Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác phẩm ai đã đặt tên cho dòng sông của hoàng phủ ngọc tường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.06 KB, 21 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Theo các nhà lí luận văn học, người đọc và q trình tiếp nhận là một
khâu quan trọng trong toàn bộ đời sống của một tác phẩm văn chương. Ở khâu
này, tác phẩm sẽ thoát li hẳn khỏi người sinh thành - tác giả để tự mình có một
cuộc sống riêng. Cuộc sống đó lâu dài hay ngắn ngủi, được tiếp nhận hay bị lãng
quên, tất cả đều phụ thuộc vào cảm nhận và đánh giá của người đọc. Đến lượt
mình, trình độ tiếp nhận tác phẩm văn chương của độc giả được đo đếm thông
qua khả năng “giải mã” những thông điệp thẩm mĩ mà nhà văn đã dụng công gửi
gắm. Mà khả năng giải mã những thông điệp thẩm mĩ ấy lại có liên quan chặt
chẽ đến điểm nhìn, góc độ phân tích, tiếp cận tác phẩm. Vì thế, đề tài của tơi có
ý nghĩa như một đề xuất về cách tiếp cận văn bản nghệ thuật ngơn từ từ nhiều
góc độ phục vụ cho công tác giảng dạy trong nhà trường.
Bên cạnh đó, hiện nay đổi mới phương pháp dạy - học đang trở thành nhu
cầu tất yếu của ngành giáo dục Việt Nam nhằm hướng tới mục tiêu nâng cao
chất lượng dạy và học. Tự đổi mới cũng là con đường đưa giáo dục Việt Nam
hòa nhập với nền giáo dục hiện đại toàn cầu, tiến kịp nền giáo dục tiên tiến của
các quốc gia trên thế giới. Một trong những phương pháp đổi mới đem lại hiệu
quả khá cao trong nhà trường hiện nay đó là phương pháp dạy học tích hợp.
Phương pháp tích hợp cho phép giáo viên có thể kết hợp nhiều kỹ năng trong
một tiết dạy, vừa dạy kiến thức, vừa dạy kỹ năng sống, vừa dạy cách làm người.
Khơng những thế, tích hợp cịn là sự phối hợp nhiều môn khoa học hay các phân
môn trong cùng một bộ môn để làm cho tiết học trở nên phong phú đa dạng và
thu hút hơn đối với người tiếp nhận.
Từ góc độ thực tiễn, tơi chọn tác phẩm Ai đã đặt tên cho dịng sơng? bởi
đây là một tác phẩm mới, khá tiêu biểu cho thể loại kí hiện đại. Đó là những
trang văn tài hoa mê đắm được Hoàng Phủ Ngọc Tường dệt nên bằng câu chữ
tuyệt diệu với sự kết hợp hài hòa của chất nhạc, chất thơ sâu đằm. Thể loại kí đã
có từ lâu nhưng để tiếp nhận một cách sâu sắc về thể loại này thì khơng hề đơn
giản. Ta đã biết đến Người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tn – một tác phẩm kí
nổi tiếng về sơng Đà nhưng có lẽ đến với kí Ai đã đặt tên cho dịng sơng? – bài


kí điển hình của Hồng Phủ Ngọc Tường về sông Hương người đọc như bị “thôi
miên” bởi vẻ đẹp thơ mộng huyền ảo của xứ Huế cũng như tài năng hiếm gặp
của văn nhân. Do vậy, việc “giải mã” tác phẩm cũng chính là đi tìm về một miền
văn hóa xứ sở, tìm về vẻ đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Mặt khác, việc tìm hiểu và đưa ra một cách tiếp nhận đối với một văn
phẩm chỉ mới được đưa vào giảng dạy ở nhà trường THPT sẽ có ý nghĩa nhất
định đối với người dạy và người học. Bởi vì theo ý kiến của rất nhiều giáo viên
và học sinh thì Ai đã đặt tên cho dịng sơng? vừa “khó dạy” vừa “khó học”.
Giáo viên và học sinh vốn quen thuộc với thơ hay truyện ngắn nhưng cịn khá lạ
lẫm với thể kí hiện đại. Do đó việc tìm hiểu và thưởng thức một tác phẩm thuộc
thể kí cịn vấp phải những “rào cản” nhất định. Bởi vậy, để hiểu rõ những tầng
ẩn nghĩa sâu xa của tác phẩm, giáo viên không những phải nắm bắt rõ đặc trưng
1


thể loại mà cịn phải biết tích hợp với những kiến thức phân môn, liên môn học
để giúp học sinh thẩm thấu sâu sắc giá trị cũng như nét độc đáo của tác phẩm.
Hướng đến việc thực hiện được yêu cầu đó là một động lực khiến tơi nghiên cứu
đề tài “Một số biện pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác phẩm Ai đã đặt tên cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Hướng dẫn học sinh tiếp nhận tác phẩm Ai đã đặt tên cho dịng sơng?
theo phương pháp tích hợp để giúp các em chủ động trong học tập và tiếp nhận
tác phẩm một cách khoa học hơn, sâu sắc hơn.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Học sinh lớp 12A9, 12A10 trường THPT Như Thanh năm học 20162017.
- Văn bản kí Ai đã đặt tên cho dịng sơng? (Ngữ văn 12, cơ bản)
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát (thông qua dự giờ)
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu

- Phương pháp phân tích- tổng hợp, thống kê toán học, so sánh....
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
1.5. Đóng góp mới của đề tài.
Với đề tài Một số biện pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả
giờ dạy - học tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”, tơi đã tiếp cận, soi rọi
tác phẩm từ nhiều góc độ như góc độ lí luận văn học, lý thuyết thi pháp thể loại,
góc độ văn hố, góc độ âm nhạc, hội họa, địa lý, lịch sử…. để đổi mới cách dạy
tác phẩm. Mặt khác, qua đề tài với sự tích hợp cùng nhiều phân mơn khác nhau
từ lý luận văn học đến văn học sử, thơ ca….., tơi giúp học sinh có một cái nhìn
sâu sắc, toàn diện hơn về tác giả và tác phẩm nhằm tạo tiền đề vững chắc cho
việc tiếp nhận văn bản Ai đã đặt tên cho dịng sơng?. Từ đó, tơi mong muốn
mang đến cho các em một khơng khí lớp học sơi nổi để các em hứng thú, tích
cực, chủ động hơn trong cách tiếp nhận một tác phẩm kí nói chung, tác phẩm Ai
đã đặt tên cho dịng sơng? nói riêng. Tơi muốn chứng minh tác phẩm là một
“tuyệt phẩm” mang giá trị vô cùng phong phú và sâu sắc.

2. NỘI DUNG
2


2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề.
2.1.1. Đặc điểm của tiếp nhận văn học.
Theo lý thuyết tiếp nhận văn học thì tiếp nhận một tác phẩm văn học của
học sinh là một q trình nhận thức có tính đặc thù, luôn tồn tại những “khoảng
cách tiếp nhận”. Để rút ngắn khoảng cách tiếp nhận, học sinh cần được trang bị
một lượng tri thức văn học nhất định phù hợp để tham gia vào khám phá thế giới
nghệ thuật trong tác phẩm. Đặc biệt với thể loại kí thì việc giúp các em tự trang
bị những tri thức ấy là một việc làm vơ cùng có ý nghĩa tạo nên chiếc cầu nối để
các em dễ dàng hơn khi đến với tác phẩm.
2.1.2. Dạy học tích hợp - nhu cầu tất yếu trong đổi mới phương pháp

