Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

tiểu luận quá trình hình thành và phát triển của hợp tác xã ở Việt Nam từ năm 1954 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.87 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

1


I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ

1.1. Khái niệm Hợp tác xã
Ngày 23/9/1945, Đại hội Liên minh Hợp tác xã quốc tế lần thứ 31 tổ chức tại
Manchester - Vương quốc Anh đã định nghĩa về Hợp tác xã như sau: “Hợp tác xã
là hiệp hội hay là tổ chức tự chủ của cá nhân liên kết với nhau một cách tự nguyện
nhằm đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung về kinh tế, xã hội và văn hóa
thông qua một tổ chức kinh tế cùng nhau làm chủ chung và kiểm tra dân chủ”.
Trong bản khuyến nghị phát triển Hợp tác xã của Tổ chức lao động quốc tế
được thông qua tại kỳ hợp thứ 90, diễn ra vào tháng 6/2002 tại Geneve - Thụy Sỹ
định nghĩa về Hợp tác xã: “Hợp tác xã là một tổ chức tự chủ của những người tình
nguyện liên kết lại với nhau nhằm thỏa mãn những nhu cầu và mong muốn về kinh
tế, văn hóa và xã hội thông qua việc thành lập một doanh nghiệp sở hữu tập thể,
góp vốn bình đẳng, chấp nhận việc chia sẻlợi ích và rủi ro, với sự tham gia tích
cực của các thành viên trong điều hành và quản lý dân chủ”. Nhiều nước trên thế
giới cũng đưa ra định nghĩa Hợp tác xã cho phù hợp với điều kiện nước mình.
Ở Việt Nam, căn cứ vào tình hình, đặc điểm kinh tế - xã hội của đất nước
Luật Hợp tác xã năm 2003 định nghĩa về Hợp tác xã như sau: “Hợp tác xã là một
tổ chức kinh tế tập thể do cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là
xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định
của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia Hợp tác xã,
cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn
tích lũy và các nguồn vốn khác của Hợp tác xã theo quy định của pháp luật”.


Luật Hợp tác xã năm 2003 đã khẳng định vai trò của kinh tế Hợp tác xã, là
một tổ chức kinh tế mang tính cộng đồng và xã hội sâu sắc. Việc thành lập nên Hợp
tác xã dựa trên nhu cầu, lợi ích chung của các thành viên nhằm phát huy sức mạnh
2


tập thể, cùng giúp nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống
vật chất cho xã viên và góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Luật Hợp tác
xã năm 2003 đã mở rộng về đối tượng tham gia Hợp tác xã đó là cá nhân, hộ gia
đình và pháp nhân. Điều này cũng tạo điều kiện cho kinh tế Hợp tác xã phát triển
về số lượng và mở rộng thêm nguồn vốn đầu tư, tham gia vào Hợp tác xã.
Tuy nhiên, định nghĩa như Luật Hợp tác xã năm 2003 chưa thể hiện rõ bản
chất của Hợp tác xã, chưa thể phân biệt được giữa Hợp tác xã với doanh nghiệp. Để
khắc phục nhược điểm đó, Dự thảo Luật Hợp tác xã (sửa đổi) quy định: “Hợp tác
xã là tổ chức kinh tế, bình đẳng với mọi loại hình kinh tế khác, có tư cách pháp
nhân do ít nhất 07 cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là thành
viên) tự nguyện hợp tác với nhau thành lập và đồng sở hữu theo quy định của Luật
này nhằm mục tiêu cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho thành viên trên cơ sở tài sản
chung và được quản lý một cách dân chủ”. Định nghĩa Hợp tác xã quy định rõ hơn
bản chất của tổ chức này đó là tự nguyện hợp tác với nhau, đồng sở hữu, đồng sử
dụng sản phẩm, dịch vụ của Hợp tác xã hoặc đồng là người lao động trong Hợp tác
xã. Bên cạnh đó, chúng ta còn có thể phân biệt được Hợp tác xã khác với doanh
nghiệp ở chỗ Hợp tác xã phục vụ nhu cầu, nguyện vọng của thành viên.
1.2. Đặc điểm Hợp tác xã
1.2.1. Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế, hoạt động như một loại hình doanh
nghiệp
Là một tổ chức kinh tế, các Hợp tác xã được thành lập để tiến hành các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Là một tổ chức kinh tế, Hợp tác xã có nguồn
vốn riêng, có điều lệ tổ chức và hoạt động riêng, có tên gọi, biểu tượng riêng (nếu
có), phải tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh,

về tài chính, phải hạch toán và hoạt động có hiệu quả để tồn tại và phát triển bền
vững, đáp ứng yêu cầu của xã viên và bình đẳng như các loại hình doanh nghiệp
khác. Tuy nhiên, khác với các loại hình doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm mục tiêu
hoạt động, Hợp tác xã ra đời trước hết là để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng
3


