Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Rèn luyện kĩ năng làm văn theo đặc trưng loại đề để nâng cao chất lượng bài làm văn nghị luận về ý kiến văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.97 KB, 25 trang )

Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

MUC

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

TÓM LƯỢC NỘI DUNG

TRANG

Mục lục
I

PHẦN MỞ ĐẦU

1

1

Lý do chọn đề tài

1

2

Mục đích nghiên cứu

2

3


Đối tượng nghiên cứu

2

4

Phương pháp nghiên cứu

2

II

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3

1

Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh

3

2
3

nghiệm
Các giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề

5


3.1. Phân loại các dạng đề nghị luận về ý kiến văn học

5

3.1.1. Phân loại dựa trên nội dung của ý kiến văn học

5

3.1.2. Phân loại dựa trên hình thức của ý kiến văn học
3.2. Định hướng việc xác định phạm vi kiến thức văn học

6

cần vận dụng
3.3. Hướng dẫn học sinh lập ý và lập dàn bài cho những
dạng đề cụ thể
3.3.1. Lập ý và lập dàn bài cho dạng đề nghị luận về một ý
kiến văn học
3.3.2. Lập ý và lập dàn bài cho dạng đề nghị luận về hai ý
kiến văn học
3.4. Hướng dẫn học sinh thực hành và luyện tập
4

4

Hiệu quả vận dụng của sáng kiến kinh nghiệm

III


7
10
11
14
17
19

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

21

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục các đề tài sáng kiến kinh nghiệm đã được đánh
giá, xếp loại

23
23

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

1


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

Môn Ngữ văn trong trường phổ thông là một môn học đặc thù với tổ hợp

các phân môn, bao gồm: đọc - hiểu văn bản tác phẩm văn học, tiếng Việt, làm
văn và lí luận văn học. Trong các phân môn đó thì phân môn Làm văn là một
phân môn khó, là sự vận dụng tổng hợp tri thức và kĩ năng của các phân môn
còn lại, mà sản phẩm của nó là những bài làm văn và cũng là thước đo cuối cùng
và cao nhất về chất lượng dạy và học của cả môn học.
Nghị luận văn học là kiểu bài làm văn tổng hợp kiến thức văn học, kiến
thức về cuộc sống, vốn văn hóa cũng như tư tưởng, tình cảm cùng với năng lực
ngôn ngữ, năng lực tư duy, khả năng lập luận logic và sự sáng tạo của học sinh.
Trong nghị luận văn học thì dạng đề nghị luận về ý kiến văn học là dạng đề bài
khó nhất, đòi hỏi năng lực của người học ở mức độ cao và phức tạp nhất, cả về
kiến thức và kĩ năng. Để có thể làm được và làm tốt bài văn nghị luận bàn về ý
kiến văn học với những yêu cầu cụ thể rất phong phú và đa dạng thì học sinh cần
phải rèn luyện trong một quá trình với một phương pháp khoa học và phù hợp.
Trong các kỳ thi từ thi Đại học - cao đẳng trước đây đến thi THPT quốc
gia hiện nay, nhất là trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia,
dạng đề bài nghị luận về ý kiến văn học luôn được ưu tiên lựa chọn và là những
thử thách thực sự đối với học sinh.
Rèn luyện kiến thức và kĩ năng để làm tốt bài văn nghị luận nói chung, bài
văn nghị luận về ý kiến văn học nói riêng còn là rèn luyện cho học sinh khả
năng biện luận vấn đề, biết nhận thức, lí giải, bình luận và phản biện khi gặp
những vấn đề phức tạp khi các em bước chân vào cuộc sống.
Vì những lí do trên và với kinh nghiệm của mười lăm năm giảng dạy môn
Ngữ văn nói chung, dạy làm văn nghị luận nói riêng, cùng với những kết quả
vận dụng đã đạt được của đề tài sáng kiến kinh nghiệm năm 2012 (Đề tài: Nâng
cao hiệu quả dạy ôn tập môn Ngữ văn bằng cách phân nhóm các dạng đề bài văn
nghị luận), tôi xin được đề xuất đề tài sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện kĩ năng
làm văn theo đặc trưng loại đề để nâng cao chất lượng bài làm văn nghị luận về
ý kiến văn học
2. Mục đích nghiên cứu
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng


2


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là rèn luyện cho học sinh hệ thống kĩ
năng và thao tác làm bài theo những yêu cầu riêng của dạng đề để nâng cao chất
lượng các bài làm văn nghị luận về ý kiến văn học.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là những kĩ năng và thao tác để triển
khai một bài văn nghị luận về ý kiến văn học.
Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là những các dạng đề bài khác nhau của
loại bài làm văn nghị luận về ý kiến văn học.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp liệt kê - phân loại;
- Phương pháp phân tích – tổng hợp;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp thực nghiệm;
- Phương pháp vấn đáp - gợi mở, nêu ví dụ;
- Phương pháp diễn giải... và một số phương pháp khác.
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
So với đề tài sáng kiến kinh nghiệm " Nâng cao hiệu quả dạy ôn tập môn Ngữ
văn bằng cách phân nhóm các dạng đề bài văn nghị luận" mà chúng tôi đã triển khai

từ năm học 2011 - 2012 thì đề tài sáng kiến kinh nghiệm này có những điểm mới

như sau:
Đề tài này đi sâu vào những kĩ năng theo đặc trưng loại đề đối với một
loại đề cụ thể là Nghị luận về ý kiến văn học - loại đề bài chủ yếu trong các kỳ
thi chọn học sinh giỏi từ cấp tỉnh đến cấp quốc gia.
Đề tài này đi vào phân tích chi tiết các bước trong quy trình triển khai
cách làm một bài văn nghị luận về ý kiến văn học, các kĩ năng cơ bản mà học
sinh cần phải nắm vững và vận dụng thuần thục như một "công thức mở" để giải
quyết vấn đề.

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

3


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
"Văn nghị luận là một thể loại thường dùng trong đời sống xã hội. Hiểu và
nắm vững quá trình, phương pháp làm văn nghị luận sẽ giúp ta có được một tư
duy sắc bén, chuẩn xác; đồng thời có thể trình bày luận điểm của mình một cách
hoàn thiện, có sức thuyết phục mạnh mẽ" [3, tr.3]
"Kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một
lĩnh vực nào đó vào thực tế"[2; tr.517].
"Nghị luận là dùng ý kiến, lí lẽ của mình để bàn bạc, thuyết phục người
khác về một vấn đề nào đó"[4; tr.6]
Như vậy, kĩ năng làm bài văn nghị luận là khả năng vận dụng những kiến
thức văn học, kiến thức về làm văn, kiến thức ngôn ngữ và kiến thức đời sống của

bản thân để bàn bạc, thuyết phục người khác về một vấn nào đó về văn học hay đời
sống xã hội. Đây là một hệ thống kĩ năng vô cùng quan trọng mà học sinh cần phải
nắm vững và vận dụng trong quá trình làm văn. Sách giáo khoa "Làm văn 12"
(chương trình chỉnh lí hợp nhất năm 2000) đã nêu lên rất đầy đủ các kĩ năng cơ bản
là: phân tích đề và xác định luận đề, mở bài và kết bài, kĩ năng lập ý, lập dàn bài,
kĩ năng vận dụng các thao tác lập luận, kĩ năng chuyển đoạn và liên kết đoạn văn,
kĩ năng lựa chọn và phân tích dẫn chứng, kĩ năng diễn đạt [5, tr.3,11,24,35,44]. Đó
là những kĩ năng vô cùng cần thiết mà hoc sinh cần phải được rèn luyện.
Đề bài văn nghị luận về một ý kiến văn học là một loại đề bài khó, yêu cầu
rất cao phức tạp về việc vận dụng kiến thức và kĩ năng. Trong dạng bài này lại có
nhiều dạng khác nhau, rất phong phú và phức tạp với những yêu cầu khác nhau về
các kĩ năng làm bài [7, tr.91]. Nếu học sinh không nhận thức rõ, không biết phân
biệt được sự khác nhau đó - dù là nhỏ nhất - và nắm vững các thao tác để vận
dụng kĩ năng thì sẽ rất khó khăn trong việc tiến hành bài văn.
Kĩ năng lập ý và lập dàn bài là những kĩ năng mang tính cốt lõi, giống như
công việc lập bản thiết kế chi tiết cho một công trình kiến trúc [6, tr.23]. Xác định
được hệ thống các ý cơ bản và sắp xếp chúng theo một trình tự phù hợp là khâu
quan trọng mang tính quyết định để có được một bài văn hoàn chỉnh, đủ ý, đúng
mạch lạc và logic. Lập ý và lập dàn bài cho đề bài văn nghị luận về một ý kiến
văn học lại càng khó hơn, giống như lập bản thiết kế cho một ngôi biệt thự cao
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

4


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

cấp với nhiều hạng mục phức tạp và cầu kì. Trong khi đó, loại đề này lại có nhiều

