Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy tác phẩm vội vàng của xuân diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.91 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1. 3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Một số khái niệm
2.1.2. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực
2.1.3. Một số phương pháp dạy học tích cực
2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2. 3. Các phương pháp đã sử dụng để giảng dạy tác phẩm “Vội vàng”
2.3.1. Phần tìm hiểu chung
2.3.2. Phần đọc hiểu
2.4. Hiệu quả của đề tài
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
trang2
trang 2
trang 3
trang 3
trang 3
trang 4
trang 4
trang 4
trang 5
trang 6


trang 9
trang 10
trang12
trang 11
trang 15
trang 18
trang 20

1


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài
Mỗi giáo viên khi đứng trên bục giảng nếu muốn tìm kiếm cho mình những
phương pháp dạy học tốt nhất, mong muốn học sinh sẽ tiếp thu bài một cách hiệu
quả. Từ trước tới nay, đã có rất nhiều thầy cô giáo đã tìm được hướng đi riêng cho
bản thân, có những phương pháp, con đường đã hoàn toàn đúng, có những phương
pháp cần phải hoàn thiện, đống góp thêm nhưng mỗi cách dạy đều có những ưu
khuyết điểm riêng của nó.
Đối với phương pháp dạy học lấy người thầy làm trung tâm đã dẫn đến kiểu
học thụ động thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ từ đó hạn chế đến chất lượng và
hiệu quả dạy học không đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Để khắc phục tình trạng
đó thì cần phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh thông qua quá trình dạy
học dưới sự chỉ đạo, tổ chức của người giáo viên, người học phải tích cực, chủ
động vào chính mình chứ không ai có thể làm thay cho mình được.
Chương trình đổi mới giáo dục trên phạm vi toàn quốc trong những năm vừa
qua đã và đang được cả xã hội quan tâm sâu sắc. Một trong những nhiệm vụ cơ bản
của đội ngũ nhà giáo là không ngừng cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm giáo
dục học sinh lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, sáng tạo. Chính vì thế, người
giáo viên trực tiếp giảng dạy phải biết vận dụng các phương pháp hoạt động lên lớp

một cách hợp lý, cụ thể phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm khơi dậy niềm
say mê, sáng tạo và khả năng khám phá thế giới xung quanh.
Với vị trí và chức năng của môn học, môn văn cần phải có những chuyển biến
mạnh mẽ về đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm “Phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh” nhằm làm thay đổi quan niệm của học sinh coi
đây là môn học nhàm chán, ít quan tâm.
Xuất phát từ lí do trên tôi mạnh dạn chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Phát
huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy tác phẩm Vội vàng của
2


Xuân Diệu” với hi vọng đáp ứng một phần vào việc đổi mới phương pháp giảng
dạy mà ngành giáo dục đang thực hiện nói chung và của văn nói riêng trong nhà
trường THPT.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu nhằm giúp học sinh thêm tăng tính chủ động tích cực trong
các giờ đọc hiểu văn bản “Vội vàng” trong chương trình Ngữ văn 11. Từ đó, giúp
học sinh tiếp cận được những phương pháp học mới để học sinh có thể tự tìm hiểu
khám phá nhiều tri thức ở trong và ngoài chương trình.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Ở đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu về những phương pháp dạy học tăng tính
chủ động,sáng tạo của học sinh, vận dụng một số phương pháp dạy học đó khi tìm
hiểu tác phẩm “ Vội vàng” của tác giả Xuân Diệu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Làm đề tài này, tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu:
-Phương pháp thống kê, nêu ví dụ
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp tổng hợp


