Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tự đánh giá cho học sinh trong các giờ trả bài làm văn ở trường THPT hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.09 KB, 20 trang )

SỞ GD & ĐT THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NGUYỄN XUÂN NGUYÊN

SỞ GD&ĐT THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NGUYỄN XUÂNSÁNG
NGUYÊN
KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC TỰ ĐÁNH
GIÁ CHO HỌC SINH TRONG CÁC GIỜ TRẢ BÀI LÀM VĂN
Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hạnh
Tổ công tác: Tổ Ngữ văn
Năm học: 2016 - 2017
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

Thanh Hóa, tháng 5 năm 2017


MỤC LỤC
Nội dung
I. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
1.2 Mục đích nghiên cứu
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4 Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1 Cơ sở pháp lí
2.1.2 Một số khái niệm


2.2 Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1 Thuận lợi
2.2.2 Khó khăn
2.3 Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải

Trang
2
2
3
3
3
4
4
4
4
5
5
6
6

quyết vấn đề
2.3.1 Giúp học sinh xác định những yêu cầu cơ bản, những năng lực

6

quan trọng cần hình thành và phát triển trong mỗi giờ trả bài làm văn
2.3.2 Hướng dẫn học sinh tự đánh giá, nhận xét bài văn
2.3.3 Hướng dẫn học sinh tự tổ chức hoạt động rút kinh nghiệm về bài

8

11

kiểm tra làm văn
2.3.4 Hướng dẫn tự học
2.4 Hiệu của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với

13
15

bản thân đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục

15

và bản thân
2.4.2 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với đồng nghiệp
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

15
17
17
18
19

2



SÁNG
KIẾN
KINH
NGHIỆM
Thanh Hóa,
năm đề
2016
1.1tháng
Lí do5chọn
tài

I. MỞ ĐẦU

Trên phương diện tổng quát, đổi mới giáo dục phổ thông, trong đó đổi
mới hoạt động kiểm tra đánh giá trong môn Ngữ văn nhằm nâng cao năng lực tự
đánh giá cho học sinh là một yêu cầu trọng yếu và có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Về bản chất, trả bài làm văn là một hoạt động cơ bản trong chương trình
dạy học Ngữ văn ở trường trung học phổ thông (viết tắt là THPT) hiện nay. Nó
là khâu cuối cùng và có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình kiểm tra đánh
giá môn học cũng như xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ dạy học. Thông
qua hoạt động này, giáo viên, các nhà quản lí giáo dục có thể thu thập thông tin,
làm cơ sở để điều hành, chỉ đạo việc dạy học một cách hiệu quả.
Trên góc độ người học, thực hiện tốt hoạt động trả bài làm văn, không
chỉ có thể đánh giá chính xác khả năng nhận thức, tư tưởng, tình cảm của người
học mà còn có thể nâng cao các năng lực quan trọng khác của họ như năng lực
hợp tác, phát hiện và giải quyết vấn đề, đặc biệt là năng lực tự nhận thức, khả
năng tự đánh giá. Cũng qua hoạt động trả bài làm văn, giáo viên có thể giáo dục
học sinh biết trân trọng, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, bồi dưỡng lòng tự
hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước.
Vấn đề đổi mới hoạt động trả bài làm văn cho học sinh THPT hiện nay đã

được nhiều nhà giáo dục, giáo viên đứng lớp quan tâm. Tuy nhiên, việc tìm ra giải
pháp phù hợp để nâng cao chất lượng hoạt động trả bài làm văn, đặc biệt là nâng
cao năng lực tự đánh giá của người học còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc.
Khảo sát điều tra trực tiếp các bài thi, kiểm tra định kì của học sinh trong
những năm qua ở các nhà trường THPT cho thấy, hầu hết lời phê, lời nhận xét
bài văn đều do giáo viên thực hiện. Việc tự nhận xét, đánh giá bài làm văn của
người học chưa được phát huy.
Chọn đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực tự đánh giá cho học sinh trong
các giờ trả bài làm văn ở trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên”. Chúng tôi mong
muốn đưa ra một số giải pháp phù hợp để thực hiện có hiệu quả hoạt động trả
bài, góp phần nâng cao năng lực tự đánh giá nhận xét cho học sinh THPT trong
các giờ dạy học làm văn hiện nay.
3


1.2. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần nâng cao chất lượng các giờ trả bài làm văn cho học sinh
THPT hiện nay.
- Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới
công tác đánh giá nói riêng.
- Góp phần đào tạo lực lượng lao động có năng lực đánh giá, tư duy sáng tạo.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Giải pháp nâng cao năng lực tự đánh giá cho học sinh trong các giờ trả bài
làm văn ở trường THPT hiện nay.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
- Phương pháp điều tra, khảo sát.

Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng kết hợp một số phương pháp khác.

4


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1 Cơ sở pháp lí
Nghị quyết 29/NQ-TW: “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” [1].
Đổi mới hoạt động trả bài làm văn thực chất là đổi mới hoạt động nhận
xét, đánh giá. Giáo viên không phải là người độc quyền đánh giá bài văn, mà đó
là hoạt động đánh giá của thầy trên cơ sở tự đánh giá của trò. “Trước đây, giáo
viên độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp dạy học tích cực, giáo
viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá” [2]. Thực tiễn dạy
học làm văn cho thấy, các giờ trả bài làm văn ở trường THPT hiện nay, giáo viên
rất lúng túng trong việc thực hiện vấn đề đổi mới hoạt động trả bài để phát triển
năng lực tự nhận xét và đánh giá cho học sinh. Vì vậy, trong đề tài Giải pháp
nâng cao năng lực tự đánh giá bài làm văn cho học sinh THPT hiện nay, chúng
tôi sẽ trình bày những giải pháp cơ bản, góp phần nâng cao năng lực tự đánh giá,
nhận xét nói riêng và những kĩ năng cần thiết khác nói chung cho học sinh
THPT.
2.1.2. Một số khái niệm
a. Giải pháp
Giải pháp là cách giải quyết một vấn đề.
b. Năng lực tự đánh giá
Laws (2006) định nghĩa “Đánh giá là tiến trình thu thập và phân tích
bằng chứng đưa đến kết luận về một vấn đề, một phẩm chất, giá trị, ý nghĩa
hoặc chất lượng của một chương trình, một sản phẩm, một người, một chính

sách hay một kế hoạch nào đó.” (10, 2006) [3]. Dựa trên định nghĩa của Laws
(2006), chúng tôi đưa ra một định nghĩa nâng cao năng lực tự đánh giá cho học
sinh trong các giờ trả bài làm văn ở trường THPT: Năng lực tự đánh giá là khả

5


năng học sinh tự biết nhận xét, phân tích được ưu điểm, nhược điểm trong bài
văn của mình. Từ đó có những giải pháp để nâng cao năng lực làm văn.
Như vậy, giải pháp nâng cao năng lực tự đánh giá của học sinh trong các
giờ trả bài làm văn ở THPT là đưa ra các giải pháp nâng cao năng lực học sinh
tự đánh giá từ đó rút ra những kĩ năng để làm tốt một bài làm văn.
2.2 Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thuận lợi
* Về phía chương trình, sách giáo khoa
Theo quy định của Bộ Giáo dục – Đào tạo, giờ trả bài làm văn trong
chương trình môn Ngữ văn THPT được quy định như sau:
Lớp 10 và 11 (ban cơ bản), có 7 bài kiểm tra định kì, tương ứng với 7 giờ
trả bài làm văn (được thực hiện trong 7 tiết trả bài).
Lớp 12 (ban cơ bản), có 7 bài kiểm tra định kì, tương ứng với 7 giờ trả bài
làm văn (được thực hiện trong 7 tiết trả bài).
Sau mỗi bài kiểm tra làm văn (viết) tại lớp hoặc ở nhà, sách giáo khoa đều
biên soạn các nội dung, hình thức gợi ý cho việc thực hiện tiết trả bài làm văn.
Đây là cơ sở pháp lí và cũng là những gợi ý hết sức quan trọng và cần thiết để
giáo viên đưa ra những hình thức thiết kế hoạt động phù hợp nhằm rèn luyện,
nâng cao kĩ năng tự nhận xét, đánh giá bài làm văn cho học sinh.
* Về phía các nhà quản lí giáo dục
Những chỉ thị, công văn chỉ đạo thực hiện chương trình môn Ngữ văn của
các cấp giáo dục đã có những chỉ dẫn quan trọng, kịp thời về vấn đề đổi mới
hoạt động đánh giá, trong đó nhấn mạnh: thầy đánh giá trên cơ sở sự tự đánh