giảng dạy ở nhà trường hiện nay.
Khái niệm tích hợp (integration) được hiểu là sự hợp nhất, sự hồ
nhập, sự kết hợp. Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một
cách hữu cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng
thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội
dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề
cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ mơn đó. Trong thực tế có
khá nhiều loại tích hợp như tích hợp theo phân mơn, đa mơn và xuyên môn.
Người giáo viên phải biết lồng ghép kiến thức nhiều phân môn, nhiều môn để
tạo sự phong phú cho bài dạy.
Tích hợp là một thuật ngữ khá mới nhưng đã trở thành một nhu cầu tất
yếu của thời đại và cũng là xu hướng chính của nền giáo dục hiện đại. Nó xuất
phát từ yêu cầu đưa học sinh trở thành đối tượng trung tâm trong giờ học cũng
như trong quá trình tìm hiểu tác phẩm. Mặt khác, việc dạy học tích hợp cho phép
học sinh chủ động sáng tạo trong tiếp nhận, phối kết hợp nhiều yếu tố trong một
bài học cũng như vận dụng những hiểu biết của mình để tìm hiểu, khai thác tác
phẩm văn học. Nó góp phần xố bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt thế
giới nhà trường và thế giới cuộc sống. Dạy học tích hợp thực sự là một phương
pháp mới mẻ, tính hiệu quả cao trong việc giảng dạy ở trường THPT hiện nay.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
2.2.1. Thực trạng của giáo viên.
Trong những năm gần đây trước xu thế vận động đổi mới của thế giới,
nền giáo dục Việt Nam cũng đang khốc lên mình một tấm áo mới năng động
hơn, nhạy bén hơn với thời cuộc. Tinh thần đổi mới giáo dục được các thầy cơ
giáo hưởng ứng nhiệt tình, nhiều thầy cơ đã khơng ngừng tìm tịi đổi mới trong
từng tiết dạy thắp lên ở các em ngọn lửa của lòng nhiệt huyết, đam mê văn
chương. Song không phải ai cũng ý thức được vai trị của sự đổi mới do đó sự
thay đổi trong phương pháp dạy và tính hiệu quả chưa cao, ít nhiều cịn thiếu
tính đồng bộ.
Hơn nữa nguồn tài liệu hướng dẫn đổi mới và các trang thiết bị dạy học

trong nhà trường còn hạn chế cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng học
sinh chưa mấy mặn mà với mơn ngữ văn. Khơng chỉ có vậy, nhiều giáo viên
chưa thấy được vai trò quan trọng của thể loại kí nên đơi khi cịn dạy mang tính
3


chiếu lệ, chưa thực sự đầu tư tâm huyết và thời gian. Mặt khác, có những thầy cơ
chỉ chú trọng phần khai thác nội dung mà xem nhẹ tính chất thể loại, chưa có
cách dạy thu hút được học sinh. Thiết nghĩ mỗi thầy cô cần thay đổi cách nghĩ,
cách dạy để biến mỗi giờ dạy văn học thành một giờ học hứng thú và ý nghĩa.
2.2.2. Thực trạng của học sinh.
Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là một bài kí mang đậm dấu ấn bút kí hiện
đại được mạnh dạn đưa vào nội dung giảng dạy Ngữ văn 12, THPT chương trình
mới. Và nó nhanh chóng trở thành một trong những bài học trọng tâm để học
sinh thi tốt nghiệp THPT, thi Đại học. Chưa có được chiều dài thời gian tiếp xúc
và chiều sâu thẩm thấu cảm nhận như những tác phẩm khác trong chương trình
Ngữ văn 12 nên bài kí của Hồng Phủ Ngọc Tường ln là một thách thức đối
với cả người dạy và người học. Học sinh còn lạ lẫm với những sáng tác nghệ
thuật theo thể kí. Giáo viên thì phải tự tìm tư liệu để lĩnh hội thấu đáo tác phẩm,
lại phải tìm cách diễn đạt sao cho thật dễ hiểu đối với học sinh. Chính vì vậy,
việc tích hợp kiến thức liên môn, phân môn đặc biệt là kiến thức về thể loại là
hết sức cần thiết.
Từ những thực trạng trên, tôi vô cùng trăn trở và mạnh dạn đề ra một số
giải pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy-học tác phẩm Ai đã
đặt tên cho dịng sơng? để biến tiết học trở thành một giờ khám phá thú vị cũng
như giúp học sinh hiểu hơn về tài năng độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
2.3. Các biện pháp thực hiện.
2.3.1. Vài nét về Hoàng Phủ Ngọc Tường và vị trí của văn phẩm “Ai đã
đặt tên cho dịng sơng?”.
2.3.1.1. Hồng Phủ Ngọc Tường – nhà văn của những trang văn tài

hoa, mê đắm.
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937, tại thành phố Huế,
nhưng quê gốc ở Quảng Trị. Ông từng đạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam,
1980, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật 2007 và nhiều giải thưởng
danh giá khác.
Hoàng Phủ Ngọc Tường được biết đến nhiều nhất với thể loại kí với những
Ngơi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979) hay Hoa trái
quanh tôi (1995) và Ngọn núi ảo ảnh (2000), Trong mắt tơi (bút ký phê bình,
2001), Miền cỏ thơm (2007), Ai đã đặt tên cho dịng sơng? (Tinh tuyển bút ký
hay nhất, Nxb Hội nhà văn, 2010). Trong đó Ai đã đặt tên cho dịng sơng? được
xem là tác phẩm thành cơng nhất. Ngồi ra ơng cũng khá tài hoa với những
trang thơ như Những dấu chân qua thành phố (1976) hay Người hái phù dung
(1992).Tất cả các sáng tác của ơng đã được đưa vào Tuyển tập Hồng Phủ Ngọc
Tường, 4 tập, Nxb Trẻ, 2002.
Đánh giá chung về sự nghiệp văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường,
sách Ngữ văn 12 có đoạn viết: “Hồng Phủ Ngọc Tường là một trong những
nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy
4


tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch
sử, địa lí...Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và
tài hoa”. Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng “Kí của Hồng Phủ Ngọc Tường có
"rất nhiều ánh lửa"”. Cịn nhà thơ Ngơ Minh ngưỡng mộ Hồng Phủ Ngọc
Tường bởi ơng “là một trong số rất ít nhà văn viết bút kí nổi tiếng ở nước ta vài
chục năm nay. Bút kí của Hồng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người đọc ở tấm
lòng nhân văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc, quyến rũ.
Đó là những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình.” Có thể nói, Hồng Phủ Ngọc
Tường xứng đáng là cây bút hàng đầu của thể loại kí hiện đại Việt Nam. Tên

tuổi ông đã thực sự ghi dấu ấn đậm nét qua bút kí Ai đã đặt tên cho dịng sơng?.
2.3.1.2. “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” – một trong những đỉnh cao
của bút kí hiện đại Việt Nam.
Bài kí Ai đã đặt tên cho dịng sơng in trong tập bút kí cùng tên. Tập sách
gồm tám bài kí, viết ngay sau chiến thắng mùa xuân 1975, đang bừng bừng cảm
hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhưng ở Hồng Phủ Ngọc Tường,
lịng u nước, tinh thần dân tộc thuờng gắn với tình yêu thiên nhiên và truyền
thống văn hóa sâu sắc. Bài bút kí thể hiện lòng yêu nước, tinh thần dân tộc gắn
liền với tình yêu thiên nhiên sâu sắc, với truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời,
đồng thời truyền đạt bằng một ngòi bút tài hoa, với lời văn đẹp và sang. Linh
hồn của bài viết chính là vẻ đẹp huyền thọai của dịng sơng Hương qua ngịi bút
tài hoa, lãng mạn của nhà văn.
Đọc những trang viết về Huế của Hồng Phủ Ngọc Tường (trong đó có
bài Ai đã đặt tên cho dịng sơng?), nhà phê bình văn học Phạm Xn Ngun, đã
nhận xét: Nói rằng Hồng Phủ Ngọc Tường u Huế và hiểu Huế, thì đó là một
lẽ đương nhiên. Tơi muốn đi xa hơn, tìm một căn ngun thầm kín để cắt nghĩa
cho sự thành cơng mỹ mãn của những trang viết ấy: phải chăng ở đây đã có một
sự hịa hợp, tương giao, linh ứng giữa cảnh sắc Huế, lịch sử Huế, văn hóa Huế
với một tâm hồn nhà văn dễ rung động, nhạy cảm, tinh tế. Phải là sự tương
giao, đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh ra được những áng văn tài hoa
không dễ một lần thứ hai viết được như thế…”. Cũng như tình u của sơng
Hương với Huế, tình u của Hồng Phủ Ngọc Tường với sơng Hương cũng là
q trình dâng tặng, khám phá và hồn thiện chính mình...Tác phẩm nhanh
chóng trở thành một trong những văn phẩm xuất sắc nhất của Hoàng Phủ Ngọc
Tường trên con đường khám phá bút kí hiện đại, đưa tác giả trở thành một trong
những người viết kí hay nhất của văn học Việt Nam.
2.3.2. Một số biện pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”.
2.3.2.1. Giải pháp 1: Tích hợp trong quá trình hướng dẫn học sinh chuẩn bị
bài học.
Để có một bài giảng hồn chỉnh và hấp dẫn lơi cuốn, học sinh tiếp nhận

