Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng mở bài, kết bài trong bài văn nghị luận cho học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.86 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG
2.1.Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
2.1.1.Khái niệm đoạn văn
2.1.2. Đoạn văn mở bài
2.1.3.Đoạn văn kết bài
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.3. Các biện pháp cụ thể
2.3.1.Các biện pháp rèn luyện kỹ năng viết phần mở bài
2.3.1.1.Nhận diện đoạn văn mở bài
2.3.1.2.Đánh giá đoạn văn mở bài
2.3.1.3. Đoán định luận đề được giới thiệu trong đoạn văn mở bài
2.3.1.4. Chữa lỗi để hoàn chỉnh đoạn văn mở bài
2.3.1.5. Hướng dẫn học sinh tự viết phần mở bài
2.3.2. Các biện pháp rèn luyện kỹ năng viết phần kết bài
2.3.2.1. Nhận diện đoạn văn kết bài
2.3.2.2. Đánh giá đoạn văn kết bài
2.3.2.3. Đoán định luận đề được triển khai trong đoạn văn kết bài
2.3.2.4. Chữa lỗi để hoàn chỉnh đoạn kết bài
2.3.2.5. Hướng dẫn học sinh tự viết phần kết bài
2.4. Hiệu quả
III. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1


1
1
2
2
3
3
3
3
4
4
5
5
5
6
7
7
8
9
9
10
10
11
11
13
15
16


I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài

Có thể nói, văn nghị luận là loại văn phổ biến và có vai trò quan trọng
nhất đối với học sinh trong trường phổ thông hiện nay. Phần mở bài, kết bài
trong một bài văn nói chung, văn nghị luận nói riêng tuy ngắn và chỉ chiếm một
số điểm khá khiêm tốn nhưng nếu thiếu một trong hai phần này thì bài viết đó
chưa thể xem là một bài văn. Vì nó chưa hoàn chỉnh và chưa đảm bảo được bố
cục, yêu cầu của một bài văn. Cha ông ta thường nói: "Vạn sự khởi đầu nan", M.
Goor-ki lại cho rằng: "Khó hơn cả là phần mở đầu, cụ thể là câu đầu…" điều
này hoàn toàn đúng. Không ít bạn học sinh cảm thấy "cứng tay" và mất rất nhiều
thời gian cho phần mở bài. Viết được phần mở bài các bạn mới thông mạch cảm
xúc để viết được bài văn nghị luận đó. Lại rất nhiều bạn học sinh "buông tay"
khi viết phần kết bài vì cho rằng bài làm như thế là "ok", là "xong" rồi mình chỉ
cần viết thêm đôi ba câu thế nào cũng được. Thật vậy, để viết được một mở bài,
kết bài đúng trong bài văn nghị luận đã khó và để có một mở bài, kết bài hay,
sáng tạo, ấn tượng lại còn khó hơn. Chính vì thế, việc giúp các em có cách viết
mở bài, kết bài trong bài văn nghị luận vừa đúng, vừa hay là việc làm luôn cần
thiết.
Hiện nay, kỹ năng làm văn, đặc biệt là kỹ năng làm văn nghị luận của các
em học sinh còn rất kém. Nhiều học sinh không biết mở bài cần làm gì, kết bài
cần làm gì, không biết nên dẫn dắt thế nào, giới thiệu vấn đề cần nghị luận ra
sao, làm sao để khép lại được vấn đề cần nghị luận và lưu lại cảm xúc trong lòng
người đọc. Và thực tế nhiều bài viết của các em trở thành nực cười, vớ vẩn, tào
lao…
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn đã nhiều năm, lại hàng
ngày, hàng giờ phải chứng kiến thực trạng đó tôi đã quyết định lựa chọn đề tài: "
Một số biện pháp rèn kỹ năng mở bài, kết bài trong bài văn Nghị luận cho
học sinh THPT" làm vấn đề nghiên với mong muốn góp thêm một số kinh
nghiệm nhỏ của bản thân để nâng cao kỹ năng viết đoạn mở bài, kết bài cho học
sinh trong quá trình viết bài văn nghị luận.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Khi quyết định lựa chọn đề tài này, mục đích nghiên cứu của tôi là nhằm

rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết đúng, đủ và tiến tới viết hay phần mở bài,
kết bài trong bài văn nghị luận, tránh được những lỗi đáng tiếc trong quá trình
làm bài và mục đích cuối cùng là để cải thiện, nâng cao kỹ năng làm văn, nâng
cao chất lượng bộ môn.
Bản chất cần làm rõ trong đề tài này là từ chỗ nhận thức đúng được vai
trò, tầm quan trọng phần mở bài, kết bài trong bài văn, giáo viên phải giúp các
em hình thành được kỹ năng, nếp suy nghĩ về cách mở bài, kết bài vừa “đúng”
vừa “hay” và các em phải biết viết được những phần mở bài, kết bài “đúng” –
“hay” như thế (nghĩa là chúng ta không chỉ dừng lại ở lý thuyết mà phải gắn liền
lý thuyết với thực hành, học sinh phải tự mình làm được dựa trên những kinh

2


nghiệm giáo viên đã cung cấp). Giáo viên dạy cho học sinh nắm được cả kiến
thức lẫn kỹ năng làm bài.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài này nhằm nghiên cứu về một số biện pháp rèn luyện kỹ năng mở
bài, kết bài trong bài văn nghị luận cho học sinh THPT.
Đề tài nghiên cứu này có thể áp dụng cho cả phần nghị luận văn học và
nghị luận xã hội của phân môn Làm văn trong chương trình, sách giáo khoa Ngữ
văn THPT
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để làm sáng rõ đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân loại
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp thực nghiệm, đối chứng
- Phương pháp tổng hợp