giá của trò.
Việc thực hiện kiểm tra theo chuẩn kiến thức kĩ năng, ma trận đề kiểm tra
là cơ sở để phát triển năng lực tự nhận xét đánh giá của người học.
* Về phía giáo viên và học sinh
Giáo viên đã nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng
nhận xét, đánh giá của học sinh trong các giờ trả bài. Đã có nhiều công trình
6


khoa học, chuyên luận, bài báo của giáo viên bàn về vấn đề đổi mới hoạt động
kiểm tra đánh giá.
Học sinh có sự thay đổi tích cực về nhận thức, thái độ và hành động trong
các giờ trả bài: Có ý thức nâng cao năng lực làm văn, quan tâm đến vấn đề giải
quyết tình huống đặt ra từ thực tiễn cuộc sống, và mong muốn phát triển năng lực
tự đánh giá nhận xét cũng như các năng lực quan trọng khác như năng lực tổ chức
hoạt động tập thể, năng lực giao tiếp, hợp tác, khả năng tranh luận, bác bỏ…
Tiêu chí đánh giá sự thành công của hoạt động trả bài làm văn chính là
năng lực đánh giá, nhận xét của người học chứ không phải là của người dạy.
Cho nên, mỗi giờ trả bài sẽ trở nên thiết thực, hào hứng hơn với người học.
2.2.2. Khó khăn
Về chương trình, sách giáo khoa: Chưa có những gợi ý, chỉ dẫn cụ thể,
thiết thực về hình thức, cách thức tổ chức hoạt động đánh giá bài văn trong các
tiết trả bài.
Về phía giáo viên: Nhiều giáo viên và học sinh chưa quen với hình thức
đánh giá mới, đó là thầy đánh giá trên cơ sở sự tự đánh giá của trò.
Về quy trình hiện thực hóa hoạt động đổi mới đánh giá: Đổi mới hoạt
động đánh giá là khâu quan trọng cuối cùng trong mắt xích đổi mới phương
pháp dạy học. Đổi mới công tác đánh giá phải được thực hiện đồng bộ với việc
đổi mới hoạt động dạy học làm văn, ra đề kiểm tra làm văn. Đây là quá trình lâu
dài, bền bỉ và đầy khó nhọc của cả thầy lẫn trò.

2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề
2.3.1. Giúp học sinh xác định những yêu cầu cơ bản, những năng lực quan
trọng cần hình thành và phát triển trong mỗi giờ trả bài làm văn
a. Những yêu cầu cơ bản trong mỗi giờ trả bài làm văn
Giúp học sinh:
- Xác định trọng tâm kiến thức, kĩ năng làm văn cần hình thành, phát triển.
- Hình thành thái độ, tình cảm, hành động đúng đắn.
7


- Góp phần phát triển năng lực của cá nhân (năng lực phát hiện, giải quyết
vấn đề, khả năng giao tiếp, hợp tác, khả năng tự nhận thức…).
- Để thực hiện tốt các yêu cầu trên, giáo viên phải thiết kế được chuỗi
hoạt động khoa học. Trong mỗi giờ trả bài, thầy là người hướng dẫn, giao việc
cho người học. Còn học sinh phải phát huy cao độ tính tích cực, tự giác, sáng tạo
trong giờ học.
b. Những năng lực quan trọng cần hình thành và phát triển trong mỗi giờ trả
bài làm văn
Thứ nhất là nâng cao năng lực làm văn
Tri thức về phương pháp làm văn với những chỉ dẫn hết sức cụ thể đó
không phải là mục đích cuối cùng và cao nhất của dạy học làm văn. Dạy học
làm văn chỉ đạt được mục đích khi học sinh vận dụng lí thuyết để thực hành một
cách nhuần nhuyễn, sáng tạo. Kĩ năng thực hành trong làm văn phải thể hiện cụ
thể qua cách thức học sinh trình bày ý kiến, bảo vệ ý kiến một cách thuyết phục.
Qua các giờ học làm văn, học sinh có thể nâng cao năng lực sử dụng tiếng
Việt để giao tiếp. Nếu học sinh được rèn kĩ năng nhập vai phát tin hoặc nhận tin.
Qua các hoạt động thực hành làm văn, có thể giúp học sinh chuyển hoá năng lực
bên ngoài (hiểu biết) thành năng lực bên trong (khả năng của cá nhân), giúp học
sinh phát triển năng lực giao tiếp, năng lực đánh giá… một cách hiệu quả.