tác phẩm một cách chủ động sáng tạo thì khâu chuẩn bị được xem như một phần
quan trọng khơng thể thiếu. Vì vậy, trước khi dạy văn bản “Ai đã đặt tên cho
dịng sơng?” tơi đưa ra một số cách để học sinh chuẩn bị bài như sau:
5


2.3.2.1.1.Biện pháp thứ nhất: Giao cho học sinh trả lời một hệ thống
câu hỏi bám sát sách giáo khoa đồng thời lồng vào các câu hỏi mở.
- Cảm nhận chung:
Ấn tượng sâu sắc của em về Hoàng Phủ Ngọc Tường và tác phẩm “Ai đã đặt
tên cho dịng sơng”?
- Đi vào cụ thể, hệ thống câu hỏi mà tôi sử dụng để hướng dẫn học sinh khai
thác đoạn trích như sau:
Phần 1: Dòng Hương – dòng chảy tự nhiên.
+ Nhà văn đã gọi sông Hương khi ở thượng nguồn bằng tên gọi nào? Đã ví nó
với ai?
+ Nhà văn đã hình dung về sơng Hương như thế nào khi nó cịn ở “giữa cánh
đồng Châu Hố đầy hoa dại” ? Từ đó, hãy phát hiện điều thú vị trong cách cảm
nhận của Hồng Phủ Ngọc Tường về thuỷ trình của con sơng khi nó về xi?
+ So với trước khi vào thành phố, sơng Hương khi đến Huế đã có thêm những
vẻ đẹp mới và hiếm thấy ở các dòng sơng khác trên thế giới. Hãy chứng minh
điều đó qua việc phân tích các góc độ cảm nhận và miêu tả sơng Hương của
Hồng Phủ Ngọc Tường?
+ Vẻ đẹp của sơng Hương trước khi từ biệt Huế có gì đặc biệt? Từ đó, em hãy
cảm nhận mối “lương duyên” giữa sơng Hương và xứ Huế?
Phần 2: Dịng Hương – dịng linh giang của lịch sử.
+ Trong lịch sử và trong đời thường, sông Hương đã hiện lên với những vẻ đẹp
đáng trân trọng và đáng mến. Nhà văn phát hiện và lí giải về những vẻ đẹp đó
của Hương giang như thế nào ?
Phần 3: Dịng Hương – dịng sơng âm nhạc, dịng chảy thi ca.

+ Vì sao sơng Hương lại trở thành dịng sơng của thi ca, âm nhạc và là nguồn
cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ?
+ Tác giả lí giải về tên của dịng sơng như thế nào? Cách lí giải ấy cho em hiểu
thêm điều gì về tính cách và tâm hồn người Huế?
+ Một bài kí đặc sắc như vậy chỉ có thể là kết quả, là tổng hồ của những tình
cảm và phẩm chất nào ở Hoàng Phủ Ngọc Tường?
2.3.2.1.2. Biện pháp thứ hai: Tích hợp với cơng nghệ thơng tin hướng
dẫn các em tìm tài liệu tham khảo trên mạng internet để bổ trợ kiến thức.
Thời đại công nghệ thông tin là thời đại cho phép học sinh không chỉ
chuẩn bị bài bằng sách vở mà cịn có thể mở rộng vốn hiểu biết của mình bằng
cách tìm hiểu thơng tin trên mạng. Tuy nhiên, nhiều thầy cơ ít chú trọng đến vấn
đề này. Riêng với tôi, khi tiến hành hướng dẫn học sinh chuẩn bị cho bài học tôi
thường hướng dẫn học sinh tham khảo trước các cuốn sách, các bài viết về tác
giả, tác phẩm trên mạng internet. Học sinh chỉ cần gõ Google rồi gõ Hoàng Phủ
Ngọc Tường hoặc Ai đã đặt tên cho dịng sơng hoặc bút kí hiện đại và tìm
đọc các bài viết về tác phẩm.
2.3.2.2. Giải pháp 2: Tích hợp trong q trình hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn
bản.
6


Để giúp học sinh có một hành trình khám phá văn bản đầy thú vị, tôi đã ứng
dụng một số biện pháp cụ thể như sau:
2.3.2.2.1. Biện pháp thứ nhất: Tích hợp với kiến thức phân mơn.
*Tích hợp với Lý luận văn học để cung cấp cho học sinh những kiến thức
lý luận cơ bản về thể loại kí.
Hành trình tiếp nhận “đứa con tinh thần” của mỗi nhà văn là một hành trình
khám phá thú vị nhưng cũng địi hỏi người đọc có những định hướng tiếp nhận phù
hợp dựa vào đặc trưng thể loại của tác phẩm. Để giúp học sinh dễ hiểu hơn và hứng
thú hơn trong quá trình khám phá tác phẩm Ai đã đặt tên cho dịng sơng?, tơi sẽ

vận dụng các kiến thức từ phân môn lý luận văn học để cung cấp cho các em những
kiến thức lý luận chung nhất nhằm tạo “bước đệm” trước khi tìm hiểu tác phẩm.
- Khái niệm: Kí là tên gọi cho một nhóm thể tài nằm ở phần giao nhau
giữa văn học và cận văn học (báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu các loại), chủ
yếu là văn xuôi tự sự. Do hướng đến những phạm vi thơng tin và nhận thức đa
dạng, kí cũng rất phong phú, bao gồm nhiều thể, nhiều tiểu loại. Do nội dung và
cách ghi chép mà các nhà lý luận chia ra ba loại kí: Kí tự sự, kí trữ tình, kí chính
luận. Tất nhiên sự phân chia này khơng tuyệt đối hố. Các yếu tố của các thể
loại khác nhau luôn đan xen trong một tác phẩm.
- Lịch sử thể kí:
Trong lịch sử văn học từ nghìn xưa đã có những tác phẩm ký như Sử
kí của Tư Mã Thiên cách đây mấy nghìn năm vừa là tác phẩm sử học vừa có thể
coi là kí. Ở Việt Nam, những tác phẩm kí nổi tiếng cũng đã xuất hiện từ sớm
như Thượng kinh kí sự, Vũ trung tùy bút. Những năm 1930-1945, ký chứng kiến
sự phát triển mạnh của các tác phẩm phóng sự viết về các tệ nạn xã hội, mà Ngô
Tất Tố (với Việc làng, Tập án cái đình), Tam Lang với Tơi kéo xe, Vũ Trọng
Phụng với Vỡ đê … là những nhà văn tiêu biểu. Trong văn học cách mạng, thể
loại kí bắt đầu từ sáng tác của Nguyễn Ái Quốc những năm 20 của thế kỷ XX.
Sau Cách mạng Tháng Tám đến nay có nhiều tác phẩm ký có giá trị nhất định
như truyện và kí sự của Trần Đăng, Nhật kí Ở rừng của Nam Cao, Kí sự Cao
Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Sống như anh của Trần Đình Vân, Người mẹ
cầm súng của Nguyễn Thi và đặc biệt là Ai đã đặt tên cho dịng sơng?
của Hồng Phủ Ngọc Tường … Tất cả đều là những tác phẩm vừa thấm đẫm
chất hiện thực vừa đậm chất tài hoa văn chương của người viết. Và chính nhờ
điều đó những tác phẩm bút kí văn học mới trường tồn.
- Kết cấu:
Kết cấu của kí rất đa dạng: có thể có mơ hình người kể chuyện để tạo sự
thống nhất cho các thành phần vốn dị biệt nhau; có thể tạo thành thể loại từ
những phần vốn chỉ gắn với nhau bằng một trật tự bề ngồi, lấy đề tài các đoạn
mơ tả, hoặc các ý bình luận về các sự việc được miêu tả làm ráp nối sự kiện.