3


II. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận
2.1.1. Một số khái niệm
-Tính tích cực:
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội.
Khác với động vật, con người không chỉ tiêu thụ những gì sẵn có trong thiên nhiên
mà còn chủ động, bằng lao động, sản xuất ra những của cải vật chất cần cho sự tồn
tại của xã hội, sáng tạo ra nền văn hóa ở mỗi thời đại. Hình thành và phát triển tính
tích cực xã hội đã là củng cố một trong các nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục nhằm
đào tạo những con người năng động, thích ứng và góp phần phát triển cộng đồng.
Có thể xem tính tích cực như là một điều kiện đồng thời là một kết quả của sự phát
triển nhân cách của hoc sinh trong quá trình giáo dục trong nhà trường [1].
- Phương pháp dạy học tích cực:
Phương pháp tích cực để chỉ những phương pháp dạy học phát huy tính tích
cực, chủ động sáng tạo của người học. Phương pháp tích cực hướng tới việc hoạt
động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học nghĩa là tập trung vào
phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tâp trung vào người dạy [1].
2.1.2. Những đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực
Dạy học tích cực là phương pháp thông qua các hoạt động của học sinh.
Trong phương pháp tích cực, người học, đối tượng của hoạt động dạy, đồng thời là
chủ thể của hoạt động học, được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ
chức và chỉ đạo. Thông qua đó, tự lực khám phá những điều mình chưa biết chứ
không phải là thụ động tiếp thu những trí thức đã được giáo viên sắp đặt ra theo
cách suy nghĩ của mình. Từ đó, vừa nắm được kiến thức, kĩ năng mới, vừa nắm
được phương pháp tìm ra kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo khuôn mẫu có sẵn,
được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này thì giáo viên không
chỉ đơn giản là truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động.


4


- Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học. Phương pháp tích cực xem
việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là biện pháp nâng cao
hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu học. Trong phương pháp học thì cốt lõi là
phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng,
thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ có được lòng ham học, khơi dậy nội lực
vốn có của mỗi người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay,
ngưòi ta nhấn mạnh hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển
biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay
trong trường phổ thông, không chỉ tự học ngay trong trường phổ thông, không phải
tự học ở nhà mà cả tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.
- Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học nhóm. Nếu trình độ kiến thức tư
duy học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực
buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học
tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập. Áp dụng
phương pháp ở trình độ càng cao thì sự phân hóa càng lớn. Việc sử dụng các
phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hóa
học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh. Tuy nhiên trong học tập, không
phải mọi tri thức kĩ năng, thái độ được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá
thể. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy trò, trò với trò, tạo nên mối quan hệ hợp
tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo
luận, tranh luận trong học tập, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định, hay bác
bỏ. Qua đó, người học nâng mình lên một trình độ mới, bài học vận dụng được vốn
hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi học sinh và của cả lớp chứ không phải chỉ dựa
trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của thầy giáo.
- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Trong dạy học, việc đánh
giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh

hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và
điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trước đây, mọi người vẫn thường hay có
5


quan niệm giáo viên có độc quyền đánh giá học sinh. Nhưng trong phương
pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh tự đánh giá để điều chỉnh
cách học. Liên quan đến điều này, giáo viên cần tạo thuận lợi để học sinh được
tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp
thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà mỗi thầy cô cũng
như nhà trường phải trang bị cho học sinh.
Với phương pháp này, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn
các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung
học tập, chủ động đạt mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của
chương trình. Ở trên lớp, với phương pháp tích cực này thì học sinh hoạt động
là chính, giáo viên nhàn nhạ hơn. Song khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu
tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy học thụ động, mới có thể thực
hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác động viên, cố vấn, trọng
tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh.
2.1.3. Một số phương pháp dạy học tích cực
Hiện nay có nhiều phương pháp dạy học tích cực đã được sử dụng, tuy nhiên
do giới hạn của đề tài, tôi chỉ xin đưa ra một số phương pháp dạy học tiêu biểu hay
được sử dụng trong trường THPT.
- Phương pháp vấn đáp: Vấn đáp ( đàm thoại ) là biện pháp trong đó giáo viên
đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể bàn cãi với nhau và với cả
giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học [1]. Chứng cứ vào thuộc
tính hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp:
+ Vấn đáp tái hiện: thầy giáo đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến
thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không thèm suy luận. Vấn đáp tái tạo không
được xem là phương pháp quý báu sư phạm.