Thứ hai là năng lực đánh giá, nhận xét
Phát triển năng lực đánh giá, nhận xét cũng có nghĩa là nâng cao khả năng
xác định giá trị (giá trị bền vững hoặc giá trị tức thời) của đối tượng cho người
học. Trong giờ trả bài làm văn, năng lực đánh giá, nhận xét của học sinh hình
thành và phát triển khi họ biết xác định được những ưu điểm, nhược điểm của
bài văn. Đó là cơ sở để người học tìm ra nguyên nhân và phương hướng giải
quyết những vấn đề còn vướng mắc.
Thứ ba là năng lực tự học
Dạy là dạy tự học, học là học cách tự học. Muốn học sinh phát triển năng
lực tự học, giáo viên phải dạt cách tự học cho người học. Nếu trước đây, trong
8


cách giờ học trả bài làm văn, bằng lời phê của mình, giáo viên giúp học sinh
nắm được những ưu điểm để phát huy, những nhược điểm của bài làm để khắc
phục thì đổi mới giờ trả bài cũng đồng nghĩa với việc dạy cho học sinh biết cách
tự đánh giá, nhận xét bài văn bằng những lời nhận xét, đánh giá của chính
mình. Từ chỗ dạy cho học sinh đánh giá, nhận xét bài văn theo những tình huống
giả định hoặc đề văn của giáo viên trong các bài kiểm tra làm văn, học sinh biết
tự làm văn, tự đánh giá những ưu điểm, nhược điểm, và đề xuất được hướng giải
quyết hợp lí nhất trước những bài toán cuộc đời.
Thứ tư là năng lực ứng xử
Học sinh được tự mình tổ chức, tự mình thực hành, trải nghiệm hoạt động
học tập để phát hiện vấn đề, để nói, viết những ý kiến, suy nghĩ, kiến giải của
bản thân về các vấn đề, các câu hỏi, các tình huống, các thử thách mà cuộc sống
đặt ra cho con người, từ đó biết đưa ra quyết định kịp thời, những cách thức
hành động chuyên nghiệp, khả năng ứng xử với người khác và với xã hội, khả
năng ứng phó và làm chủ bản thân trước những thách thức của cuộc sống ở
trong mỗi giờ làm văn.
2.3.2. Hướng dẫn học sinh tự đánh giá, nhận xét bài văn

a. Tự nhận xét đánh giá bài làm văn ở nhà
*

Mục đích thực hiện
- Rèn kĩ năng tự học, tự đánh giá, nhận xét
- Phát triển năng lực tự nhận thức của người học

*

Cách thức thực hiện
Bước 1: Tự nhận xét bằng phiếu:
Sau khi làm xong bài kiểm tra, giáo viên phát cho mỗi học sinh một phiếu

tự nhận xét, đánh giá, yêu cầu các em về nhà tự nhận xét ưu điểm, nhược điểm
của bài văn. Tác dụng của cách làm này là rèn cho học sinh kĩ năng tự nhận thức
năng lực của bản thân (mặt mạnh, mặt yếu). Mặt khác, hình thức này nếu được
tổ chức một cách kiên trì trong tất cả các giờ trả bài làm văn sẽ tạo cho học sinh
thói quen, và cao hơn là kĩ năng tự nhận xét, đánh giá kết quả hoạt động học tập,
9


công việc của bản thân, hoặc của người khác. Trên cơ sở hoạt động đánh giá bài
văn của mình, của bạn, người học có thể nâng cao năng lực đánh giá một cách
khoa học và chính xác mọi hoạt động diễn ra trong đời sống của con người. qua
đó, người học sẽ rút kinh nghiệm một cách kịp thời trước khi tiến hành thực hiện
hoạt động tiếp theo trong học tập và cuộc sống.
Đây là phiếu đánh giá của học sinh:
Phiếu nhận xét, đánh giá bài văn của học sinh
Tự nhận xét
Thứ tự


Kiến nghị
Ưu điểm

Nhược điểm

Phần I: Đọc hiểu
Câu 1
Câu 2
Phần II: Văn nghị luận
Câu 1
Câu 2
Lưu ý:
- Học sinh tự nhận xét đánh giá dựa trên các tiêu chí sau:
+ Thang điểm: 10
+ Về kiến thức: Đánh giá độ chính xác, sự sâu sắc trong việc giải quyết vấn đề
+ Về kĩ năng làm bài: Đánh giá tính chuẩn xác, khoa học của các yếu tố: Bố cục,
kết cấu bài văn, chính tả, từ ngữ, câu văn, diễn đạt
+ Khả năng sáng tạo riêng về cách diễn đạt, trình bày, sử dụng từ ngữ, câu văn
hay cách nghĩ, cách giải quyết vấn đề…
- Học sinh cần giữ phiếu đánh giá của mình cho đến hết năm học. Mục
đích là giúp các em và giáo viên theo dõi được quá trình học tập và sự tiến bộ
của các em.
Bước 2: Nạp phiếu tự nhận xét đánh giá bài văn cho giáo viên để làm cơ
sở, căn cứ cho việc nhận xét và cho điểm.
Khi thực hiện tiết trả bài kiểm tra theo lịch trình đã được quy định trong
phân phối chương trình, lớp trưởng tập hợp tất cả các phiếu tự đánh giá của học

