Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học môn tin học 12 ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.41 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH
TRONG GIỜ HỌC MÔN TIN HỌC 12 Ở TRƯỜNG THPT

Người thực hiện: Trần Thị Hương
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Tin học

THANH HÓA NĂM 2017
1


MỤC LỤC
NỘI DUNG
I.

MỞ ĐẦU

TRANG
2

1. Lí do chọn đề tài

2

2. Mục đích nghiên cứu



2

3. Đối tượng nghiên cứu

2

4. Phương pháp nhiên cứu

2

II.

3

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

3

2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm

3

3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã
sử dụng để giải quyết vấn đề.

6


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

14

1. Kết luận

14

2. Kiến nghị

15

2


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xuất phát từ lý luận thực tiễn và thực tế công tác 9 năm giảng dạy bộ
môn Tin Học ở trường THPT Yên Định 2 tôi luôn đặt ra câu hỏi tại sao một
môn học có tính tư duy cao, mới mẽ, hấp dẫn vậy mà không thu hút được học
sinh tiếp thu bài và vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Ngoài ra kiến thức cơ bản
của Tin học 12 lại là một trong những kiến thức cơ bản khi các em đặt chân vào
môi trường đại học hoặc cao đẳng. Song nguyên nhân chính có lẽ là do quan
niệm đây chỉ là môn học phụ không thi tốt nghiệp THPT, không thi Đại Học nên
đa số các em không chú ý đến cái hay và mặt tích cực trong bộ môn này. Về phía
giáo viên, mặt nào đó vẫn chưa có một phương pháp dạy học thật sự phù hợp,
chưa tạo được hứng thú cho học sinh yêu thích bộ môn này. Đó là lý do tại sao
tôi chọn đề tài “MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH
TRONG GIỜ HỌC MÔN TIN HỌC LỚP 12 Ở TRƯỜNG THPT ”.

2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá được thực trạng của công tác giáo dục môn tin học ở trường
THPT và phương pháp giảng dạy của giáo viên, thông qua đó đề ra biện pháp
giáo dục phù hợp có hiệu quả giúp cho các em hứng thú và hăng say hơn, khi đó
học sinh sẽ chủ động tiếp thu kiến thức môn Tin học.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh chủ yếu là các lớp cơ bản khối 12 trường THPT Yên Định 2;
- Chương trình Tin học 12;
- Hệ cơ sở dữ liệu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chủ yếu là phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
Trên cơ sở những kiến thức cơ bản bộ môn Tin Học THPT, phương pháp
dạy học và những quan điểm đường lối của Đảng, các văn bản của Bộ giáo dục
và Đào tạo về chuẩn kiến thức và phương pháp dạy học tích cực.
Nhìn nhận lại thực trạng của công tác giảng dạy bộ môn Tin Học và việc
tiếp thu bài của học sinh của trường THPT Yên Định 2 – Thanh Hóa trong năm
học 2016- 2017.
Đưa ra một số biện pháp về việc đổi mới công tác giảng dạy bộ môn Tin
Học cho học sinh của trường trong giai đoạn hiện nay.

3


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Một trong những tư tưởng đổi mới GD& ĐT hiện nay là tăng cường giáo
dục toàn diện cho học sinh cả về đạo đức và trí tuệ để bắt kịp và hội nhập quốc
tế. Điều đó được thể hiện rõ trong nghị quyết số 40/2000/QH 10 ngày 9/2/2000
của Quốc Hội khoá X về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông với mục tiêu
“Xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, SGK phổ thông mới

nhằm nâng cao chất lượng toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất Nước phù hợp với
thực tiễn và tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông của các nước trong khu vực và
trên thế giới”. Luật giáo dục điều 24.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc
điểm với từng lớp học, môn học. Bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh”.
Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi về mặt con người khá toàn diện: Ngoài
trình độ chuyên môn đòi hỏi con người Việt Nam còn phải sử dụng thành thạo
máy vi tính, cập nhật công nghệ thông tin, nói thông thạo một số ngoại ngữ...
Hiện nay một số bộ phận thanh thiếu niên có dấu hiệu thờ ơ và thiếu nghiêm túc
trong việc học tin học, ngoại ngữ và cập nhật công nghệ thông tin dẫn đến trong
quá trình phát triển kém, trong quan hệ cộng đồng khó khăn, thiếu niềm tin
trong cuộc sống, ý chí hội nhập phát triển kém, không còn tính tự chủ dễ bị tụt
hậu so với xã hội.
Với tiến bộ nhảy vọt trong vài chục năm trở lại đây, cuộc cách mạng công
nghệ thông tin đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Hiện
nay trên phạm vi toàn cầu, các công cụ của công nghệ thông tin đang dần thay
thế những công cụ truyền thống, góp phần thúc đẩy sự phát triển trên tất cả các
lĩnh vực khoa học, kinh tế, giáo dục, xã hội. Cũng giống như cuộc cách mạng
công nghiệp, cuộc cách mạng công nghệ thông tin đang dẫn đến những thay đổi
quan trọng trong cách sống và cả cách suy nghĩ của chúng ta.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Kết quả khảo sát chất lượng
Từ thực tế giảng dạy tại trường THPT thuộc huyện Yên Định, trường Yên
Định 2 . Tôi có ghi lại bảng khảo sát chất lượng giữa kì I năm học 2016- 2017
như sau:

4



Lớp

Điểm >=8

Sĩ số

SL

TL%

Trên TB
SL

TL%

Dưới TB
SL

Điểm < 2.5

TL%

SL

TL%

12C4 45


6

13.3

30

66.7

9

20

0

0

11C8 37

2

5.4

25

67.6

10

27


0

0

Vì trong thời gian nghiên cứu tôi chỉ tham gia giảng dạy môn tin ở 2 lớp
khối 12 nên nội dung nghiên cứu chủ yếu dựa trên tình hình học tập, đặc điểm
tâm lí học sinh mà tôi trực tiếp giảng dạy.
2.2. Một số đặc điểm thể hiện học sinh không hứng thú với môn học.
2.2.1. Không nắm được các khái niệm cơ bản
Như chúng ta đã biết kiến thức Tin Học 12 chủ yếu là những khái niệm và
kiến thức cơ bản liên quan đến cơ sở dữ liệu và hệ quản trị cơ sở dữ liệu. Tuy
nhiên học sinh thường chỉ học vẹt để kiểm tra bài cũ, làm bài kiểm tra mà không
hiểu rõ và nhớ lâu về những kiến thức này.
2.2.2. Tiếp thu kiến thức chậm, khả năng tư duy kém
Nếu như ở chương 1 học sinh cần được các khái niệm cơ bản, thì ở
chương 2 mục tiêu quan trọng của chương là giúp học sinh biết làm việc với 1
hệ quản trị cơ sở dữ liệu cụ thể. Sách giáo khoa đã chọn Microsoft Access là 1
hệ quản trị cơ sở dữ liệu khá thông dụng hiện nay. Do kiến thức của các chương
có liên quan khá chặt chẽ với nhau nên cần tìm ra điểm logic các vấn đề này để
quá trình học tập xuyên suốt. Tuy nhiên học sinh lại rất khó vận dụng kiến thức
đã học để giải quyết vấn đề đặt ra. Nhiều học sinh sau khi giáo viên đã hướng
dẫn trong quá trình học, nhưng các em khi gọi lên bảng vẫn rất lung túng trong
việc tạo mới 1 cơ sở dữ liệu thậm chí còn không nắm được trình tự các bước.
Chương trình tin học 12 không đòi hỏi tính tư duy cao như chương trình
tin học 11 nhưng trong một số bài tập học sinh vẫn cần suy nghĩ kĩ trước khi
thực hiện. Như trong bài 8: Truy vấn dữ liệu, tạo đối tượng mẫu hỏi. Nhiều học
sinh không biết viết biểu thức logic và chuyển từ biểu thức logic qua bộ lọc cho
1 bảng hay nhiều bảng.
2.2.3. Thao tác với máy tính còn chậm và không phát huy được những
kiến thức đã học.

Do điều kiện cơ sở vật chất vẫn chưa hoàn thiện nhiều trường học được
trang bị chỉ có một số phòng máy với một số lượng rất hạn chế mà học sinh của
một lớp thì rất đông, hôm nào thực hành phải ghép 2 đến 3 em sử dụng một máy
nên việc thao tác trên máy là cực kỳ hạn chế. Một điều kiện khách quan khác đó
5


