Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ thông thông qua công tác chủ nhiệm lớp tại trường THPT nguyễn thị lợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.16 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT NGUYỄN THỊ LỢI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

"GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÔNG QUA CÔNG TÁC
CHỦ NHIỆM LỚP TẠI TRƯỜNG THPT NGUYỄN THỊ LỢI”

Người thực hiện: Đỗ Thị Vinh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Thị Lợi
SKKN thuộc lĩnh vực: chủ nhiệm

THANH HÓA, NĂM 2017
1


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU................................................................................................................2
1.1. Lí do chọn đề tài..............................................................................................2
1.2. Mục đích nghiên cứu.......................................................................................3
1.3. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................3
1.4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................3
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 5
2.3.1. Những yêu cầu sư phạm đối với giáo viên chủ nhiệm.................................5
2.3.2. Những kĩ năng cần giáo dục cho học sinh...............................................6
2.3.3.2. Phối kết hợp với GV bộ môn, Ban giám hiệu, Đoàn thanh niên và
các tổ chức khác trong Nhà trường..............................................................12
2.3.3.3. Xây dựng quy tắc ứng xử giữa HS với GVCN, với GV bộ môn....14


2.3. 3.4. GVCN lồng ghép giáo dục KNS cho học sinh thông qua môn học
của mình.......................................................................................................14
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường...................................................................................15
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ..................................................................................17
3.1. Kết luận.........................................................................................................17
3.2. Kiến nghị.......................................................................................................17
* Tài liệu tham khảo......................................................................................18

I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Đứng trước sự phát triển nhanh chóng của nhiều lĩnh vực xã hội thì giáo dục thời
đại mới đã và đang phấn đấu đổi mới về nội dung, chất lượng và phương pháp sao
cho đạt được hai mục tiêu lớn là đào tạo nguồn nhân lực và đào tạo kĩ năng sống
cho học sinh. Cụ thể là giáo dục kĩ năng sống đã được xác định là một trong những
nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực giai đoạn 2008 – 2013”.
Tuy nhiên bên cạnh những thành quả đã đạt được của ngành thì gần đây
chúng ta đều thấy thực trạng của học sinh phổ thông có xu hướng gia tăng về bạo
lực học đường, về sự liều lĩnh, ứng phó không lành mạnh, dễ mắc các tệ nạn xã hội,
2


sống ích kỉ, vô tâm, khép mình…đồng thời kĩ năng thực hành giao tiếp, kĩ năng
phục vụ bản thân…giảm. Hơn nữa đứng trước thềm hội nhập quốc tế đòi hỏi thế hệ
trẻ phải tự tin, nắm bắt kịp thời các cơ hội . Với lí do đó chúng ta lại càng thấy sự
cần thiết phải giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ thông.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đã được tích hợp, lồng ghép vào nhiều
môn học ở các nội dung: giáo dục môi trường, phòng chống ma tuý, giáo dục giới
tính…Song vẫn là chưa đủ bởi lượng kiến thức nhiều, áp lực của thi cử, áp lực

thành tích đòi hỏi giáo viên và học sinh phải tập trung thời gian vào việc học kiến
thức thi hơn là giáo dục kĩ năng sống. Hơn nữa trong quá trình công tác tôi nhận
thấy vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức
của học sinh là vô cùng quan trọng: là tấm gương, là người mẹ, người bạn, nhà tâm
lí, luật sư… GVCN lớp là cầu nối giữa hiệu trưởng nhà trường với học sinh, với
cha mẹ học sinh và các đoàn thể mà các em sinh hoạt.
Trước thực tế trên tôi mạnh dạn đưa ra đề tài :
“Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ thông thông qua công tác
chủ nhiệm lớp tại trường THPT Nguyễn Thị Lợi”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trò của giáo viên chủ nhiệm
lớp trong công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh để các em có khả năng làm
chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác, với xã hội và khả
năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Học sinh trường THPT Nguyễn Thị Lợi- thành phố Sầm Sơn - Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập những thông tin lý luận của người
GVCN lớp trong công tác giáo dục kĩ năng sống
- Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của HS.
- Phương pháp điều tra: Trò chuyện, trao đổi với các GVBM, HS, hội cha mẹ học
sinh(CMHS), bạn bè và hàng xóm của HS.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
+ Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết hàng năm của nhà trường, đoàn trường.
+ Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác trong
trường mình.
- Phương pháp thử nghiệm:
+ Thử áp dụng các giải pháp vào công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở lớp
12E trường THPT Nguyễn Thị Lợi- thành phố Sầm Sơn- Thanh Hóa.
1.5. Những điểm mới của SKKN.

3


Học sinh hiện nay rất thông minh, cần cù và sáng tạo, thích ứng nhanh với
các tiến bộ của khoa học kỹ thuật... nhưng các kỹ năng sống của các em còn hạn
chế như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử, kỹ năng ứng phó, phòng chống với một
số vấn đề xã hội hiện nay....xuất phát từ thực tế sự thiếu hiểu biết của các em trong
ứng xử giao tiếp trong cuộc sống, bản thân tôi đã nghiên cứu đề tài "GIÁO DỤC
KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÔNG QUA
CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP TẠI TRƯỜNG THPT NGUYỄN THỊ LỢI”.
Thông qua đề tài này giúp các em có hiểu biết, ứng xử và cách bảo vệ bản thân
được tốt hơn trong cuộ sống.
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1.Cơ sở lí luận cuả sáng kiến kinh nghiệm.
Thực chất cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa rõ ràng và đầy đủ về kĩ
năng sống( mặc dù đã có các định nghĩa của WHO, UNICEF, UNESCO…) nhưng
nếu hiểu đơn giản thì kĩ năng sống là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những
nhu cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả.
Về bản chất thì giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là đưa nhận thức thành
hành động ( hành vi tích cực).
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là việc làm không mới vì từ xưa
cha ông ta đã có câu “ Tiên học lễ, hậu học văn” nhưng do sức ép lớn về chương
trình, điểm số hoặc nhiều nguyên nhân khác mà nó bị sao nhãng. Đứng trước thực
tế đó lại càng thấy tính cấp bách của giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đặc biệt là
học sinh trung học phổ thông trước ngưỡng cửa bước vào đời. Vì ở lứa tuổi này:
- Các em thích tìm tòi, học hỏi cái mới, điều lạ và không phân biệt được là nó tốt
hay xấu dẫn đến giảm sút về học tập cũng như đạo đức.
- Đã phát triển tình yêu nam nữ dẫn đến các quan hệ không đúng mực trong quan
hệ khác giới.