10



sinh trong lớp và đưa cho giáo viên trước giờ trả bài một đến hai ngày để giáo
viên tham khảo, quyết định cho điểm.
b. Hướng dẫn cho học sinh tự tổ chức hoạt động xây dựng đáp án cho bài văn
*) Mục đích thực hiện
- Tạo căn cứ để đánh giá chính xác bài văn.
- Qua việc hướng dẫn cho học sinh tự tổ chức hoạt động học tập, có thể
phát triển ở họ năng lực tự học, kĩ năng hợp tác, giao tiếp.
*) Cách thức thực hiện
Thao tác 1: Học sinh tự ứng cử hoặc giáo viên chỉ định một người đảm
nhiệm vai trò điều hành các bạn trong lớp lập đáp án cho bài văn.
Thao tác 2: Dưới sự điều hành của 1 học sinh, cả lớp cùng trao đổi, thảo
luận và thống nhất về đáp án. Nếu học sinh bế tắc hoặc gặp khó khăn trong quá
trình thảo luận để thiết lập đáp án cho đề văn, người điều hành có thể hỏi ý kiến
của giáo viên. Với vai trò là người cố vấn, giáo viên giúp học sinh tháo gỡ
vướng mắc trong nhận thức hay tranh luận và cùng nhau hoàn thành đáp án.
Người điều hành có thể cử một học sinh làm thư kí ghi lại dàn ý bài văn
trên bảng chính để cả lớp quan sát.
c. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh thực hiện hoạt động nhận xét, đánh giá bài
văn trên lớp
Thao tác 1: Sau khi thống nhất đáp án, tất cả học sinh trong lớp đọc lại
bài văn của mình đã làm, bổ sung thêm phần nhận xét về ưu điểm, nhược điểm
của bài văn và đánh giá bằng điểm số vào Phiếu tự nhận xét, đánh giá.
Thao tác 2: Người điều hành (một học sinh được chọn) tiếp tục tổ chức
cho các bạn đọc những nhận xét về ưu điểm và nhược điểm của bài làm văn
trước tập thể lớp để cùng nhau rút kinh nghiệm.
Thao tác 3: Giáo viên và học sinh thống nhất điểm số
Nếu điểm của giáo viên và học sinh không lệch nhau thì học sinh chỉ cần
ghi điểm vào cột thống nhất điểm trên phiếu. Nhưng nếu lệch nhau quá nhiều


11


(trên 1 điểm) thì giáo viên và học sinh cùng trao đổi, tranh luận để đi đến thống
nhất chung về điểm số.
Kinh nghiệm cho thấy, đánh giá của học sinh và giáo viên không lệch
nhau nhiều khi học sinh nắm chắc yêu cầu của đề bài, tổ chức tốt hoạt động xây
dựng đáp án, thang điểm. Đáp án và thang điểm được lập một cách khoa học,
học sinh nắm chắc kĩ năng làm bài, nghiêm túc trong khi thực hiện hoạt động
nhận xét, có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt thì hoạt động thống nhất
đánh giá (bằng điểm) số sẽ diễn ra thuận lợi, nhanh chóng và hiệu quả.
2.3.3. Hướng dẫn học sinh tự tổ chức hoạt động rút kinh nghiệm về bài kiểm
tra làm văn
a. Mục đích
- Giúp người học tự nhận thức được điểm mạnh, điểm yếu của mình, từ
đó biết tìm cách phát huy điểm mạnh và khắc phục điểm yếu. Đây cũng là cách
thức để rèn kĩ năng tự nhận thức cho người học.
- Phát triển năng lực tự học. Đây là năng lực rất quan trọng. Tự học bạn,
tự rút ra những nội dung ý nghĩa sâu sắc mà đề văn gợi ra, từ đó bồi dưỡng tư
tưởng, tình cảm, lí tưởng sống đẹp.
b. Cách thức thực hiện
Thao tác 1: Giáo viên chỉ định hoặc học sinh tự ứng cử để được tham gia
thực hiện vai trò tổ chức, điều hành hoạt động rút kinh nghiệm của cả lớp. Đây
là hoạt động có tác dụng giáo dục cho học sinh kĩ năng tổ chức, điều hành hoạt
động lao động (học tập) tập thể.
Thao tác 2: Người điều hành điều hành cả lớp thực hiện hoạt động rút
kinh nghiệm về bài kiểm tra; hoạt động tự đánh giá…, bằng cách thức riêng của
mình. Miễn là giờ học hiệu quả.
Nếu người điều hành chưa quen với hoạt động này, giáo viên có thể gợi ý
cho họ thực hiện vai trò, nhiệm vụ của mình theo một số cách sau:

Cách 1: Mời những học sinh có bài làm văn hay (đạt loại giỏi, hoặc khá
vững, không mắc lỗi về diễn đạt) và những người có năng lực tự đánh giá tốt
12


trình bày kinh nghiệm viết một bài văn hay, bài văn tốt. Những học sinh có bài
làm tốt thực hiện hoạt động chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm về cách học văn,
cách làm một bài văn hay cũng như cách tự đánh giá bài kiểm tra… nhằm rèn
cho mình kĩ năng thể hiện sự tự tin và kĩ năng giao tiếp. Còn tất cả những học
sinh khác cần có thái độ lắng nghe tích cực. Đây là những kĩ năng hết sức quan
trọng và cần thiết đối với mỗi cá nhân khi bước vào đời.
Cách 2: Mời những người làm bài chưa tốt, kết quả kiểm tra chưa cao,
còn mắc một số lỗi về dùng từ, diễn đạt… hoặc khả năng tự nhận xét, đánh giá
còn yếu rút kinh nghiệm trước tập thể bằng cách: nêu những biểu hiện của sự
hạn chế, yếu kém của bản thân, phân tích nguyên nhân, chỉ ra hậu quả…và đề
xuất những giải pháp để tự rút kinh nghiệm cho bản thân. Cả lớp cùng lắng nghe
bạn trình bày, phân tích, phát hiện những hạn chế, yếu kém của bạn nhằm giúp
bạn rút kinh nghiệm hoặc tự rút kinh nghiệm cho bản thân.
Cách làm này có tác dụng giáo dục và nâng cao kĩ năng phát hiện và giải
quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp và kĩ năng lắng nghe tích cực cho học sinh.
Cách 3: Học sinh trong vai trò là người điều hành hoạt động rút kinh
nghiệm của cả lớp thực hiện việc thống kê kết quả bài văn của cả lớp theo tỉ lệ
% theo các mức độ sau:
Mức độ
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu

Kém
Cách 4: giáo viên chọn một số đoạn văn, bài văn tốt và một số đoạn văn,
bài văn chưa tốt, chụp lại rồi trình chiếu trên màn hình máy chiếu, yêu cầu học
sinh nhận xét ưu điểm, nhược điểm về chính tả, dùng từ, diễn đạt… và rút kinh
nghiệm. Chẳng hạn như ngữ kiệu sau:

13


Với ngữ liệu trên, giáo viên có thể gợi ý để học sinh xác định đoạn văn bản
trên nằm ở vị trí nào trong bài văn? Ưu điểm và hạn chế về chính tả, dùng từ, câu
văn, diễn đạt…của đoạn văn bản này? Rút ra bài học kinh nghiệm về cách dùng
từ, đặt câu, diễn đạt cũng như cách thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt? Trên
cơ sở bảng thống kê kết quả học tập, người điều hành tiếp tục tổ chức cho các bạn
cùng trao đổi để tìm ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập.
2.3.4. Hướng dẫn tự học
a. Mục đích
- Nâng cao năng lực tự học.
- Rèn luyện kĩ năng giao tiếp, phát hiện và giải quyết vấn đề.
b. Cách thức thực hiện