chung của thành viên về kinh tế và xã hội, phục vụ thành viên phát triển sản xuất,
kinh doanh, tăng thêm lợi ích cho thành viên. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của
Hợp tác xã chỉ là một công cụ nhằm thúc đẩy tăng thêm lợi ích của thành viên
thông qua vai trò phục vụ của Hợp tác xã. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của Hợp
tác xã có thể tạo ra lợi nhuận, lợi nhuận này hoặc được sử dụng để mở rộng quy mô
Hợp tác xã, hoặc được hoàn trả trực tiếp cho thành viên. Mục tiêu của Hợp tác xã là
phục vụ, không phải chỉ lợi nhuận. Bên cạnh đó, các thành viên Hợp tác xã được
bình đẳng, dân chủ trong việc quản lý Hợp tác xã thông qua mỗi người một phiếu
bầu, cùng có quyền lợi, nghĩa vụ trong phát triển Hợp tác xã. Chính vì vậy mà Luật
Hợp tác xã năm 2003 không xác định Hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp mà
coi Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp.
1.2.2. Mỗi Hợp tác xã có số lượng từ bảy thành viên trở lên
Số lượng thành viên tham gia Hợp tác xã là một yếu tố quan trọng, ảnh
hưởng lớn đến quy mô tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh của Hợp tác xã. Đối
tượng tham gia Hợp tác xã bao gồm tất cả các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân.
Việc quy định về số lượng thành viên và cơ cấu thành viên của Hợp tác xã là một
trong những tiêu chí để phân biệt Hợp tác xã với các loại hình doanh nghiệp khác.
Chẳng hạn khi xem xét về số lượng đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên thì số lượng thành viên không được vượt quá năm mươi, đối với công
ty cổ phần thì số lượng tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Hoặc nói
đến cơ cấu thành viên ở Hợp tác xã cán bộ, công chức và hộ gia đình được tham gia
thành lập trong khi đó doanh nghiệp thì lại không được thành lập. Tuy nhiên, Luật
Hợp tác xã lại không quy định cá nhân nước ngoài, tổ chức nước ngoài có được

tham gia thành lập Hợp tác xã hay không, trong khi đó đối tượng thành lập, góp
vốn, mua cổ phần và quản lý doanh nghiệp thì đối tượng này được tham gia.

4


1.2.3. Các thành viên của Hợp tác xã cùng góp tài sản, công sức, cùng hưởng lợi
và cùng chịu trách nhiệm
Pháp luật quy định khá chặt chẽ giữa các thành viên khi tham gia Hợp tác xã.
Mối quan hệ giữa các thành viên được hình thành trên nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng, tương trợ lẫn nhau và cùng hưởng lợi. Các thành viên cùng sản xuất, cùng
kinh doanh, cùng làm các dịch vụ và phân phối lợi nhận theo nguyên tắc “lời ăn, lỗ
chịu”. Các thành viên trong Hợp tác xã được Nhà nước đảm bảo quyền tự chủ
trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, nhưng pháp luật cũng yêu cầu họ phải tự
chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ Ở VIỆT NAM
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NAY
2.1. Thời kỳ tổ chức xây dựng hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp (1958 – 1960)
Miền Bắc đã có 40.422 hợp tác xã nông nghiệp, thu hút 2.4 triệu hộ nông dân,
chiếm 85.8% tổng số hộ với 76% diện tích ruộng đất. Về cơ bản miền Bắc đã hoàn thành
xây dựng hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp.
Có 4.346 hợp tác xã bậc cao và xuất hiện một số hợp tác xã quy mô toàn xã.
2.2. Thời kỳ hợp tác xã nông nghiệp bậc cao (1960 – 1965)
17.562 hợp tác xã nông nghiệp bậc cao
Hợp tác xã nông nghiệp đã thu hút 90.3% số hộ nông dân miền Bắc tham gia hợp
tác xã, trong đó có 80% số hộ tham gia hợp tác xã bậc cao
Phong trào hợp tác xã nông nghiệp bộc lộ nhiều khuyết điếm: số hợp tác xã yếu kém
còn nhiều, hiệu quả hoạt động thấp, chưa đạt được mục tiêu hợp tác xã đề ra, chưa xây
dựng được niềm tin vững chắc với người nông dân.


5


2.3. Thời kỳ tiếp tục củng cố và phát triển hợp tác xã ở miền Bắc (1966 – 1975)
Đẩy mạnh cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật và tiến hành cuộc vận
động dân chủ, phấn đấu đưa nông nghiệp miền Bắc tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
97% số hộ nông dân tham gia hợp tác xã trong đó có 80% số hộ tham gia hợp tác
bậc cao.
Quy mô hợp tác xã không ngừng mở rộng.
Diện tích gieo trồng của hợp tác xã trong giai đoạn 1966 – 1975 giảm 3.6% so với
giai đoạn năm 1961 – 1965.
Các hộ thành viên có thu nhập từ hợp tác xã ngày càng thấp, lương thực tính theo
bình quân đầu người giảm từ 304kg thời kỳ năm 1961 – 1965 xuống 258.8kg thời kỳ năm
1966 – 1975.
Tệ nạn tham ô, lãng phí và hiện tượng thất thoát, hư hao tiền vốn ở các hợp tác xã
tăng cao đến mức nghiêm trọng.
2.4. Thời kỳ mở rộng hợp tác hóa trên phạm vi cả nước (1976 – 1986)
Ở miền Bắc hợp tác xã nông nghiệp tiếp tục mở rộng quy mô, tổ chức lại theo
hướng tập trung, chuyên môn hóa, cơ giới hóa.
Ở miền Nam phong trào hợp tác xã nông nghiệp được đẩy mạnh.
Cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 của thế ký thứ XX, phong trào hợp tác xã nông
nghiệp lâm vào bế tắc, những khuyết điểm, yếu kém của mô hình hợp tác xã kiểu cũ ngày
càng bộ lộ nhiều khuyết điểm, tác động tiêu cực về tâm lý và xã hội trong nông thôn, người
lao động không gắn bó với ruộng đất.
Sản xuất nông nghiệp dậm chân tại chỗ . số lượng lương thực từ năm 1976 đến năm
1981 không vượt quá 15 triệu tấn/năm.
6