là đa số học sinh là con nông dân sống ở khu vực nông thôn nên việc có máy
tính tại nhà là rất ít. Mà việc được tiếp xúc với máy tính tại những nơi học tập lại
như thế nên dẫn đến về cơ bản đa số học sinh vẫn chưa thành thạo khi sử dụng
máy tính. Việc này sẽ phân cấp rõ rệt hai đối tượng học sinh, một số em gia đình
có điều kiện hơn đã trang bị được máy tính tại nhà sẽ sử dụng thành thạo và hiệu
quả hơn. Số còn lại là những học sinh thuộc diện gia đình khó khăn không có
điều kiện tiếp xúc nhiều với máy tính, khi thực hành sẽ gặp nhiều khó khăn, lúng
túng dẫn đến dễ chán nản, tự ti. Bộ phận này kỹ năng cơ bản về máy tính yếu
như thế thì việc áp dụng cho các em làm bài tập thực hành trên máy là rất chậm
và không ít khó khăn.
Trong chương trình tin học THPT, sách giáo khoa đã giới thiệu cho học
sinh 2 phần mềm Microsoft Word và Microsoft Access nằm trong bộ office của
Microsoft. Có thể nói 2 phần mềm này ít nhiều có những điểm tương đồng với
nhau, ví dụ như giao diện trong đó thanh bảng chọn, thanh công cụ…Nhưng
mặc dù đã được học về Microsoft Word, học sinh khi học Access lại vẫn không
hình dung được các thao tác cơ bản đối với phần mềm này.
2.2.4. Thái độ học tập thờ ơ, phương pháp học tập chưa tốt.
Nhiều em chưa tự giác học tập, chưa có động cơ học tập nên không chú ý
học tập. Nhiều em học các môn tự nhiên khá nhưng ngại học Tin Học. Tâm lí
chung của các em là sợ môn Tin vì nghĩ là nó rất khó. Hầu hết các em trong giờ
học thường thiếu sự tập chung không chú ý, có thái độ rất thụ động và thờ ơ
trong việc học. Trên lớp không chú ý về nhà lại không học bài cũ nên kiến thức
nắm rất hời hợt càng khó vận dụng lí thuyết để thực hành.

2.3. Nguyên nhân
Một trong những nguyên nhân khiến các em có thái độ e dè ngại học môn
Tin Học : Đó là một trong các bộ môn khoa học đòi hỏi người học phải có tính
tư duy cao, tính kiên trì nhẫn nại điều này không phải ai cũng có sẵn càng không
thể học vẹt, học tủ. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khách quan sau:
2.3.1. Học sinh không xác định được mục tiêu của môn học, không biết
học để làm gì.
Áp lực từ các kì thi rất lớn nên hầu hết khi hỏi mục đích của việc học là gì
thì đa số các em đều trả lời rằng “Học để thi”.Vậy những môn không thi thì sao?
Trong khi đó chương trình tin học 12 giúp cho các em hiểu được cách tổ
chức, quản lí dữ liệu trên máy tính và thông qua hệ quản trị cơ sở dữ liệu
Microsoft Access giúp học sinh bước đầu làm quen với các thao tác cơ bản có
thể xây dựng 1 chương trình quản lí trên máy tính. Đây là kiến thức rất cần thiết
đối với học sinh vì ngày nay các chương trình quản lí được sử dụng rất nhiều để
giải quyết các bài toán quản lí trong mọi lĩnh vực của xã hội.
6


2.3.2. Hoàn cảnh gia đình, điều kiện học tập khó khăn
Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, học sinh phải làm việc nhà nhiều hoặc
làm thêm để kiếm sống nên không chú ý đến học tập.
Không chỉ đối với riêng môn Tin học mà còn nhiều môn khác. Sự quan
tâm của phụ huynh cũng ảnh hưởng đến việc học của học sinh. Nếu như trên lớp
đã không chịu tập chung nghe giảng về nhà không xem lại bài thì các em học sẽ
càng kém hơn, có suy nghĩ chán nản hơn và thiếu tích cực. Nhiều học sinh thuộc
diện khá giả nhưng do bố mẹ bận công việc nên không biết các em học hành như
thế nào? Lại có những học sinh vì hoàn cảnh gia đình khó khăn bố mẹ đều phải
đi làm ăn xa không ở bên cạnh để các em ở nhà tự xoay sở, vì tuổi còn nhỏ nên
các em không đủ ý thức để vươn lên bằng cách tự giác học tập mà chỉ đến lớp
cho có còn hầu như không có ý thức tiếp thu bài giảng.

2.3.3. Yếu tố tâm lý, xã hội.
Học sinh khối 12 là học sinh cuối cấp, chuẩn bị đối mặt với các kì thi
THPT QG nên hầu hết học sinh chỉ coi trọng những môn trong các kì thi mà tỏ
ra xem nhẹ các môn khác. Nếu như môn Toán hay 1 số môn ngoài học trên lớp
chính khoá các em còn được học thêm và về nhà các em dành hết thời gian cho
chúng vậy thì còn thời gian nào các em dành cho Tin học.
Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cùng với internet, các dịch
vụ vui chơi, giải trí hấp dẫn lôi cuốn các em hơn là nhiệm vụ học tập nhất là các
môn học có tính tư duy cao như môn Tin học. Thực tế dạy học môn Tin ở trường
hiện nay cho thấy nhiều học sinh chán học, lười học và có khuynh hướng ham
chơi hơn ham học.
2.3.4. Nhiều giáo viên dạy Tin chưa có phương pháp phù hợp.
Chưa bao giờ chúng ta thấy báo chí và các phương tiện, diễn đàn trên
mạng nói nhiều về phương pháp dạy học như hiện nay. Nếu như trước đây giáo
viên thường sử dụng phương pháp dạy học truyền thống thì bây giờ phải sử
dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau trong một tiết dạy. Sự phát triển của
xã hội làm cho học sinh có nhiều điều kiện tiếp xúc với kiến thức của nhân loại
sinh động và hấp dẫn đặc biệt là mạng Internet. “Nếu như giáo viên chỉ biết bôi
đen kiến thức và dán vào học sinh thì sẽ không hiệu quả” chính vì vậy mà hiệu
quả của quá trình dạy học tương đối phụ thuộc vào phong cách, phương pháp
truyền thụ của giáo viên.
3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề
Học sinh không có hứng thú với môn học là một tồn tại khách quan, một
phần do giáo viên chưa có phương pháp dạy học phù hợp chưa quan tâm tới suy
7