+ Vấn đáp giải thích – minh hoạ : Nhằm mục tiêu làm sáng tỏ một đề tài nào
đó, thầy giáo lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học
sinh dễ nắm bắt, dễ nhớ.
6


+Vấn đáp tái tạo: thầy giáo dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để
hướng học sinh từng bước phát xuất hiện thực chất của sự vật , tính quy luật của
cảnh tượng đang tìm hiểu, kích thích sự thèm muốn am hiểu. Thầy giáo tổ chức sự
trao đổi ý kiến – kể cả bàn cãi – giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò, nhằm
giải quyết một sự tình xác định. Trong vấn đáp tái tạo, thầy giáo giống như người tổ
chức sự tìm tòi, còn học sinh giống như người tự lực phát hiện kiến thức mới. Vì
thế, khi chấm dứt cuộc nói chuyện, học sinh có được niềm vui của sự khám phá
trưởng thành thêm một bước về thấp tư duy.
- Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.
Có thể phân biệt bốn mức thấp đặt và giải quyết vấn đề cho học sinh:
Mức 1: Thầy giáo đặt sự tình, nêu cách giải quyết sự tình. Học sinh thực hiện
cách giải quyết sự tình theo hướng dẫn của thầy giáo.
Mức 2:Thầy giáo nêu sự tình, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết sự tình.
Học sinh thực hiện cách giải quyết sự tình với sự giúp đỡ của giáo viên khi cần.
Mức 3: thầy giáo cung cấp thông báo tạo tình huống có sự tình. Học sinh phát
hiện và xác định sự tình nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết.
Mức 4 : học trò tự lực phát hiện vấn đề phát sinh trong hoàn cảnh của mình
hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học trò giải quyết vấn đề, tự đánh giá
chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.
Các mức
1
2
3
4


Đặt vấn đề
GV
GV
GV + HS
HS

Nêu giả thuyết
GV
GV
HS
HS

lập kế hoạch
GV
HS
HS
HS

Giải quyết vấn đề
HS
HS
HS
HS

K Luận, đánh giá
GV
GV + HS
GV + HS
GV + HS


Trong dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, học trò vừa nắm
được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát triển tư
duy hăng hái, sáng tạo, được để sẵn một năng lực thích ứng với đời sống xã
hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề phát sinh.
- Phương pháp hoạt động nhóm: Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4
đến 6 người. Tuỳ mục đích, của vấn đề học hỏi, các nhóm được phân chia không
7


hẹn mà có hay có chủ tâm, được duy trì yên ổn hay thay đổi trong từng phần của
tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau [1].
Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có xác xuất phân việc
mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc hăng
hái, chẳng thể ỷ lại vào một đôi người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên
trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiêu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các
nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học hỏi chung
của cả lớp. Để trình diễn kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có xác
xuất cử ra một đại diện hoặc phân việc mỗi thành viên trình diễn, một phần nếu
nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.
Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong
bài. Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm san sẻ các băn
khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách
nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có xác xuất nhận rõ trình độ hiểu biết của
mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá
trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp thụ bị động từ giáo viên.Thành
công của bài học phụ thuộc vào sự nồng nhiệt tham gia của mọi thành viên, vì vậy
phương pháp này còn làm gọi là phương pháp cùng tham gia. Tuy nhiên, phương
pháp này bị ngăn lại trong một giới hạn nhất định bởi không gian có phạm vi nhỏ
của lớp học, bởi thời kì hạn định của tiết học, thành thử giáo viên phải biết tổ chức

hợp lý và học trò đã khá quen với phương pháp này thì mới có kết quả.
- Phương pháp đóng vai : Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học trò thực
hành một số cách xử sự nào đó trong một cảnh huống giả định[1].
- Phương pháp động não: Động não là phương pháp giúp học sinh trong một
thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một sự tình nào đó.
Thực hiện phương pháp này, thầy giáo cần đưa ra một hệ thống các thông báo làm
tiền đề cho buổi thảo luận[1].
8