dạng khác nhau với nhiều kiểu ý kiến đề cập đến các vấn đề rất phong phú của
văn học. Không có một hệ thống ý và dàn bài chung cho mọi dạng đề bài.
Trong các kỳ thi dành cho học sinh THPT ở môn Ngữ văn, nhất là các kỳ thi
chọn HSG cấp tỉnh, kì thi chọn HSG quốc gia hàng năm, loại đề bài nghị luận về ý
kiến văn học luôn được sử dụng như một thước đo cao nhất để đánh giá năng lực
và khẳ năng vận dụng kiến thức, kĩ năng của môn học.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thực trạng việc dạy của giáo viên
Có một thực tế phải thừa nhận là không phải giáo viên Ngữ văn nào cũng
hứng thú với việc dạy phân môn Làm văn, đặc biệt là với việc dạy học sinh các
làm bài đối với loại đề bài nghị luận về một ý kiến văn học. Đây là một công
việc khó không chỉ đối với người học mà còn cả đối với không ít người dạy. Có
nhiều giáo viên không biết định hướng một cách rõ ràng để học sinh hiểu được
phải làm bài văn với loại đề bài này như thế nào, các bước thao tác và các kĩ
năng cần phải được vận dụng ra sao, cách khai thác các tác phẩm văn học như
thế nào cho hợp lí...
Một thực tế nữa là cũng có một bộ phận giáo viên rất ít khi va chạm với loại
đề bài này, ngoài việc dạy một tiết mang tính lý thuyết trong chương trình lớp 12
(Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1, trang 91 - NXB Giáo dục 2008), mà một tiết
dạy cho loại đê bài này thì chưa thể nói là đã có sự nhận thức đầy đủ về các dạng
biểu hiện khác nhau của nó cũng như vận dụng một cách nhuần nhuyễn, thuần thục
các kĩ năng. Phải qua một quá trình hướng dẫn ôn luyện và thực hành công phu thì
học sinh mới nắm vững và vận dụng tốt được các kĩ năng và thao tác.
2.2. Thực trạng việc học của học sinh
Xuất phát từ thực trạng việc dạy của giáo viên và những mức độ yêu cầu
khác nhau của các kỳ thi theo từng đối tượng mà một phần lớn học sinh THPT
không nắm được các yêu cầu về kĩ năng làm bài đối với loại đề bài nghị luận về ý
kiến văn học, thậm chí có nhiều học sinh còn không có ý thức phân biệt sự khác
nhau giữa các loại đề bài. Thực tế cho thấy nhiều bài làm văn của học sinh thường
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng


5


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

là những phân tích, giảng giải chung chung về tác phẩm văn học được nêu lên
trong đề bài, được triển khai cho mọi bài làm văn. Chẳng hạn: cứ đề bài liên quan
đến bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng là các em sẽ đều có chung một kiểu bài
văn triển khai những gì biết được về bài thơ này. Thực trạng này cho thấy một bộ
phận không nhỏ học sinh hiện nay học môn Ngữ văn một cách thụ động, vô cảm
và không có ý thức phát huy khả năng tư duy vào quá trình nghị luận.
Trên thực tế thì chủ yếu chỉ có những học sinh dự thi đại học trước đây và
thi THPT quốc gia hiện nay lấy điểm môn Ngữ văn để xét tuyển vào các trường
đại học thuộc các khối C, D thì mới thực sự chú tâm đến việc rèn luyện một cách
toàn diện các kiểu đề làm văn, và không phải học sinh nào cũng có thể giải
quyết được các dạng đề bài nghị luận về ý kiến văn học. Đối với loại đề bài đặc
thù này, có thể nói rằng chủ yếu là những học sinh tham gia vào các đội tuyển
học sinh giỏi các cấp môn Ngữ văn mới thực sự chuyên tâm và nắm được ở
những mức độ nhất định về kĩ năng làm bài.
3. Các giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề
3.1. Phân loại các dạng đề nghị luận về ý kiến văn học
Phân loại đề bài thành các dạng khác nhau là công việc đầu tiên mà giáo
viên cần phải thực hiện. Mục đích của công việc này là giúp học sinh nhận thức
được một cách đầy đủ những dạng đề mà các em có thể phải gặp và phải giải
quyết. Việc phân loại thành các dạng đề cụ thể phải dựa trên những tiêu chí về nội
dung và hình thức của bản thân mỗi ý kiến văn học.
3.1.1. Phân loại dựa trên nội dung của ý kiến văn học

Đây là tiêu chí để xác định nội dung vấn đề nghị luận. Dựa trên nội dung vấn
đề mà ý kiến văn học đề cập, giáo viên định hướng để học sinh biết cách nhận ra
đây là ý kiến bàn về vấn đề gì, thuộc phương diện nào của văn học. Sự phân loại
này sẽ là tiền đề để học sinh định hướng đến việc huy động và khai thác kiến thức
văn học, hình dung thao tác cũng như định hình cấu trúc dàn ý cho bài văn.
Theo tiêu chí phân loại này, chúng ta có các dạng đề chủ yếu thể như sau:

Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

6


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

- Dạng đề nghị luận cho ý kiến bàn về một tác giả văn học. Ví dụ: một ý
kiến nhận xét về sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, nhận xét về phong cách
truyện ngắn Thạch Lam…
- Dạng đề nghị luận cho ý kiến bàn về một tác phẩm văn học. Ví dụ: ý
kiến nhận định về bài thơ "Tây Tiến", nhận định về truyện ngắn "Chiếc thuyền
ngoài xa"…
- Dạng đề nghị luận cho ý kiến bàn về một phương diện nội dung hay
nghệ thuật nào đó của một tác phẩm văn học. Ví dụ: ý kiến nhận xét về tình
huống truyện trong truyện ngắn "Vợ nhặt", ý kiến nhận xét về bút pháp nghệ
thuật trong bài thơ "Tây Tiến"…
- Dạng đề nghị luận cho ý kiến bàn về một nhân vật, một hình tượng văn
học. Ví dụ: ý kiến nhận xét về nhân vật Chí Phèo hay hình tượng người nông
dân, ý kiến nhận xét về hình tượng người lính trong bài thơ "Tây Tiến", người
phụ nữ trong bài thơ "Sóng'…

- Dạng đề nghị luận cho ý kiến bàn về một hiện tượng hay một giai đoạn/
thời kỳ văn học. Ví dụ: ý kiến bàn về phong trào "Thơ mới" trước Cách mạng
tháng Tám 1945, ý kiến bàn về thời kỳ văn học từ Cách mạng tháng Tám 1945
đền 1975…
- Dạng đề nghị luận cho ý kiến bàn về một vấn đề lí luận văn học. Dạng
đề này có thể đề cập đến một trong các phương diện nội dung của lí luận, như:
bàn về chức năng của văn học, bàn về giá trị của văn học, bàn về phong cách của
nhà văn, bàn vè vai trò của nhà văn trong xã hội, bàn về bản chất của thơ, bàn về
đặc điểm của ngôn ngữ văn học, bàn về nhân vật, bàn về chi tiết và sự việc, bàn
về tình huống, bàn về mối quan hệ giữa văn học với cuộc sống.v.v.. Nói tóm lại
thì lí luận văn học có thế đề cập đến phương diện nào của văn học thì có thể có
đề bài nghị luận cho ý kiến nói về phương diện ấy. [v.v…]
3.1.2. Phân loại dựa trên hình thức của ý kiến văn học
Đây là tiêu chí phân loại để định hướng cách thức làm bài. Dựa trên hình
thức của ý kiến văn học, giáo viên định hướng để học sinh hình dung các bước lập
ý và cách thức để lập dàn bài cho bài văn. Với mỗi một hình thức khác nhau của ý
kiến văn học thì tương ứng với nó, bài văn phải có một dàn bài khác nhau. Có
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

7


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

những ý kiến có kết cấu đơn giản nhưng cũng có những ý kiến có kết cấu phức
tạp, có những ý kiến mà nội dung được thể hiện khái quát qua một câu văn hàm
súc nhưng lại có những ý kiến mà mỗi vế câu của nó thể hiện một phương diện
nội dung cụ thể về một vấn đề.

Theo tiêu chí này, chúng ta có những dạng đề phổ biến như sau:
- Dạng đề nghị luận về một ý kiến. Trong dạng đề này lại có các nhóm nhỏ
hơn, như: ý kiến là một câu nói hàm súc và có nội dung khái quát về một vấn đề
văn học, ý kiến có nhiều vế câu hoặc nhiều câu thể hiện cụ thể từng phương diện
của một vấn đề văn học.
- Dạng đề nghị luận về hai ý kiến. Trong dạng đề này lại có các nhóm nhỏ,
như: hai ý kiến trái ngược nhau; hai ý kiến đồng quan điểm; hai ý kiến vừa trái
ngược vừa bổ sung cho nhau.
Sự phân loại như trên chỉ là mang tính tương đối, tuy nhiên đó là việc làm
cần thiết để học sinh nhận thức được tính chất phức tạp của kiểu bài làm văn đối
với loại đề bài này, đồng thời để các em có được ý thức về việc xác định phạm
vi nội dung kiến thức và kĩ năng để vận dụng trong mỗi trường hợp cụ thể, tránh
việc làm bài theo một mô hình chung cho mọi dạng đề.
3.2. Định hướng việc xác định phạm vi kiến thức văn học cần vận dụng
Mỗi một dạng đề nghị luận về ý kiến văn học đều có một phạm vi kiến
thức khác nhau cần vận dụng. Việc định hướng để học sinh biết giới hạn phạm vi
kiến thức cần phải huy động là việc làm quan trọng để tránh việc học sinh vận
dụng sai kiến thức hoặc vận dụng một cách tràn lan, không đi đúng trọng tâm
của vấn đề. Trong quá trình rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị luận về ý kiến
văn học, chúng tôi vừa bồi dưỡng vừa định hướng cho học sinh tự trau dồi thêm
kiến thức về tác giả tác phẩm, về lí luận văn học và nâng cao năng lực sử dụng
ngôn ngữ. Khi đã có lượng kiến thức nhất định, hoc sinh sẽ dễ dàng để lựa chọn
và vận dụng những kiến thức cần thiết cho mỗi dạng đề và mỗi đề bài cụ thể.
Trên cơ sở của việc phân loại các dạng đề, giáo viên định hướng những
quy tắc cơ bản để học sinh xác định nguồn kiến thức văn học cần vận dụng. Sau
đây là những định hướng chung mà chúng tôi thường áp dụng:
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