- Không kìm chế được cảm xúc dẫn đến cãi lộn, bất hoà thậm chí đánh nhau với
bạn mình.
- Thích bộc lộ cái tôi của mình…
Với học sinh trung học phổ thông cần rèn luyện những kĩ năng gì? Theo tôi cần rèn
luyện những kĩ năng sau đây trong công tác chủ nhiệm lớp.
1. Kĩ năng xác lập mục tiêu cuộc đời.
2. Kĩ năng điều chỉnh và quản lí cảm xúc.
3. Kĩ năng hợp tác, chia sẻ và rèn luyện sức khoẻ.
4. Kĩ năng thể hiện sự tự tin trước đám đông.
5. Kỹ năng nhận thức, đánh giá bản thân và đánh giá người khác.

4


2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh giáo viên chủ nhiệm lớp là người
khởi sướng và cũng là người thấy được rõ nhất sự chuyển biến hành vi theo hướng
tích cực của học sinh. Kĩ năng sống thường gắn với một bối cảnh để học sinh có thể
hiểu và thực hiện một cách cụ thể, đi liền với một tình huống sư phạm mà giáo viên
chủ nhiệm lớp là người tham gia cùng với học sinh giải quyết vấn đề để từ đó học
sinh hình thành được kĩ năng sống cho mình
2.3.1. Những yêu cầu sư phạm đối với giáo viên chủ nhiệm.
GVCN phải xác định mình là người đóng vai trò quan trọng trong việc giáo
dục KNS cho HS, phải có lòng nhiệt tình và sự đam mê. Bởi vì, GVCN là linh hồn
của lớp, là người tiếp xúc thường xuyên với HS, là người nắm rõ tâm lý, tính cách
của từng HS. Do vậy, GVCN có thể hiểu được năng lực, thái độ ưu điểm và nhược
điểm của từng HS. Đây là yêu cầu rất quan trọng. Bởi công tác chủ nhiệm lớp đòi
hỏi điều đầu tiên của GV là lòng nhiệt tình và sự đam mê. Làm chủ nhiệm là một “
nghệ thuật”, nếu không có sự nhiệt tình sẽ không đem lại kết quả như mong muốn.
Khi xác định được vai trò của mình GVCN sẽ gần gũi được HS, chiếm được cảm

tình từ phía HS, từ đó sẽ có những biện pháp thiết thực để hoàn thành nhiệm vụ của
mình. GVCN phải biết lập được kế hoạch chủ nhiệm cho riêng mình để có thể giáo
dục được KNS cho HS. Căn cứ vào kế hoạch chung của Sở GD, của nhà trường,
đặc điểm của lớp, của địa phương GVCN phải lập được cho mình một kế hoạch cụ
thể, chi tiết, khoa học cho từng tuần, từng tháng và trong cả năm học. Phải biến
việc giáo dục KNS cho HS thành một thói quen, thành kỹ năng của mình trong suốt
quá trình làm công tác chủ nhiệm. GVCN phải là tấm gương cho HS soi vào về đạo
đức, lối sống, hành vi. Có thể nói; để giáo dục được HS thì người GV nói chung và
GVCN nói riêng phải là người biết dùng nhân cách của mình để dạy HS “Dùng
nhân cách để giáo dục nhân cách” [1]. GVCN phải là người có tấm lòng khoan
dung, độ lượng, là quan toà mẫu mực trong khi giải quyết tình huống. Đặc biệt,
GVCN phải hết lòng thương yêu HS, xem HS như con, em của mình, phải mở lòng
mình với HS, có như vậy GVCN mới được học sinh tin tưởng, gần gũi, gửi gắm
tâm sự. Đây cũng là kênh thông tin quan trọng để GVCN có phương pháp tốt để
giáo dục đạo đức và KNS cho HS. GVCN phải là người có năng lực quản lý và
năng lực tổ chức. Không phải lúc nào GVCN cũng ở trên lớp cùng với HS. Do vậy,
GVCN phải xây dựng đội ngũ cán sự lớp có năng lực và trách nhiệm, điều hành
một tập thể tự quản. GVCN còn phải biết ứng xử, giải quyết đúng các mối quan hệ
giữa HS đối với nhau, giữa HS với GV, giữa GV bộ môn đối với GVCN, giữa
GVCN với Đoàn thanh niên,... với cha mẹ HS. Thầy cô chủ nhiệm phải là cầu nối
quan trọng kết nối ba môi trường giáo dục; gia đình, nhà trường và xã hội.

5


2.3.2. Những kĩ năng cần giáo dục cho học sinh.
Có rất nhiều kỹ năng cần giáo dục cho học sinh, trong phạm vi đề tài này tôi
xin đưa ra phương pháp giáo dục một số KNS như sau:
“ • Kỹ năng tự nhận thức giá trị bản thân
• Kỹ năng tư duy phê phán

• Kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định 7
• Kỹ năng giải quyết xung đột
• Kỹ năng hợp tác
• Kỹ năng kiên định
• Kỹ năng học tập và định hướng nghề nghiệP”. [5]
2.3.3. Các biện pháp cụ thể để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
2.3.3.1. Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt 15 phút và buổi sinh hoạt cuối tuần.
Trong các biện pháp để giáo dục KNS cho HS trong công tác chủ nhiệm tôi
coi trọng biện pháp này nhất. Bởi thời gian để GVCN tiếp xúc nhiều nhất với HS là
thông qua các buổi sinh hoạt 15 phút và sinh hoạt cuối tuần.
2.3.3.1.1. Lồng ghép chương trình giáo dục kỹ năng sống trong những buổi sinh
hoạt 15 phút đầu giờ.
Đây là giải pháp quan trọng. Trong suốt năm học, GVCN là người thường
xuyên bám lớp trong những giờ sinh hoạt 15 phút đầu giờ. Vì vậy việc lồng ghép
giáo dục KNS cho học sinh là việc làm bổ ích, tránh được những buổi sinh hoạt
nhàm chán, lặp đi , lặp lại, mà lại gây được hứng thú cho HS trong những buổi sinh
hoạt 15 phút, đồng thời, giáo dục được KNS cho HS. Trong buổi sinh hoạt 15 phút
đầu giờ thời gian ít. Vì thế, GVCN có thể áp dụng các phương pháp giáo dục KNS
như; thảo luận nhóm, động não, nghiên cứu tình huống, hoặc tổ chức những trò
chơi (có thời gian ngắn.)
a. Phương pháp hoạt động nhóm.
Tổ chức tốt phương pháp này, GVCN sẽ tạo cơ hội cho HS tự tin, thoải mái
chia sẻ sự hiểu biết của mình với người khác. Đồng thời, tiếp nhận sự phê phán,
góp ý của bạn, giúp cho sự hiểu biết của HS trở nên sâu sắc hơn, toàn diện hơn
giúp cho buổi sinh hoạt trở nên sôi nổi, hứng thú. Tuy nhiên phương pháp này sẽ
gây ra sự ồn ào, mất trật tự cho các lớp bên cạnh, đặc biệt dễ gây sự nhàm chán cho
một số HS. Do đó yêu cầu, GVCN phải làm tốt những việc sau:
- Phải tạo ra một không khí thảo luận cởi mở, tôn trọng lẫn nhau giữa HS với nhau.
- Vấn đề được đưa ra để HS thảo luận phải phù hợp với lứa tuổi, phải khơi gợi
được khả năng tư duy phê phán, khả năng sáng tạo của HS.