Cách tiến hành: Thầy giáo nêu câu hỏi cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc
trước nhóm, động viên học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trước môn Ngữ văn thường được thực hiện theo phương pháp dạy học truyền
thống thiên về lí thuyết, thầy cô giáo soạn bài giảng, truyền thụ đến học sinh, học
sinh tiếp thu thụ động kiến thức ấy, ghi nhớ và vận dụng vào bài kiểm tra. Cứ như
thế thành một chu kì khép kín. Phương pháp dạy học này có những ưu điểm riêng
không thể phủ nhận được là đã đạt những kết quả đáng kể trong việc bồi dưỡng học
sinh giỏi, học sinh dễ đạt được những kiến thức hàn lâm. Tuy nhiên, trong môi
trường giáo dục ngày nay phương pháp truyền thống ấy cũng bộc lộ không ít nhược
điểm như: Học sinh thụ động, chỉ biết tiếp nhận một chiều chứ không tự nghiên
cứu, tìm hiểu. Như thế, hậu quả khó tránh khỏi là học sinh dần dần mất đi năng lực
tư duy, tự cảm thụ tác phẩm mà chỉ chấp nhận và sao chép lại cảm thụ của thầy cô.
Đã có nhiều trường hợp học sinh phải ngồi học cả mấy trang giấy phần giảng bài
của thầy cô cho một tác phẩm văn học, dù kiến thức thuộc làu làu nhưng chỉ cần
lúc thi câu hỏi hỏi chệch đi chút ít là học sinh không thể nào tư duy làm được. Đặc
biệt, khi cần vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống là học sinh cảm thấy vô
cùng khó khăn.
Trước thực trạng ấy, có thể thấy đổi mới phương pháp dạy học là việc làm cấp
thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với việc vực dậy môn Ngữ văn vốn đang mất dần

sức hút đối với học sinh. Trong những năm qua, ngành giáo dục đã có nhiều cải
cách quan trọng từ giáo dục ở bậc tiểu học cho đến các trường thpt.
Riêng ở phổ thông, sự đổi mới thể hiện trên nhiều phương diện, rõ nhất là về
chương trình, sách giáo khoa và đặc biệt là phương pháp dạy học.
Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là thay đổi lối
dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy học tích cực”
nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện
thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào
9


những tình huống khác nhau trong học tập và thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui hứng
thú trong học tập. Nhờ việc vận dụng những phương pháp dạy học mới này học
sinh không còn thụ động mà chủ động tiếp cận kiến thức. Điều đó dần dần hướng
tới yêu cầu của giáo dục mới đó là quan tâm tới những kĩ năng học sinh học được
để vận dụng vào cuộc sống. Học sinh sẽ không trở thành những cỗ máy vận hành
theo những khuôn mẫu có sẵn theo các dây chuyền định trước mà các em được tự
do thể hiện cái tôi cảm thụ văn học.
Đặc biệt với nền văn học lãng mạn, các nhà thơ có rất nhiều cách tân nghệ
thuật, do thế học sinh nếu cứ thụ động tiếp thu kiến thức sẽ khó lòng phát hiện hết
các ý thơ. Do vậy, một vài ý kiến nhỏ cuả đề tài, phần nào giúp học sinh chủ động,
tích cực hơn trong việc tiếp thu tác phẩm để nắm bắt được nét hay, độc đáo của tác
phẩm và đặc điểm của trào lưu văn học này.
2.3. Các phương pháp sử dụng để giảng dạy tác phẩm “Vội vàng”
“Vội vàng” là một tác phẩm hay, có nhiều cách tân độc đáo, thế nhưng đa
phần khi tìm hiểu tác phẩm này học sinh vẫn cảm thấy đây là một tác phẩm khó có
thể cảm nhận hết cái hay của nó. Do vậy, với đề tài này, giáo viên chỉ xin đưa ra
một số phương pháp, cách dạy nâng cao hiệu quả tìm hiểu tác phẩm.
2.3.1. Phần tìm hiểu chung
Đây là phần mà các giáo viên thường ít chú trọng vì nghĩ rằng kiến thức của nó khá