nghĩ, thái độ của học sinh. Một phần là học sinh lười học, không chịu học,
không biết học để làm gì, áp dụng vào thực tế được gì?

Nếu giáo viên không sớm nhận ra hiện tượng này thì nhận thức của học sinh
ngày càng thụ động trong việc tiếp thu kiến thức dẫn đến các em không đáp ứng
được chuẩn kiến thức của môn học và những kĩ năng cơ bản. Không cần kể
nguyên nhân do đâu, cần phải làm sao để học sinh có thể hứng thú với môn học.
Chủ động tiếp thu kiến thức, tăng khả năng tự học đáp ứng được yêu cầu của xã
hội đối với con người trong xã hội ngày nay.
Để tạo cho học sinh một niềm hứng khởi với môn học tôi đưa ra một số giải
pháp khắc phục tình trạng trên.
3.1. Tạo động cơ học tập đúng đắn, tâm lí thoải mái, tự tin cho học sinh
Bước vào năm học lớp 12 đứng trước các kì thi, lựa chọn con đường nghề
nghiệp cho tương lai nên các em rất cần những thông tin liên quan đến lĩnh vực
này. Nắm bắt được tâm lí này của học sinh, giáo viên cần cung cấp những thông
tin để giúp các em ổn định tâm lí học. Hành trang để các em bước vào môi
trường học sau THPT không chỉ có kiến thức tự nhiên (toán, lý, hoá, sinh) và xã
hội (văn, sử, địa…) mà bên cạnh đó kiến thức tổng hợp trong đó có tin học khá
quan trọng trong việc tạo ra kĩ năng mềm cho học sinh, điều mà sinh viên hiện
nay đang rất yếu trong lĩnh vực này. Giáo viên có thể cung cấp thêm một số
nghành nghề liên quan đến môn học và xu hướng những nghành nghề này trong
thời gian tới. Bản thân tôi là một người thường xuyên luôn phải cập nhật thông
tin báo chí để có thể giải đáp các thắc mắc của học sinh, khi học sinh cần những
thông tin thực tế và thời sự.
Ngoài ra một trong những yếu tố khiến các em không có hứng thú khi tiếp
xúc với bộ môn này là do giáo viên tạo áp lực cho học sinh. Một số giáo viên
luôn đòi hỏi cao đối với học sinh nhưng không tìm hiểu xem liệu học sinh có thể
đáp ứng được những yêu cầu đó không. Chính vì vậy mà ngay từ khi tiếp xúc
với các em tôi đã tạo cho các em tâm lí thoải mái, sự thân thiện, chân thành tin
cậy trong các hoạt động dạy và học.
Làm sao để cho học sinh thấy được đối với mỗi học sinh khi ngồi trên ghế
nhà trường chúng ta phải thật sự nỗ lực để tiếp thu những kiến thức phổ thông
sau này có thể học cao hơn hoặc áp dụng vào thực tế, chứ không phải học chỉ để

vượt qua các kì thi mà những kiến thức này lại xem nhẹ.
Trong quá trình dạy giáo viên phải có thái độ nhẹ nhàng khi các học sinh mắc
khuyết điểm, cư xử khéo léo với các em, xử lí tốt các tình huống sư phạm.
Việc đánh giá nhận xét phải công bằng, khách quan và công tâm, công khai
kết quả trong các giờ kiểm tra và nhận xét bài làm của học sinh. Không nên
đánh giá quá thấp sẽ làm cho học sinh chán nản, nên tạo cho học sinh một niềm
tin khi học môn này.
8