Để tháo gỡ khó khăn một số địa phương đã đi tìm mô hình mới về hợp tác xã nông

nghiệp theo phương thức khoán sản phẩm đến người lao động.
Tháng 01 năm 1981, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 100-CT-TW về cải tiến công
tác khoán và mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác
xã nông nghiệp và đã thu được kết quả rất lớn trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, mô
hình hợp tác xã vẫn dựa trên sở hữu tập thể, quản lý tập trung, phân phối thống nhất theo
chế độ công điểm.
2.5. Thời kỳ từ thực hiện “đổi mới” đến khi có Luật hợp tác xã (1987 – 1996)
Cải biến thực sự tính chất và phương thức tổ chức quản lý hợp tác xã nông nghiệp ở
nước ta: hộ gia đình thành viên được xác định là những đơn vị kinh tế tự chủ, kinh tế hộ
được quyền chủ động sản xuất, kinh doanh, hợp tác xã chỉ thực hiện những khâu công việc
mà kinh tế hộ làm nhưng không hiệu quả hoặc không làm được.
Do không thích ứng với cơ chế mới và do công tác quản lý nhà nước đối với hợp tác
xã không theo kịp tình hình, nên vào những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ trước hầu hết
các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp bị giải thể hàng loạt.
Thời điểm cao nhất của phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, cả nước có 17.022 hợp
tác xã nông nghiệp và 36.352 tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Thì đến tháng 12 cả nước chỉ
còn 13.756 hợp tác xã nông nghiệp và 1.892 tập đoàn sản xuất nông nghiệp.
2.6. Tình hình hợp tác xã hiện nay ở Việt Nam hiện nay
Phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã là một tất yếu khách
quan. Điều đó đã được khẳng định trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng và Nhà nước ta. Các hình thức hợp tác xã cũng đã ra đời từ rất sớm ở nước ta.
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, điển hình có hợp tác xã Dân
Chủ ở Thái Nguyên, cách nay đã gần 60 năm. Quá trình phát triển kinh tế hợp tác
xã trải qua các giai đoạn cách mạng đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp
giải phóng dân tộc, vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

7


Bước vào thời kỳ đổi mới, từ năm 1986 đến cuối những năm 90 của thế kỷ

XX, do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là chuyển đổi cơ chế quản lý, thay đổi
cơ cấu tổ chức quản lý của hệ thống hợp tác xã, những yếu kém, khuyết tật và bất
cập của mô hình cũ trong điều kiện mới,... nên khu vực hợp tác xã đã lâm vào một
cuộc khủng hoảng sâu sắc, nhiều hợp tác xã tan rã. Đến tháng 12-1996, trước khi
thực hiện Luật hợp tác xã, cả nước chỉ còn lại 17.462 hợp tác xã (so với trên 79.000
hợp tác xã thời điểm trước năm 1986). Trong đó, giảm nhiều nhất là các hợp tác xã
tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã tín dụng, số hợp tác xã mua bán còn lại không
đáng kể.
Luật hợp tác xã được ban hành và có hiệu lực từ năm 1997, nhất là sau khi
có Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18-3-2002 Hội nghị Trung ương 5 khóa IX
về Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, khu vực hợp
tác xã đã dần khắc phục tình trạng yếu kém, tạo những bước phát triển mới, thể
hiện trên các mặt, như sau:
+ Số lượng đã tăng lên đáng kể. Tiếp tục khẳng định các tổ hợp tác, hợp tác
xã vẫn là khu vực kinh tế - xã hội rộng lớn nhất. Đến tháng 6-2007, cả nước có trên
320.000 tổ hợp tác, so với năm 2001 tăng 32,6%, gấp hơn 2,5 lần so với năm 1997.
Có 17.599 hợp tác xã, trong đó số hợp tác xã mới được thành lập chiếm tới 57,59
%; 39 liên hiệp hợp tác xã tăng so với năm 2001 là 17,8%. Các tổ hợp tác, hợp tác
xã thu hút trên 12,5 triệu xã viên. Trong lĩnh vực nông, lâm, diêm nghiệp, có 8.535
hợp tác xã và trên 100.000 tổ hợp tác, với khoảng 8,3 - 8,5 triệu xã viên, hộ xã viên
tham gia. Hợp tác xã cũng có xu thế phát triển mạnh trong lĩnh vực tín dụng nhỏ,
giao thông vận tải, tiểu thủ công nghiệp. Có 934 quỹ tín dụng nhân dân với gần 1,1
triệu thành viên và trên 150.000 các tổ tín dụng.
+ Các hợp tác xã cũ cơ bản đã được chuyển đổi xong theo quy định của Luật
hợp tác xã; giải thể các hợp tác xã hình thức, không còn hoạt động. Thời gian qua,
cả nước đã chuyển đổi 8.700 hợp tác xã cũ; từ năm 2000 đến nay đã giải quyết
được gần 4.000 hợp tác xã cũ, trong đó tiếp tục chuyển đổi trên 1.400 hợp tác xã,
giải thể trên 2.300 hợp tác xã yếu kém, không còn hoạt động. Đến nay, cả nước chỉ
còn tồn tại trên 300 hợp tác xã (chủ yếu là hợp tác xã nông nghiệp) chưa làm xong
các thủ tục giải thể, nhưng cũng không còn hoạt động.