3


II. NỘI DUNG
2.1.Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niệm đoạn văn
Về hình thức: Đoạn văn là một phần của văn bản, nó bao gồm nhiều câu
liên kết chặt chẽ với nhau. Nó được tính từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng đến chấm
qua hàng.
Về nội dung: Mỗi đoạn văn triển khai một ý hoặc một nội dung tương đối
trọn vẹn.
Yêu cầu của một đoạn văn: một đoạn văn cần đảm bảo các yêu cầu cơ bản
sau:
“Tập trung làm rõ một ý chung, một chủ đề chung thống nhất và duy
nhất.
Liên kết chặt chẽ với đoạn văn đứng trước và sau nó
Diễn đạt chính xác, trong sáng, gợi cảm, hùng hồn” [2; tr 62].
2.1.2. Đoạn văn mở bài
2.1.2.1. Nhiệm vụ của đoạn văn mở bài
Mở bài có nhiệm vụ “giới thiệu vấn đề sẽ được bàn luận trong bài văn,
đồng thời khơi gợi, lôi cuốn sự chú ý của người đọc đối với vấn đề đó” [1; tr24].
2.1.2.2. Nguyên tắc mở bài
Mở bài cần giới thiệu chính xác, ngắn gọn vấn đề cần nghị luận. “Nếu đề
bài yêu cầu giải thích, chứng minh, phân tích hay bình luận một ý kiến thì phần
mở bài phải dẫn lại nguyên văn ý kiến ấy” [1; tr 24].
“Mở bài chỉ nêu ý khái quát. Học sinh không được lấn sang phần thân
bài, không giải thích, minh họa, hay nhận xét ý kiến nêu trong đề bài” [1; tr 24].
2.1.2.3. Cách viết mở bài
Có hai cách mở bài:

Mở bài trực tiếp:
Cha ông ta thường nói "khai môn kiến sơn" - Mở cửa sổ thấy núi. Cách
này là cách vào thẳng vấn đề, nó thường ngắn gọn, dễ làm nhưng đôi khi kém
phần hấp dẫn nên thường dành cho đối tượng học sinh yếu, kém, trung bình.
Mở bài gián tiếp: Đi từ xa đến gần, giới thiệu ý dẫn nhập vào đề, cách
làm này tạo cho bài viết không khí tự nhiên, đậm chất Văn. Mở bài gián tiếp lại
có các cách sau: diễn dịch, quy nạp, tương liên (tương đồng), tương phản (đối
lập)
2.1.2.4. Điều kiện để có một mở bài hay
Mở bài muốn “hay” trước hết phải “đúng”. Viết “hay” trước hết là viết
cho “đúng” : Đúng yêu cầu, đúng kiến thức, đúng kiểu bài, đúng lập trường,…
Từ viết “đúng” đến viết “hay”. Học sinh cần có cách mở bài độc đáo, lôi
cuốn sự chú ý của người đọc với vấn đề mình sẽ viết. Bên cạnh đó, học sinh
phải vào bài một cách tự nhiên. Tránh làm văn một cách vụng về, gượng ép gây
cho người đọc cảm giác khó chịu bởi sự giả tạo.

4


2.1.3. Đoạn văn kết bài
2.1.3.1. Nhiệm vụ của đoạn văn kết bài
Kết bài có nhiệm vụ “kết thúc vấn đề đặt ra ở phần mở bài và đã giải
quyết ở phần thân bài” [1; tr 27].
2.1.3.2. Nguyên tắc kết bài
Kết bài phải thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở phần thân bài.
“Phần kết bài chỉ nêu những ý khái quát, thiên về tổng kết, đánh giá.
Không lan man hay lặp lại cụ thể những gì đã trình bày ở thân bài hoặc lặp lại
nguyên văn lời lẽ của phần mở bài” [1; tr 27].
2.1.3.3. Cách viết kết bài
Có nhiều cách viết kết bài khác nhau, nhưng nếu đặt nó trong thế chiếu

ứng với phần mở bài, ta có 2 cách kết bài: kết khép và kết mở.
Kết khép: là kiểu kết bài khép lại vấn đề bằng cách tóm lược và nhấn
mạnh những ý quan trọng nhất đã bàn luận trong bài.
Kết mở : là kiểu kết bài nhằm bàn luận, mở rộng, nâng cao vấn đề và gợi
ra trường liên tưởng, suy nghĩ ở người đọc, người nghe. Kết bài mở lại chia
thành 3 kiểu: phát triển, vận dụng, liên tưởng
2.1.3.4. Điều kiện để có một kết bài hay
Cũng như phần mở bài, một kết bài hay trước hết kết bài đó phải “đúng”:
đúng nguyên tắc, đúng cách.
Cho nên, để có một kết bài hay học sinh phải từ nền cơ bản "đúng" ấy mà
đi lên "hay".
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
Thực tế cho thấy, hiện nay kỹ năng diễn đạt của một số bộ phận không
nhỏ học sinh ở trường phổ thông còn khá yếu. Nhiều học sinh lơ là, xem nhẹ
việc việc rèn luyện kỹ năng làm văn (trong đó có kỹ năng viết đoạn mở bài, kết
bài) dẫn đến hệ quả tất yếu là chất lượng bài làm văn thấp và có xu hướng giảm
sút. Biểu hiện rõ nét của đa số học sinh trước một đề văn là thường tỏ ra lúng
túng, lúng túng ngay ở kỹ năng tìm hiểu đề, lập dàn ý, huy động kiến thức, ngôn
ngữ,… Nhiều học sinh lại bỏ qua tất cả các khâu đó, cứ cầm được đề là bắt tay
vào viết, nghĩ sao viết vậy, vừa viết vừa nghĩ, mò mẫm làm bài mà không hề
định hướng bài viết của mình sẽ viết gì, viết như thế nào? Lắp ghép câu chữ một
cách tùy tiện, lộn xộn, cố "nặn" ra chữ để viết và đến lúc không nghĩ ra gì thì kết
thúc bài viết, mà không biết rằng kết thúc bài viết mình phải làm được gì.
Trong khi đó, thời lượng dành cho một tiết học chỉ có 45 phút ,trong một
tiết, giáo viên còn phải cung cấp kiến thức lí thuyết. Vì vậy, để có thể giúp các
em có được kỹ năng viết đoạn mở bài, kết bài, kỹ năng làm một bài văn hoàn
chỉnh là rất khó. Hơn nữa, ngay từ lớp 10 (thậm chí từ bậc THCS) các em đã
phải làm rất nhiều bài văn nghị luận nhưng kỹ năng làm các bài này thì đến lớp
12 các em mới được học một cách bài bản.
Với xu hướng thi cử hiện nay, chỉ còn môn Ngữ văn là thi theo hình thức