- Phân loại: Trong thể kí lại bao gồm nhiều tiểu loại:
Tiêu chí

Ký tự sự

Ký trữ tình

Ký chính luận
7


Tiểu
loại

Đặc
điểm

- Kí sự, phóng sự,
truyện kí, hồi kí, du
kí, tản văn:

- Nhật kí, bút kí , tùy
bút.

- Tiểu phẩm văn học,

tạp văn, tạp kỹ…

Kí tự sự chủ yếu
Đối với loại kí trữ

Ở thể kí chính
ghi lại những diễn tình nghiên về phần luận, có sự kết hợp
biến khách quan của ghi nhận những cảm chặt chẽ giữa tư duy
cuộc sống và con xúc và suy nghĩ của hình
tượng
của
người thơng qua nhà văn trước hiện người nghệ sĩ với tư
những sự kiện. Trong thực khách quan, duy chính luận. Qua
kí sự phải tơn trọng hoặc xen kẽ kết hợp kí chính luận nhà
tiếng nói khách quan giữa bình luận, suy văn đặt ra nhiều vấn
của sự kiện. Người tưởng, miêu tả và kể đề để giới thiệu, bình
viết kí có quyền bình chuyện. Chất cảm luận, chứng minh.
luận, phân tích nhưng xúc trữ tình chiếm Có tác giả dùng hình
chủ yếu vẫn là tiếng một vị trí quan trọng. thức kí chính luận để
nói của sự sống đang
tranh luận, phê phán
vận động, phát triển.
kẻ thù nên trong
Tác giả phải biết phát
những bút kí đó yếu
hiện, chọn lọc để làm
tố châm biếm được
nổi bật lên những
vận dụng xen kẽ và
điển hình xã hội tiêu
có khi thâm nhập
biểu, chọn lọc để làm
vào tồn bộ hình
nổi lên những điển
tượng và ngơn ngữ

hình xã hội tiêu biểu,
của bài văn.
những con người và
sự việc giàu ý nghĩa
xã hội và khái quát.
- Giáo viên cũng cần chỉ ra cho học sinh thấy sự khác biệt giữa truyện
và kí để các em khơng bị nhầm lẫn về thể loại.
Tiêu chí
Truyện

Đề tài
Thường phản ánh vấn đề sự hình Kí thường hướng đến các vấn đề
thành tính cách của cá nhân trong trạng thái dân sự như kinh tế, xã
tương quan với hồn cảnh.
hội, chính trị, và trạng thái tinh
thần
như phong
hóa, đạo
đức của chính mơi trường xã hội
hoặc vẻ đẹp thiên nhiên.
Cốt
Truyện có cốt truyện rõ ràng.
Kí thường khơng có cốt truyện.
truyện
Thể loại Truyện dài, truyện vừa, truyện - Kí tự sự
ngắn, tiểu thuyết…
- Kí trữ tình
- Kí chính luận
Nghệ
Tác phẩm truyện có một xung đột Tác phẩm kí khơng có một xung

8


thuật

thống nhất và phát triển lôgic với
các phần: mở đầu- thắt nút- mở
nút.

đột thống nhất, phần khai triển
của tác phẩm chủ yếu mang tính
miêu tả, tường thuật.

- Để giúp học sinh hiểu thêm về bút kí, giáo viên phải giúp học sinh phân
biệt giữa tùy bút, bút ký và kí sự để tránh những cách hiểu chung chung mơ
màng về tiểu loại bút kí.
Tiêu chí
Tùy bút
Bút kí
Kí sự
Tiểu loại
Kí trữ tình
Kí trữ tình
Kí tự sự
Nội dung Tùy bút ghi lại Bút kí thiên về ghi lại Ghi lại những người
những suy nghĩ, một cảnh vật mà nhà và việc có thật của
cảm xúc, hồi tưởng văn mắt thấy tai đời sống, không thêm
của nhà văn về bất nghe, thường trong một chút gì thuộc chủ
cứ vấn đề gì, sự việc các chuyến đi. Bút kí quan người viết.
nào, khơng theo một tái hiện con người và

khuôn khổ nhất định sự việc một cách
hay một hệ thống phong phú, sinh động
chặt chẽ mà tuỳ theo nhưng qua đó biểu
dịng cảm xúc, dòng hiện trực tiếp khuynh
suy nghĩ nhất thời, hướng cảm thụ của
để ngọn bút đưa đi tác giả và mang màu
từ liên tưởng này sắc trữ tình.
sang liên tưởng
khác.
Nghệ
Ngơn ngữ giàu tính Kết hợp linh hoạt các Hình ảnh chân thực,
chất trữ tình, nặng phương thức nghị khách quan. Ngơn từ
thuật
về những ý nghĩ luận, tự sự, trữ tình.
riêng tư sâu sắc, Thể loại văn học này mang tính kể, tả
thâm trầm và lôi là thể loại trung gian nhiều hơn là bộc lộ
cuốn người đọc. Lời giữa tùy bút và kí sự. cảm xúc.
văn cũng phóng
khống, thoải mái.
*Tích hợp với văn học sử để đối sánh tác phẩm kí của Hoàng Phủ
Ngọc Tường với các nhà văn khác nhằm thấy điểm sáng tạo, tạng chất riêng
ở văn nhân.
Để hiểu rõ hơn tạng văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, chúng ta cần thấy được
sự khác biệt giữa văn phong Hoàng Phủ Ngọc Tường và các nhà văn khác trong
đó tiêu biểu phải kể đến Nguyễn Tn với Người lái Đị sơng Đà. Vì vậy, giáo
9


viên cần khơi mở kiến thức để học sinh nhận thấy được nét riêng trong cá tính
Hồng Phủ văn nhân qua việc so sánh đặc điểm kí của hai tác giả.

Nguyễn Tn
Hồng Phủ Ngọc Tường
Giống - Đều có sở trường về thể loại kí và đều thấm đẫm chất trữ tình: ghi
chép, miêu tả chi tiết cụ thể về vẻ đẹp của đối tượng được đề cập đến
trong văn bản, qua đó bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh giá
của mình về đối tượng đó.
- Đi tìm cái đẹp và thể hiện cái đẹp bằng ngòi bút tài hoa, độc đáo tạo
được nét riêng, mới lạ qua hình ảnh dịng sơng.
- Hai cây bút đều tài hoa, uyên bác am hiểu kiến thức của nhiều ngành
và khả năng liên tưởng, tưởng tượng phong phú.
- Họ đều là những nhà văn tài năng, tâm huyết với nghề, có tâm
với nghề.
- Có tình u q hương đất nước thiết tha.
Khác
Văn phong Nguyễn Tuân thể hiện Ẩn trong câu chữ biến hóa là vẻ
sự un bác, tài hoa, khơng quản đẹp lấp lánh ánh sáng trí tuệ, tri
nhọc nhằn để cố gắng khai thác thức và cả chất phong tình, tài
kho cảm giác và liên tưởng phong hoa, lãng mạn từ tâm hồn Hồng
phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra Phủ Ngọc Tường. Có sự kết hợp
những chữ nghĩa có khả năng là nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và
lay động người đọc nhiều nhất. tính trữ tình, giữa nghị luận sắc
Ơng ln nhìn sự vật, hiện tượng bén với suy tư đa chiều được tổng
ở nhiều góc độ để khám phá, phát hợp từ vốn kiến thức phong phú
hiện; vận dụng kiến thức của về triết học, văn hóa, lịch sử, địa
nhiều lĩnh vực, tổng hợp cảm nhận lí.... Tất cả được thể hiện qua lối
của các giác quan để khám phá hành văn hướng nội, súc tích, mê
đối tượng. Tất cả làm nên phong đắm và tài hoa.
cách Nguyễn Tuân vừa độc đáo
vừa phong phú.
Nguyễn Tuân với Người lái đị Hồng Phủ Ngọc Tường với Ai

