chiếm 33%),
nữ giới có xu hướng kiên trì bám trụ (Nữ: 42,9%; Nam: 32,3%), p<0,05, trong khi
nam giới lựa chọn biện pháp đi học nghề để tìm công việc khác, để thích ứng cao
hơn (Nam:15,7%; nữ: 9,1%), p<0,05.
Xem xét mức độ hài lòng về đời sống và việc làm cũng cho thấy: tỷ lệ
nam giới hài lòng cao hơn nữ giới (về đời sống Nam: 17,6%; Nữ: 12,7%: về
việc làm Nam: 17,6%; Nữ: 14,1%). Nhìn chung, nam giới có sự linh hoạt hơn


17

trong lựa chọn các biện pháp ứng phó, thậm chí mang tính thay đổi hoàn toàn để
thích ứng. Sự lựa chọn như vậy khá là tự nhiên và “hợp lý” đối với mỗi bên.
4.1.2. Độ tuổi và tình trạng hôn nhân
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tuổi của TNNT di cư có ảnh hưởng đến sự
thích ứng của họ. Chẳng hạn, trước những khó khăn về nhà ở, nhóm ít tuổi hơn
(18-23 tuổi) sẵn sàng chấp nhận trả thêm tiền để có nơi ở tốt hơn, trong khi nhóm
lớn tuổi hơn (24-30 tuổi) lại sử dụng các biện pháp tiết kiệm để giảm chi phí và
không chấp nhận trả chi phí cao hơn để ở nơi tốt hơn, p < 0,001. Trong vấn đề thu
nhập – chi tiêu, nhóm lớn tuổi có xu hướng lựa chọn các biện pháp linh hoạt hơn,
kể cả các biện pháp nhằm tăng thu nhập hoặc cắt giảm chi tiêu để thích ứng.
Với vấn đề việc làm, nhóm thanh niên tuổi lớn hơn cũng tỏ ra mạnh bạo
và kiên quyết hơn so với nhóm ít tuổi. Chẳng hạn, họ sẵn sàng lựa chọn các biện
pháp mang tính thay đổi như học tiếp lên cao để có công việc nhẹ nhàng, phù
hợp hơn (cao gấp 2 lần); tìm kiếm công việc khác phù hợp hơn (cao hơn 2 lần)
hay họ chỉ chấp nhận làm tạm một công việc nào đó để chờ một công việc
khác,v.v…
Về sự hài lòng với cuộc sống hiện tại, số liệu điều tra cho thấy tỷ lệ của

nhóm lớn tuổi cũng cao hơn so với nhóm ít tuổi (14,9 % và 12,4%). Điều đó nói
lên rằng nhóm lớn tuổi có khả năng chịu đựng và thích ứng cao hơn nhóm ít
tuổi. Ở đây lý thuyết lựa chọn hợp lý được chứng minh thêm một khía cạnh nữa
đó là độ tuổi và kinh nghiệm sống cũng giúp con người rất nhiều trong việc lựa
chọn và ra các quyết định phù hợp.
Gắn liền với độ tuổi là tình trạng hôn nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
khi gặp khó khăn về nhà ở những người chưa lập gia đình sẵn sàng chuyển nơi ở
mới hoặc chấp nhận trả thêm tiền để có nơi ở tốt hơn, trong khi những người đã
lập gia đình rất ít người lựa chọn những biện pháp này (tỷ lệ tương ứng 16,7%
và 6,7%). Về thu nhập và chi tiêu, những người đã lập gia đình có nhu cầu tìm
kiếm việc làm thêm để tăng thu nhập có tỷ lệ cao hơn những người chưa lập gia
đình. Trong khi những người đã lập gia đình cắt giảm các khoản chi tiêu cho vui
chơi, giải trí thì người chưa lập gia đình lại cắt giảm chi tiêu cho ăn uống, cho
mua sắm tiện nghi gia đình...Rõ ràng là tình trạng hôn nhân và gia đình có ảnh
hưởng không nhỏ trong việc lựa chọn các biện pháp thích ứng của họ.
4.1.3 Về kinh nghiệm di cư, thời gian di cư
Kinh nghiệm và thời gian di cư có vai trò rất quan trong với người TNNT
di cư ở KCN. Những người di cư lần thứ hai trở đi, so với người mới đến, thường
có kinh nghiệm hơn trong việc lựa chọn các biện pháp ứng phó. Chẳng hạn với
những khó khăn về nhà ở họ tìm nơi ở khác, giá rẻ hơn (17,4%; 10%), hoặc tìm
người ở ghép (32,9%; 24,6%). Với các hoạt động vui chơi, giải trí người di cư
lần hai chủ động tự mình khắc phục khó khăn (48,2%; 36,0%), p<0,05.
Trong việc chăm sóc sức khỏe, tiếp cận các dịch vụ y tế, người di cư lần