14


Sau khi học sinh thực hiện xong hoạt động rút kinh nghiệm, giáo viên tiếp
tục tổ chức cho học sinh tìm ra giải pháp tự học làm văn, rộng hơn là môn Ngữ
văn một cách sáng tạo, hiệu quả.
Để thực hiện hoạt động này, giáo viên có thể mời học sinh đã tham gia
điều hành hoạt động rút kinh nghiệm tham gia tiếp vào hoạt động này, cũng có
thể dành cơ hội điều hành, tổ chức hoạt động tìm kiếm vấn đề và giải pháp tự

học cho học sinh khác.
Giáo viên có thể định hướng cho học sinh phát hiện các nội dung tự học
theo một số hình thức và gợi ý sau:
- Điểm mạnh của bản thân, của bạn học cùng lớp là gì? Làm thế nào để
tiếp tục phát huy những mặt mạnh ấy.
- Điểm yếu, hạn chế của bản thân hay bạn học? Cách khắc phục những
yếu kém đó.
- Bài học hôm nay cần nắm vững, rèn luyện những kĩ năng gì? Nắm vững
các kĩ năng đó sẽ có ý nghĩa như thế nào trong các tiết học làm văn tiếp theo?
Hoạt động này vừa có tác dụng rèn cho học sinh kĩ năng phát hiện và giải
quyết vấn đề, đồng thời nâng cao năng lực tự học, vận dụng, ứng dụng kiến thức
đã học, đã biết vào thực tiễn. Ngoài ra, tổ chức cho học sinh tự tìm ra những giải
pháp, biện pháp tự học tối ưu, hiệu quả, thì các tiết học, bài học tiếp theo sẽ phát
huy tốt hơn tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của người học trong việc
chiếm lĩnh những tri thức mới và hoàn thiện bản thân.
Đổi mới dạy học làm văn nói chung, các giờ trả bài làm văn nói riêng là
một quá trình lâu dài và phức tạp. Hi vọng, với giải pháp nói trên, các giờ trả bài
làm văn trên lớp cho học sinh THPT hiện nay không những kích thích hứng thú
học tập mà còn phát huy tốt khả năng tự học và sáng tạo của người học, đồng
thời tạo cơ sở quan trọng để giáo viên và các nhà quản lí giáo dục điều chỉnh
phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
15


2.4.1 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục và
bản thân
Thứ nhất: Năng lực nhận xét, đánh giá bài văn của học sinh có tiến bộ rõ
rệt sau khi chúng tôi yêu cầu các em thực hiện việc đánh giá, nhận xét bài văn

trên phiếu.
Thứ hai: Học sinh khá hào hứng khi tham gia thực hiện hoạt động nhận
xét đánh giá bài văn của mình và của bạn trên lớp.
Thứ ba: Quan hệ thầy - trò, trò - trò dân chủ hơn.
Thứ tư: Học sinh có sự nỗ lực hơn trong việc rèn luyện chữ viết, cách
dùng từ, đặt câu, có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Thứ năm: Thông qua phiếu tự nhận xét đánh giá bài văn của học sinh, cả
học sinh lẫn giáo viên đều đánh giá được quá trình học tập, mức độ tiến bộ trong
học tập, rèn luyện của người học.
Thứ sáu: Trong các giờ trả bài ở trên lớp, học sinh được thực hành, được nói,
được trao đổi với bạn bè nhiều hơn so với các giờ trả bài truyền thống. Cho nên,
tính tích cực, tự giác, chủ động, sự sáng tạo của người học được phát huy cao độ.
2.4.2 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với đồng nghiệp
- Hướng dẫn tốt cách thức tổ chức hoạt động nhận xét, đánh giá bài văn
cho học sinh: Cách sử dụng phiếu đánh giá nhận xét, cách tổ chức hoạt động lập
dàn ý cho bài văn, cách trình bày nhận xét, đánh giá trước lớp và cách thức
thống nhất kết quả bài văn.
- Sử dụng hệ thống kí hiệu quy ước để nhận xét, ghi điểm trên bài văn.
- Sử dụng thêm các thiết bị hiện đại như máy ghi âm, máy ảnh để lưu giữ bài
làm văn của học sinh, giúp cho tiến trình nhận xét, đánh giá thuận lợi, nhanh chóng.
- Sử dụng phần mềm dạy học như Powpoint hoặc Lecture Macker để chụp và
trình chiếu những đoạn văn, bài văn hay hoặc đoạn văn, bài văn còn mắc lỗi của học
sinh để các em có thể thực hiện tốt hoạt động đánh giá, nhận xét, rút kinh nghiệm.
- Người dạy có thể nhàn nhã hơn trong các giờ lên lớp vì đánh giá, nhận
xét sẽ được học sinh tự tổ chức, thực hiện. Nhưng ở nhà, giáo viên vất vả hơn vì
16


vừa phải đọc bài để đánh giá mức độ đạt chuẩn, dưới chuẩn hoặc trên chuẩn của
học sinh, vừa phải đọc phiếu tự nhận xét đánh giá của người học để xác định