sơng Đà: Nghiêng về phát hiện và đã đặt tên cho dịng sơng?: Thiên
diễn tả những hiện tượng đập về chất thơ trữ tình dịu ngọt.
mạnh vào giác quan người đọc
*Tích hợp với thể loại thơ trữ tình để thấy vẻ đẹp đậm chất thơ của
dịng Hương giang.
Với trí tưởng tượng của nhà văn, sông Hương hiện lên qua những vẻ đẹp
đậm chất thơ. Có khi là “cơ gái Digan phóng khống và man dại”, có lúc “tự
hiến đời mình làm một chiến cơng”, có lúc lại trở về trong “cuộc sống bình
thường, là một người con gái dịu dàng của đất nước”. Người con gái ấy chắc
chắn phải là cô gái Huế tài hoa và sâu sắc, tình tứ và dịu ngọt, lẳng lơ kín đáo
mà rất mực chung tình, biết làm đẹp một cách ý nhị duyên dáng với chút sương
khói như “tấm voan huyền ảo của tự nhiên”.
10


Dựa trên căn cứ vào thứ ngơn ngữ có nhịp điệu vốn là đặc trưng thứ
nhất của ngôn ngữ thơ ca mà ta có thể ví bài bút kí như một bài thơ. Thứ nữa
là ngôn từ của tác phẩm rất giàu giá trị tạo hình được biểu hiện qua một thế giới
tính từ được dùng hết sức phóng túng. Có những những tính từ vừa lấp lánh sắc
màu vừa ấm áp cảm xúc: "Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một
bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua
những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có
lúc nó trở lại dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa
đỗ qun rừng". Vì tn theo quy luật cảm xúc mà câu văn thường dài, nhiều
mệnh đề như những lớp sóng ngơn từ xao động để diễn đạt những lớp sóng hưng
phấn cảm xúc của văn nhân.
Nhà văn cho rằng có một dịng thi ca về sơng Hương, một dịng thơ
khơng bao giờ lặp lại mình, mỗi thi nhân đều tìm cho mình một cảm hứng mới
mẻ, độc đáo về dịng sơng. Có khi là “nỗi quan hoài vạn cổ” trong thơ Bà Huyện
Thanh Quan, khi mang vẻ đẹp hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh” trong thơ

Cao Bá Quát, khi lại là “sức mạnh phục sinh tâm hồn” trong những bài thơ Tố
Hữu. Khi nhắc đến sức mạnh phục sinh tâm hồn của sông Hương, nhà văn đã
ngưỡng mộ ngợi ca: “Dịng sơng quả thực là Kiều, rất Kiều” – niềm trân trọng
thân yêu đã biến một danh từ chỉ tên người được tính từ hóa, khẳng định vẻ đẹp
đa đoan say lịng người của một dịng sơng “trong veo” có thể cuốn đi tất cả
những ô uế của cuộc đời: “Không gian sặc sụa mùi ơ uế Mà nước dịng Hương
mãi cuốn đi”
Ngồi ra, giáo viên có thể cung cấp thêm những câu thơ hay về sông Hương
để học sinh thấy được chất thơ vời vợi tốt lên từ vẻ đẹp của dịng sông khiến bao
thi sĩ ngây ngất.
- “Con sông dùng dằng, con sơng khơng chảy
Sơng chảy vào lịng nên Huế rất sâu.”
(Thu Bồn)
- “Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên dịng Hương Giang…”
(Tố Hữu)
- “Sơng Hương hóa rượu ta đến uống
Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say…”
(Nguyễn Trọng Tạo)
2.3.2.2.2. Biện pháp thứ hai: Tích hợp kiến thức liên mơn để thấy được
vẻ đẹp phong phú, đa dạng của dòng Hương giang.
*Tích hợp với kiến thức địa lí để hiểu thêm về đặc điểm tự nhiên của dịng
sơng Hương.
Khi giảng dạy tác phẩm, để giúp học sinh hình dung rõ nét hơn về thủy
trình của sơng Hương, giáo viên nên sử dụng bản đồ sông Hương. Khởi
11



nguồn từ rừng già, cường tráng và mãnh liệt vượt qua những cánh rừng Trường
Sơn, uốn lượn quanh co qua miền Châu Hố, “từ ngã ba Tuần, sơng Hương
theo hướng Nam Bắc qua điện Hịn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng
sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ
một hình cung thật trịn về phía Đơng Bắc, ơm lấy chân đồi Thiên Mụ, xi dần
về Huế”. Nhìn trên bản đồ sơng Hương, học sinh cũng sẽ dễ dàng nhận ra Cồn
Giã Viên và Cồn Hến cùng những chi lưu là những nhánh sơng đào đã khiến cho
dịng nước sơng Hương chảy rất chậm, cơ hồ như không chảy khi đến Huế. Chi
tiết “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến” và đường cong ấy
làm cho dịng sơng mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” khơng nói ra của tình u
sẽ khó hình dung khi các em khơng nhìn thấy đường cong duyên dáng ấy trên
bản đồ sông Hương. Hơn nữa, trước khi sơng Hương đổ ra biển, dịng chảy của
nó cịn quay lại một lần nữa ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ như vương vấn không
muốn xa rời người tình chung thủy- thành phố Huế. Sự xuất hiện một loạt các
địa danh văn hoá vốn gắn liền với xứ Huế thực khơng vơ tình, như muốn nói với
bạn đọc: sơng Hương chính là hiện thân, là bộ mặt, là linh hồn của xứ Huế.
Việc vận dụng kiến thức Địa lí cịn giúp học sinh hiểu địa hình Việt
Nam, các dịng sơng chảy từ Tây sang Đơng, hầu hết ở thượng nguồn đều là
vùng núi cao, nhiều vực thẳm, rừng già khiến cho nước chảy xiết dữ dội. Điều
đó giúp các em hiểu vẻ đẹp của sông Hương vùng thượng nguồn “là một bản
trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những
ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Tiếp đó,
khi chảy về đồng bằng, địa hình thấp, dịng chảy sơng Hương chậm hơn, êm
đềm hơn.
Từ kiến thức địa lý đặc điểm sơng ngịi miền nhiệt đới ẩm gió mùa giúp
học sinh hiểu thêm về giá trị của sông Hương. Ở nước ta mạng lưới sông ngịi
dày đặc, nước lên theo mùa, các con sơng thường nhiều nước, nhiều phù sa bồi
đắp cho bờ bãi ven sơng. Sơng Hương vì thế khi ra khỏi rừng đã trở thành
“người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở” bồi đắp nên đồng bằng châu thổ xứ
Huế cũng là hình thành nên văn hóa xứ Huế.