+ Các hợp tác xã mới phát triển mạnh theo hướng nâng cao hiệu quả, đa
dạng hơn. Đến nay, cả nước đã có 5.200 hợp tác xã mới được thành lập. Bên cạnh
các lĩnh vực truyền thống, nhiều mô hình hợp tác xã trong các ngành, nghề mới
xuất hiện, như hợp tác xã vệ sinh môi trường, hợp tác xã nước sạch, hợp tác xã
điện, hợp tác xã quản lý kinh doanh chợ... Cũng xuất hiện các mô hình hợp tác xã
gắn với đáp ứng nhu cầu đời sống, kinh tế của các giới, các tầng lớp, các nhóm đối
tượng khác nhau, như hợp tác xã của phụ nữ, của thanh niên, của những người tàn
8


tật, của cựu chiến binh, do nhà chùa, nhà thờ... Từ kinh nghiệm quốc tế, một số mô
hình mới cũng đang được Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nghiên cứu triển khai ở
một số nơi, như hợp tác xã trường học, hợp tác xã nhà ở, hợp tác xã y tế...
+ Các tổ hợp tác tuy có các tên gọi khác nhau (tổ hợp tác, tổ tín dụng và trợ
vốn, tổ và tập đoàn sản xuất, nhóm sản phẩm, câu lạc bộ, hiệp hội ngành nghề...),
nhưng về bản chất vẫn là các tổ chức hợp tác xã, được hình thành xuất phát từ nhu
cầu thực sự của người dân, phát triển mạnh trong các lĩnh vực tín dụng, sản xuất
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Nhiều tổ hợp tác đã được tổ chức chặt chẽ và
tuân thủ các nguyên tắc của hợp tác xã.
+ Các hợp tác xã (chuyển đổi cũng như thành lập mới) nhìn chung đã tuân
thủ các nguyên tắc, quy định của Luật hợp tác xã. Các hợp tác xã được củng cố một
bước về tổ chức quản lý, vốn quỹ, về trách nhiệm và quan hệ giữa xã viên với hợp
tác xã. Hoạt động của các hợp tác xã được đổi mới, thiết thực gắn với lợi ích của
các thành viên. Phần lớn hợp tác xã có kế hoạch, phương án hoạt động cụ thể. Các
hợp tác xã nông nghiệp đã làm được các khâu dịch vụ cơ bản, phục vụ sản xuất
nông nghiệp; số các hợp tác xã làm các dịch vụ tổng hợp có xu hướng tăng, hoạt
động có hiệu quả hơn.
+ Liên kết giữa các hợp tác xã với nhau bước đầu được tăng cường, nhất là
giữa các hợp tác xã cùng ngành nghề và trên cùng địa bàn. Một số hợp tác xã đã
hợp nhất lại với nhau thành các hợp tác xã lớn hơn hoặc liên kết lại với nhau về tổ

chức, thành lập các liên hiệp hợp tác xã hoặc hiệp hội ngành nghề để tăng khả năng
cạnh tranh và hiệu quả hoạt động. Trong 5 năm gần đây, cả nước đã có 540 hợp tác
xã hợp nhất lại thành 144 hợp tác xã lớn hơn; có 39 liên hiệp hợp tác xã thu hút hơn
300 hợp tác xã thành viên (năm 2001 có 8 liên hiệp hợp tác xã).
+ Các tổ hợp tác, hợp tác xã tập hợp trên 12,5 triệu người lao động, hộ kinh
tế gia đình, kinh tế cá thể, tiểu chủ, các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ phân bố trên
một khu vực kinh tế - xã hội rộng lớn có tác động quan trọng, không thể thay thế
được đối với nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế, nhất là những ngành nghề như
nông nghiệp, thủy hải sản, tín dụng nhỏ, tiểu thủ công nghiệp, vận tải hàng hóa,
hành khách... và có tác dụng thiết thực đến đời sống, công ăn việc làm, thu nhập
của khoảng 47-50 triệu người, chủ yếu ở khu vực nông thôn và những tầng lớp có
thu nhập thấp. Các tổ chức hợp tác xã còn đóng góp to lớn trong xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là ở nông thôn, như xây dựng cơ sở vật chất cho giáo
dục tiểu học, mẫu giáo, y tế.
Nhìn chung, hoạt động của hợp tác xã không những phục vụ các nhu cầu
kinh tế, đời sống của xã viên, hộ xã viên và phát triển cộng đồng là chủ yếu, mà
còn đóng góp tới 6,83% GDP của đất nước. Thông qua các hoạt động của mình, các
9