Ví dụ1:
6


*Khi giáo dục kỹ năng “tự nhận thức giá trị bản thân”. GVCN cho HS tiến hành
các hoạt động nhóm trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ Hoạt động : Chia sẻ
về tự nhận thức bản thân GV phát các tờ rơi in sẵn mệnh đề
- Sở thích của em là gì?(đọc báo, xem TV, xem bóng đá....)
- Cuốn truyện/ sách, chương trình TV mà em thích nhất.
- Điểm mạnh và năng khiếu của em là gì? 8
- Ai là người bạn thân nhất của mình? Người đó như thế nào?Có đặc điểm gì nổi
bật? - Mình muốn làm nghề gì trong tương lai? GV chia lớp thành những nhóm nhỏ
gồm có 3 người mỗi em tự suy nghĩ và điền vào tờ rơi trong vòng 5 phút, sau đó
chia sẻ với những bạn trong nhóm mình. Tiếp theo GVCN cho đại diện các nhóm
trình bày những quan điểm chung của các thành viên trong nhóm mình, chia sẻ với
các nhóm khác? [6].
Ví dụ 2:
*Khi giáo dục kỹ năng kiên định, trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ GVCN
cho HS tiến hành hoạt động: Tranh luận đôi bên. GVCN chia lớp thành hai nhóm:
Yêu cầu các em đưa ra các tình huống lôi kéo của bạn bè hay gặp nhất( hút thuốc,
trốn học, chơi điện tử...). Phân một nhóm chuẩn bi lý lẽ ủng hộ ý kiến (nên hút
thuốc), một nhóm chóng lại ý kiến (không nên hút thuốc). Để hai nhóm chuẩn bị lý
lẽ trong vòng 7 phút. Sau đó cho hai nhóm tranh luận, chất vấn. Sau khi HS tranh
luận xong GVCN hướng dẫn HS đi đến thống nhất ý kiến là “nên” hoặc “không
nên”. Nếu không nên hút thuốc thì phải làm gì? GVCN cung cấp cho HS các bước
để hình thành kỹ năng kiên định. Tầm quan trọng của kỹ năng kiên định đối với
HS. [2].
b. Phương pháp nghiên cứu tình huống.
Áp dụng phương pháp này GVCN sẽ huy động khả năng động não, khả năng
tư duy, khả năng giải quyết vấn đề và ra quyết định của HS, lôi kéo các em vào

những ình huống có thực và bắt buộc các em phải giải quyết. Tuy nhiên để thành
công khi áp dụng phương pháp này GVCN phải đưa ra những tình huống sát thực
với cuộc sống của các em, đang đựơc các em quan tâm và suy nghĩ, các em phải
quyết định. Tất nhiên đó phải là tình huống giáo dục, để đem lại kết quả giáo dục.
Ví dụ:
*Khi giáo dục kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định, kỹ năng học tập và định
hướng nghề nghiệp. GVCN ra tình huống cho HS. Giả sử em rất muốn thi vào
trường đại học mà em thích, nhưng bố mẹ em không đồng ý. Em sẽ làm gì? Tại sao
em quyết định như vậy GVCN chia lớp thành bốn nhóm, cho các em trao đổi, tranh
luận với nhau trong vòng 5 phút. Sau đó, cử đại diện các tổ đưa ra ý kiến tranh luận
của mình trong vòng 10 phút. Vào các buổi sinh hoạt tếp theo, GVCN tổng kết và
đưa ra nhận xét, hướng dẫn HS trong cách chọn nghề phải căn cứ vào các yếu tố:
Năng lực, sở trường của mình, nhu cầu và sự phát triển của xã hội. Ví dụ em thích
7


được du ngoạn, khám phá những điều mới lạ, em có khả năng về các môn văn,
ngoại ngữ... nên thi vào trường du lịch.
c. Phương pháp trò chơi.
Phương pháp này mang lại cho HS khả năng giao tiếp , khả năng quyết định
lưạ chọn, kỹ năng nhận xét đánh giá .Tạo không khí vui vẻ, sôi động trong buổi
sinh hoạt. 9 Tuy nhiên, phương pháp này dễ gây sự lộn xộn trong lớp, gây ồn ào
cho các lớp bên cạnh. Do vậy, GVCN phải chuẩn bị được những trò chơi có nội
dung phù hợp với thời gian ngắn, hấp dẫn, ít gây sự xáo trộn trong tổ chức lớp.
Ví dụ: Khi giáo dục kỹ năng tư duy phê phán, GVCN tổ chức cho HS chơi
trò chơi “cùng nhau viết tiếp câu chuyện” trong vòng 15 phút. Cho HS đứng thành
vòng tròn trong lớp, GVCN ra nhan đề cho câu chuyện như “ Tôi học như thế nào”.
Sau đó GVCN cho một em viết câu mở đầu như “trước tiên tôi học bằng chính nghị
lực của mình”. Sau đó chuyền cho các em tiếp theo viết tiếp các câu sau theo logic
của câu trước thành một câu truyện. [6].