*Tích hợp với kiến thức lịch sử để giúp học sinh hiểu rõ vẻ đẹp của
một dòng Hương anh hùng, bất khuất.
Học sinh cần hiểu thêm những kiến thức về lịch sử, những sự kiện gắn
liền với dịng sơng Hương để hiểu thêm về lịch sử của dịng sơng anh hùng. Vì
vậy, giáo viên cần phải cung cấp thêm những kiến thức lịch sử minh chứng cho
lịch sử oai hùng của dịng sơng. Dịng Hương, từ xa xưa nó là dịng sơng biên
thùy của nước Đại Việt trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi nó là dịng sơng
thiêng với tên linh giang cổ kính. Đến thế kỉ XVIII nó ưỡn ngực đưa những
đoàn quân Tây Sơn hùng dũng tiến ra Bắc đuổi qn Thanh xâm lược. Từ thế kỉ
XIX, dịng sơng lại in bóng những lăng tẩm đồ sộ của vua chúa nhà Nguyễn.
Khi nhân dân Huế khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra vào ngày 23/8/1945
sông Hương đã trở thành chứng nhân cho cuộc khởi nghĩa hào hùng ấy. Đó là
giai đoạn lịch sử hai miền đất nước trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm
12


lược. Miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965-1973). Đế quốc Mĩ bắn phá ác
liệt dẫn tới những đau thương mất mát mà Huế phải hứng chịu trong chiến tranh
chống Mĩ và trong mùa xuân Mậu Thân 1968. Con sơng đã đón nhận dịng máu
của những người con anh hùng sẵn sàng xả thân vì quê hương xứ sở. Sơng
Hương chính là chứng nhân của những năm tháng lịch sử hào hùng của dân tộc.
Nếu khi hịa bình, sơng Hương hiền hịa dịu dàng bao nhiêu thì khi cần hi sinh
cho đất nước sông Hương cũng anh hùng, dũng mãnh bấy nhiêu. Đó chính là vẻ
đẹp của dịng linh giang xứng đáng sánh ngang với những dịng sơng lịch sử như
Bạch Đằng, Như Nguyệt, Bến Hải…. Phác thảo lại lịch sử cũng là một cách làm
sống dậy dịng sơng linh thiêng, dịng sơng anh hùng. Con sơng đã trở thành
huyền thoại, thành dấu ấn lịch sử ngời sáng của dân tộc Việt Nam.
* Tích hợp với kiến thức văn hóa để thấy dịng Hương cũng chính là
dịng chảy của văn hóa xứ Huế.
Văn Hồng Phủ Ngọc Tường bên cạnh chất thơ bay bổng bao giờ cũng

thấm đẫm chất văn hóa, chất Huế đậm nét. Bởi vậy, khi giảng dạy tác phẩm,
giáo viên phải giúp học sinh hiểu sâu hơn về văn hóa xứ Huế nhằm giúp các em
thấy được sơng Hương mang đậm linh hồn văn hóa xứ sở. Đó có thể là một sắc
tím Huế biểu tượng riêng cho xứ này – một sắc màu đã có từ xưa, vốn là màu áo
điều lục với loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong
tạo thành một màu tím ẩn hiện. Đó cịn là sắc áo cưới của xứ Huế ngày xưa,
trong những ngày nắng được đem ra phơi và ln in bóng trên mặt sơng Hương
trữ tình. Có lẽ vì thế khi miêu tả sắc màu phản quang của sơng Hương, Hồng
Phủ Ngọc Tường khơng qn nhắc đến sắc chiều tím sơng Hương- vẻ đẹp dịu
nhẹ, trữ tình đặc trưng. Đó có thể là đêm hội hoa đăng rằm tháng bảy với hàng
trăm ngọn đèn hoa bồng bềnh hay âm thanh của người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya…Đó là giọng hị dân gian cũng là tâm hồn người Huế lan xa và âm vang
khắp mặt sông. Bởi vậy nhạc sỹ Trịnh Công Sơn từng viết:
Nếu một mai tỉnh dậy sông Hương biến mất
Liệu Huế có cịn thơ mộng nữa chăng?
*Tích hợp với hội họa để thấy được chất họa đậm nét qua ngơn từ
của tác phẩm.
Đối với Hồng Phủ Ngọc Tường những trang kí của ơng khơng chỉ thấm
đẫm chất nhạc, chất thơ mà còn giàu chất hội họa. Qua ngòi bút tinh tế, sông
Hương hiện hữu với những đường nét, màu sắc hài hịa đa dạng tạo nên một
hình ảnh trọn vẹn về dịng sơng từ thượng nguồn cho đến khi ra biển. Để giúp
học sinh hiểu thêm giá trị ấy, giáo viên cần cung cấp các kiến thức hội họa cho
học sinh. Đường nét và màu sắc là hai yếu tố chủ đạo trong hội họa. Nắm được
điều đó, dưới con mắt tinh tế, sông Hương hiện ra đẹp thơ mộng bởi những
đường nét uốn lượn mềm mại và dun dáng, những màu sắc hài hịa và bình dị
tạo nên một bức tranh thủy mặc tuyệt đẹp.
Trước tiên sông Hương hiện lên qua những đường nét khá phong phú.
Vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một đường
cung thật tròn…"; "vòng nhiều khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những
13



đường cong thật mềm…". Rất nhiều những từ láy tạo hình dồn dập xuất hiện:
lặng lờ, lững lờ, bồng bềnh, ngập ngừng, lơ xơ, sừng sững, xúm xít, lập l… và
những so sánh tạo hình: "dịng sơng như: "dịng sơng như thành quách",
"mềm như tấm lụa", "những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con
thoi… có cả những so sánh với cái trừu tượng để khơi gợi trí tưởng tượng của
người đọc về dịng sơng Hương cổ kính: "như triết lý, như cổ thi"… Rồi là
những ẩn dụ tạo hình: "sơng Hương uốn một cánh cung rất nhẹ", "kéo một nét
thẳng thực yên tâm"…Sông Hương được miêu tả trong “nét thẳng thực yên tâm”
khi vào đến thành Huế, nghệ thuật nhân hóa đã đem đến cảm giác thanh thản,
bình n của một dịng sơng khi tìm thấy chính mình, tìm thấy tình yêu của
mình khi về với thành phố. Hình như Huế chỉ dành riêng cho nó, tồn tại vì nó,
một thành phố ln đợi chờ, ln tin vào dịng sơng thân u từ miền thăm thẳm
đại ngàn xa xôi. “Sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng đến Cồn Hến”,
với liên tưởng độc đáo, lãng mạn của nhà văn, “đường cong ấy làm dịng sơng
mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” khơng nói ra của tình u”. Qua phép so
sánh thật ngọt ngào, dịng sơng bỗng trở thành người tình dịu dàng, e ấp mà vẫn
thật tình tứ, đắm say của Huế.
Bức tranh sơng Hương cịn được vẽ bởi một bàn tay nghệ sỹ tài hoa trong
nghệ thuật phối màu sắc. Màu sắc của dịng sơng là màu “xanh thẳm” của
chính nó, màu rực rỡ của trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong đêm hội
trên sơng, từ những mảng phản quang nhiều màu sắc của núi đồi “sớm xanh,
trưa vàng, chiều tím” đến những “biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long”; từ
màu thanh khiết nõn nà của “chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn
như những vầng trăng non” đến sắc “u trầm” của những vầng cổ thụ, ánh “lập
lòe” của lửa thuyền chài, rồi lại là màu xanh biếc của tre trúc, của cau thôn Vĩ
Dạ cùng sắc “mơ màng sương khói” của Cồn Hến… Sơng Hương đã hiện ra
như một bức tranh hoàn hảo trong thành Huế với những nét vẽ huyền ảo, những
sắc màu thơ mộng.