tự luận nên việc học môn Văn cũng đòi hỏi học sinh phải đầu tư thời gian nhiều

5


hơn. Phải chăng đây cũng là lí do khiến học sinh vốn đã không mấy hứng thú
với môn văn giờ lại càng ngại học văn, chán học văn hơn? Từ đó dẫn đến kết
quả làm bài chưa cao.
Đó vẫn là những trở ngại lớn đang đặt ra, đòi hỏi chúng ta phải chung tay
giải quyết.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trọng việc rèn luyện kỹ năng viết đoạn mở
bài, kết bài cho học sinh nhưng kết quả vẫn chưa được như mong đợi. Vậy, làm
thế nào để rèn luyện và nâng cao kỹ năng viết đoạn mở bài, kết bài nói riêng và
kỹ năng làm văn nghị luận nói chung của học sinh ? Đây có lẽ vẫn là một câu
hỏi khiến nhiều giáo viên còn băn khoăn, trăn trở.
2.3. Các biện pháp cụ thể
2.3.1. Các biện pháp rèn luyện kỹ năng viết phần mở bài
2.3.1.1. Nhận diện đoạn văn mở bài: Trước khi viết đoạn văn mở bài, học sinh
phải nhận diện được nó.
Ví dụ: Trong bốn đoạn văn sau, đoạn nào có chức năng mở bài? vì sao?
Đoạn 1: Tục ngữ được xem là túi khôn của nhân loại. Tục ngữ thường là
những câu nói đúc rút những kinh nghiệm quý báu trong thực tiễn của cha ông ta
qua bao đời nay với những triết lý sâu sắc. Bàn về mối quan hệ giữa bản chất
bên trong với bản chất bên ngoài của sự vật hiện tượng ông cha ta có câu: "Tốt
gỗ hơn tốt nước sơn".
Đoạn 2: Thơ ca sinh ra từ tâm hồn con người nhưng làm cho con người
phải ngạc nhiên vì nó. Thơ đẹp quá song cũng giản dị quá. Nhà thơ và cuộc
sống gắn bó hữu cơ với nhau, không thể có cái này mà thiếu cái kia. Hãy trả cho
thơ vào cuộc sống sau khi đã chắt lọc thơ từ cuộc sống, Phôn-tan đã nói:
Bạn ơi hãy học suy nghĩ bằng trái tim

Và hãy học cảm xúc bằng lý trí.
Thơ là thế đó, không phải chỉ là "sự im lặng giữa các từ", là "tiếng lòng"
mà còn là sự tỉnh táo trong cảm xúc.
Đoạn 3: Đại văn hào Nga Huy-gô từng viết: "Có một cảnh tượng lớn hơn
biển ấy là trời, có một cảnh tượng lớn hơn trời ấy là thế giới bên trong của con
người" đọc bài thơ này, mới đầu ta tưởng là một bài thơ vịnh cảnh rất quen
thuộc trong cổ thi nhưng cuối cùng ta bắt gặp một nghị lực phi thường, một thế
giới mênh mông như thể tâm hồn Bác. Đúng là "Lên đỉnh cao của sự vĩ đại ta
gặp sự giản dị" (L.Tônxtôi).
Đoạn 4: Nhắc đến Nam Cao là nhắc đến nhà văn hiện thực xuất sắc nhất
của dòng văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, ông cũng là nhà văn lớn của
văn học Việt Nam thế kỷ XX. Trước cách mạng, Nam Cao tập trung vào hai đề
tài chính: Người nông dân nghèo và người trí thức nghèo. Ở đề tài người nông
dân ta không thể không nhắc đến kiệt tác "Chí Phèo, tác phẩm chính thức đánh
dấu tên tuổi của Nam Cao giữa làng văn Việt Nam. Với tác phẩm này, Nam Cao
không đi sâu vào vấn đề "đói cơm rách áo" như các nhà văn hiện thực cùng thời
mà ông đi vào vấn đề còn nóng bỏng hơn: hậu quả của đói cơm rách áo, là tha

6


hóa, lưu manh hóa ở con người. Chí Phèo, nhân vật chính trong tác phẩm là hiện
thân của nỗi thống khổ ấy.
Yêu cầu họ sinh căn cứ vào cấu tạo, chức năng của đoạn văn mở bài để
thấy được trong 4 đoạn văn trên, đoạn 1 + 4 là đoạn văn mở bài, đoạn 2 + 3
không phải là đoạn văn mở bài vì:
- Đoạn 1: Câu 1, 2: dẫn dắt vấn đề: tác dụng, vai trò, ý nghĩa của tục ngữ.
Câu 3 giới thiệu vấn đề cần nghị luận và giới hạn vấn đề: giới thiệu câu tục ngữ
cần bàn luận.
- Đoạn 4: Câu 1 -> 4 giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, vị trí của Nam