Phải có kiến thức vững vàng để giải đáp thắc mắc một cách thuyết phục,
khuyến khích các em mạnh dạn hỏi bài khi chưa hiểu.
Xây dựng cho các em thói quen học tập tích cực, động viên kịp thời những
học sinh tiến bộ, cung cấp cho các em phương pháp học tập đúng đắn, khuyến
khích các em không ngừng cố gắng, tạo điều kiện để mọi học sinh trong lớp đều
có cơ hội phát biểu trong giờ học.
3.2. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học, thực hành. Khuyến khích
học sinh tìm tòi, khám phá.
Nếu như chương trình tin học 11 với mục tiêu là dạy thuật toán cho học sinh
thông qua ngôn ngữ lập trình pascal, và phương tiện dạy học như máy chiếu,
phòng máy có vai trò hỗ trợ, khẳng định những gì đã học. Thì những phương
tiện đó lại có vai trò quyết định trong quá trình dạy và học tin học 12 đặc biệt
trong chương 2. Nếu như giáo viên không tích cực sử dụng phương tiện này thì
coi như quá trình dạy học khá thất bại vì học sinh sẽ ít hứng thú với những biểu
mẫu, tranh ảnh, hình vẽ… bằng chính việc được minh hoạ trên phần mềm
Microsoft Access.
Mục đích kĩ năng của chương trình tin học 12 là làm việc với 1 hệ quản trị cơ
sở dữ liệu cụ thể. Tuy nhiên sự phát triển của công nghệ thông tin có thể nói là
như “ vũ bão”. Cũng là 1 hệ quản trị cơ sở dữ liệu nhưng nó có nhiều phiên bản
khác nhau và bao giờ phiên bản sau cũng hoàn thiện, hiệu quả hơn phiên bản cũ.

Chính vì vậy mặc dù trong sách giáo khoa còn đang sử dụng phiên bản Access
2002 thì thực tế hiện tại phiên bản mới đã lên đến 2016 kéo theo những thay đổi
đáng kể. Chính vì vậy giáo viên cập nhật những thông tin này đưa vào bài giảng
thì học sinh chắc chắn sẽ khó bỏ qua những thông tin này vì thậm chí có những
học sinh rất nhạy bén với những thông tin mới.
Để sử dụng phương tiện dạy học đạt được hiệu quả tối đa giáo viên có thể sử
dụng theo 2 hướng tuỳ theo khả năng chung của lớp.
Hướng thứ nhất: Sử dụng máy tính, máy chiếu song song với tiến trình bài
giảng của giáo viên. Điều đó có nghĩa là giáo viên sẽ kết hợp xen kẽ kết hợp
trong mỗi bước trình bày của mình. Như đối với bài 4: Cấu trúc bảng ở mục 2.
Tạo và sữa cấu trúc bảng. Thay vì nêu các bước trên bài giảng điện tử rồi cuối
cùng mới minh hoạ trên phần mềm theo cách thông thường thì giáo viên có thể
dạy kiến thức mới ngay trên phần mềm bằng việc giới thiệu từng bước kết hợp
minh hoạ. Học sinh sẽ hiểu nhanh hơn và cảm thấy hứng thú khi được khẳng
định những gì mình đã học một cách nhanh nhất.
Hướng thứ 2: Giáo viên sẽ phân tích kĩ khả năng của học sinh trong các bước
tiến trình của bài học. Sau đó giáo viên sẽ chủ động để học sinh tự nghiên cứu
sách giáo khoa và lên minh hoạ thực hiện trong phần mềm. Như đối với bài 6:
Biễu mẫu. Sau khi biết khái niệm và chức năng của biễu mẫu học sinh có thể dễ
9


dàng tạo trên phần mềm vì khá đơn giản trong các bước. Giáo viên nên khuyến
khích động viên học sinh dù học sinh làm tốt hay chưa tốt. Vì không được đồng
tình trong hành động của mình học sinh dễ chán nản, tự ti điều đó chỉ làm học
sinh bị động.
Giáo viên phải làm thế nào để học sinh được thể hiện mình trong tiết dạy.
Trong 1 lớp có nhiều đối tượng học sinh với trình độ khác nhau, vì thế chúng ta
cần có 1 sự phân công hợp lí trong hoạt động học tập. Hay nói cách khác là
người thầy phải hiểu được trò của mình để giúp các em có niềm hứng thú trong