18

đầu có xu hướng quay về quê chữa bệnh, thì lao động di cư lần hai trở đi họ
không làm như vậy, họ cố gắng tự chăm sóc bản thân, hoặc tìm cách tự chữa
bệnh cho mình (người di cư lần đâu: 11,6%; người di cư lần 2 trở đi: 1,1%),

p<0,001. Những trường hợp di cư càng lâu càng ít có sự thay đổi về nơi ở, nơi
làm việc hơn so với những người mới di cư một thời gian (ở biện pháp tìm cách
chuyển nơi ở, nơi làm việc mới những người di cư dưới 1 năm: 45,7%, từ 1-2
năm: 20,6%, trong khi những người từ 3-5 năm là 12,1% và trên 5 năm 18,4%,
p<0,001).
Để thích ứng với những khó khăn trong vấn đề việc làm, những lao động di
cư lần thứ hai dễ dàng tìm công việc khác phù hợp hơn so với những trường hợp di
cư lần đầu (tỷ lệ lần đầu: 14%; lần thứ hai: 23%), p<0,05. Đồng thời sự mong
muốn tìm kiếm công việc khác phù hợp hơn ở họ cũng càng lớn (dưới 1 năm:
8,6%, từ 1-2 năm: 13,1%, từ 3-5 năm: 18,1%, trên 5 năm 19,5%).
Kinh nghiệm và thời gian di cư có quan hệ chặt chẽ với mức độ hài lòng tại
nơi làm việc. Những lao động có thời gian di cư dưới 1 năm ít cảm thấy hài lòng
với đời sống hiện tại nhất (tỷ lệ ít hài lòng và không hài lòng là 34,3%). Với thời
gian di cư lâu hơn, từ 1-2 năm và từ 3-5 năm, họ có sự thích ứng tốt hơn nên tỷ
lệ hài lòng với cuộc sống tăng lên. Tuy nhiên tỷ lệ ít hài lòng và không hài lòng
với đời sống chưa chấm dứt hẳn, khi những mục đích di cư không đạt được thì
cảm giác không hài lòng với cuộc sống và việc làm hiện tại của những trường
hợp có thời gian di cư lâu hơn lại có xu hướng tăng lên.
4.2. Yếu tố khu vực/vùng miền
Sự khác biệt về khu vực/vùng miền cũng làm cho TNNT di cư có các cách
ứng xử khác nhau trong cuộc sống. Chẳng hạn, khi gặp khó khăn về nhà ở,
những người sống ở KCN Bắc Thăng Long có xu hướng tìm người ở ghép cao
hơn ở KCN Tân Thuận (30,2%; 23,2%). Về thu nhập – chi tiêu, TNNT di cư tại
KCN Bắc Thăng Long có xu hướng cắt giảm chi tiêu cho các hoạt động vui
chơi, giải trí trong khi TNNT di cư tại KCN Tân Thuận ngoài lựa chọn biện
pháp cắt giảm chi tiêu cho vui chơi, giải trí, họ còn chủ động tìm kiếm việc làm
thêm, để tăng thu nhập (tỷ lệ này cao gấp 2 lần so với ở Hà Nội).
Về chăm sóc sức khỏe, thanh niên di cư đến KCN Bắc Thăng Long quan
tâm chăm sóc sức khỏe nhiều hơn thanh niên ở KCN Tân Thuận. Cụ thể là ở
KCN Bắc Thăng Long người ta sẵn sàng chấp nhận trả giá đắt để có thể được