*Tích hợp với kiến thức âm nhạc để thấy được dịng Hương khơng
chỉ là dịng chảy tự nhiên mà cịn là một dịng sơng của âm nhạc.
Từ lâu sông Hương đã đi vào thi ca, âm nhạc. Bản thân dịng sơng đã tự
mang chất nhạc trong mình để khắc sâu trong lịng người qua những ca khúc trữ
tình sâu sắc về Huế như Huế thương, Dịng sơng ai đã đặt tên, Mưa trên phố
Huế….Giáo viên cần mở rộng để học sinh thấy được chất nhạc của sơng Hương.
Chất âm nhạc của dịng sơng hiện ra ở chính âm hưởng, nhịp điệu của văn
bản ngơn từ. Đó là một nhịp điệu êm đềm, tĩnh lặng, được tạo ra bởi những câu
văn dài nối tiếp, nhiều thanh bằng, bởi sự giãn cách trong nhịp trầm tư sâu lắng
của những suy ngẫm, những liên tưởng mênh mang trong khơng gian, thăm
thẳm trong thời gian.
Chất nhạc cịn hiện ra qua cách nhà văn miêu tả dòng chảy của sơng
Hương: “một dịng sơng trơi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ
yên tĩnh”. Chất nhạc được thể hiện qua cách cảm nhận của âm nhạc, sông
Hương đẹp và êm đềm như một điệu slow chậm rãi, trữ tình, sâu lắng. Điệu
14


Slow là một điệu nhạc nhẹ nhàng, chậm rãi, du dương khiến tâm hồn thư thái.
Nhìn vào dịng chảy của sông Hương người ta cảm nhận ngay vẻ thư thái, n
bình của nó. Nhưng hơn thế sự chậm trơi của Hương giang như một sự luyến lưu
không muốn xa rời của con sơng với thành phố mà nó u q. Dịng chảy như
muốn níu giữ từng giây từng phút bên người tình chung thủy của nó. Có lúc nhà
văn khơng giấu được tình yêu thiên vị của mình khi so sánh dịng chảy băng
băng của sơng Nêva lúc xn về với “điệu chảy lặng lờ” của dịng sơng xứ Huế,
nhà văn còn cho rằng chỉ dòng chảy ấy mới giúp con người cảm nhận được tâm
hồn dịu dàng, đa cảm của một dịng sơng “ngập ngừng như muốn đi, muốn ở,
chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lịng”.
Chất nhạc của dịng sơng cũng được thể hiện qua những âm thanh của
chính dịng sơng và cảnh sắc đơi bờ. Đó là âm thanh gợi cõi vơ thường huyễn

hoặc của “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, âm thanh
nồng ấm thân yêu của “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, âm thanh
khơng lời của một tình u e ấp, âm thanh của chính dịng sơng được ví như
“người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, “tiếng nước rơi bán âm”, tiếng “những
mái chèo khua đập nước”…; và chất nhạc đặc biệt được hiện ra trong những liên
tưởng tới “nền âm nhạc cổ điển Huế”.
Ca Huế là một đặc điểm của nền âm nhạc cổ truyền xứ Huế; nơi mà hai
thành phần âm nhạc: chuyên nghiệp bác học (nhã nhạc Cung đình), thành phần
dân gian (dân ca: hò, lý…) thường xuyên tác động qua lại, gắn bó, thâm nhập,
thúc đẩy lẫn. Nhã nhạc cung đình Huế - một thể loại âm nhạc đã được UNESCO
công nhận là di sản phi vật thể của thế giới. Loại hình âm nhạc này đã được hình
thành, biểu diễn và lưu giữ trên chính dịng Hương giang. Bởi thế, dịng sơng
cịn là cái nơi sản sinh âm nhạc truyền thống dân tộc. Bên cạnh đó là những điệu
hị sơng nước xứ Huế đã được hình thành trên sông Hương suốt hàng ngàn năm
qua. Một đêm ca Huế có thể được tổ chức trong một thính phịng nho nhỏ nhưng
thi vị và hấp dẫn hơn cả là được nghe ca Huế trong một đêm trăng trên dòng
Hương Giang thơ mộng. Lúc đó tâm hồn của người nghe và cả ca sĩ cùng dàn
nhạc dường như được siêu thốt trong một bầu khơng khí như được thăng hoa
cùng trời, mây, sông, nước. Một trong những khúc nhạc nổi tiếng mà tác giả
nhắc đến ở đây là khúc Tứ đại cảnh mà nhiều ý kiến cho là tác phẩm do chính
Vua Tự Đức (1848 – 1883) sáng tác. Với phần kiến thức mở về âm nhạc mà giáo
viên cung cấp học sinh sẽ hiểu hơn về chất nhạc trên sơng Hương, về hình ảnh
người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya…. Theo cảm nhận chủ quan với rất nhiều
thiên vị của tình u, Hồng Phủ Ngọc Tường cho rằng có lẽ vẻ đẹp buồn lãng
mạn của sơng Hương là nguyên nhân của nhiều liên tưởng về mối quan hệ kỳ
diệu giữa dịng sơng đêm, bản nhạc và câu thơ Nguyễn Du: “Trong như tiếng
hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời” .Sông Hương thực sự trở thành
nguồn cảm hứng vô tận của âm nhạc và thi ca và chính dịng sơng cũng là bản
nhạc êm đềm, những khúc tình ca xao xuyến lịng người.
*Tích hợp với môn giáo dục công dân để giáo dục cho học sinh những

bài học đạo đức, nhân cách và ý thức trách nhiệm đối với đất nước.
15


Từ tác phẩm Ai đã đặt tên cho dịng sơng?, giáo viên phải lồng vào phần
liên hệ mang tính giáo dục, nhắc nhở các em lòng yêu quê hương, đất nước,
trách nhiệm xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Từ chỗ giúp học sinh thấy được vẻ đẹp
của sông Hương của xứ Huế để giúp học trò nhận thức được cần phải trân trọng,
gìn giữ những danh lam thắng cảnh, những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc.
Mặt khác, qua bài học ta cũng cần giáo dục các em ý thức trách nhiệm bảo vệ
môi trường, đặc biệt là giữ gìn những dịng sơng xanh- sạch- đẹp. Vì đó là vẻ
đẹp của thiên nhiên đất nước cũng là dịng sơng văn hóa- dịng sơng lịch sử. Ý
thức giữ gìn và bảo vệ sơng Hương cũng như những dịng sông khác giúp cho
việc tô điểm thiên nhiên đất nước tươi đẹp và giúp mỗi chúng ta có một mơi
trường sống trong sạch, lành mạnh hơn.
* Tích hợp với cơng nghệ thơng tin để làm phong phú bài dạy (trình
chiếu các video, hình ảnh, giáo án điện tử).
Trong quá trình giảng dạy việc ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp giáo
viên giảng dạy một cách chủ động tích cực hơn và cũng góp phần khơng nhỏ
trong việc tạo hứng thú cho học sinh. Đối với tác phẩm Ai đã đặt tên cho dịng
sơng?, khi giảng dạy ta có thể đưa các loại hình ảnh, video sau:
- Hình ảnh:+Đưa hình ảnh Hồng Phủ Ngọc Tường, bản đồ Sơng Hương và Huế
+Đưa hình ảnh bìa các tác phẩm của Hồng Phủ Ngọc Tường
+Đưa các hình ảnh được nhắc đến trong tác phẩm
- Video: +Video giới thiệu về Huế và sông Hương.
+Video giới thiệu bài hát Dịng sơng ai đã đặt tên? (Trần Hữu Pháp)
- Giáo án điện tử: Để làm phong phú sinh động tôi thường thiết kế giáo án điện tử ở
dạng dễ hiểu nhất cho học sinh nhưng vẫn đầy đủ ý. Từ việc được nghe giảng,
được xem các hình ảnh sẽ giúp học sinh hứng thú hơn trong tiếp nhận nhằm khắc
phục trạng thái “ngại học” ở các em.