Cao, các đề tài chính, nội dung cốt lõi trong đề tài người nông dân và tác phẩm
Chí Phèo
Câu 5: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận và giới hạn vấn đề.
- Đoạn 2: Là đoạn văn đi bàn bạc về mối quan hệ thơ - cuộc sống.
- Đoạn 3: Đoạn văn ở phần cuối của thân bài trong phân tích bài thơ
Chiều tối - Hồ Chí Minh.
2.3.1.2. Đánh giá đoạn văn mở bài
Muốn viết được phần mở bài, hs cũng phải đánh giá được nó. Trên cơ sở
đó mà học tập hay rút kinh nghiệm cho mình khi viết.
Ví dụ: Phân tích giá trị nghệ thuật của tình huống truyện trong tác phẩm
Vợ nhặt của Kim Lân.
Mở bài 1: “Kim Lân sinh năm 1920, tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài,
quê ở Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân bắt đầu
viết truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo Tiểu
thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật. Ông là tác giả của các tập truyện ngắn:
Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962). Truyện ngắn Vợ nhặt lúc đầu
có tên gọi là Xóm ngụ cư. Tác phẩm được viết ngay sau khi Cách mạng tháng
Tám thành công. Sau khi hòa bình lập lại, nhà văn dựa vào một cốt truyện cũ và
viết lại tác phẩm này. Vợ nhặt được in trong tập Con chó xấu xí. Đây là tác phẩm
có tình huống truyện đặc sắc” [3; tr 112].
Mở bài 2: Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân được viết ngay sau
khi Cách mạng tháng Tám thành công. Cái tên mà tác giả chọn đặt cho truyện
ngắn này đã cho thấy một tình huống rất "có vấn đề" của câu chuyện được kể.
Từ truyện "nhặt được vợ" của Tràng - nhân vật chính trong tác phẩm - đúng vào
những ngày đói thê thảm của năm Ất Dậu (1945), nhà văn đã thâu tóm trong đó
không chỉ cái bi kịch và khát vọng sống của một con người mà còn phản ánh
trọn vẹn tấn bi kịch lịch sử và khát vọng sống, xu thế tất yếu của dân tộc. Tình
huống "nhặt được vợ" (như nhan đề của truyện ngắn đã nêu rõ) có vai trò quyết
định đối với toàn bộ giá trị nghệ thuật và nội dung của tác phẩm [3; tr 112].
Mở bài 3: “Đọc Vợ nhặt của Kim Lân, cái ấn tượng đậm nét nhất mà

truyện ngắn để lại trong tâm trí người đọc là hình ảnh Tràng dắt về "người vợ
theo" trong cái cảnh "tối sầm lại vì đói khát" của năm Ất Dậu. Sự lựa chọn đầy
tao bạo của con người trong tình huống trớ trêu ấy cũng là sự lựa chọn của cả
một cộng đồng: phải sống và làm người, phải vượt lên cái đói và cái chết. Đó

7


cũng là tình huống của lịch sử. Có thể nói, thành công của Vợ nhặt trước hết là
thành công của tình huống truyện” [3; tr 113].
Trong 3 cách mở bài trên, rõ ràng cách mở bài thứ 3 đúng và hay nhất, vì
cách mở bài này dẫn dắt tự nhiên tạo sự hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, lại nói rõ
được vấn đề cần nghị luận và nhấn mạnh vào nó.
Còn 2 cách mở bài 1 và 2 chưa đạt yêu cầu vì: mở bài 1 giới thiệu quá
nhiều về tác giả trong khi đề bài yêu cầu phân tích giá trị tình huống truyện. Mở
bài 2 có giới thiệu tình huống truyện nhưng lại nhấn mạnh rằng nó có vai trò
quyết định toàn bộ giá trị nghệ thuật và nội dung (nó sẽ làm người đọc lầm
tưởng rằng đề bài đang đòi hỏi phân tích toàn bộ giá trị của tình huống truyện,
trong khi đề bài chỉ yêu cầu giá trị nghệ thuật).
2.3.1.3. Đoán định luận đề được giới thiệu trong đoạn văn mở bài
Ví dụ: Xác định vấn đề được triển khai trong các đoạn văn mở bài sau.
Mở bài: Hỡi đồng bào cả nước,
" Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hành phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong bản "Tuyên ngôn Độc lập" năm 1776 của nước Mỹ.
Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm
1791 cũng nói:

"Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được
tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được [3, tr 113].
Mở bài: “Năm thập kỷ trước đây, khi Nam Cao quyết định bắt tay vào
viết Cái lò gạch cũ - tên đầu tiên của Chí Phèo thì trong văn học hiện thực phê
phán, đề tài nông thôn đã qua mùa nở rộ, và những sáng tác thành công về nông
dân của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,… đã tồn tại sừng
sững giữa văn đàn. Tác phẩm của một cây bút hồi ấy còn chưa mấy ai biết đến
tên tuổi như Nam Cao cầm chắc sẽ bị che khuất, sẽ bị rơi vào cõi lãng quên, nếu
tác giả không tìm cho mình được một hướng khai thác riêng cho một đề tài đã
thành quen thuộc. Thử thách đó, Nam Cao đã lặng lẽ chấp nhận, và đã vượt qua,
với một Chí Phèo thật sự sâu sắc và độc đáo” [3; tr 114].
- Mở bài 1: Bàn về quyền sống, quyền tự do, độc lập của con người Việt
Nam, của dân tộc Việt Nam.
- Mở bài 2: Những khám phá độc đáo, sâu sắc của Nam Cao về đề tài
người nông dân trong tác phẩm Chí Phèo.
2.3.1.4. Chữa lỗi để hoàn chỉnh đoạn văn mở bài
Ví dụ: Cha ông ta thường nói "tốt gỗ hơn tốt nước sơn".
Anh chị suy nghĩ như thế nào về câu nói trên?.
Với đề bài trên có học sinh mở bài như sau: “L.Tônxtôi từng nói "Người
ta đáng yêu không phải vì đẹp mà đẹp vì đáng yêu" ý của nhà văn muốn đề cao

8


phẩm chất, nhân cách bên trong của mỗi con người chúng ta. Mỗi con người ai
cũng có vẻ bên ngoài, bên trong và cái bên trong luôn quyết định cái bên ngoài.
Câu tục ngữ "tốt gỗ hơn tốt nước sơn" cũng vậy”.
Yêu cầu học sinh căn cứ vào cấu tạo, chức năng phần mở bài hướng học
sinh nhận ra rằng: Mở bài này tuy có giới thiệu được vấn đề cần nghị luận