chạy chữa cao hơn 4 lần so với KCN Tân Thuận (tỷ lệ tương ứng 22,7%; 5,7%),
p<0,001; hay họ sẵn sàng thay đổi nơi ở để có chất lượng dịch vụ tốt hơn (KCN
Bắc Thăng Long: 17,7%; KCN Tân Thuận: 10,3%). Trong khi đó, vấn đề vui
chơi, giải trí, thanh niên di cư KCN Tân Thuận lại được chú trọng hơn, người ta
sẵn sàng tìm nơi ở khác hoặc để dành tiền để đi du lịch…
Về an ninh trật tự, KCN Bắc Thăng Long lựa chọn biện pháp nín nhịn để
được yên thân cao hơn KCN Tân Thuận (tỷ lệ tương ứng 22,3%; 14,3%),


19

p<0,05. Ngược lại KCN Tân Thuận sẵn sàng báo với chính quyền địa phương,
đơn vị, các cơ quan chức năng để được bảo vệ cao hơn KCN Bắc Thăng Long
(Tỷ lệ tương ứng 22,7%; 16,3%).
Để thích ứng về việc làm, TNNT di cư ở 2 khu vực cũng có các biện pháp
ứng phó khác nhau. Ở KCN Bắc Thăng Long số thanh niên di cư cố gắng chấp
hành nội qui qui chế, kỷ luật của doanh nghiệp cao hơn so với KCN Tân Thuận
(tỷ lệ tương ứng: 64,7% và 46,0%). Hoặc họ sẵn sàng bám trụ tại doanh nghiệp,
khi doanh nghiệp thiếu, ít việc làm, tỷ lệ này ở KCN Bắc Thăng Long là 42,4%,
KCN Tân Thuận là 33,0%, p<0,05. Ngược lại ở các biện pháp mang tính sẵn
sàng thay đổi, tìm một công việc khác phù hợp hơn, nhóm di cư ở KCN Tân
Thuận lại cao hơn gấp nhiều lần so với nhóm di cư KCN Bắc Thăng Long.
Về mức độ hài lòng về đời sống và việc làm, cuộc nghiên cứu đã cho
thấy, nhóm TNNT di cư ở KCN Tân Thuận có xu hướng hài lòng hơn nhóm
TNNT đang làm việc tại KCN Bắc Thăng Long. Cũng như vậy, về dự định sẽ
tiếp tục làm việc tại môi trường mới của nhóm người ở KCN Tân Thuận cũng
cao hơn nhóm ở KCN Bắc Thăng Long (40,7%; 39,7%). Đương nhiên, sự lựa
chọn các biện pháp để thích ứng của TNNT di cư ở hai khu vực (KCN Bắc
Thăng Long và KCN Tân Thuận) hoàn toàn không phải ngẫu nhiên, mà là sự lựa
chọn không tránh khỏi của mỗi bên. Chính lý thuyết lựa chọn hợp lý đã giúp lý