học tập cho dù các em là học sinh giỏi hay trung bình, yếu, kém. Chúng ta đừng
quan niệm rằng học sinh chỉ là người học mà phải xem các em là 1 “đối tác”
trong các hoạt động giáo dục. Cũng như trong kinh doanh, trong giáo dục cũng
vậy người thầy phải làm thế nào để cho “đối tác” thấy được lợi ích của mình thì
sẽ thành công.
3.3. Cập nhật những kiến thức từ thực tế liên quan đến môn học
Sự phát triển của công nghệ thông tin ở hầu hết các lĩnh vực từ cấu trúc lưu
trữ dữ liệu, các phần mềm, kĩ thuật… Qua kiến thức ở chương 1 học sinh sẽ
hình dung ra dữ liệu của CSDL được lưu trữ trên máy tính của người dùng
nhằm đáp ứng nhu cầu khai thác của một hoặc nhiều người người dùng. Nhưng
hiện nay dữ liệu đó có thể không nằm ở máy tính của người dùng mà vẫn đáp
ứng nhu cầu khai thác của người dùng, vậy vấn đề này được đặt ra thì câu trả lời
này là gì?
Câu trả lời sẽ nằm ở phần liên quan đến “ Điện tử đám mây”
Khi đó giáo viên sẽ đặt ra một vấn đề cho học sinh như sau: Giả sử bạn đang
là giám đốc điều hành 1 công ty lớn, trong đó công ty này tất nhiên phải làm
việc với rất nhiều CSDL và phần mềm ứng dụng liên quan. Trong số rất nhiều
công việc mà bạn phải đảm đương có việc bạn phải đảm bảo rằng toàn bộ nhân
viên của bạn được trang bị đầy đủ cả phần cứng lẫn phần mềm để thực hiện
công việc của họ. Bạn không chỉ mua cho họ máy tính mà bạn còn phải mua bản
quyền phần mềm để thực hiện công việc. Chưa hết mỗi khi thuê một người mới
làm việc bạn lại phải mua phần mềm (nếu bản quyền phần mềm đang dùng
không cho phép thêm người dùng nữa). Công việc quá căng thẳng vậy giải quyết
bằng cách nào???
Đừng lo đã có hệ thống “ Đám mây” điển hình. Thay vì phải đến từng máy
tính cài đặt từng bộ phần mềm và khi đó kéo theo phần cứng phải đủ đảm bảo…
thì bạn chỉ cần tải 1 ứng dụng duy nhất. Ứng dụng này cho phép nhân viên đăng
nhập vào 1 ứng dụng web có chứa toàn bộ những chương trình mà người đó cần
có cho công việc của mình. Trong khi đó máy tính của 1 công ty khác cách đó
hàng nghìn km có thể chạy mọi thứ từ ứng dụng mail cho tới chương trình xử lí

văn bản và phần mềm phân tích dữ liệu. Đây chính là công nghệ đám mây, một
10


thứ có thể thay đổi hoàn toàn nghành công nghệ máy tính. Kết hợp những kiến
thức mới này học sinh rất hào hứng vì đó là những kiến thức mà nó liên quan tới
những nghành nghề tương lai và đôi khi học sinh cảm thấy mình như đang được
thực hiện những công việc mà cần phải có tinh thần trách nhiệm cao, đầy nhiệt
huyết…
Trong mục 1.c của bài 2 chương 1, học sinh biết hệ quản trị CSDL cung cấp
công cụ kiểm soát, điều khiển truy cập vào CSDL. Nhưng học sinh có thể sẽ
nhanh chóng quên nếu như giáo viên không khắc sâu được vấn đề này. Hiện nay
an ninh mạng nói chung và an ninh CSDL nói riêng đang được rất nhiều doanh
nghiệp quan tâm vì có thể nói đó là sự sống còn của doanh nghiệp. Giáo viên có
thể hướng học sinh vào vấn đề này để học sinh biết được những thông tin từ
thực tế liên quan đến bài học. Theo báo chí hiện nay có khoảng 99 % các hệ
thống CSDL tại Việt Nam chưa bảo mật đúng nghĩa. Nghĩa là các CSDL đều tồn
tại các lỗ hỗng bảo mật làm cho người dùng trong mạng nội bộ có thể chiếm
quyền điều khiển hệ thống và lấy trộm thông tin quan trọng . Khi doanh nghiệp
càng phát triển, thông tin nội bộ càng quan trọng và có giá trị, khi đó các vi
phạm thông tin sảy ra là không tránh khỏi. Nghiêm trọng hơn hoạt động của
doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng nếu người dùng trong mạng nội bộ cố tình muốn
gây tổn hại cho doanh nghiệp.
Bản thân học sinh khi được nghe những thông tin thời sự liên quan đến kiến
thức mình học thì khá quan tâm và bày tỏ ý kiến trong khả năng của mình, đặc
biệt trong thời đại thông tin lan truyền 1 cách chóng mặt. Chính vì vậy giải
quyết được vấn đề này giáo viên sẽ cảm thấy lôi cuốn được học sinh, tránh tình
trạng tiết học nhàm chán, tẻ nhạt nếu chỉ quẩn quanh kiến thức cơ bản trong
sách giáo khoa. Khi đó giáo viên cần phải có quá trình chuẩn bị chu đáo, không
hời hợt chủ quan, và đặc biệt chọn lọc thông tin thích hợp, dễ hiểu đưa vào bài