nhưng diễn đạt dài dòng, trùng lặp, chưa chặt chẽ.
Trên cơ sở bài làm của học sinh, giáo viên bổ sung và chữa lại như sau:
“L.Tônxtôi từng nói "Người ta đáng yêu không phải vì đẹp mà vì đáng
yêu" ý nhà văn muốn đề cao phẩm chất con người. Cùng quan điểm như vậy,
nhưng cách diễn đạt giàu hình ảnh và có thể hiểu rộng ra phạm vi đánh giá con
người, tục ngữ Việt Nam có câu "tốt gỗ hơn tốt nước sơn"”.
Ngoài cách sửa mà người viết đưa ra vẫn còn nhiều cách sửa khác nữa.
Tuy nhiên, người viết chỉ nêu ra một cách sửa đơn giản nhất trên cơ sở tôn trọng
và giữ lại bài viết của học sinh.
2.3.1.5.Hướng dẫn học sinh tự viết phần mở bài
Mở bài theo kiểu trực tiếp:
Ví dụ : Phân tích hình tượng nhân vận Huấn Cao trong tác phẩm Chữ
người tử tù của Nguyễn Tuân.
Mở bài: Ai đã đọc tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân hẳn không
khỏi xúc động sâu sắc trước vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao. Một
hình tượng được xây dựng từ một nguyên mẫu có thật là Cao Chu Thần - Cao
Bá Quát. Tác phẩm được rút trong tập Vang bóng một thời đó chính là thành quả
của hành trình tìm về với cái đẹp trong một thời quá vãng nay chỉ còn "vang
bóng".
Mở bài theo kiểu gián tiếp
Mở bài theo lối diễn dịch: Nên ý khái quát của vấn đề rồi dẫn vào đề.
Ví dụ: Phân tích hình tượng Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù
của Nguyễn Tuân?
Mở bài: Nhắc đến Nguyễn Tuân là nhắc đến một người nghệ sĩ suốt đời
đi tìm cái đẹp, với tâm niệm đó ông đã xây dựng được hình tượng đẹp về con
người tài hoa, có nhân cách cao thượng. Một trong những nhân vật để lại ấn
tượng sâu sắc nhất cho người đọc đó là Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử
tù. Chữ người tử tù chính là tác phẩm hay nhất, đặc sắc nhất trong tập Vang
bóng một thời (1940). Với tác phẩm này, nhà văn họ Nguyễn không chỉ tập trung
khắc họa vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao mà thông qua hình tượng đó ông

còn bộc lộ quan niệm về cái đẹp và tấm lòng yêu nước thầm kín của mình.
Mở bài theo lối quy nạp: nêu lên những ý nhỏ hơn vấn đề đặt ra trong đề
bài rồi tổng hợp lại thành vấn đề cần nghi luận
Ví dụ: Phân tích hình tượng Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù
của Nguyễn Tuân?
Mở bài: “Trong cuộc sống cũng như trong văn học, có không ít nhân vật
tài cao khiến ta phải nghiêng mình thán phục. Lại có những người được ngưỡng
mộ vì vẻ đẹp sáng ngời của tâm hồn. Nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm chữ

9


người tử tù của Nguyễn Tuân là một hình tượng đẹp theo cả hai nghĩa: đẹp ở sự
tài hoa và đẹp ở nhân cách cứng cỏi, cao thượng” [1; tr 26].
Mở bài theo lối tương liên: Nêu lên một ý kiến tương tự như đề bài rồi
bắt sang vấn đề cần nghị luận.
Ví dụ: Phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam
Cao để làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí.
Mở bài: Tôi nhớ mãi câu nói của họa sĩ Hà Lan Van- gốc: "Không có gì
nghệ thuật hơn tình yêu thương con người". Đó là chân lý của cuộc sống, cũng
là chân lý muôn đời của thi ca. Cho đến khi đọc những dòng văn thấm đượm
tình người, những câu văn nhỏ máu trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao tôi
mới càng thấm thía cái chân lý vĩnh cửu và xanh tươi ấy. Có lẽ, để đạt được điều
đó bởi Nam Cao qua tác phẩm của mình đã xây dựng khá thành công nhân vật
Chí Phèo, đặc biệt là khi ông đi sâu vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của
Chí.
Mở bài theo lối đối lập: Nêu ý kiến trái ngược với ý trong đề bài rồi lấy
đó làm cớ để chuyển sang vấn đề nghị luận
Ví dụ: Phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn
Tô Hoài.

Mở bài: Chúng ta đã gặp không ít những số phận người phụ nữ bi thương
trong các tác phẩm văn học Việt Nam, đó là một Mỵ Nương đầy oan khuất, một
nàng Kiều đầy bi kịch, một chị Dậu đầy tuổi hờn. Nhưng khi tiếp cận với dòng
văn học hiện thực sau năm 1945, vẫn là những người phụ nữ ngày xưa ấy lại
vùng lên mạnh mẽ, đứng dậy làm chủ cuộc đời mình. Một trong những nhân vật
văn học nữ tiêu biểu ấy là Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô
Hoài.
2.3.2. Các biện pháp rèn luyện kỹ năng viết phần kết bài
2.3.2.1. Nhận diện đoạn văn kết bài
Trong các đoạn văn sau, đoạn nào là đoạn văn kết bài? Vì sao?
Đoạn 1: Mọi vật đều sợ thời gian, bởi lớp bụi thời gian sẽ phủ mờ đi tất
cả. Nhưng bản thân bụi thời gian lại sợ các vĩ bởi sự tồn tại của vĩ nhân là
trường cửu. Quỹ thời gian càng phủ dày lên bao nhiêu lại càng tôn lên cao hơn,
rực rỡ hơn, rõ nét hơn những phẩm chất, cốt cách của con người bất hủ. Đến với
bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh ta bắt gặp cùng cảm xúc ấy.
Đoạn 2: “Khi tác phẩm Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan và Tắt
đèn của Ngô Tất Tố ra đời thì ít ai có thể nghĩ rằng còn có nỗi khổ nào khổ hơn
nỗi khổ của chị Dậu, anh Pha. Nhưng khi Chí Phèo ngật ngưởng trong cơn say
bước ra từ trang sách của Nam Cao người đọc liền nhận ra rằng đây mới là hiện
thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là thống khổ của người nông dân Việt Nam
trước cách mạng. Chị Dậu bán chó, bán con nhưng chị vẫn được là người, Chí
Phèo phải bán cả linh hồn và thể xác cho quỷ giữ” [6; tr 243].
Đoạn 3: Nói tóm lại, truyện ngắn Hai đứa trẻ nổi bật lên hình ảnh nhân
vật Liên với những nét đẹp tâm hồn đáng quý. Dù sống trong nơi bùn lầy, nước
đọng. Sống trong khốn khó và mưu sinh nhưng bóng tối, nghèo khổ của phố