giải cho vấn đề xã hội không hề đơn giản này. Sự khác biệt trong cách ứng xử ở
KCN Bắc Thăng Long và KCN Tân Thuận đã phản ánh sự khác biệt về lối sống
của hai vùng miền: một bên là những người chủ yếu đến từ các tỉnh đồng bằng
và trung du Bắc Bộ với truyền thống văn hóa làng xã là khép kín, cần kiệm và
gắn bó cộng đồng, còn bên kia với những đại diện chủ yếu đến từ đồng bằng
sông Cửu Long, nơi được thiên nhiên ưu đãi nên con người cũng cởi mở, phóng
khoáng và dễ tiếp nhận cái mới. Đó chính là lý do sâu xa lý giải cho sự khác biệt
trong lựa chọn các biện pháp để thích ứng của mỗi bên.
4.3. Yếu tố về việc làm
4.3.1. Tính chất công việc
Số liệu khảo sát của đề tài luận án chỉ ra rằng những lao động trong công
việc có tính chất nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, ô nhiễm, đơn điệu ít có sự hài
lòng về đời sống hơn so với những người không làm những công việc đó. Cũng vì
vậy họ có xu hướng chuyển đổi công việc cao hơn so với những người không
làm công việc như vậy. Tỷ lệ mong muốn chuyển đổi giữa lao động nặng nhọc,
độc hại so với công việc khác là: nặng nhọc:15% và 4,5%; độc hại: 22,3% và
7,3%, (p<0,001). Ngược lại, với các công việc nhẹ nhàng, giản đơn, không đòi hỏi
về tay nghề, kỹ thuật, chuyên môn cao ít người có ý định chuyển đổi công việc.
Những người làm công việc có tính chất độc hại, nặng nhọc, ô nhiễm có xu hướng
không tiếp tục làm việc tại KCN cao gấp hơn 3 lần so với các công việc khác
(18,7% và 5,0%). Trong khi công việc đòi hỏi sự kiên trì, tỉ mỉ số người được điều


20

tra khẳng định sẽ vẫn tiếp tục làm việc tại KCN cao hơn gấp 2 lần (42,3% và
21,2%).
4.3.2. Sự ổn định của công việc
Những người có việc làm ổn định và thường xuyên thường ít có ý định
chuyển đổi công việc. Còn những người rất ít việc làm, thường xuyên phải nghỉ

việc hoặc không có việc làm, hoặc là các đối tượng bị cắt giảm việc có ý định
chuyển đổi công việc nhiều hơn. Đáng chú ý là tỷ lệ tương ứng rất ít việc làm
hay thường xuyên nghỉ việc là 7,3% và 1,2%; không có việc làm, phải cắt giảm
lao động là 1,2% và 2,8%. Sự ổn định của công việc có tác động đến mức độ hài
lòng của họ. Cụ thể: mức độ ít hài lòng, không hài lòng cao nhất ở ít việc làm,
thường xuyên phải nghỉ việc chiếm 65,2%, tiếp đến không có việc làm, phải cắt
giảm lao động (42,8%); việc làm lúc có, lúc không (35,0%).
Sự ổn định của công việc còn ảnh hưởng đến dự định có tiếp tục làm việc
tại KCN hay không. Đối với tình hình công việc ít, thường xuyên phải nghỉ việc,
hay tình trạng không có việc làm, phải cắt giảm lao động có xu hướng không
tiếp tục làm việc tại KCN ở mức cao hơn so với người dự định vẫn tiếp tục làm
(8,3% và 1,2%) với tình trạng không có việc làm, phải cắt giảm lao động tỷ lệ
tương ứng là 13,7% và 3,3%.
Cần nhấn mạnh là, để giải quyết các vấn đề về việc làm, hầu hết những
TNNT trong mẫu điều tra đều cho rằng họ đều nhờ cậy vào mạng lưới xã hội
của bản thân và gia đình. Chẳng hạn, việc làm hiện nay tại KCN của TNNT di
cư chủ yếu là do bạn bè, những người cùng quê đi trước giới thiệu (gần 40%).
Những lao động chưa có việc làm ở KCN nhưng biết thông tin giới thiệu từ
người quen, bạn bè chiếm 12,5%; sau đó mới tiếp nhận thông tin từ các cơ quan
chính quyền địa phương (8,7%), các Trung tâm GTVL của nhà nước (4,0%) và
dịch vụ môi giới bên ngoài (0,8%). Khi gặp những khó khăn trong vấn đề việc
làm, đa phần trong số họ nhờ đến sự giúp đỡ của bạn bè (58%), gia đình, người
thân (40,5%). Rất ít TNNT tìm đến sự giúp đỡ của các doanh nghiệp (12,5%),
các tổ chức đoàn thể (7,5%), các TTGTVL (3,8%).
Có thể nói, bước vào cuộc sống công nghiệp và hiện đại, TNNT vừa có thể
phát huy khả năng tư duy lý tính trong quá trình thích nghi với hoàn cảnh mới,
vừa không quên về mặt tình cảm là dựa vào mạng lưới xã hội của bản thân để
khắc phục khó khăn. Nếu hệ thống chính sách xã hội vận hành hợp lý hơn, mang
tính bao trùm hơn thì chắc chắn họ sẽ vượt qua mọi khó khăn để thích ứng.
4.3.3. Loại hình doanh nghiệp

Mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những chính sách riêng, do đó người
lao động cũng phải có cách thức ứng phó khác nhau để thích ứng. Chẳng hạn,
đối với các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài, dù gặp nhiều khó khăn hơn,
nhưng đại đa số TNNT được điều tra cho rằng họ có thể rèn luyện, học tập để
đáp ứng các yêu cầu. Các biện pháp được lựa chọn là cố gắng tuân thủ và chấp


21

hành theo nội quy, quy chế của doanh nghiệp (64,8%), hay học tập nâng cao
trình độ tay nghề, đáp ứng yêu cầu công việc (44,5%). Tỷ lệ muốn thay đổi công
việc, nơi làm việc ở nhóm doanh nghiệp này không nhiều, chỉ có 7,3% tìm một
công việc khác phù hợp hơn và 1,2% sẵn sàng bỏ việc tìm một công việc khác.
4.3.4. Loại hình ngành nghề công việc
Ngành nghề khác nhau cũng có những khó khăn khác nhau, vì vậy các
biện pháp ứng phó cũng không giống nhau. Kết quả nghiên cứu ở cả KCN Bắc
Thăng Long và KCN Tân Thuận TNNT di cư khó thích ứng với những khó khăn
gặp phải ở các ngành công nghiệp chế biến và cơ khí, xây dựng, chủ yếu là do
thiếu kỹ năng, tay nghề. Họ có xu hướng tìm một công việc mới phù hợp hơn, tỷ
lệ tương ứng (45,2% và 38,3%). Tỷ lệ này cao hơn gấp 6 lần so với ngành sản
xuất, lắp ráp linh kiện, gấp gần 3 lần so với ngành dệt may.
Với những khó khăn do công việc quá căng thẳng, sự bỡ ngỡ trong tiếp cận
và sử dụng máy móc công nghiệp hiện đại, rồi làm việc trong môi trường có tính
kỷ luật cao của ngành sản xuất, lắp ráp linh kiện điện tử người lao động đều phải
tìm cách để thích ứng. Biện pháp chủ yếu của họ là cố gắng tuân thủ và chấp hành
theo nội qui, qui chế, kỷ luật của doanh nghiệp (64,2%), học tập nâng cao trình độ
tay nghề, đáp ứng yêu cầu công việc (41,0%). Tỷ lệ thay đổi công việc ở ngành
này ở mức thấp nhất (6,8%). Ở ngành dệt may, đại đa số người được khảo sát cho
biết họ gặp khó khăn vì công việc có thu nhập thấp, làm việc trong môi trường bị ô
nhiễm và bị quản lý chặt về thời gian, tuy nhiên rất ít người muốn tìm một công việc

khác (17,9%) hoặc sẵn sàng bỏ việc (0,0%).
4.4. Yếu tố về chính sách
Xây dựng và phát triển các KCN là bước đi tất yếu trong tiến trình CNH,
HĐH đất nước. Chính vì vậy, ngoài trách nhiệm của các doanh nghiệp, Đảng và
Nhà nước ta luôn có chủ trương và ban hành nhiều chính sách về tiền lương, thu
nhập, nhà ở, phúc lợi xã hội cho người lao động trong đó có TNNT di cư ở các
đơn vị kinh tế này. Về phía người lao động, họ cũng có nhiều biện pháp để thích
ứng, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập trong quản lý và điều hành. Chẳng hạn,
vấn đề nhà lưu trú, vấn đề hỗ trợ về giá nhà, giá điện, trợ cấp xã hội, vay vốn, rồi
các vấn đề về hộ khẩu, y tế, nhà trẻ, nơi vui chơi, giải trí…Tất cả những điều đó
đang gây nên những khó khăn, rào cản cho TNNT di cư trong quá trình thích
ứng và hội nhập vào môi trường mới – môi trường của CNH và HĐH.