dễ dàng lại hoàn tòan có trong sách giáo khoa, thế nhưng đây lại là phần vô cùng
quan trọng vì nó quyết định sự tò mò hứng thú của học sinh trong việc tìm hiểu
phần văn bản sau. Do vậy, cần phải chú ý cách vào bài, cách tìm hiểu tiểu dẫn sao
cho hấp dẫn nhất tạo không khí cho học sinh tiếp cận bài học một cách dễ dàng.
-Như phần dẫn nhập vào bài: Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết:
“Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. “ Xuân Diệu là người đốt
cảnh bồng lai xua mọi người về hạ giới”. “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống
dào dạt chưa từng thấy ở chốn non nước lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu,
10


say đắm cảnh trời, vội vàng cuống quýt muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của
mình… Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”[10]. Để hiểu
được những nhận định trên, hôm nay, chúng ta cùng tìm hiểu bài thơ Vội vàng.
=> Đây là phương pháp nêu vần đề khiến học sinh phải tìm hiểu để đi đến câu
trả lời.
-Phần tiểu dẫn: yêu cầu học sinh đọc thầm trả lời cho câu hỏi tiểu sử, con
người và sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu (phương pháp đọc thầm)
+ Câu hỏi: Theo em xứ Nghệ quê cha, xứ dừa quê mẹ có ảnh hưởng như thế
nào đến con người và sự nghiệp văn chương của Xuân Diệu? => phương pháp nêu
vấn đề; HS suy nghĩ trả lời (phương pháp giải quyết vấn đề)
+ Câu hỏi: Từ những yếu tố về gia đình, quê hương, học vấn, đường đời, cho
em nhận xét gì về nhà thơ Xuân Diệu và sự nghiệp sáng tác của ông? Những yếu tố
đó ảnh hưởng như thế nào đến sáng tác của ông? (phương pháp gợi mở)
2.3.2. Phần đọc- hiểu
*Đoạn 1: 13 dòng thơ đầu: Tình yêu cuộc sống tha thiết đắm say
- 4 dòng thơ đầu: Giáo viên đọc diễn cảm:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi [8]
Giáo viên so sánh mở rộng với nhà thơ Chế Lan Viên cũng có những vần thơ
rất hay nói về mùa xuân:

Tôi có chờ đâu có đợi đâu
11


Mang chi xuân đến gợi thêm sầu
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nỗi khổ đau. [10]
Chúng ta đã được tìm hiểu về phong trào thơ Mới, Xuân Diệu và Chế Lan
Viên là hai cái tên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ. Tuy nhiên, cùng một
chủ đề mùa xuân hai thi sĩ có những cái nhìn khác nhau. Các em cùng đọc và chỉ ra
sự khác biệt đó => kết hợp phương pháp đọc và phương pháp tái tạo,so sánh
(Học sinh trả lời: Chế Lan Viên không thích mùa xuân, thấy cuộc đời như vô
nghĩa>< Xuân Diệu: cuống quýt, vội vàng, sống toàn tâm toàn trí thể hiện một khát
vọng đến cuồng nhiệt)
Giáo viên hỏi: Ở đọan thơ này, tác giả đã thể hiện khát vọng đến ngông cuồng.
Đó là khát vọng gì? Từ ngữ nào thể hiện khát vọng ấy?
(Trả lời: điệp từ “tôi muốn” + “ cho”=> giọng điệu sôi nổi mãnh liệt => khát vọng
táo bạo lạ lùng muốn đoạt quyền của tạo hóa: “tắt nắng” + “buộc gió”)
- 7 câu thơ tiếp
Giáo viên dẫn: Trong khi những hồn thơ khác trốn đời vào cõi hư vô, hão
huyền chỉ thấy vẻ đẹp ở chốn bồng lai tiên cảnh thì “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng
lai xua ai nấy về hạ giới”(Hoài Thanh):
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
….
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” [8]
=> phương pháp đọc diễn cảm