10


huyện không làm giảm đi sự mơ mộng, lãng mạn, nhạy cảm của một cô gái mới

lớn cũng như lòng thương người và khát khao về một tương lai tươi sáng
Rõ ràng trong ba đoạn văn trên chỉ có đoạn văn thứ ba là đoạn văn kết bài
vì nó làm nhiệm vụ kết thúc vấn đề, đáp ứng đúng yêu cầu của một đoạn văn kết
bài.
2.3.2.2. Đánh giá đoạn văn kết bài
Ví dụ: suy nghĩ của anh/chị về nhân vật ông lái đò trong tùy bút Người
lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân)?
Kết bài 1: “Thiên tùy bút Người lái đò sông Đà đã thể hiện rõ sự tài hoa,
uyên bác trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Đó chính là sự phong phú,
tinh tế trong cách biểu hiện thiên nhiên, con người để khắc họa rõ nét cái kì vĩ,
phi thường của công cuộc chinh phục thiên nhiên. Tác phẩm hấp dẫn ở nhịp văn
giàu nhạc điệu, đầy lôi cuốn; cách dùng từ phong phú, sinh động đầy bất ngờ.
Đặc biệt, hình tượng người lái đò sông Đà đã để lại những ấn tượng thật sâu
sắc” [3; tr 114].
Kết bài 2: “Hình tượng người lái đò sông Đà, như đã đề cập, mang vẻ đẹp
vừa mạnh mẽ, vừa kĩ vĩ, vừa bay bổng, phóng túng. Sự sáng tạo, dũng cảm và
tài hoa của người lái đò trong cuộc đối mặt với thở thách trên sóng nước là biểu
tượng cho những phẩm chất đáng trân trọng nhất của người lao động - đồng thời
là người nghệ sĩ - theo cảm quan đặc biệt của Nguyễn Tuân. Từ tay lái "nở hoa"
trên thác ghềnh một lần nữa, Nguyễn Tuân lại khẳng định rõ bản lĩnh và quan
niệm nghệ thuật của mình” [3; tr 114].
Với hai cách kết bài trên cho cùng một vấn đề ta dễ dàng nhận ra cách kết
bài thứ hai là đúng và phù hợp hơn vì nó đánh giá khái quát về ý nghĩa hình
tượng nhân vật ông lái đò, đồng thời gợi suy nghĩ, liên tưởng sâu sắc cho người
đọc. Nó còn cho thấy đoạn văn có sự liên kết chặt chẽ với các đoạn văn trước và
có dấu hiệu kết thúc vấn đề nghị luận.
2.3.2.3. Đoán định luận đề được triển khai trong kết bài
Xác định vấn đề được triển khai trong các đoạn văn kết bài sau.
Kết bài 1: “Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập, và sự thật đã thành một nước tự
do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững nền tự do, độc lập ấy” [3; tr 115].
Kết bài 2: “Hai đứa trẻ đã thực hiện được điều này. Hơn thế nữa, dấu ấn
của phố huyện ấy luôn khảm trong trong ta bằng quyền năng kì lạ. Bây giờ và
mãi mãi sau này, mỗi khi đúng trước một phố huyện nào thì câu chuyện của
Thạch Lam dễ sống lại trong ta, bằng ánh sáng đẹp, kì diệu” [3; tr 115].
Luận đề được triển khai trong các các kết bài trên:
Kết bài 1: Khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam và
quyết tâm giữ vững nền độc lập, tự do ấy.
Kết bài 2: Là đoạn văn kết cho đề Phân tích bức tranh phố huyện nghèo
trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

11


2.3.2.4. Chữa lỗi để hoàn chỉnh đoạn kết bài
Ví dụ: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử?
Với đề bài trên có học sinh đã kết bài như sau:
“Hàn Mặc Tử đã phải từ biệt cuộc đời khi tài năng thơ ông đang vào độ
chín. Ông ra đi nhưng tài năng của ông còn lại đó. Thời gian không thể làm phai
mờ hình ảnh ông”.
Yêu cầu học sinh căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ phần kết bài hướng học
sinh nhận ra rằng: kết bài này chưa hoàn chỉnh, chưa cho người đọc biết được
người viết đang kết thúc cho vấn đề gì.
Trên cở sở bài làm của học sinh các em cần bổ sung và chữa lại như sau:
“Hàn Mặc Tử đã phải từ biệt cuộc đời khi tài năng thơ ông đang vào độ
chín. Ông ra đi nhưng tài năng của ông còn lại đó. Thời gian không thể làm phai
mờ mà trái lại, đây chính là chất xúc tác để thơ ông sáng chói hơn. Và bài thơ
Đây thôn Vĩ Dạ mãi là một bài thơ bất hủ của một hồn thơ trong sáng, trinh

bạch, thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống, khát khao tình đời và tình người”.
Cũng với đề bài trên có học sinh lại kết như sau:
“Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ hay của Hàn Mặc Tử. Bài thơ mở
đầu là một câu hỏi tu từ, kết thúc cũng là một câu hỏi tu từ. Câu hỏi tu từ kết lại
bài thơ như đặt ra niềm băn khoăn cho chúng ta và thực sự mỗi chúng ta tự hỏi
có nên băn khoăn?”
Yêu cầu học sinh căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ phần kết bài hướng cho
học sinh nhận ra rằng: kết bài trên tuy đã kết lại vấn đề nhưng diễn đạt lủng
củng, vòng vo, trùng lặp.
Trên cơ sở bài làm của học sinh nên bổ sung và chữa lại như sau:
“Có điều này rất lạ: Bài thơ mở đầu là một câu hỏi tu từ, kết thúc cũng là
một câu hỏi tu từ. Câu hỏi tuy kết thúc bài thơ nhưng lại mở ra bao nỗi niềm băn
khoăn, suy ngẫm trong lòng người đọc. Đây thôn Vĩ Dạ quả là một bài thơ hay
và để lại thật nhiều dư vị. Bài thơ chính là nỗi khát khao về tình yêu, cũng là
khát khao về tình đời, tình người”.
Tất nhiên ngoài cách sửa kết bài trên còn rất nhiều cách sửa khác nữa.
Tuy nhiên, người viết chỉ chọn một cách sửa đơn giản nhất trên cở sở tôn trong
bài làm của học sinh.
2.3.2.5. Hướng dẫn học sinh tự viết phần kết bài
Viết kết bài khép
Là kiểu kết bài khép lại vấn đề bằng cách tóm lược và nhấn mạnh những
ý quan trọng nhất đã bàn luận trong bài.
Ví dụ: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trong tác
phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
Kết bài: Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong
cái “tài” có cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng, sáng
ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái
đẹp đó mới có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhà

12



văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc khắc họa chân dung nghệ thuật điển
hình lí tưởng trong văn học.
Viết kết bài mở (chủ yếu giành cho học sinh khá giỏi)
Phát triển: Mở rộng thêm vấn đề, gợi cho người đọc tiếp tục suy nghĩ
thêm.
Ví dụ: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai
đứa trẻ của Thạch Lam
Kết bài: Với lối viết nhẹ nhàng, mỗi truyện tựa như một bài thơ trữ tình
đầy xót thương, Thạch Lam đã mang đến cho người đọc sự đồng cảm sâu sắc về
những thân phận cuộc đời trong xã hội cũ. Qua nhân vật Liên, nhà văn đã làm
toát lên những giá trị nhân văn cao đẹp. Trang văn khép lại rồi mà chúng ta vẫn
thấy trước mắt hình ảnh hai đứa trẻ ngồi đấy giữa phố huyện nghèo, tăm tối
đang đợi chuyến tàu đi qua trong khát vọng mỏi mòn.
Vận dụng: Từ kết quả bàn bạc đã đạt được hướng người đọc vào hành
động thực tiễn, nghĩa là nêu phương hướng, bài học áp dụng để phát huy hay
khắc phục vấn đề nêu trong bài viết.
Ví dụ: Suy nghĩ của anh/chị về mối quan hệ giữa tiền tài và hạnh phúc:
Kết bài: Tiền tài và hạnh phúc là mối quan hệ bản chất của xã hội loài
người. Tiền tài và hạnh phúc là khát vọng muôn đời của nhân loại. Nhưng để
điều hòa được mối quan hệ này không phải là đơn giản, nhất là trong xã hội hiện
đại khi mà nhu cầu của con người ngày càng cao hơn. Để có được hạnh phúc
thực sự, mỗi người phải biết dùng tiền tài như một phương tiện để gây dựng và
bảo vệ hạnh phúc, không nên để tiền tài sai khiến “Tiền là một tên đầy tớ tốt
nhưng là một ông chủ xấu”.
Liên tưởng: Mượn lời người khác tổng hợp thay cho mình (người có uy
tín).
Ví dụ: Phân tích bài thơ Vội vàng để thấy quan niệm mới mẻ của Xuân
Diệu về tình yêu, mùa xuân và hạnh phúc.

Kết bài: Đọc Vội vàng của Xuân Diệu, tôi chợt nhớ đến câu nói của nhân
vật Pavel : “Cái quý nhất của con người ta là sự sống. Đời người chỉ sống có
một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống
hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình”. Vội
vàng cũng có cùng thông điệp đó. Đọc bài thơ, ta càng thêm yêu cuộc sống hôm
nay và càng góp phần làm cho cuộc sống đó thêm tươi đẹp, không chỉ vì cuộc
sống hôm nay đã đổi mới, đã đẹp hơn nhiều lần so với cuộc sông ngày xưa mà
chủ yếu là không còn những bi kịch để thành những băn khoăn trước cuộc đời.
Hãy sống hết mình, cống hiến tuổi trẻ cho Tổ quốc nhân dân, đừng phí hoài thời
gian, hãy mở rộng lòng mình để đón nhận tất cả những vang động của cuộc đời.
Bức thông điệp nhà thơ gửi đến người đọc vẫn cònnguyên giá trị, được bồi đắp
thêm qua thời gian và trường tồn vĩnh cửu, ngự trị muôn đời trong tâm hồn con
người Việt Nam.
Hỗn hợp: Phối hợp trong một đoạn văn kết bài nhiều cách kết bài trên.

13


Ví dụ: Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ
người tử tù của Nguyễn Tuân.
Kết bài: Thời gian có thể xóa nhòa đi tất cả nhưng thời gian không thể
đưa Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân đi vào quên lãng. Trái lại, quỹ thời gian
càng đầy lên bao nhiêu, tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân lại càng
được khẳng định bấy nhiêu. Vì Chữ người tử tù là một tác phẩm văn chương
thực thụ, mà ta biết rằng:"Văn học nằm ngoài định luật của sự băng hoại, chỉ
mình nó là không thừa nhận cái chết"(Sê-đư-rin). Ta chỉ còn biết nói rằng: Huấn
Cao đã đi vào cõi bất tử.
Kết bài theo lối "điểm nhãn":
Đây là câu chuyện "điểm nhãn" cho rồng theo nguyên tắc hội họa phương
Đông. Người họa sĩ vẽ đúng, người xem vẫn nhận ra được đấy là con rồng, song

khi "điểm nhãn" (vẽ mắt) thì ngay lập tức con rồng sống động hẳn lên.
Ví dụ: Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh.
Kết bài: Chiều tối của Hồ Chí Minh quả là một giọt nước trong biển cả,
là một nét đơn sơ, nhỏ bé trước bao nhiêu thành tựu lớn lao của văn học thế giới
và văn học nước nhà. Những dẫu hòa trong một biển lớn, "giọt nước" ấy vẫn
mặn mà, nồng thắm, vẫn âm vang nhịp đập thủy triều và vẫn "trơ gan” cùng
dòng chảy của thời gian.
Với cách kết bài trên, người viết đã có ý thức "trang sức, điểm nhãn" cho
lời văn của mình để lời văn thêm chau chuốt, giàu sức biểu cảm.
Kết mà như không kết:
VD1: Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo trong
tác phẩm cùng tên của Nam Cao?
Kết bài: Gấp trang sách lại mà tiếng kêu cứu của Chí Phèo vẫn nhức nhối
mãi trong lòng tôi: Ai cho tao làm người lương thiện? Trong xã hội xưa, để làm
một con người lương thiện thật khó như vậy ư ? Với tác phẩm này, qua bi kịch
này, Nam Cao như muốn gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh: Hãy cứu lấy con
người!
VD2: Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh?
Kết bài: Bác ơi! Khi con viết những dòng suy nghĩ này về Bác, Người đã
yên nghỉ ngàn thu giữa Hà Nội và giữa lòng dân tộc. Mỗi khi đọc bài thơ Chiều
tối, mỗi khi đông về cái rét tê lạnh làm buốt giá, con mãi tìm Người trong cõi hư
vô.
Nói tóm lại, một kết bài hay thật phong phú, thú vị và có những điểm
riêng nhưng đều chung nhau những điểm nhất định: đúng, song phải sáng tạo,
gây được ấn tượng và để lại dư vị trong người đọc. Kết bài hay vừa phải đóng
lại, chốt lại, vừa phải mở ra, nâng cao và cứ ngân nga mãi trong lòng người.
Kết bài cũng có mĩ học của nó vậy.
2.4. Hiệu quả
2.4.1. Đối với bản thân
Sau một vài năm tiến hành áp dụng các biện pháp rèn luyện kĩ năng mở