22

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Với kết quả và kinh nghiệm của những người đi trước (chương 1) và cơ sở
lý luận và thực tiễn đã được hình thành (chương 2), cùng với những dữ liệu điều
tra xã hội học, trong các chương 3 và 4, luận án đã mô tả, phân tích và kiến giải
các vấn đề đang đặt ra trong việc thích ứng của TNNT di cư làm việc tại KCN
Bắc Thăng Long (Hà Nội) và Tân Thuận (TP. Hồ Chí Minh). Đến đây, cần điểm
lại một số kết quả chính sau đây:
1. Đúng như giả thuyết thứ nhất và thứ hai của cuộc nghiên cứu đã đưa ra,
nhìn chung TNNT di cư đến làm việc tại các KCN đã và đang gặp phải vô vàn
khó khăn. Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, đó là những khó khăn như thiếu
nhà ở, thu nhập không đủ chi tiêu, dịch vụ y tế, trường lớp cho con không đủ, rồi
các vấn đề về vui chơi giải trí, sinh hoạt cộng đồng, trật tự trị an và nạn ô nhiễm
môi trường. Trong công việc, những khó khăn đó là việc làm quen với máy móc

công nghiệp, với môi trường làm việc có kỹ thuật, kỷ luật và năng suất cao, mà
còn cả với tính chất và sự ổn định của công việc. Đấy là chưa kể họ còn phải
chịu đựng về tiếng ồn, bụi bẩn, sự độc hại, nguy hiểm, bị ép làm thêm giờ hoặc
có khi công việc thất thường phải nghỉ việc và trừ lương...
Tuy nhiên, với sự cần cù, chịu khó của những người sinh ra và lớn lên ở
nông thôn, với bản chất năng động và sáng tạo của người Việt Nam, cộng thêm
với sức mạnh của tuổi trẻ, hầu hết số người trong mẫu điều tra đều tìm cách
khắc phục khó khăn để phát triển. Dù sự hài lòng với công việc hiện tại mới chỉ
chiếm già một nửa số người được hỏi, nhưng đại đa số đều có dự định sẽ trụ lại
để tiếp tục làm việc, có người còn muốn đưa gia đình từ quê lên để cùng sinh
sống. Số người muốn bỏ việc về quê chỉ có 12,2% mẫu nghiên cứu.
2. Cùng gặp khó khăn song việc tìm cách khắc phục khó khăn để thích
ứng của TNNT di cư đến các KCN, xét theo cấu trúc xã hội, ở mỗi nhóm người
lại có những đặc điểm riêng. Chẳng hạn, trong khi nam giới tích cực và chủ
động tìm kiếm các biện pháp để thay đổi thì nữ giới thường nhẫn nhịn và cam
chịu. Về nhóm tuổi và sự từng trải, những người lớn tuổi hơn, những người di
cư lần thứ hai trở đi thường có nhiều cách ứng phó và sự ứng phó cũng linh hoạt
hơn nhưng người ít tuổi hoặc mới di cư. Xét về khu vực/vùng miền, nhóm lao
động nhập cư ở KCN Tân Thuận tỏ ra năng động và sẵn sàng thay đổi nhiều hơn
so với nhóm nhập cư ở KCN Bắc Thăng Long. Còn về tính chất của công việc,
những người làm các công việc vất vả, nặng nhọc, độc hại, những người mà
công việc không ổn định có xu hướng chuyển đổi hoặc rời bỏ công việc nhiều
hơn những người làm các công việc khác. Trong khi đó, những nhân tố thuộc
tầm vĩ mô như hệ thống chính sách của Nhà nước (về tiền lương, nhà ở, hộ
khẩu...) lại chưa đồng bộ, chưa đến tay người lao động. Tại cơ sở sản xuất thì
giới chủ còn thiếu trách nhiệm, hoạt động của Công đoàn kém hiệu quả, việc