8



Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

- Tương ứng với dạng đề nghị luận cho ý kiến về một tác giả thì tập trung
khai thác những nội dung kiến thức về tác giả đó có liên quan đến những
phương diện mà ý kiến đề cập.
Ví dụ: Nghị luận cho ý kiến bàn về đặc điểm tư tưởng truyện của Nam Cao
trước Cách mạng tháng Tam 1945: "… Dù viết về đề tài nào, truyện của Nam Cao
đều thể hiện tư tưởng chung: nỗi băn khoăn đến đau đớn trước tình trạng con
người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy tới".[6; tr.140]. Với
đề bài này, nguồn kiến thức cần huy động và vận dụng là những nội dung các tác
phẩm trong chương trình nhà trường (và cả các tác phẩm khác) mà Nam Cao
viết về cuộc sống đói nghèo, về hiện trạng con người bị hủy hoại nhân phẩm ở
cả hai mảng đề tài người nông dân và người trí thức trước Cách mạng (cụ thể là
"Chí Phèo" và "Đời thừa"), đồng là thời tư tưởng, tình cảm, thái độ của nhà văn
trong mỗi tác phẩm.
- Tương ứng với dạng đề nghị luận cho ý kiến về một tác phẩm thì tập
trung khai thác những phương diện nội dung của tác phẩm đó có liên quan đến
vấn đề mà ý kiến nhận xét đề cập.
Ví dụ: Nghị luận về ý kiến của nhà thơ Trần Lê Văn nhận xét về bài thơ
"Tây Tiến": "Tây Tiến phảng phất những nét buồn nét đau, song buồn đau mà
không bi luỵ, trái lại rất bi tráng." Nguồn kiến thức cần huy động để vận dụng
là những nội dung nói lên "những nét buồn đau" và nhất là nội dung nói lên nét
"bi tráng" được Quang Dũng thể hiện trong tác phẩm.
- Tương ứng với dạng đề nghị luận cho ý kiến bàn về một phương diện
nội dung hay nghệ thuật nào đó của một tác phẩm văn học thì tập trung khai thác
sâu vào phương diện nội dung hoặc nghệ thuật ấy mà ý kiến đề cập, không khai
thác tràn lan cả tác phẩm hay những nội dung không liên quan.

Ví dụ. Nghị luận cho ý kiến nhận xét sau đây về tình huống truyện trong
truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân: "Tình huống truyện trong
"Chữ người tử tù" là cuộc kỳ ngộ của những người tri kỉ" [8]. Kiến thức cần
khai thác và vận dụng không phải là tất cả những giá trị nội dung của tác phẩm
hay các hình tượng, mà chủ yếu là khai thác cái độc đáo của tình huống để làm
rõ cho ý nghĩa "kỳ ngộ" và mối quan hệ "tri kỉ" giữa các nhân vật.
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

9


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

- Tương ứng với dạng đề nghị luận cho ý kiến bàn về một nhân vật, một
hình tượng văn học thì tập trung khai thác và vận dụng những kiến thức về nhân
vật/ hình tượng văn học đó phù hợp với vấn đề mà ý kiến đề cập.
Ví dụ: Nghị luận cho ý kiến nhận xét về hình tượng người lính Tây Tiến
trong bài thơ cùng tên của Quang Dũng, chẳng hạn có hai ý kiến như sau: Ý kiến
thứ nhất: "Người lính ở đây có dáng dấp của các tráng sĩ thuở trước", ý kiến
khác thì nhấn mạnh: "hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp của người chiến
sĩ thời kháng chiến chống Pháp" [1]. Dù cần làm rõ cho "dáng dấp người tráng
sĩ thuở trước" hay "vẻ đẹp của người chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp" thì
học sinh cũng phải tập trung khai thác hai phương diện cơ bản trong bản thân
hình tượng người lính Tây Tiến.
- Tương ứng với dạng đề nghị luận cho ý kiến bàn về một hiện tượng hay
một giai đoạn (một thời kỳ) của văn học thì tập trung khai thác và vận dụng
những kiến thức về hiện tượng hay thời kỳ văn học đó mà ý kiến nhận xét nêu ra.
Ví dụ: Nghị luận về ý kiến nhận xét về nhịp độ phát triển của văn học Việt

Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945 của Vũ Ngọc Phan: "Ở
nước ta, một năm có thể kể như ba mươi năm của người" [6; tr.87]. Nguồn kiến
thức ở đây không phải là một tác giả hay tác phẩm cụ thể nào mà là những
phương diện biểu hiện cho nhịp độ phát triển mau lẹ của văn học Việt Nam thời
kì này. Để minh họa cho mỗi phương diện đó thì cần phải lựa chọn những bài tác
phẩm phù hợp, tương ứng.
- Tương ứng với dạng đề nghị luận cho ý kiến về các vấn đề lí luận văn
học thì khai thác và vận dụng những kiến thức lí luận và kiến thức văn học trong
các tác phẩm có liên quan đến phương diện nội dung lí luận mà ý kiến đó đề
cập. Trong nhóm dạng đề này thì vấn đề cần nghị luận là rất phong phú, giáo
viên phải rèn luyện để học sinh xác định và khai thác đúng những kiến thức văn
học tương ứng, phù hợp để các em không sa vào việc phân tích chung chung
một vấn đề lí luận hay một tác phẩm văn học.

Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

10


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

Ví dụ: Khi nghị luận cho ý kiến nói về phong cách nhà văn, cùng với việc
học sinh phải nắm vững những kiến thức về phong cách văn học thì còn cần phải
biết khai thác những biểu hiện cụ thể của phong cách tác giả trong một hoặc một
số tác phẩm. Chẳng hạn khi nghị luận về ý kiến cho rằng: "Văn chương không
có gì riêng sẽ không là gì cả." và được yêu cầu làm sáng tỏ qua việc phân tích
bài thơ "Tây Tiến" thì bên cạnh việc lí giải về "cái riêng - phong cách" với
những biểu hiện cơ bản của nó, học sinh phải phân tích, khai thác được những

biểu hiện về cái riêng độc đáo của Quang Dũng trong việc sử dụng bút pháp
nghệ thuật, sự thể hiện hình tượng người lính…
Việc xác định kiến thức văn học không đơn thuần chỉ là ở việc giới hạn
tác phẩm cần phải phân tích, mà điều quan trọng là học sinh biết khác thác nội
dung nào trong tác phẩm ấy để phục vụ cho quá trình nghị luận của mình. Đa
phần các đề bài đều đã giới hạn rất cụ thể về tác phẩm văn học, song điều quan
trọng cũng là điều khó nhất đối với học sinh là ở khâu lựa chọn những nội dung
cần thiết trong tác phẩm để phù hợp với vấn đề mà ý kiến văn học nêu ra. Nhiệm
vụ của giáo viên khi rèn luyện kĩ năng làm bài cho học sinh là phải rèn luyện
được kĩ năng lựa chọn nội dung cần vận dụng. Mặt khác, cũng cần lưu ý học
sinh ở mức độ khai thác các khía cạnh nội dung tương ứng vớ những phương
diện đề cập trong ý kiến văn học.
3.3. Hướng dẫn học sinh lập ý và lập dàn bài cho những dạng đề cụ thể
Mỗi bài làm văn đều phải có một hệ thống ý và một dàn bài phù hợp như
ngôi nhà phải có một bản thiết kế hoàn chỉnh. Lập ý và lập dàn bài là khâu có
vai trò quyết định đến hệ thống luận điểm và lập luận của một bài văn. Nghị
luận về ý kiến văn học càng đòi hỏi cao về điều này. Vì vậy, giáo viên phải định
hướng được các thao tác lập ý và lập dàn bài để học sinh rèn luyện thuần thục.
Từ việc xác định nội dung vấn đề nghị luận mà ý kiến văn học nêu ra,
giáo viên hướng dẫn học sinh dựa trên hình thức của ý kiến để lập ý và lập dàn
bài. Mỗi một loại ý kiến có hình thức và cấu trúc khác nhau thì lập ý cũng khác
nhau. Nếu nội dung của ý kiến văn học là luận đề của bài văn thì hình thức của
nó là sự gợi ý để triển khai luận đề ấy.
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