Giáo viên hỏi: Thiên nhiên trong đoạn thơ này được Xuân Diệu miêu tả như
thế nào? Em hãy đọc một đọn thơ có hình ảnh ước lệ tượng trưng mà em đã học?
So sánh với đoạn thơ này => phương pháp tái tạo
12


(Học sinh trả lời: Truyện Kiều =>cảnh vật trong đoạn thơ thoát khỏi hệ thống thi
pháp ước lệ trung đại)
Giáo viên mở rộng: “Các cụ ta ưa cái màu đỏ choét, ta lại ưa cái màu xanh
nhạt. Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta nao nao lúc gà đúng ngọ.
Nhìn một cô gái xinh ngây thơ các cụ cho là tội lỗi, ta cho là mát mẻ như đứng
trước một cánh đồng xanh…”[10].
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”[10].
Hay thơ Đường có câu: Phù dung như diện liễu như mi”. Em có nhận xét gì về
cách miêu tả của Xuân Diệu?
Học sinh làm việc theo các nhóm nhỏ và trả lời: Nếu các thi nhân xưa quan
niệm thiên nhiên là đẹp nhất, là tiêu chí chuẩn mực làm thước đo cái đẹp đời sống
thì Xuân Diệu đã đưa con người lên ngai vàng của cái đẹp:
“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”


[8]

=> phương pháp gợi mở + tái tạo + làm việc nhóm
- 2 câu cuối: câu hỏi dưới dạng phương pháp gợi mở
+ Cái tôi trữ tình của Xuân Diệu được thể hiện như thế nào?
13


+ Dấu chấm đặt giữa dòng thơ có tác dụng gì?
*Đoạn 2
Giáo viên: Tổ chức HS hoạt động nhóm: Chia lớp làm 4 nhóm: Trả lời câu
hỏi: Liệt kê các câu thơ viết về thời gian trong các tác phẩm trung đại mà em được
học. Đọc 16 câu thơ tiếp theo trong Vội vàng, so sánh quan niệm về thời gian của
người xưa với quan niệm thời gian của Xuân Diệu
=> Phương pháp tái tạo + làm việc nhóm
(Học sinh trả lời: Thời trung đại: xuân đi xuân lại lại>trở lại)
Giáo viên hỏi: Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
….
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất [8]
Em có nhận xét gì về đoạn thơ trên? Điệp từ “xuân” các cặp từ đối lập cho em
nhận xét gì? (phương pháp gợi mở)
*Khổ cuối: Khát vọng tận hưởng cuộc sống trần gian
Ở khổ cuối này giáo viên có thể kết hợp nhiều phương pháp để hướng dẫn cho học
sinh:
“Ta muốn ôm” ( giáo viên đọc diễn cảm): câu thơ đột ngột rút ngắn ba chữ,
phải chăng đó là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ? => câu hỏi nêu vấn đề
Học sinh trả lời: thể hiện khao khát sống, khao khát yêu đời của nhà thơ Xuân
Diệu.
Phương pháp gợi mở: Em có nhận xét gì về cách xưng hô đến đoạn này? (Trả

lời: “tôi” chuyển sang “ta” => đầy nhân văn, là tiếng lòng của những con người trẻ
tuổi, trẻ lòng)