2.3.3.1.2.Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt cuối tuần.
Phần lớn các tiết sinh hoạt chủ nhiệm hiện nay chủ yếu được thực hiện dưới
hình thức là tổng kết, đánh giá và đề ra phương hướng tuần tới. Hình thức sinh hoạt
này dễ gây cho học sinh sự nhàm chán, đặc biệt là gây áp lực về các lỗi mà các em
mắc phải trong tuần qua. Vì lẽ đó mà một số em cảm thấy không thích tiết sinh hoạt
chủ nhiệm, thậm chí là sợ hãi. Người thầy chủ nhiệm trong quá trình đánh giá ưu
khuyết điểm của học sinh trong tuần vừa qua thường chủ quan xem việc vi phạm
nội quy và những biểu hiện chưa tốt của học sinh là do các em không cố gắng, đôi
khi xem đó là biểu hiện đạo đức không tốt. Biện pháp thường được áp dụng là xử lí
kỉ luật, làm tờ tự kiểm và đôi lúc là hạ hạnh kiểm. Điều này dễ dẫn đến việc học
sinh không tin vào thầy cô, bạn bè và có khi là không tin vào bản thân mình. Các
em cần sự hướng dẫn và giáo dục của giáo viên chủ nhiệm. Trong tiết sinh hoạt lớp,
GVCN sẽ cung cấp cho học sinh những hiểu biết thông qua các hoạt động sinh hoạt
chuyên đề sinh động và vui nhộn. Sự sinh động và hứng thú của việc được tham gia
vào các hoạt động có liên quan sẽ giúp học sinh nâng cao ý thức một cách tự nhiên
và dễ dàng. Cũng nhờ vào các hoạt động này cùng với sự tin tưởng và sẻ chia của
thầy cô mà các em sẽ có được niềm tin, định hướng và nghị lực để phát triển nhân
cách. Thứ nhất: GVCN xử lý hành vi vi phạm của HS phải gắn việc giáo dục kỹ
năng sống, xử lý khoa học, nhẹ nhàng nhưng phải nghiêm khắc, gắn với kỷ luật.
Ví dụ1:
Trong buổi lao động của lớp , mặc dù tôi đã phân công cụ thể cho từng tổ nhưng
trong quá trình thực hiện, nhưng một số HS vẫn còn đùn đẩy nhau, dẫn đến công
việc hoàn thành không đúng kế hoạch. Mặc dù rất bực bội nhưng tôi không nói gì.
Vào buổi sinh hoạt cuối tuần tôi đã gọi lớp trưởng trình bày lý do, lớp trưởng cho
8


biết: Một số bạn đến muộn hơn nên các bạn đến sớm chừa lại phần việc cho các
bạn ấy làm. Tôi dùng phương pháp giáo dục KNS “ nghiên cứu tình huống”, bình
tĩnh kể cho HS nghe mẫu chuyện “ sức mạnh” và nhấn mạnh lời người cha căn dặn

con “ trong cuộc sống, không phải lúc nào chúng ta cũng có thể tự mình làm tất cả
mọi việc. Sức mạnh của chúng ta còn nằm ở những người thân, bạn bè- những
người luôn quân tâm và 10 giúp đỡ ta”. Sau khi kể xong tôi đã hỏi một số HS
không đi lao động và đến muộn? Em không đi làm, hoặc đến muộn thì các bạn phải
làm thay em phần việc đó, em có suy nghĩ gì? Sau đó tôi hỏi một số HS đến sớm?
Nếu lần sau, em có một lý do nào đó mà cũng đến muộn, các bạn cũng chừa lại
phần việc cho em, một mình em làm và công việc không hoàn thành, thì em sẽ suy
nghĩ như thế nào? Quay sang tôi hỏi cả lớp? Nếu muốn công việc hoàn thành nhanh
chóng thì chúng ta phải làm gì?. Thông qua cách này, tôi đã giáo dục cho HS kỹ
năng hợp tác trong cộng đồng và ý nghĩa của sự hợp tác đó. Tôi vừa phê bình, kiểm
điểm được thái độ, tinh thần của HS vi phạm, vừa giáo dục được kỹ năng cho HS,
mà không biến tiết sinh hoạt trở nên căng thẳng. [6].
Ví dụ 2:
Để xử lý HS vi phạm tôi dùng phương pháp “mô hình mẫu”, tôi dùng ngay chính
hành vi ứng xử,giao tiếp của mình để xử lý. Trước tiên tôi cho HS trình bày nguyên
nhân tại sao lại dẫn đến những vi phạm đó, nếu HS khó nói thì có thể gặp riêng tôi.
Qua đó nhẹ nhàng phân tích cho HS vi phạm cái đúng và cái sai trong hành vi của
em, hướng khắc phục, sữa chữa. Nếu lỗi nặng tôi sẽ áp dụng hình phạt theo nội quy
của lớp, nếu lỗi nhẹ tôi có thể cho qua. Vì vậy, khi HS bị phạt mà vẫn không thấy
oan ức, hoặc phản ứng tiêu cực, mà còn rút ra được kỹ năng khi xử lý tình huống
cho mình.
Ví dụ 3:
Vào buổi sinh hoạt cuối tuần, khi xử lý hai HS trong giờ học đã có hành vi đánh
nhau. Tôi dùng phương pháp phát vấn, để hỏi hai HS: Vì sao lại dẫn dến xung đột
giữa hai người? Nếu bình tĩnh như bây giờ em có hành động như vậy không? Em sẽ
xử lý như thế nào? Sau khi cho HS trình bày ý kiến của mình GV tổng kết lại và
phổ biến trước lớp kỹ năng giải quyết xung đột như: kiềm chế cảm xúc, sử dụng kỹ
năng thư giãn ( như thở vào, hít ra, nói ra cảm xúc của mình bằng giọng kiên định
nhưng nhẹ nhàng). Cuối cùng tôi cho hai HS giảng hoà với nhau và mỗi bạn viết
một bản kiểm điểm trình bày trước lớp về hành vi sai trái của mình. Thứ hai: Thông

qua các buổi sinh hoạt cuối tuần GVCN có thể lồng ghép các chuyên đề giáo dục
KNS cho học sinh Trong giờ sinh hoạt cuối tuần GVCN dành 15 hoặc 20 phút để
tổng kết tuần và đề ra phương hướng cho tuần sau, hoặc xử lý học sinh vi phạm.
Thời gian còn lại( hoặc có thể là cả buổi tuỳ theo công việc của tuần ít hay nhiều)
GVCN có thể lồng ghép các chuyên đề giáo dục KNS cho HS. GVCN có thể dùng
các phương pháp sau:
9