giảng.
3.4. Khơi dậy niềm đam mê lập trình ứng dụng qua các CSDL đơn giản
mà học sinh tự thiết kế
Có thể nói hiện nay hầu hết các cơ quan, xí nghiệp, công ty… đều sử dụng
các phần mềm ứng dụng để phục vụ cho hoạt động, quản lí. Chính vì vậy công
việc lập trình ứng dụng khá quan trọng trong việc giải quyết những vấn đề trên.
Đôi khi thành công bắt đầu từ những điều đơn giản nhất, đó là để làm được việc
lớn thì ban đầu mình phải làm tốt những việc nhỏ. Xuyên suốt chương trình lớp
12 là học sinh được làm việc với các CSDL, vậy tại sao chúng ta không khuyến
khích học sinh tự xây dựng một số CSDL cho mình từ thực tế cuộc sống hàng
ngày của các em như trong gia đình thường cần quản lí những gì, quản lí thông
tin gì…
Trong mục 4 của bài 2 chương 1: Các bước xây dựng cơ sở dữ liệu. Sau khi
học xong bước 1 và bước 2 chúng ta có thể hướng cho học sinh thiết kế CSDL
11


đơn giản như đã nói ở trên. Khi học đến chương 2 cùng với những CSDL trong
sách giáo khoa, giáo viên có thể kết hợp thêm những CSDL mà học sinh đã tạo
từ trước để các em có cơ hội được thực hành và khám phá nhiều hơn những điều
bắt đầu từ xung quanh cuộc sống của chúng. Và đây là một số CSDL học sinh
tạo ra tuy khá đơn giản nhưng cũng có thể áp dụng cho sinh hoạt thay thế cho
những cuốn sổ ghi chép mà chúng vẫn hay thấy từ những thành viên trong gia
đình.
Ví dụ CSDL quản lí chi tiêu trong gia đình

Hay CSDL Bán hàng dùng trong một hộ gia đình buôn bán nhỏ ghi chép lại
để tiện theo dõi

Mặc dù đây cũng chỉ là những thành quả nhỏ nhưng mang lại niềm vui và hi

vọng lớn cho các em về việc thiết kế những CSDL phức tạp và đáp ứng nhiều
yêu cầu hơn như CSDL để quản lí thư viện và nhiều CSDL khác

12


13


Với CSDL trên giáo viên có thể giới thiệu qua các giao diện và chức năng tương
ứng để học sinh biết được thực tế CSDL khá phức tạp mới có thể đáp ứng được
nhu cầu của người sử dụng.
II.5Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trong các tiết học.
Với sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin như hiện nay thì việc các em
được làm quen với thông tin nghề nghiệp không còn xa lạ. Tuy nhiên với thái độ
nghiêm túc và thông tin chính xác, mang tính chất thời sự lại không nhiều.
Chính vì vậy để tăng thêm phần hứng thú cho học sinh trong các tiết học, xen kẽ
giữa nội dung bài học tôi luôn cung cấp cho các em những thông tin hướng
nghiệp liên quan. Những thông tin này thực ra giáo viên đã lồng ghép từ chương
trình tin học 10,11 tuy nhiên trong chương trình lớp 12 cũng là thời điểm các em
chuẩn bị làm hồ sơ thi THPT QG thì thông tin này khá hữu ích với các em.
Trong chương trình tin học 12 giáo viên có thể cung cấp một số nghành nghề
liên quan như:
- Quản trị cơ sở dữ liệu: Sử dụng các phần mềm quản trị cơ sở dữ liệu, để xác
định cách thức tổ chức và truy cập dữ liệu cuả công ty một cách hiệu quả nhất.
Thêm vào đó, quản trị cơ sở dữ liệu cũng chịu trách nhiệm đảm bảo tính bảo mật
của cơ sở dữ liệu và sao lưu hệ thống. Lấy ví dụ từ trang Web vnedu.vn của nhà
trường có chứa CSDL quản lý học sinh và quản trị cơ sở dữ liệu.
- Quản trị Web: Hiện nay các trang Web có mặt trong công việc và cuộc sống
của mỗi chúng ta. Nghành này chưa hết nóng trong thời gian sắp tới. Phát triển