23


thực thi chính sách cũng còn bất cập trên nhiều phương diện...tất cả những điều
đó cho thấy bức tranh về đời sống và việc làm của TNNT di cư làm việc tại các
KCN hiện nay không chỉ phức tạp mà còn khá nan giải, mặc dù họ đã không
ngừng nỗ lực khắc phục khó khăn để thích ứng.
3. Việc không ngừng nỗ lực phấn đấu của TNNT di cư tại các KCN như
đã nêu, suy cho cùng, là có cơ sở/nguồn gốc cả từ trong hiện tại lẫn trong truyền
thống văn hóa của dân tộc. Về hiện tại, hầu hết số người được phỏng vấn đều
cho rằng họ rời bỏ làng quê lên KCN là đang tham gia vào tiến trình CNH, HĐH
đất nước – một xu thế không thể đảo ngược. Vì vậy, dù khó khăn vất vả thế nào,
họ cũng cố gắng khắc phục để thích ứng. Đây chính là một sự lựa chọn, nếu
không muốn nói là sự lựa chọn lớn nhất. Kết quả nghiên cứu này không chỉ
khẳng định tính phổ biến và sự đúng đắn của lý thuyết lựa chọn hợp lý trong
điều kiện cụ thể của Việt Nam. Qua kết quả điều tra này chúng tôi nhận ra rằng,
dù lý thuyết mạng lưới xã hội mới được đưa vào Việt Nam chưa lâu, nhưng sức
khái quát của nó đã vượt qua ranh giới về thời gian. Có thể nói rằng, từ rất xa
xưa nguyên lý về mạng lưới xã hội đã từng thấm sâu vào đời sống xã hội ở Việt
Nam, nhất là tại các làng xã và ngày nay các thế hệ cháu con vẫn không quên sử
dụng sức mạnh của nó trong tiến trình CNH, HĐH đất nước.
4. Sau cùng cũng cần nói rằng, dù đã cố gắng rất nhiều song nghiên cứu
của chúng tôi mới chỉ là một mũi khoan thăm dò để mô tả, phân tích và lý giải
về sự thích ứng của TNNT đang làm việc tại các KCN trên hai phương diện là
đời sống và việc làm. Nhưng ngoài đời sống và việc làm thì sự thích ứng của họ
còn liên quan đến nhiều vỉa tầng quan trọng khác nữa, chẳng hạn, đó là tính
đồng bộ về hệ thống chính sách của Nhà nước đối với di cư và nhập cư, sự thực
thi chính sách của các nhà quản lý, rồi vai trò của Công đoàn và trách nhiệm của
các chủ doanh nghiệp...mà mới chỉ xới lên trong nghiên cứu này. Vì vậy, chủ đề
nghiên cứu này vẫn cần được tiếp tục đi sâu để có thể cung cấp thêm các luận cứ
khoa học cho các nhà quản lý và hoạch định chính sách trong việc phát triển các
KCN một cách bền vững hiện nay.
2. Khuyến nghị

2.1. Tuyệt đại đa số TNNT di cư, dù đã tốt nghiệp THPT hay THCS, song
vì sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên họ chưa quen với công việc và lối sống
công nghiệp, do vậy khi tuyển dụng, các doanh nghiệp không chỉ cần đào tạo họ
về mặt chuyên môn, kỹ thuật mà còn cần tạo điều kiện để họ làm quen và thích
ứng dần với tác phong và lối sống công nghiệp hiện đại, kể cả việc đào tạo miễn
phí cho họ.
2.2. Về phía mình, TNNT di cư cần chấp hành nghiêm chỉnh Luật lao
động và hợp đồng lao động đã ký với doanh nghiệp. Tránh tình trạng “nhảy
việc”, không có các hành vi vi phạm về giờ giấc làm việc; chấp hành tốt các nội
qui, qui chế của cơ quan, đơn vị; Cần chủ động, tích cực trong việc nâng cao


×