tổ hợp tác, hợp tác xã đã khẳng định được vai trò quan trọng không chỉ đối với sản
xuất, kinh doanh, mà còn trở thành nhân tố không thể thay thế, góp phần thúc đẩy
dân chủ hóa, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở.
Tuy có những chuyển biến tích cực, nhưng cũng phải thừa nhận rằng hợp tác
xã vẫn chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém, còn nhiều khó khăn và bất cập lớn. Cụ
thể là:
- Bộc lộ tính không đồng bộ giữa mục tiêu và nội dung hoạt động kinh tế, xã
hội phức tạp, quy mô lao động lớn của các tổ hợp tác, hợp tác xã với năng lực nội
tại về vốn liếng, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực không đáp ứng được yêu
cầu đổi mới và phát triển. Phần lớn các hợp tác xã không có mặt bằng để triển khai

các hoạt động, có hơn 52% số hợp tác xã không có trụ sở làm việc. Trình độ nhận
thức, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý, người lao động trong các hợp tác xã vốn
đang rất yếu, lại thiếu gắn bó, không yên tâm làm việc lâu dài.
- Trình độ tổ chức, năng lực quản lý trong các hợp tác xã nhìn chung còn
yếu. Ở nhiều hợp tác xã (cả chuyển đổi và mới thành lập), việc tuân thủ các nguyên
tắc, giá trị, tuân thủ các quy định về góp vốn điều lệ, về tích lũy tài sản vốn quỹ
chung chưa bảo đảm.
- Hoạt động của các hợp tác xã còn thiếu gắn bó với nhau, chưa có sự liên
kết hệ thống chặt chẽ cả về mặt kinh tế, xã hội và tổ chức. Các hoạt động liên
doanh, liên kết trong sản xuất, kinh doanh giữa các hợp tác xã với nhau còn ít, nội
dung còn nghèo nàn. Tuy vừa qua đã hình thành được một số liên hiệp hợp tác xã,
nhưng quy mô nhỏ, hiệu quả chưa cao, nhất là tác dụng hỗ trợ các hợp tác xã thành
viên còn ít.
III. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỢP TÁC XÃ NÔNG
NGHIỆP THẠNH PHƯỚC – TỈNH HẬU GIANG

Hợp tác xã nông nghiệp Thạnh Phước thuộc huyện Châu Thành tỉnh Hậu
Giang đã đi vào nề nếp, phát huy hiệu quả trên lĩnh vực liên kết phát triển SX, hỗ
trợ kỹ thuật, cung ứng cây giống cho hộ nghèo, HTX còn ký hợp đồng bao tiêu
toàn bộ sản phẩm cho nông dân. Tiền thân là Câu lạc bộ khuyến nông xã Đông
Thạnh, HTX NN Thạnh Phước được thành lập năm 1999 với 16 thành viên, vốn
điều lệ 20 triệu đồng, diện tích đất canh tác 17 ha đất vườn, chủ yếu trồng chanh
không hạt. Thực hiện mô hình hợp tác xã kiểu mới, do sản xuất theo hình thức tập
thể nên tất cả các chi phí từ dịch vụ đầu vào đến công lao động, vận chuyển đều
giảm đáng kể, từ đó giá thành sản phẩm cũng giảm, thu hút được các doanh nghiệp
đến thu mua. Hơn nữa, bà con khi tham gia vào HTX được tập huấn KHKT, HTX
đứng ra bảo lãnh để vay vốn, tìm đầu ra cho sản phẩm nên rất phấn khởi tham gia.
10



Phương thức hoạt động là mô hình của hộ thành viên nào, hộ thành viên đó tự quản
lý và hưởng lợi. HTX đứng ra tìm thị trường và tiêu thụ sản phẩm, các sản phẩm
đầu vào như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, kỹ thuật, con giống được HTX cung
cấp. Sau khi tiêu thụ sản phẩm các thành viên trích một phần lập quỹ sử dụng cho
việc cung cấp đầu vào.
Nhờ làm tốt công tác quản lý, năng động trong việc tìm kiếm đầu ra của sản
phẩm, áp dụng KHKT trong sản xuất, HTX Thành Đạt hoạt động ngày càng có hiệu
quả. các thành viên của HTX hiện nay đều thoát nghèo và vươn lên khá giàu. Một
số thành viên có diện tích canh tác lớn có thể thu về 150 - 200 triệu đồng/ha/năm.
HTX còn thực hiện trồng và nhân giống chanh không hạt để đáp ứng đủ cây
trồng cho HTX và thuận lợi cho mở rộng thị trường. HTX đã cung cấp trên 200.000
cây giống chanh không hạt và thu mua trên 60 tấn trái để bán cho doanh nghiệp, trừ
chi phí, HTX còn lãi trên 1 tỷ đồng.
Ngoài ra, HTX còn giúp cho gần 20 lao động nông thôn có việc làm ổn định,
với mức thu nhập trên 3 triệu đồng mỗi tháng. “Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ chanh
không hạt rất lớn, giống chanh không hạt có khả năng kháng bệnh và chịu hạn cao
nên rất thích hợp trồng ở vùng ĐBSCL. Khi khí hậu đang khô hạn, cây chanh
không hạt vẫn phát triển tốt, giúp người nông dân tìm được hướng đi mới”, Giám
đốc Nguyễn Văn Thật cho biết
IV. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả kinh tế tập thể đã xác định mục tiêu đến năm 2010 là đưa kinh tế tập
thể thoát khỏi những yếu kém hiện nay, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn, tiến tới có
tỷ trọng ngày càng lớn hơn trong GDP của nền kinh tế. Nghị quyết Đại hội X của
Đảng tiếp tục khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp
tác xã ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; đồng thời
nhấn mạnh là phải "tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến
khích mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình

thức tổ chức sản xuất kinh doanh, bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới.
1. Phát triển hợp tác xã gắn bó mật thiết, phục vụ thực hiện thắng lợi đường
lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Đại hội X của Đảng đã đề ra tám nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm (20062010): "Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm
năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ
11


cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng của nước đang phát triển có thu nhập thấp...
Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát
triển kinh tế tri thức... Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết việc làm,
khuyến khích làm giàu hợp pháp, xóa đói, giảm nghèo, phát triển hệ thống an sinh
xã hội; đẩy lùi các tệ nạn xã hội... Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát
huy dân chủ, nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" 1... Phát
triển của khu vực hợp tác xã cần được gắn chặt với việc cụ thể hóa và triển khai
thực hiện các chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội đó. Đây không chỉ là
yêu cầu, mà trước hết là định hướng, căn cứ, huy động các nguồn lực để hợp tác xã
đổi mới và phát triển.
2. Phát triển hợp tác xã hướng vào đáp ứng những nhu cầu kinh tế, văn hóa,
xã hội của đông đảo các tầng lớp xã hội và tập hợp, liên kết rộng rãi mọi loại hình
và tổ chức kinh tế, đặc biệt chú trọng đối tượng là người lao động, các hộ kinh tế cá
thể
Hiện nay, cả nước có 13,8 triệu hộ nông thôn, trong đó 9,8 triệu hộ nông,
lâm, ngư nghiệp; 1,37 triệu hộ tiểu thủ công nghiệp, xây dựng; 2,04 triệu hộ thương
nghiệp, vận tải và dịch vụ khác; trong số hộ nông dân có 1,3 - 1,5 triệu hộ kiêm
ngành nghề. Ở thành thị, có trên 4,72 triệu hộ; trong đó có hàng triệu hộ sản xuất,
kinh doanh nhỏ, hàng triệu người lao động tự do trong các lĩnh vực tiểu thủ công
nghiệp, xây dựng, vận tải, thương mại, dịch vụ. Tuyệt đại bộ phận xã viên của các

tổ hợp tác, hợp tác xã lâu nay là nằm trong khu vực này. Mặc dù có số lượng đông
đảo nhất, nhưng phần lớn các hộ cá thể, những người lao động tự do, đặc biệt là ở
nông thôn, kinh tế hộ gia đình còn gặp rất nhiều khó khăn. Phát triển hợp tác xã cần
tiếp tục chú trọng vào những tầng lớp và đối tượng này, để họ cùng giúp nhau làm
ăn, tạo việc làm, tăng thu nhập, phát triển kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hóa.
Trong điều kiện kinh tế hàng hóa ngày càng phát triển, các hộ sản xuất hàng hóa,
các cơ sở kinh doanh nhỏ và vừa trong mọi lĩnh vực, ngành nghề đang và sẽ phát
triển nhanh, thay thế dần các hộ gia đình hoạt động kinh tế theo lối tự cung tự cấp.
Ngoài ra, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt và hội nhập, nhu cầu hợp tác sẽ trở
thành cấp thiết đối với họ. Do vậy, phát triển hợp tác xã cũng cần phải hướng tới
liên kết rộng rãi các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp cực nhỏ, nhỏ và vừa
thuộc mọi lĩnh vực, thành phần kinh tế.
Kinh nghiệm ở các nước trên thế giới cho thấy, trong nhiều lĩnh vực đời sống
xã hội, nếu hợp tác lại được với nhau thì sẽ tốt hơn và hiệu quả hơn, như: tiêu dùng,
bảo hiểm, nhà ở, chăm sóc sức khỏe và dịch vụ y tế, chăm sóc trẻ em, người cao
tuổi... Phát triển hợp tác xã cũng cần được mở rộng và hướng vào đông đảo các
12


tầng lớp dân cư, các giới xã hội và đông đảo các đối tượng có nhu cầu đáp ứng các
đòi hỏi đó.
3. Phát triển hợp tác xã cần được mở rộng trong mọi lĩnh vực, ngành nghề
mà người dân có nhu cầu
Trước hết, tập trung phát triển hợp tác xã trong khu vực nông nghiệp và nông
thôn, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm và nội dung quan trọng nhất trong chiến lược
phát triển hợp tác xã của nước ta. Cần hướng tới mục tiêu làm sao để tuyệt đại bộ
phận nông dân ý thức được cái lợi nhiều mặt của việc hợp tác làm ăn, tự nguyện
tham gia hợp tác xã; hợp tác xã nông nghiệp vươn lên đáp ứng toàn diện nhu cầu
sản xuất, văn hóa, xã hội của người dân nông thôn. Phát triển hợp tác xã gắn với
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông

thôn mới. Phát triển mạnh hợp tác xã trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề nhằm
phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Chú trọng phát triển hợp tác xã, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và nâng
tỷ trọng của hợp tác xã trong các lĩnh vực, ngành nghề đang có nhu cầu và tác dụng
nhiều mặt đối với sản xuất, đời sống của người dân, như tín dụng, tiểu thủ công
nghiệp, tiêu dùng, giao thông vận tải...
Cùng với các lĩnh vực truyền thống, cần phát triển hợp tác xã trong các lĩnh
vực, ngành nghề mới, như môi trường, nhà ở và đất đai, y tế và chăm sóc sức khỏe,
các lĩnh vực dịch vụ đời sống... Phát triển hợp tác xã cũng cần quan tâm đến đặc
điểm, điều kiện và thế mạnh của từng vùng, từng khu vực, từng địa phương. Cần
chú trọng đến phát triển hợp tác xã, nhất là các tổ hợp tác, các hình thức tổ chức
kinh tế - xã hội cộng đồng phù hợp với các điều kiện ở miền núi, vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Phát triển hợp tác xã gắn với đáp ứng
những nhu cầu sản xuất, đời sống, văn hóa, xã hội của bà con, gắn với bảo vệ môi
trường, bảo đảm an ninh trật tự. Do đó, phát triển hợp tác xã cần có sự hỗ trợ mạnh
từ phía Nhà nước bằng các chương trình và chính sách đặc thù, cụ thể và sát thực.
4. Phát triển mô hình hợp tác xã đa dạng về hình thức, phát triển từ thấp đến
cao, từ làm dịch vụ sản xuất, dịch vụ đời sống cho các hộ thành viên, xã viên, đến
mở mang ngành nghề, vươn lên sản xuất kinh doanh tổng hợp
Tiếp tục củng cố và phát triển các loại hình tổ hợp tác với nhiều hình thức đa
dạng đáp ứng nhu cầu hợp tác và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa
phương. Củng cố, đổi mới các hợp tác xã hiện có và phát triển các hợp tác xã mới
cần bảo đảm các giá trị hợp tác xã, bảo đảm hợp tác xã là tổ chức của các xã viên,
do xã viên và vì xã viên. Đặc biệt, phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc hợp tác xã.
Hợp tác xã phải là những tổ chức tự nguyện, rộng mở cho tất cả các đối tượng có
nhu cầu sử dụng các dịch vụ của hợp tác xã và tự nguyện gánh vác trách nhiệm là
13


thành viên, xã viên. Các tổ chức hợp tác xã là những tổ chức dân chủ, do các thành

viên kiểm soát, do đó phải làm cho mỗi thành viên, xã viên tích cực tham gia không
những bàn bạc mọi công việc của hợp tác xã, mà còn hoạch định các chính sách,
đưa ra các quyết định. Xã viên hợp tác xã có quyền bình đẳng trong các quyết định
của hợp tác xã theo nguyên tắc "mỗi thành viên một phiếu bầu". Các xã viên đóng
góp vốn vào và quản lý dân chủ vốn của hợp tác xã, xã viên hợp tác xã quyết định
phương án phân phối thu nhập, sử dụng lãi của hợp tác xã cho các mục đích phát
triển hợp tác xã, lập các quỹ dự phòng, lập quỹ không chia để tích lũy chung, chia
lãi cho xã viên theo mức đóng góp vốn, công sức và sử dụng dịch vụ, cũng như hỗ
trợ các hoạt động khác của hợp tác xã. Đẩy mạnh liên kết giữa các hợp tác xã với
nhau cả về mặt kinh tế, xã hội và về tổ chức, từng bước hình thành các liên hiệp
hợp tác xã chuyên ngành, đa ngành vững mạnh và phát triển với quy mô khác nhau,
từ liên hiệp hợp tác xã huyện, tỉnh tới các liên hiệp hợp tác xã hoạt động liên tỉnh,
liên vùng và trong phạm vi cả nước. Đây là nhân tố cực kỳ quan trọng bảo đảm sự
phát triển lớn mạnh hơn và vững chắc hơn của khu vực hợp tác xã trong giai đoạn
tới.
5. Khu vực hợp tác xã là một hệ thống thống nhất từ các xã viên, hộ xã viên,
tới các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam
Với các chức năng đại diện và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các hợp tác xã,
các thành viên, các tổ chức này có chức năng tham gia với Đảng và Nhà nước trong
xây dựng các chủ trương, chính sách, pháp luật về hợp tác xã, tuyên truyền, vận
động phát triển hợp tác xã, hỗ trợ phát triển hợp tác xã và đại diện cho khu vực hợp
tác xã trong các quan hệ đối nội và đối ngoại. Liên minh hợp tác xã Việt Nam có vị
trí và vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của khu vực hợp tác xã. Liên minh Hợp tác
xã Việt Nam các cấp cần hoàn thiện tổ chức, hoạt động theo hướng gắn kết chặt chẽ
với các hợp tác xã, các thành viên, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động phát
triển hợp tác xã, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các hợp tác xã và tập trung hơn
nữa vào công tác hỗ trợ đối với hợp tác xã, xã viên, nhất là trong các lĩnh vực đào
tạo, hỗ trợ về vốn, thông tin kinh tế, tổ chức tiêu thụ sản phẩm, tư vấn pháp lý, kế
toán, kiểm toán, khoa học, công nghệ.
Để khu vực hợp tác xã đổi mới và phát triển thành công theo những định