11


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên


Sáng kiến kinh nghiệm 2017

3.3.1. Lập ý và lập dàn bài cho dạng đề nghị luận về một ý kiến văn học
Đối với dạng đề bài nghị luận về một ý kiến văn học thì hệ thống ý của
bài văn đều phải tập trung vào làm sáng rõ cho vấn đề mà ý kiến nêu ra. Dàn bài
cho bài văn phụ thuộc vào hai yếu tố là tính khái quát hay cụ thể của ý kiến và
bản thân tác phẩm văn học được yêu cầu cần nghị luận.
3.3.1.1. Quy trình lập ý
Trong phạm vi một sáng kiến kinh nghiệm, chúng tôi không thể trình bày
chi tiết cách thức lập ý cho mỗi dạng đề bài cụ thể. Trong thực tế, vấn đề nghị
luận là rất đa dạng, song về cách thức chung nhất, chúng tôi xin được trình bày
quy trình lập ý và lập dàn bài cho dạng đề bài này như sau:
a) Mở bài: Nêu vấn đề cần nghị luận trong ý kiến văn hoc, dẫn dắt để
trích dẫn ý kiến đó và giới thiêu tác phẩm văn học được yêu cầu nghị luận.
b) Thân bài
* Khái quát vấn đề
- Ý 1. Giải thích ý kiến; đồng thời trình bày khái quát những hiểu biết của
bản thân về vấn đề được ý kiến đề cập (có thể ở phạm vi một nền văn học, một
giai đoạn văn học hoặc trong sự nghiệp của sáng tác của một tác giả)
- Ý 2. Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm được đề bài yêu cầu (những hiểu
biết cơ bản để định hướng vào việc làm rõ cho vấn đề cần nghị luận trong ý kiến)
* Phân tích vấn đề qua tác phẩm văn học và lập ý cụ thể:
Dựa vào nội dung vấn đề nghị luận, nội dung của tác phẩm cần phân tích
và hình thức cấu trúc của ý kiến cần nghị luận, trong mỗi trường hợp cụ thể, ta
có những cách lập ý như sau:
- Trường hợp 1. Nếu ý kiến là một câu nói khái quát về một vấn đề nào đó
(tác giả, tác phẩm, hình tượng, nội dung lí luận văn học…) thì triển khai lập ý và
lập dàn bài theo cách: Mỗi một biểu hiện của vấn đề có trong tác phẩm thì lập
thành một luận điểm; phân tích những nội dung tương ứng trong tác phẩm để
triển khai thành các ý nhỏ, các luận cứ; khai thác theo trình tự từ đơn giản đến

phức tạp, từ nội dung dễ phát hiện đến những lớp ý nghĩa sâu hơn.
- Trường hợp 2. Nếu ý kiến là một câu nói có nhiều vế câu hoặc là nhiều
câu mà mỗi vế câu hoặc mỗi câu trong đó đề cập đến một phương diện của vấn đề
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

12


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

cần nghị luận (tác giả, tác phẩm, hình tượng, nội dung lí luận văn học…) thì triển
khai lập ý và lập dàn bài theo cách: Mỗi vế câu hoặc mỗi câu - nghĩa là tương
ứng với mỗi phương diện cụ thể của vấn đề - thì lập thành một luận điểm; phân
tích những nội dung tương ứng trong tác phẩm để triển khai thành các ý nhỏ, các
luận cứ; triển khai theo trình tự các phương diện của vấn đề trong ý kiến văn học.
* Đánh giá, bàn luận
- Đánh giá về tác phẩm: Xem xét trong phạm vi vấn đề mà ý kiến văn học
đề cập, tác phẩm ấy đã thể hiện như thế nào, tác giả có gì sáng tạo về nội dung
và nghệ thuật, giá trị tư tưởng của tác phẩm ấy có sâu sắc hay không?..
- Đánh giá về ý kiến văn học: Trong vấn đề mà bản thân ý kiến đề cập
đến, nó có thể hiện được sự nhìn nhận, sự đánh giá chính xác, sâu sắc của người
nêu ra ý kiến hay không? Ý kiến đó có ý nghĩa như thế nào đối với sự nhận thức
của người đọc về vấn đề mà nó quan tâm?..
c) Kết bài: Suy nghĩ của bản thân về vấn đề mà ý kiến và tác phẩm văn
học đã nêu ra.
3.3.1.2. Dàn bài minh họa
Có rất nhiều dạng đề khác nhau và đi theo đó là rất nhiều kiểu dàn bài
khác nhau. Ở đây chúng tôi xin trình bày một dàn bài cụ thể để minh họa cho

việc thực hiện các thao tác của mình.
Đề bài: Nói về các giá trị của văn học, sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12
(Tập 2, chương trình cơ bản, tr.187) cho rằng:
"Văn chương hướng tới chân, thiện, mỹ bao giờ cũng là văn chương cho
mọi người và là văn chương của muôn đời".
Bằng việc phân tích hai tác phẩm: "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam và
"Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu, anh/ chị hãy bình luận về ý
kiến trên.
Dàn bài chi tiết
a) Mở bài. Nêu vấn đề nghị luận: Các giá trị văn học và vai trò của chúng đối
với sức sống của một tác phẩm; trích dẫn ý kiến lí luận và dẫn các tác phẩm.
b) Thân bài
* Khái quát vấn đề nghị luận
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