và duy trì trang Web cũng như các tài nguyên của trang Web. Thông thường
công việc này bao gồm trách nhiệm sao lưu trang web công ty, cập nhật tài
nguyên hoặc là xây dựng các tài nguyên mới. Các quản trị Web thường tham gia
vào việc thiết kế và phát triển trang Web. Một số quản trị Web giám sát lưu
lượng truy cập trên trang web và tìm biện pháp để khuyến khích người sử dụng
ghé thăm trang Web. Quản trị Web cũng có thể cộng tác với nhân viên marketing
để tăng lưu lượng truy cập trang Web và có thể tham gia vào việc quảng cáo trên
trang Web.....
- Một số nghành khác như: Lập trình ứng dụng, Bảo trì máy tính, …
Có rất nhiều nghành nghề liên quan đến lĩnh vực này, ngoài việc cung cấp các
nghành nghề liên quan. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh các cơ sở đào
tạo những nghành nghề này. Ngoài những trường đại học đào tạo công nghệ
thông tin, các khoa công nghệ thông tin trong các trường đại học, cao đẳng còn
có các cơ sở trung tâm chuyên đào tạo trong một thời gian nhất định với những
chuyên nghành mà xã hội đang cần nhân lực trong hiện nay.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
14


Bằng việc áp dụng các giải pháp để tạo hứng thú và niềm đam mê cho học
sinh đã trình bày trên đây, kết hợp với phương pháp dạy học mới, cùng với sự nỗ
lực của thầy và trò, chất lượng môn Tin của các lớp 12C4, 12C8 ở trường THPT
Yên Định 2 chuyển biến khả quan.
Điểm tổng kết môn Tin học năm học 2016 - 2017
Lớp

Điểm >=8

Sĩ số


SL

TL%

Trên TB
SL

Dưới TB

TL%

SL

Điểm < 2.5

TL%

SL

TL%

12C4

45

15

33.3


30

66.7

0

0

0

0

12C8

37

9

24.3

28

74.7

0

0

0


0

Trong những học kì vừa qua đa số học sinh đã có những tiến bộ rõ rệt, các
em đã tự tin làm bài thực hành, mạnh dạn phát biểu ý kiến và quan trọng nhất là
thái độ của các em, tôi thấy trong ánh mắt của các em hiện lên niềm vui, phấn
khởi vì đã chủ động tiếp thu bài giảng một cách say mê. Đó cũng là niềm hạnh
phúc không nhỏ của giáo viên
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Với đối tượng học sinh và cách nhìn nhận của các em về môn học nên sự
chuyển tải kiến thức không phải là vấn đề đơn giản. Do vậy cần phải có thời
gian và phải vận dụng linh hoạt, thường xuyên, kiên trì và cần phải có nhiều tài
liệu tham khảo.
Tạo hứng thú cho học sinh là vấn đề quan trọng vì nó ảnh hưởng đến quá
trình tiếp thu và vận dụng kiến thức. Nên giáo viên cần phải thường xuyên trao
đổi với đồng nghiệp để có thể tham khảo thêm các phương pháp mới. Giáo viên
cần có sự chủ động, có kế hoạch trong từng ngày, từng giờ lên lớp.
Với mục đích khắc phục tình trạng học sinh thụ động trong việc tiếp thu
kiến thức, chưa có mục đích và phương pháp học tập đúng đắn, để tạo hứng thú
cho học sinh tôi đã áp dụng các giải pháp nêu trên vì vậy mức độ mong muốn
đạt được ở các em học sinh:
Về mặt nhận thức: Các em cần nhận thức được là học tập để làm gì và
phải học tập như thế nào để nắm được kiến thức cơ bản.
Về mặt hành động: Các em chú ý đến bài giảng, tham gia hăng say vào
các hoạt động dạy và học do giáo viên đề ra.
2. Kiến nghị
Phong trào viết sáng kiến kinh nghiệm trong trường học là một phong
trào có tác dụng tốt, rất có ý nghĩa, đặc biệt trong xu thế thời đại đang cần sự
15



sáng tạo, chủ động, tích cực trên mọi lĩnh vực công tác hiện nay. Vì vậy tôi
mạnh dạn mong muốn sở giáo dục đào tạo và cấp trên duy trì phong trào này,
khích lệ động viên các tập thể cá nhân có những sáng kiến hiện hữu tích cực, có
hình thức phổ biến, trao đổi về các sáng kiến hay tới đông đảo giáo viên.
Do điều kiện công tác và do năng lực của học sinh hạn chế nên tôi mới áp
dụng giải pháp này ở trường THPT Yên Định 2 học kì II năm học 2016 – 2017.
Nhưng tôi tin rằng với các giải pháp trên sẽ khắc phục được tình trạng học sinh
thờ ơ với môn học hiện đại này.
Với khả năng nghiên cứu và kinh nghiệm còn nhiều hạn chế, tôi rất mong
nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của tổ chuyên môn, sự góp ý của đồng
nghiệp để phương pháp được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

16


Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan sáng kiến trên là do tôi
viết không sao chép của người khác
Người viết

Trần Thị Hương

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Sách giáo khoa Tin học 12
2. Sách giáo viên Tin Học 12
3. Tài liệu tham khảo trên mạng Internet.



×