được năng lực đánh giá, nhận xét của người học. Việc lựa chọn và phát hiện
được bài văn, đoạn văn hay hoặc những lỗi thường gặp trong bài văn của các
em, sao chụp lại, thiết kế trên phần mềm soạn bài giảng và trình chiếu trong giờ
học để cả lớp vừa nhận xét được ưu điểm, nhược điểm về chính tả, chữ viết,
dùng từ, diễn đạt, bố cục …sẽ mất nhiều thời gian. Vì vậy, nếu thầy và trò thành
thạo về vi tính, có email hay gmail, thầy có thể yêu cầu học sinh chuyển các bài
làm văn ở nhà vào gmail hay email cho các bạn học hoặc thầy để cùng nhau
đánh giá, rút kinh nghiệm.

17


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Nâng cao năng lực tự đánh giá bài làm văn cho học sinh THPT là một
trong những mục tiêu quan trọng của dạy học làm văn. Muốn đạt được mục tiêu
nói trên, khi ra đề, giáo viên phải thiết lập được hệ thống ma trận đề kiểm tra
làm văn hợp lí. Trong đó, nội dung kiểm tra phải được cụ thể hóa theo từng mức
độ: nhận biết, thong hiểu và vận dụng (vận dụng thấp, vận dụng cao). Đề kiểm
tra phải bao quát được nội dung chương trình và bám sát chuẩn kiến thức kĩ
năng. Nếu đề văn vừa kiểm tra được kiến thức cơ bản, vừa khơi gợi hứng thú
sáng tạo của học sinh thì các em sẽ hào hứng làm bài, trăn trở khi đánh giá bài
làm để đạt được hiệu quả học tập cao nhất.
Nhận xét, đánh giá bài làm văn của học sinh cần dựa vào chuẩn kiến thức,
kĩ năng. Học sinh chưa hoàn thành nội dung, yêu cầu đề ra, không có khả năng
nhận xét đánh giá thì dưới chuẩn. Nếu hoàn thành yêu cầu đề, có khả năng nhận xét
đúng, chính xác là đạt chuẩn. Còn nếu hoàn thành xuất sắc yêu cầu đề ra, có khả
năng nhận xét, đánh giá chuẩn xác, khoa học và sáng tạo là đạt mức trên chuẩn.
Muốn nâng cao năng lực nhận xét đánh giá cho người học, cần lựa chọn
phương tiện đánh giá, cách thức thực hiện hợp lí, khoa học, sáng tạo.

Về phía học sinh:
- Biết cách sử dụng phiếu tự nhận xét, đánh giá. Nắm vững mục đích, yêu
cầu, tiêu chí và cách thức thực hiện quy trình đánh giá bài làm văn.
- Có khả năng khai thác tài liệu bằng công nghệ thông tin (đơn giản là
nhận thư trên gmail hoặc gửi thư qua gmail) để có thể nâng cao hiệu quả học tập
ở mọi lúc, mọi nơi.
Năng lực nhận xét, đánh giá bài văn trong các giờ trả bài làm văn của học
sinh THPT được nâng cao khi hoạt động đánh giá được thực hiện theo quy trình
khoa học, sáng tạo.

18


3.2. Kiến nghị
Sử dụng phiếu tự nhận xét đánh giá bài làm văn cho học sinh là một hình
thức để nâng cao năng lực đánh giá cho học sinh THPT trong giờ trả bài làm
văn. Cho nên, cách làm này cần được nhân rộng trong các trường phổ thông.
Đổi mới hoạt động đánh giá phải được thực hiện song song với đổi mới
phương pháp dạy học, ra đề thi kiểm tra.
Đổi mới hoạt động đánh giá phải được thực hiện một cách kiên trì, sáng tạo.
Khi học sinh chưa quen với cách thức đánh giá mới, giáo viên phải bỏ
nhiều công sức và tâm sức để giúp các em dần hình thành thói quen tự đánh giá,
nhận xét.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Người thực hiện

Nguyễn Thị Hạnh

19



TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nghị quyết 29/NQ - TW về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục.
[2]. Trần Đình Châu, Đặng Thu Thủy, Phan Thị Luyến (2013), Phương pháp
dạy học tích cực, />[3]. Tạp chí Khoa học 2008:9 28-36 - Trường Đại học Cần Thơ

20



×