14


Phương pháp tái tạo: Từ sự tìm hiểu ở các đoạn trên, em có nhận xét gì về
nghệ thuật mà Xuân Diệu sử dụng ở khổ cuối này? (Trả lời: điệp từ “tôi muốn” +
“cho” + cách điệp cú). Hiệu quả sử dụng nghệ thuật này như thế nào? (Trả lời: diễn
tả nhịp đập sôi nổi của con tim vội vã, vồ vập)
Phương pháp đọc thành tiếng + gợi mở:
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi [8]
Giáo viên hỏi: Em hãy liệt kê các động từ ở đoạn thơ trên? Nhận xét giá trị
nghệ thuật của các động từ ấy ?
Phương pháp tái tạo: Từ sự phân tích tìm hiểu ở trên, em hãy giải thích nhan
đề của tác phẩm Vội vàng? Giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm?
2.4. Hiệu quả của đề tài
Sáng kiến “Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc tìm hiểu
tác phẩm Vội vàng” đã được tôi thử nghiệm trong hai năm học 2015-1016 và 20162017. Kết quả thu được nhìn chung tốt, khi áp dụng phương pháp này hứng thú học
tập của học sinh tăng lên rất nhiều. Từ đó hiệu quả học phần văn học này của học
sinh cũng có những cải biến rõ rệt. Học sinh cảm thấy thú vị, hứng thú hơn với tác
phẩm này. Cũng từ việc tìm hiểu tác phẩm “vội vàng” theo phương pháp này, học
sinh đã tự nghiên cứu và tìm hiểu những tác phẩm khác của phong trào thơ mới
trong chương trình và nắm bài rõ rệt.
Trong năm học 2015-2016 tôi thử nghiệm với học sinh lớp 11C, còn lớp 11G
là lớp tôi vẫn dạy theo phương pháp cũ. Sau khi học xong bài “Vội vàng” tôi đã
khảo sát sự hứng thú học tập của học sinh hai lớp 11C và 11E. Kết quả là lớp 11C
có 81% học sinh hứng thú với bài thơ, trong khi đó lớp 11G chỉ có 60% học sinh

thích học phần văn học này. Như vậy, nhờ áp dụng phương pháp này hứng thú học

15


tập của lớp 11C đã tăng lên 21% so với lớp 11G. Kết quả của bài kiểm tra 15phút
cũng cho thấy kết quả rõ rệt khi áp dụng phương pháp dạy học này:
Lớp

Giỏi

Khá

Tb

Yếu

Kém

11C

20%

30%

42,5%

7.5%

0


11 G

6.4%

28%

52%

9.4%

4.2%

Kết quả của bài kiểm tra cho thấy kết quả từ trung bình trở lên của lớp 11C là
92,5%, trong khi lớp 11G chỉ có 86.4%. Đặc biệt điểm khá giỏi của lớp 11C là 50%
còn lớp 11G chỉ có 34.4% điều đó chứng tỏ khi áp dụng phương pháp này mang lại
hiệu quả cao hơn, học sinh nắm vững kiến thức hơn so với cách dạy truyền thống.
Có được những kết quả ban đầu, tôi tiếp tục áp dụng phương pháp này trên hai
lớp 11C và 11E trong năm học 2016-2017. Cả hai lớp này đều là những lớp có tỉ lệ
đầu vào của học sinh tương đương nhau. Khi dạy 2 lớp này, tôi đã áp dụng phương
pháp giảng dạy “Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi tìm hiểu tác
phẩm Vội vàng” trên lớp 11C còn lớp 11E tôi vẫn dạy theo phương pháp truyền
thống.
Kết quả, sau khi kết thúc bài học tôi tiếp tục phát phiếu thăm dò lấy ý kiến của
học sinh. Học sinh lớp 11C hứng thú với bài học là 87%, lớp 11E chỉ có 63%.
Như vậy học sinh lớp 11C hứng thú với phần văn học này tăng 23% so với 11E. Do
vậy, kết quả của bài kiểm tra 15 phút của hai lớp cũng cho thấy sự thành công rõ rệt
của phương pháp này.
Giỏi


Khá

Tb

Yếu

Kém

11C

11.1%

44.4%

38%

6.5%

0

11E

6.7%

40%

33.3%

18.8%


2.2%

Nhờ việc sử dụng phương pháp này số học sinh bị loại yếu kém của lớp 11C
giảm 13.5% so với 11E. Đặc biệt, lớp 11C không còn học sinh điểm kém trong bài
16