2.3.2.3. Giải pháp thứ 3: Tích hợp trong q trình củng cố bài học.
Để củng cố bài học, tơi có thể sử dụng một trong các cách như đưa ra hệ
thống câu hỏi trắc nghiệm kiểm tra mức độ tiếp nhận ở học sinh, sử dụng ý nghĩa
thông điệp của tác phẩm như một đề nghị luận mở hoặc tổ chức trị chơi “ơ chữ văn
học”…để giúp học sinh nắm vững ý nghĩa tác phẩm.
2.3.2.3.1. Biện pháp thứ nhất: Sử dụng câu hỏi trắc nghiệm
Câu 1: Văn bản Ai đã đặt tên cho dịng sơng? được viết theo thể loại nào?
A. Bút kí.
B. Tùy bút.
C. Kí sự.
 Đáp án: A
Câu 2: Hình ảnh sơng Hương ở thượng nguồn được miêu tả tựa như:
A. Người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
B. Cơ gái Digan phóng khống, man dại.
C. Người con gái Huế.
 Đáp án: B
16


Câu 3: Nhịp điệu chậm rãi, lặng lờ của dòng sông Hương khi chảy qua
thành phố Huế được tác giả so sánh với:
A. Điệu Slow chậm.
B. Vũ điệu man dại phóng khống của cơ gái Di gan.
C. Vũ điệu cồng chiêng.
 Đáp án: A
Câu 4: Trong văn bản Ai đã đặt tên cho dịng sơng?, khi miêu tả đoạn sơng
Hương vòng về “gặp lại” thành phố Huế ở thị trấn Bao Vinh, tác giả liên
tưởng đến điều gì?
A. “Sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ…người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.”
B. “Một tiếng “vâng” khơng nói ra của tình yêu.”

C. Nàng Kiều sau đêm tự tình trở lại tìm Kim Trọng để nói lời thề trước khi từ
giã.
 Đáp án: C
2.3.2.3.2. Biện pháp thứ hai: Sử dụng ý nghĩa thông điệp của tác phẩm
như một đề nghị luận mở.
Từ vẻ đẹp của dịng sơng Hương và tình u xứ Huế của Hồng Phủ Ngọc
Tường, anh (chị) hãy phát biểu quan niệm của mình về tình yêu quê hương, đất
nước?
2.3.2.3.3. Biện pháp thứ ba: Sử dụng trò chơi ô chữ văn học
Để củng cố bài học hiệu quả, ngồi các biện pháp trên tơi cịn vận dụng
trị chơi ô chữ văn học để củng cố kiến thức.
- Giáo viên chuẩn bị trước hệ thống câu hỏi và các ô chữ . Sau khi dạy xong
bài, giáo viên giành khoảng 5 phút để củng cố tác phẩm bằng trị chơi “Ơ chữ văn
học”:
+Giáo viên chia học sinh làm 4 đội, mỗi đội cử ra một đội trưởng
+Hình thức chơi: mỗi khi giáo viên đưa ra một ô chữ và đặt câu hỏi thì
các đội trưởng sẽ đại diện cho đội mình trả lời bằng hình thức giơ tay. Khi giáo
viên hô bắt đầu, đội nào giơ tay nhanh hơn đội đó sẽ thắng.
+Kết quả: Đội nào trả lời được nhiều ơ chữ nhất đội đó sẽ thắng. Mỗi ô
chữ tương ứng với 5 điểm. Nếu trả lời được ô hàng dọc thì được 10 điểm.

17


2.4. Kết quả của việc ứng dụng sáng kiến:
Qua một thời gian nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm vào dạy
học văn bản Ai đã đặt tên cho dòng sông? để thử nghiệm kết quả tôi cho học
sinh làm bài kiểm tra tại hai lớp 12A9 và 12A10.
Đề bài: Cảm nhận vẻ đẹp tự nhiên của hình tượng Sơng Hương trong bút kí “Ai
đã đặt tên cho dịng sơng?” từ đó tìm ra thơng điệp thẩm mỹ của tác phẩm?

Kết quả bài làm thu được ở hai lớp 12A9 và 12A10 như sau
+ Trước khi ứng dụng SKKN:
Kết quả
Giỏi
Khá
Trung bình
Lớp
Sĩ số
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
SL
12A9
40
5
12,5
15
37,5
18
45,0
2
12A10
50
4
8,0
16
32,0

24
48,0
6

Yếu
TL%
5,0
12,0

+ Sau khi ứng dụng SKKN:
Kết quả
Lớp

Sĩ số

Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
12A9
40
12

30,0
23
57,5
05
12,5
0
0
12A10 50
10
20,0
22
44,0
18
36,0
0
0
Kết quả bài làm cho thấy, tỉ lệ học sinh trả lời câu hỏi đầy đủ, lô gic, sáng
tạo đạt giỏi, khá là 87,5% ở 12A9 và chiếm tới 64,0% ở 12A10. Tỉ lệ học sinh
có kết quả trung bình gần như rất thấp chỉ chiếm 12,5% ở 12A9 và 36,0% ở
18


12A10. Như vậy, có thể thấy việc ứng dụng sáng kiến đã thực sự có được hiệu
quả nhất định. Các em đã thực sự cảm thấy đam mê, hứng thú hơn rất nhiều với
cách dạy - học tích hợp này.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Đổi mới phương pháp dạy học là một “hành trình” khơng ít những khó
khăn và thử thách song cũng là một hành trình đầy thú vị bởi qua đó người giáo

viên thể hiện được tâm huyết và sự sáng tạo của mình trong vai trò người hướng
dẫn học sinh khám phá kho tàng tri thức của nhân loại. Từ vai trò quan trọng ấy,
thầy cơ phải giúp các em hình thành niềm đam mê với văn chương và tự rút ra
cho mình những bài học quý báu về đạo đức, về cách làm người. Muốn vậy,
giáo viên phải biết khơi dậy khả năng sáng tạo của học sinh, biến mỗi giờ học
thành một “giờ khám phá” để các em thể nghiệm tài năng và tư duy của mình.
19


Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường
tôi nhận thấy việc ứng dụng phương pháp tích hợp trong giảng dạy là vơ cùng
cần thiết giúp học sinh hiểu sâu sắc, thấu đáo tác phẩm cũng như tránh được
cảm giác ngại học. Mặt khác, với cách học này các em tỏ ra năng động và tích
cực hơn, mạnh dạn hơn. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm nằm ở tính khả thi
của nó trong thực tế giảng dạy. Với một bài kí vừa “khó dạy” vừa “khó học” như
Ai đã đặt tên cho dịng sông?, những kinh nghiệm này theo tôi là khá hữu ích.
Nó giúp người dạy dễ dàng thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của bài kí, thẩm
thấu được cái tài hoa, sâu sắc trong bút kí Hồng Phủ Ngọc Tường. Từ những
thành công bước đầu sẽ là nguồn cổ vũ động viên không nhỏ để tôi tiếp tục ứng
dụng cho học sinh trong những năm tiếp theo nhằm góp một phần nhỏ bé vào
“hành trình” nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng dạy và học bộ
mơn Ngữ văn nói riêng hướng tới xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh
tích cực”.
3.2. Kiến nghị:
*Đối với nhà trường:
- Nên có phịng học chức năng để học sinh thuận lợi hơn trong học tập.
- Cân đối kinh phí để tăng thêm các đồ dùng dạy học trong thư viện nhà trường,
hỗ trợ thêm kinh phí cho giáo viên sử dụng phương pháp mới trong dạy học.
* Đối với sở GD và ĐT:
Mở rộng đối tượng tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học, không chỉ

tập huấn cho tổ trưởng mà các giáo viên khác cũng được bồi dưỡng.
Đây là sáng kiến kinh nghiệm tôi đã ứng dụng trong dạy học Ngữ văn song
chắc hẳn cịn có những hạn chế. Kính mong Hội đồng khoa học và các đồng
nghiệp góp ý thêm để sáng kiến ngày càng hồn thiện.
Tơi xin chân thành cảm ơn.
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm là do tơi viết, khơng copy của ai.
Thanh Hóa, ngày 30 tháng 05 năm 2017
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Người thực hiện
Nguyễn Thị Hà

20


21



×