a. Phương pháp “trò chơi”.
Những ưu điểm và nhược điểm của phương pháp này tôi đã trình bày ở trên.
Để thành công khi áp dụng phương pháp này trong buổi sinh hoạt cuối tuần GVCN
cần phải làm tốt công việc sau: GVCN phải đưa ra trò chơi mang tính cộng đồng,
tập thể, kích thích khả năng tư duy, động não của các em. 11 GVCN phải tìm ra
một người điều khiển trò chơi có khả năng giao tiếp tốt và đóng vai trò như một
MC để dẫn dắt trò chơi. GVCN nên áp dụng phương pháp này nhiều trong các buổi
sinh hoạt cuối tuần.
Ví dụ 1: Khi giảng dạy kỹ năng “Hợp tác” trong buổi sinh hoạt cuối tuần tôi
tổ chức hoạt động trò chơi “bão biển” trong vòng 20 phút. Tôi chia HS thành những
nhóm nhỏ, mỗi nhóm không quá 4 người, mỗi nhóm được trang bị một tờ báo trải
dưới đất, bốn học sinh cùng đứng trên tờ báo. Người điều khiển trò chơi hô “ bão
tới”. Bốn người trên thuyền phải tìm cách chống lại cơn bão, sau 10 phút bão tan,
thuyền bị rách, HS rời khỏi thuyền. Gấp tờ báo lại thành một phần, GVCN cho HS
tiếp tục trò chơi. Trong vòng 10 phút tiếp theo bão đến và thuyền lại bị rách, cứ như
vậy GVCN cho HS chơi ba lần. Khi thuyền đã bị rách hết rồi, giữa biển bốn người
sẽ phải làm gì để vào bờ. GVCN cho cả lớp thảo luận và giải quyết tình huống.
GVCN kết luận, nêu ra bài học và KNS cần cho HS là phải hợp tác với nhau.
Ví dụ 2: Để giáo dục kỹ năng “Tự nhận thức bản thân” GVCN tiến hành
hoạt động trò chơi “Người khác nghĩ về mình”.( thời gian 20 phút) Dụng cụ: giấy
A0 khổ to, bút dạ màu, giấy khổ to cắt thành chiếc áo khoác Tiến hành: Cho HS

khoác lên mình chiếc áo giấy. Chia lớp thành bốn nhóm, cho các thành viên trong
nhóm viết lên lưng nhau, những ưu điểm, nhược điểm, tính cách của bạn mình
trong vòng 20 phút. ( Tinh thần góp ý, không phê phán, không làm trò cười cho
nhau) Sau đó GVCN cho một số HS mạnh dạn đứng dậy trình bày những đặc điểm
của mình, vừa được bạn viết lên áo. HS trình bày xong GV đưa ra kết luận: Một
điểm quan trọng của tự nhận thức bản thân đó nhận biết sự đánh giá , nhìn nhận của
mọi người về mình. Sau trò chơi này GVCN lưu ý HS giữ và đọc những ưu điểm,
nhược điểm của mình đã được bạn chỉ ra để có hướng phát huy, đồng thời khắc
phục những điểm còn thiếu sót để hoàn thiện mình hơn.
Ví dụ 3: Khi giáo dục KNS “ Tư duy phê phán” GVCN cho HS chơi trò chơi
“ đoán chữ”. GVCN cho HS đoán chữ “ Đoàn kết” bằng cách đưa ra câu hỏi thứ
nhất. Cụm từ này gồm tám chữ, đây là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta!.
Nếu HS chưa đoán ra GVCN đưa ra tiếp gợi ý. Truyền thống này được Hồ Chí
Minh đúc kết thành một chân lý, bài học lịch sử của dân tộc ta trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ Quốc!. Nếu HS vẫn chưa đoán được. GV đưa ra gợi ý cuối
cùng. Cụm từ này bắt đầu bằng chữ Đ! [4].
b. Phương pháp thuyết trình kết hợp với các phương pháp khác.
Áp dụng phương pháp này trong buổi sinh hoạt cuối tuần sẽ giúp cho GVCN và
HS có thời gian trò chuỵện, trao đổi với nhau nhiều hơn, giúp HS hiểu được các
10


KNS có ý nghĩa với con người như thế nào.Tuy nhiên áp dụng phương pháp này dễ
gây cho HS sự nhàm chán nếu GVCN không khéo léo kết hợp tốt với các phương
pháp khác. Do vậy, GVCN phải lựa chọn các phương pháp tạo ra sự thu hút và nhu
cầu muốn tìm hiểu ở HS.
Ví dụ: Để giáo dục kỹ năng “ giải quyết vấn đề và ra quyết định”. GVCN đọc cho
học sinh nghe mẫu truyện “ Hãy thử một cách khác” ( Hạt giống tâm hồn và ý
nghĩa cuộc sống). Câu chuyện kể về một chú ruồi cố tìm cách thoát thân bằng cách
chui qua tấm kính của cửa sổ, mặc dù chú đã dồn hết sức lực nhưng vẫn không qua

được và cuối cùng chú đã chết. Trong khi đó chỉ cách mười buớc chân là một cánh
cửa đang rộng mở GV nhấn mạnh chi tiết “Nếu chú ruồi không khoá chặt mình vào
một lối nghĩ duy nhất và thử tìm cách khác, chú đã tìm ra lối thoát một cách dễ
dàng”. Sau khi đọc xong, GVCN dùng phương pháp thuyết trình kết hợp với
phương pháp động não để tiến hành vói những câu hỏi sau: Em có thích mẫu truỵên
này không? Vì sao em thích? Nếu em ở trong trường hợp như chú ruồi em sẽ làm gì
để thoát thân? Tại sao em lại làm như vậy? Câu chuyện nhắc nhở chúng ta điều gì?
Cho HS lần lượt trả lời xong, GVCN thuyết trình cho các em hiểu về ý nghĩa của
mẫu truyện. Từ đó thuyết trình cho HS hiểu về ý nghĩa của KNS giải quyết vấn đề
và ra quyết định. Năm bước căn bản để giải quyết vấn đề và ra quyết định như; Xác
định vấn đề; động não về các khả năng; đánh giá các khả năng; lên kế hoạch hành
động; đánh giá và điều chỉnh. Trong khi thuyết trình GVCN phân tích ví dụ để
chứng minh. [3]
c. Phương pháp đóng vai.
Nếu áp dụng tốt phương pháp này GVCN sẽ tạo được sự hứng thú và khả
năng sáng tạo của HS, khích lệ được sự thay đổi thái độ, hành vi của HS theo
hướng tích cực. Tuy nhiên, nếu tổ chức không tốt có thể trở thành cơ hội để HS
chơi đùa, trêu chọc nhau. Do vậy, GVCN phải tổ chức sao cho phần “diễn” chỉ là
phụ mà quan trọng hơn là phần thảo luận sau đó. Tình huống đưa ra phải thể hiện
được tư duy phê phán và khả năng sáng tạo. Vừa là nội dung của KNS vừa là
phương tiện để hình thành KNS khác.
Ví dụ: Khi giáo dục kỹ năng giải quyết xung đột (35 phút). GVCN ra tình huống
cho học sinh đóng vai. Lấy nhóm HS khoảng 5-6 bạn, để đóng vai một tình huống;
Các bạn đang chơi trong sân trường một bạn từ đâu tới xô vào người bạn trong
nhóm, cả hai người cùng ngã. Mặc dù người kia sai, nhưng bạn trong nhóm vẫn đỡ
người đó dậy, nói lời xin lỗi. Tuy nhiên, đáp lại thái độ lịch sự của bạn trong nhóm,
người kia chửi tục và đe doạ bạn trong nhóm. Khi nhóm HS diễn xong, GVCN đưa
ra câu hỏi; Nếu là các em trong tình huống trên em sẽ xử lý như thế nào? GVCN
phân lớp thành bốn nhóm cùng 13 thảo luận tình huống (10 phút). Sau đó cho đại
diện các nhóm đứng lên trình bày ý kiến của mình bằng cách đóng vai. Cuối buổi