15 phút. Số học sinh đạt điểm khá giỏi của lớp 11C là 55.5% tăng 8.8% so với 11E.
Đây là những kết quả đáng mừng chứng minh sự thành công của phương pháp dạy
học này.
Sau hai năm thử nghiệm phương pháp này, tôi thấy phương pháp này có hiệu
quả hơn hẳn với phương pháp truyền thống. Nó giúp học sinh hứng thú hơn với giờ
học văn, nhờ đó mà kết quả học phần văn học này cũng khả quan hơn. Quan trọng
hơn nữa, nhờ phương pháp này, học sinh có thể phát huy được khả năng tiếp nhận,
cảm thụ một tác phẩm văn học. Từ tác phẩm này, học sinh có thể tự khai thác, tiếp
cận các tác phẩm văn học khác dưới sự định hướng của giáo viên.

17


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Trong quá trình dạy học, mỗi giáo viên đều có những phương pháp riêng để
đạt hiệu quả giảng dạy tốt nhất. Tuy nhiên, không có phương pháp nào là hoàn
thiện tuyệt đối, nhưng năng lực và tâm huyết của giáo viên là quyết định đến chất
lượng dạy học. Để đạt hiệu quả cao trong mỗi tiết dạy của mình mỗi giáo viên có
tâm huyết với nghề nghiệp đều phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn,
tìm tòi ứng dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau. Nhưng dù phương thức,
cách thức có khác nhau thì giáo viên cần phải hướng tới một mục tiêu chung đó là
hướng tới sự chủ động sáng tạo của học sinh. Học sinh chỉ có thể tiếp thu tri thức

tốt nhất khi các em được làm chủ giờ học, được chủ động khám phá những tri thức
trong sách giáo khoa. Đặc biệt với môn văn, một môn học không được học sinh ưa
thích thì có lẽ tìm ra những phương pháp tăng hứng thú học tập của học sinh thật sự
cần thiết. Trong giảng dạy văn học, có rất nhiều con đường để đi tới một mục đích,
những vấn đề tôi trình bày trong đề tài cũng chỉ là những tìm tòi cá thể cho nên
không tránh khỏi thiếu sót rất cần sự đóng góp của các đồng nghiệp xa gần.
3.2. Đề xuất
- Đối với nhà trường:
+ Mua sắm, bổ sung thêm tài liệu, thiết bị dạy học cần thiết để vận dụng trong
nghiên cứu, giảng dạy.
+ Hỗ trợ tổ chuyên môn tổ chức các hoạt động ngoại khóa về văn học để tạo
hứng thú, tăng hiểu biết cho cả người dạy lẫn người học.
- Đối với Sở GD&ĐT:
Những đề tài sáng kiến kinh nghiệm có tính thực tiễn cao nên phổ biến rộng rãi
tới các nhà trường để giúp giáo viên có tài liệu tham khảo.

18


Thanh Hóa, ngày 19 tháng 5 năm 2017
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Thị Mai

19



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các phương pháp dạy học hiệu quả ( Nguyễn Hồng Vân dịch, Nhà xuất bản
giáo dục)
2. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng Ngữ văn 11 ( Phan Trọng Luận chủ
biên, Nhà xuất bản sư phạm 2010) .
3. Đa trí tuệ trong lớp học (Lê Quang Long dịch, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
2010)
4. Đại từ điển Tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên, trung tâm ngôn ngữ văn hóa
Việt Nam)
5. Lí luận văn học: Tác phẩm và thể loại (Trần Đình Sử chủ biên, Nhà xuất bản
Đại hoạc sư phạm 2008)
6. Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại thể) (Nguyễn Viết
Chữ, Nxb Đại học Sư phạm, H. 2004)
7. Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Nxb
Giáo dục, 2004)
8. Sách giáo khoa Ngữ Văn 11 ( tập 2) ( Phan Trọng Luận, Nhà xuất bản giáo
dục 2016
9. Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn chương theo loại thể (Trần Thanh Đạm, Nxb
Giáo dục, H. 1971)
10. Văn học Việt Nam(1900-1945) (Phan Cư Đệ, Nhà xuất bản Giáo dục 2009)
11. Https://WWW.google.com.vn

20



×