bài, kết bài cho học sinh như đã nêu ở trên, tôi nhận thấy ở sinh hoc đã có sự

14


tiến bộ đáng kể. Từ chỗ nhiều em còn khó khăn, lúng túng, mất nhiều thời gian
vào việc viết đoạn mở bài, kết bài thì nay các em đã viết đúng hơn, nhanh hơn.
Đặc biệt, còn có một số phần mở bài hấp dẫn hơn, khơi gợi được tình cảm, chạm
đến được cảm xúc của người đọc. Kết quả được thể hiện ở bảng thống kê sau.
Trước khi vận dụng (Bài khảo sát chất lượng đầu năm):
Lớp
11D3
12A2

Số
Điểm 8 – 10
lượng SL
%
40
1
2.5%
46
3
6.5%

Điểm 6 – 7
Điểm 5
Điểm dưới 5
SL
%

SL
%
SL
%
22
55%
13
32.5% 4
10%
37
80.5% 6
13%
0
0%

Sau khi vận dụng (Bài kiểm tra cuối học kì I - năm học 2016-2017)
Lớp
11D3
12A2

Số
Điểm 8 – 10
Điểm 6 – 7
Điểm 5
lượng SL
%
SL
%
SL
%

40
5
12.5% 27
67.5% 8
20%
46
7
15.2% 36
78.3% 3
6.5%

Điểm dưới 5
SL
%
0
0%
0
0%

2.4.2. Đối với tổ bộ môn
Từ kết quả giảng dạy của bản thân, tôi đã mạnh dạn đưa ra trước tổ bộ môn
những biện pháp nhằm rèn luyện kỹ năng mở bài, kết bài trong bài văn nghị luận
cho học sinh. Những biện pháp trên đều được các đồng nghiệp trong tổ áp dụng
trong các giờ dạy của mình và kết quả bài làm của học sinh tăng lên đáng kể.

15


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận

Nhìn chung, để viết tốt phần mở bài, kết bài nói riêng và bài văn nghị luận
nói chung, đòi hỏi sự nỗ lực cuả cả người dạy lẫn người học.Trong đó, phương
pháp khoa học, phù hợp của giáo viên là yếu tố góp phần không nhỏ trong việc
nâng cao kết quả học tập của các em học sinh.
Từ thực tế giảng dạy của bản thân, tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp
nhằm rèn luyện kĩ năng mở bài và kết bài trong bài văn nghị luận cho học sinh ở
trường THPT. Mong muốn của tôi là có thể góp nhặt thêm một vài kinh nghiệm
nhỏ vào quá trình đổi mới môn học, giúp nâng cao kĩ năng làm bài văn nghị luận
cho học sinh nói riêng và chất lượng bộ môn Ngữ văn ở trường THPT nói
chung. Những phương pháp mà tôi đã trình bày ở trên có thể giúp học sinh yếu,
kém, trung bình rèn luyện và nâng cao kỹ năng viết văn nghị luận, đồng thời là
tài liệu tham khảo bổ ích cho học sinh khá, giỏi.
Tuy nhiên, đây chỉ là những kinh nghiệm của riêng bản thân tôi. Vì thế,
tôi rất mong nhận được những góp ý chân thành của quý cấp và các bạn đồng
nghiệp để tôi có thể hoàn thiện hơn đề tài này.
3.2. Kiến nghị
Trên đây là những biện pháp rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài trong bài
văn nghị luận cho học sinh ở trường THPT mà tôi đã đúc kết từ thực tế giảng
dạy của bản thân. Tuy nhiên, khi áp dụng những biện pháp, bản thân tôi và đồng
nghiệp vẫn gặp không ít khó khăn. Khó khăn nhất là trong khung phân phối
chương trình không có nhiều tiết học dành cho việc rèn luyện kĩ năng mở bài,
kết bài (chỉ có một bài trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 – học
kì 2). Trong khi đó, ngay từ lớp 10, học sinh đã phải làm bài văn nghị luận. Thời
lượng ít nên chúng tôi phải lồng ghép việc rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài cho
học sinh trong các tiết học tự chọn, các giờ ôn tập. Vì thế, để các biện pháp trên
được áp dụng một cách hiệu quả, thiết nghĩ cần tăng thêm các tiết học nhằm rèn
luyện kĩ năng mở bài và kết bài trong bài văn nghị luận cho học sinh.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Thanh Hóa, ngày20 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Trần Thị Thùy

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Làm văn 12 (Nxb Giáo dục, 2000)
2. Sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập 2 (Nxb Giáo dục, 2006)
3. Sách giáo khoa Ngữ văn 12 tập 2 (Nxb Giáo dục, 2007)
4. Sách giáo viên Ngữ văn 11 tập 2 (Nxb Giáo dục, 2006)
5. Sách giáo viên Ngữ văn 12 tập 2 (Nxb Giáo dục, 2007)
6. Văn học Việt Nam hiện đại – Những gương mặt tiêu biểu (Nxb Phụ nữ, 2012)
7. Đọc – Hiểu văn bản Ngữ văn 11 ( Nguyễn Trọng Hoàn chủ biên, Nxb Giáo
dục, 2008).

17



×