GVCN tổng kết và đưa ra cho HS biết các bước giải quyết mâu thuẫn.
11


Bước 1: Kiềm chế cảm xúc- sử dụng kỹ năng thư giãn. Tự đưa mình thoát khỏi tâm
trạng/tình huống đó.
Bước 2: Xác định nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn. cần suy nghĩ tích cực, vì nó tác
động mạnh đến cảm xúc và hành vi tích cực. [2].
2.3.3.2. Phối kết hợp với GV bộ môn, Ban giám hiệu, Đoàn thanh niên và các
tổ chức khác trong Nhà trường.
2.3.3.2.1. GVCN kết hợp với GV bộ môn.
Hiệu quả giáo dục của một lớp phụ thuộc một phần quan trọng vào hoạt động
và phẩm chất của giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên bộ môn. Vì vậy giáo viên
chủ nhiệm và các giáo viên bộ môn phải có sự phối hợp, trao đổi thống nhất tác
động sư phạm đến học sinh thông qua một số hoạt động:
- Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên theo dõi kết quả học tập của học sinh thông
qua giáo viên bộ môn (trao đổi trực tiếp với giáo viên bộ môn, thông qua nhận xét
đánh giá của giáo viên bộ môn ở sổ theo dõi tiết học, sổ gọi tên ghi điểm của lớp
mình quản lý).
- Giáo viên chủ nhiệm thông qua việc dự giờ trên lớp các giáo viên bộ môn lớp
mình quản lý để quan sát thái độ, hứng thú học tập từng bộ môn của học sinh lớp
mình chủ nhiệm.
- Giáo viên chủ nhiệm có thể trao đổi với giáo viên bộ môn về hoàn cảnh gia đình,
sức khỏe, tâm lý,năng lực, sở trường… của từng học sinh. Từ đó có những đề xuất
với giáo viên bộ môn về phương pháp hướng dẫn học sinh học tập và cũng thông
qua đó tiếp thu những ý kiến phản ánh của giáo viên bộ môn về lớp mình phụ trách.
Bên cạnh đó, giáo viên chủ nhiệm cũng nên nêu những nguyện vọng của lớp đối
với giáo viên bộ môn.Thông qua nhận xét của giáo viên bộ môn, kết hợp với sự
theo dõi và quan sát của giáo viên chủ nhiệm, mỗi người giáo viên chủ nhiệm sẽ
tìm được một giải pháp phù hợp với thực trạng của lớp, với việc giảng dạy kỹ năng

sống phù hợp với đặc điểm học sinh của mình.
Ví dụ: Học sinh A có khả năng về môn toán, GVCN có thể gặp giáo viên môn toán
để phối kết hợp, có biện pháp bồi dưỡng và định hướng tương lai cho HS.
2.3.3.2.2. GVCN phối kết hợp với Đoàn thanh niên, Ban giám hiệu và các tổ
chức khác trong Nhà trường.
Trước hết GVCN phải phối kết hợp thường xuyên với Ban giám hiệu và tổ
chức Đoàn thanh niên. Dưới sự chỉ đạo của Ban giám hiệu, một trong những vai trò
của Đoàn là đảm nhận hoạt động bề nổi như: tổ chức các hoạt động 26/3; kỷ niệm
ngày 20/11... thông qua các hoạt động của đoàn GVCN có thể dễ dàng giáo dục
KNS cho HS.
12


Bởi vì, nhân cách của HS được hình thành qua hai con đường cơ bản: con đường
dạy học trên lớp và con đường hoạt động ngoài 14 giờ lên lớp. Hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp(HĐGDNGLL) là một bộ phận hữu cơ của quá trình giáo dục ở
nhà trường THPT. HĐGDNGLL là sự tiếp nối của hoạt động dạy học trên lớp, là
con đường gắn lý thuyết với thực tiễn , tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và
hành động , góp phần hình thành tình cảm, niềm tin cho sự hình thành nhân cách
cho các em, là điều kiện thuận lợi để học sinh phát huy vai trò chủ thể của mình
trong hoạt động, nâng cao tính tích cực hoạt động rèn luyện để phát triển nhân
cách. Ví dụ: Thông qua hội thi văn nghệ, làm báo tường, thi kéo co đê chào mừng
ngày thành lập nhà giáo Việt Nam, ngày thành lập Đoàn (26/3)GVCN có thể lồng
ghép giáo dục KNS: hợp tác, hoà nhập, kỹ năng lãnh đạo cho HS lớp mình thông
qua cách phân công nhiệm vụ cho từng cá nhân trong lớp, phát huy tinh thần chủ
động, tích cực của các em để làm sao đó để lớp mình có thể đem lại thành tích cao
nhất trong cuộc thi. Ngoài ra, GVCN phải thường xuyên kết hợp với các tổ chức
khác trong nhà trường như tổ giám thị ... để xử lý vi phạm của học sinh một cách
thuyết phục và có hiệu quả.
2.3.3.2.3. GVCN phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh.