hướng trên, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thống nhất nhận thức,
tạo môi trường tâm lý thuận lợi cho hợp tác xã phát triển.
Cần tiếp tục làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đầy đủ và sâu
sắc hơn các quan điểm phát triển kinh tế tập thể đã xác định trong Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
14


kinh tế tập thể, chú trọng khắc phục những biểu hiện không đúng, lệch lạc về nhận
thức, như hiểu không đúng bản chất, nguyên tắc và các giá trị của hợp tác xã; chưa
phân biệt đầy đủ sự khác nhau giữa hợp tác xã kiểu cũ và hợp tác xã kiểu mới; còn
quan niệm đồng nhất hợp tác xã với doanh nghiệp hoặc hợp tác xã với tổ chức xã
hội; đánh giá hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nặng về đóng góp vào ngân sách,
GDP..., không thấy được đầy đủ vai trò, vị trí của khu vực hợp tác xã trong phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đáng chú ý là kinh tế tập thể được Đại hội X của Đảng
khẳng định: "Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân"2.
Hai là, đổi mới cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ hợp tác xã vượt qua được
những thách thức hiện nay.
Hợp tác xã là tổ chức cộng đồng của người dân trên tinh thần tự nguyện, tự
lực, tự trợ giúp, tự chịu trách nhiệm, vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội.
Bởi vậy, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã;
chính sách cần đủ mạnh, đủ tầm; chính sách phải phù hợp với điều kiện tổ chức và
hoạt động của hợp tác xã, dễ dàng trong việc triển khai thực hiện; chính sách phải
được thống nhất và tổ chức thi hành trên phạm vi cả nước. Những bức xúc lớn nhất
hiện nay của hợp tác xã là mặt bằng để triển khai các hoạt động, vốn và nguồn lực
con người. Do vậy, thời gian tới cần đặc biệt tập trung tháo gỡ và có những chính
sách đủ mạnh để hỗ trợ hợp tác xã về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, mặt bằng

hoạt động, tài chính tín dụng.
Ba là, nâng cao hơn nữa vai trò quản lý của Nhà nước đối với hợp tác xã.
Đặc biệt quan tâm đến việc bố trí bộ phận, cán bộ chuyên trách theo dõi hợp
tác xã ở huyện và cán bộ bán chuyên trách ở cấp xã. Các bộ, ngành và chính quyền
địa phương cần tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với hợp tác
xã, theo đó trên cơ sở quy hoạch chung, quy hoạch phát triển ngành và vùng, tập
trung xây dựng các chương trình, chiến lược phát triển khu vực hợp tác xã và đề ra
các giải pháp, cân đối các nguồn lực để triển khai; chủ động rà soát, ban hành, bổ
sung, xây dựng các chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã; có biện pháp
lồng ghép kế hoạch phát triển kinh tế tập thể trong các chương trình, dự án, đề án
phát triển kinh tế - xã hội hằng năm và 5 năm; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế tập thể.
Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Liên minh
Hợp tác xã Việt Nam và các tổ chức, đoàn thể trong phát triển hợp tác xã.

15


Các cấp ủy đảng cần nhận thức rõ, đồng thời xác định rõ trách nhiệm đối với
các cấp chính quyền, chỉ đạo phát triển hợp tác xã là một nhiệm vụ trọng tâm và
thường xuyên. Tiếp tục quán triệt về đường lối phát triển hợp tác xã trong Đảng và
quần chúng nhân dân nhằm tạo sự đồng thuận và nhận thức đúng đắn về bản chất,
vị trí, vai trò của hợp tác xã, về con đường đi lên của hợp tác xã và mô hình hợp tác
xã kiểu mới. Tăng cường công tác xây dựng, củng cố tổ chức đảng trong các hợp
tác xã theo quy định của Ban Bí thư và hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương.
Củng cố hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và tăng cường vai trò, trách
nhiệm của Liên minh trong phát triển hợp tác xã; các cấp ủy, các cơ quan nhà nước
tạo điều kiện về các mặt để Liên minh triển khai các nhiệm vụ được giao. Chú
trọng triển khai các nhiệm vụ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, tạo điều kiện và có kế
hoạch để Liên minh xây dựng các tổ chức hỗ trợ, dịch vụ và tư vấn cho các hợp tác

xã, trước hết là các tổ chức hỗ trợ về đào tạo, tín dụng, tổ chức cung ứng vật tư và
tiêu thụ sản phẩm cho các hợp tác xã, hộ xã viên. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân phát huy và làm tốt hơn nữa công tác vận động, giáo dục quần chúng, hội
viên, thành viên tự nguyện tham gia phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã; tăng
cường quan hệ phối hợp với Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong phát triển kinh
tế tập thể.

16



×