Nhân cách của học sinh được hình thành dưới tác động của ba môi trường:
gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó gia đình là môi trường mang tính trực tiếp
quyết định đến sự hình thành nhân cách của các em. Do vậy, GVCN cần phải có
mối liên hệ chặt chẽ với phụ huynh học sinh, thông qua phụ huynh, GVCN có thể
nắm bắt được: đặc điểm, cá tính, sở thích của từng học sinh, bởi hai phần ba thời
gian HS tiếp xúc với gia đình. Do vâỵ, không ai hiểu rõ con mình hơn là phụ
huynh. Mặt khác thông qua phụ huynh, GVCN có thể biết được hiệu quả giáo dục
KNS cho học sinh của mình đến đâu. Mặc dù , hiệu quả giáo dục KNS không đo
được bằng những con số chính xác nhưng được biểu hiện bằng những thái độ và
hành vi cụ thể như: khi về nhà các em có tự tin hơn không, có còn lúng túng khi
giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống không? Trong quan hệ với bạn bè,
làng xóm có hoà nhập hơn không? Các em có ý thức sống tự lập hơn không?...Để
tạo thành kỹ năng, phản xạ tốt thì cần phải được rèn luyện thường xuyên, liên tục
đến mức thuần thục.. Do đó vai trò của gia đình là không thể thiếu và giữ vị trí hết
sức quan trọng.
2.3.3.2.4. GVCN cung cấp cho phụ huynh HS những kiến thức cần giáo dục kỹ
năng sống cho HS thông qua các buổi họp phụ huynh.
Ở các nước phát triển, trẻ em sống độc lập, vì vậy tránh được những rủi ro
đáng tiếc. Nhưng ở Việt Nam vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức. Phần lớn
trong các gia đình vẫn còn tâm lý xem các em như là những đứa trẻ, cần được bao
bọc. Dẫn đến các em thiếu kỹ năng tự vệ, kỹ năng xử lý tình huống, kỹ năng lựa
13


chọn nghề nghiệp...Một số phụ huynh thiếu kiến thức về giáo dục kỹ năng sống cho
con em mình( nhất là các vùng nông thôn). Một số phụ huynh do mải mê với công
việc làm ăn nên lãng quên việc giáo dục con. Do vậy trong mỗi lần họp phụ huynh,
tôi thường cung cấp và tư vấn cho phụ 15 huynh HS những nội dung giáo dục KNS
như; Kiến thức về giáo dục HS phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, đặc biệt việc phát hiện
sớm biểu hiện rối loạn tâm thần của học sinh, bệnh tật học đường, định hướng nghề

nghiệp, năng khiếu của từng HS...
2.3.3.3. Xây dựng quy tắc ứng xử giữa HS với GVCN, với GV bộ môn.
Trong xã hội hiện nay, mối quan hệ thầy trò có phần thay đổi hơn so với thời
xưa. Thể hiện rõ nhất ở những khía cạnh như; dân chủ hơn, thân thiện và hoà đồng
hơn. Tuy nhiên, để việc giáo dục đạo đức và KNS cho HS có hiệu quả hơn GVCN
phải xây dựng cho lớp mình một quy chế giao tiếp và ứng xử giữa “thầy với thầy,
trò với trò”gần gũi, thân thiện, rèn luyện cho HS kỹ năng ứng xử văn hoá, phòng
chống tệ nạn xã hội, bạo lực. Tránh tình trạng thầy không ra thầy, trò không ra trò.
GVCN phải dùng đúng ngôn từ, chuẩn mực lời nói trước học sinh, vừa giữ đúng vị
trí của giáo viên đối với học sinh, vừa gây được tình cảm thân thiết giữa cô và trò.
Ví dụ trong cách “xưng hô” giáo viên nói chung và GVCN nói riêng không nên
dùng những từ gây khoảng cách đối với học sinh như; “tôi” và “anh, chị”, hoặc
dùng những lời lẽ không chuẩn mực đối với học sinh như “ mày, tao”.... GVCN
cũng phải yêu cầu HS trong cách xưng hô với GVCN và GV bộ môn phải đúng
chuẩn mực, giữ đúng khoảng cách của người học đối với thầy, đúng nguyên tắc lễ
phép, tôn sư, trọng đạo,không được dân chủ quá trớn. Tuy vậy, GVCN cũng phải
tạo ra bầu không khí cởi mở, thân thiện đối với HS, bằng cách gần gũi, thân thiện,
tâm sự với HS như một người bạn thân thiết.Trong những năm làm chủ nhiệm tôi
thường tổ chức những buôỉ dã ngoại hoặc những buổi họp mặt tại nhà GVCN.
Thông qua hình thức này tôi có thể giáo dục cho HS kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hoà
nhập. Qua đó tôi cũng nắm bắt được thông tin “ phản hồi” từ phía học sinh.
2.3. 3.4. GVCN lồng ghép giáo dục KNS cho học sinh thông qua môn học của
mình.
Là một giáo viên chủ nhiệm, đồng thời tôi cũng là một giáo viên bộ môn.
Với đặc thù là giáo viên dạy môn Ngữ văn, trong mỗi tiết dạy của mình tôi thường
lồng ghép giáo dục KNS cho học sinh. Ví dụ: Khi dạy “Giữ gìn sự trong sáng của
tiếng việt” (Ngữ văn lớp 12) tôi lồng ghép dạy kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng
giao tiếp cho học sinh bằng cách; đưa ra một số lối sống, cách xưng hô thiếu văn
hoá hiện nay của một bộ phận không nhỏ học sinh, cho học sinh điền vào phiếu học
tập với những thái độ đồng ý hoặc không đồng ý và trình bày tại sao lại có thái độ

như vậy. Sau đó tôi tổng kết và khắc sâu những điều các em cần phải phê phán và
phê phán như thế nào. Những điều các em cần phải tránh trong cách ứng xử với
14


nhau và nên ứng xử như thế nào? Kết luận: Có rất nhiều phương pháp để giáo dục
KNS cho học sinh. Nhưng không có một phương pháp nào là “vạn năng”. Do vậy,
“nghệ thuật” của một người GVCN là phải biết kết hợp linh hoạt các biện pháp, kết
hợp đúng đối 16 tượng HS, đúng đặc điểm từng lớp, đúng hoàn cảnh có như vậy thì
hiệu quả giáo dục KNS cho HS sẽ thu được hiệu quả cao hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường.
Phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua lớp chủ nhiệm
này tôi đã áp dụng đối với 2 lớp cụ thể như sau:
Năm học 2016 – 2017 tôi chủ nhiệm lớp 12E( lớp thực nghiệm): Sĩ số HS 43 trong
đó 25 HS nam, 18 HS nữ: Số HS cá biệt 13. Với đặc điểm là một lớp đông HS nam,
số HS cá biệt nhiều, nên dẫn đến nề nếp cũng như học tập kém, được xếp vào diện
lớp điển hình có nhiều học sinh bị kỷ luật,“quậy phá” trong các giờ của GV bộ
môn. Đầu năm liên tục đứng ở tốp cuối về nề nếp của trường. Tinh thần đoàn kết
hầu như không có, thậm chí chia bè, chia phái trong lớp. Về lao động có đến 80%
HS chây lười, ỷ lại Về các hoạt động bề nổi: 70% HS thờ ơ, không tham gia, phó
thác trách nhiệm cho cán sự lớp và GVCN
*Kết quả học lực và hạnh kiểm nửa học kỳ I:
SS
43

Hạnh kiểm
T
K
TB

Y
G
23,2% 27% 23,2% 26,6% 0%

Học lực
K
TB
Y
18,4% 63,2% 16,1%

K
2,3%

-Về lao động đã có 60% HS tích cực, hăng hái - Các hoạt động bề nổi đã có 90%
HS tham gia tích cực. - Về nề nếp xếp thứ 9/20 lớp toàn trường.
* Kết quả học lực và hạnh kiểm cuối năm học 2016 -2017
SS
43

Hạnh kiểm
T
K
TB
Y
G
34,8% 32,8% 16,2% 16,2% 0%

Học lực
K
TB

Y
K
23,2% 62,8% 14% 0

- Về lao động đã có 60% HS tích cực, hăng hái
- Các hoạt động bề nổi đã có 90% HS tham gia tích cực.
- Về nề nếp xếp thứ 9/20 lớp toàn trường
* Kết quả xếp loại hạnh kiểm và học lực cuối năm học 2016- 2017
SS
43

T

Hạnh kiểm
K
TB

Y

G

Học lực
K
TB

Y

K
15



46,5

37,2%

9,3%

7%

0%

28% 65% 7%

0

- Về lao động đã có 90% HS lao động tích cực.
- Các hoạt động bề nổi đã có 100% HS tham gia nhiệt tình.
- Lớp đã có sự đoàn kết, các em hoà đồng vui vẻ, giúp đỡ nhau trong học tập.
- Về nề nếp, lớp có sự tiến bộ nhiều so với đầu năm, số lượng HS cá biệt giảm
xuống còn 4 HS, xếp thứ 5/20 lớp toàn trường.
Năm học 2015- 2016 tôi được ban giám hiệu phân công làm công tác chủ nhiệm
lớp 10E ( lớp đối chứng): Sĩ số HS 37 trong đó 20 HS nam, 17HS nữ. Kết quả học
lực và hạnh kiểm nửa học kỳ I năm học 2015- 2016:
SS
37

Hạnh kiểm
T
K
TB

62,2% 29,7% 8,1%

Y
0%

G
0%

Học lực
K
TB
Y
37,8% 62,2% 0%

K
0%

-Về nề nếp: xếp thứ 5/20 lớp vào tháng 9. Xếp thứ 4/27 lớp vào tháng 10.
-Về lao động: 100% HS có thái độ lao động nhiệt tình. - Về hoạt động bề nổi. 100%
HS hăng hái tham gia và đóng góp ý kiến để hoàn thành các tiết mục văn nghệ,
TDTT chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11.
Kết quả học lực và hạnh kiểm học kỳ I năm học 2015 -2016.
SS
37

Hạnh kiểm
T
K
TB
70,3% 29,7% 0%


Y
0%

G
0%

Học lực
K
TB
Y
40,5% 59,5% 0%

K
0%

- Về nề nếp: Cuối học kỳ I xếp thứ 4/20 lớp toàn trường
- Lớp có sự tiến bộ vượt bậc, được xếp vào lớp tinh thần đoàn kết và có nề nếp tốt
trong Nhà trường.
- Về lao động: 100% HS có thái độ lao động nhiệt tình. HS đã tự giác lao động,
thậm chí cả khi không có GVCN.
- Về hoạt động bề nổi có 100% HS tham gia nhiệt tình, tích cực.
Qua sự đối chứng trên cho thấy: Lớp 12E mà tôi được giao làm công tác chủ nhiệm
trong năm học 2016- 2017, trong hơn một năm học đã có sự tiến bộ đáng kể. Điều
đó chứng tỏ, việc giáo dục KNS cho HS thông qua công tác chủ nhiệm là việc làm
hết sức bổ ích và cần thiết. Mang lại hiệu quả cao trong công tác giáo con người
toàn diện.

16



III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh đã và đang là hoạt động giáo dục quan
trọng trong các trường trung học phổ thông. Song nó mới chỉ được đề cập đến
nhiều ở dạng tích hợp, lồng ghép vào nội dung các bài học thuộc lĩnh vực chuyên
môn còn trong công tác chủ nhiệm lớp giáo viên tự mò mẫm tìm phương pháp giáo
dục và rút kinh nghiệm dần thậm chí có ít giáo viên viết SKKN về đề tài này vì sợ
không đạt giải. Sở giáo dục có mở lớp tập huấn về công tác giáo dục kỹ năng sống
cho giáo viên chủ nhiệm nhưng còn ít đợt , tài liệu hướng dẫn cho giáo viên chủ
nhiệm trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở các trường còn hạn chế,
mặc dù lĩnh vực này rất cần cho sự hình thành nhân cách đạo đức cho các em.
Trong đề tài này tôi chỉ mới đưa ra được một số phương pháp giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh trong các tình huống cụ thể, tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, học hỏi
để hoàn thiện mình hơn để có thể rèn luyện cho học sinh những kĩ năng sống giúp
các em bước vào đời vững vàng hơn.
3.2. Kiến nghị
Hằng năm có nhiều giáo viên viết sáng kiến kinh nghiệm và nhiều người có
kinh nghiệm hay như có phương pháp dạy học độc đáo, phương pháp giáo dục học
sinh cá biệt hiệu quả, phương pháp dạy học sinh giỏi…Theo tôi sở giáo dục và đào
tạo nên phổ biến rộng rãi những SKKN hay đó cho những giáo viên trẻ như tôi có
cơ hội được học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để hoàn thiện mình hơn.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.


Đỗ Thị Vinh

* Tài liệu tham khảo.
17


[1]. Bài giảng Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT- ĐH Quốc gia Hà Nội.
2016.
[2]. Tài liệu tập huấn/ bồi dưỡng giáo viên về Giáo dục giá trị sống và kỹ năng
sống cho học sinh phổ thông (2 tập) – Nguyễn Thị Mỹ Lộc & Đinh Thị Kim Thoa Trường ĐH Giáo dục – ĐH Quốc gia Hà Nội. 2010.
[3]. Bài giảng: Tập huấn về giáo dục kỹ năng sống- ThS. Trần Minh Hải.2016.
[4]. Thử nghiệm một số chủ đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT- Nguyễn
Thanh Bình. Tạp chí Khoa học Việt Nam- 2014.
[5]. Tài liệu: Tập huấn cán bộ quản lí và giáo viên về kỹ năng sống, giáo dục môi
trường, các vấn đề xã hội và kỉ luật tích cực – Sở Giáo dục & Đào tạo Thanh Hóa.
2016.
[6]. Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet
- Nguồn:
- Nguồn:

18



×