13


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

- Giải thích các khái niệm: chân, thiện, mĩ […]
- Giải thích ý kiến: […] → Ý kiến trên là sự khẳng định các giá trị chân thiện - mĩ trong việc tạo nên sức sống, sức ảnh hưởng của tác phẩm văn học đối
với con người. Chỉ khi nào văn chương phản ánh một cách chân thực về cuộc
sống, đem đến cho con người những bài học đạo lí, những tư tưởng, tình cảm
cao đẹp và những rung cảm thẩm mĩ trong sáng thì khi đó văn chương mới có
giá trị và có sức sống.
- Giới thiệu khái quát về hai tác giả Thạch Lam và Nguyễn Minh Châu,
đồng thời giới thiệu và khẳng định các tác phẩm "Hai đứa trẻ" và "Chiếc thuyền

ngoài xa" là những tác phẩm đã đạt đến "chân - thiện - mỹ".
* Phân tích truyện ngắn "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam
- Phản ánh một cách chân thực bức tranh đời sống xã hội Việt Nam những
năm trước Cách mạng tháng Tám 1945 qua bức tranh phố huyện và những kiếp
người trên phố. (Phân tích các chi tiết cụ thể về phố huyện và đời sống các nhân vật)
- Thể hiện một cái nhìn, một tình cảm nhân ái, yêu thương, đồng cảm với
những cảnh đời bé nhỏ, tàn lụi trên phố huyện nghèo; đồng thời là một mơ ước,
một niềm hi vọng về sự đổi thay, về một điều tươi sáng sẽ đến. (Phân tích các
biểu hiện cụ thể của tinh thần nhân đạo Thạch Lam trong tác phẩm)
- Những sáng tạo riêng, độc đáo về hình thức nghệ thuật, tạo nên một tác
phẩm văn xuôi giàu chất thơ trữ tình, nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng.
* Phân tích truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu
- Phản ánh chân thực và sâu sắc những vấn đề trong đời sống xã hội, những
góc khuất, những khoảng lấp đằng sau cái vẻ bề ngoài thơ mộng của cuộc sống.
(Phân tích những vấn đề được Nguyễn Minh Châu phản ánh trong tác phẩm)
- Thể hiện cái nhìn phát hiện, khám phá, đồng cảm, trân trọng đối với
người lao động, những con người bé nhỏ bất hạnh còn bị khuất lấp trong sự vận
động đi lên của xã hội. (Phân tích tư tưởng, tình cảm và thái độ của nhà văn qua
các nhân vật)
- Những đặc sắc nghệ thuật: nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật
miêu tả bức tranh thiên nhiên và bức tranh đời sống, sự đổi mới về bút pháp, đề
tài, cách tiếp cận cuộc sống và cái nhìn đối với người nghệ sĩ…
* Bình luận, đánh giá:
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

14


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên


Sáng kiến kinh nghiệm 2017

- Đánh giá về các giá trị "chân - thiện - mỹ" và sức sống của hai tác phẩm
"Hai đứa trẻ" và "Chiếc thuyền ngoài xa" trong lòng người đọc và trong đời
sống văn học.
- Đánh giá về ý nghĩa lí luận và thực tiễn của vấn đề nghị luận.
c) Kết bài: Suy nghĩ, thái độ đối với di sản văn học của ông cha.
Trên đây là một dàn bài minh họa cho cách thức lập ý và lập dàn bài mà
chúng tôi thường hướng dẫn để học sinh rèn luyện kĩ năng đối với dạng đề bài
nghị luận về một ý kiến văn học. Trong thực tế, các dạng đề bài, các ý kiến văn
học và các tác phẩm đi kèm với chúng thường rất phong phú, và tất nhiên là sẽ
có rất nhiều dàn bài khác nhau. Điều quan trọng là phải hướng dẫn được cho học
sinh rèn luyện được cách thức triển khai dàn bài cho tất cả những dạng thức đó.
3.3.2. Lập ý và lập dàn bài cho dạng đề nghị luận về hai ý kiến văn học
Đối với dạng đề bài nghị luận về hai ý kiến văn học thì vấn đề nghị luận
có phần phức tạp hơn, nó thường đề cập đến hai mặt của một vấn đề: có khi là
hai mặt thống nhất, bổ sung cho nhau; có khi là hai mặt đối lập; có khi là hai mặt
vừa đối lập vừa thống nhất. Việc lập ý và lập dàn bài cho bài văn phải dựa vào
các mặt biểu hiện của vấn đề và mối quan hệ giữa các mặt ấy cũng như các
phương diện nội dung thể hiện của tác phẩm văn học cụ thể.
3.3.2.1. Quy trình lập ý
a) Mở bài: Nêu vấn đề cần nghị luận trong các ý kiến văn hoc, dẫn dắt để
trích dẫn các ý kiến đó, dẫn nêu tác phẩm văn học được yêu cầu nghị luận.
b) Thân bài
* Khái quát vấn đề nghị luận
- Ý 1. Giải thích ý kiến: lần lượt giải thích rõ từng ý kiến.
- Ý 2. Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm được đề bài yêu cầu (những hiểu
biết cơ bản để định hướng vào việc làm rõ cho vấn đề cần nghị luận trong các ý kiến)
* Phân tích vấn đề qua tác phẩm văn học và lập ý cụ thể
- Luận điểm 1. Tương ứng với nội dung của ý kiến thứ nhất. Phân tích các

khía cạnh nội dung trong tác phẩm văn học cụ thể để làm rõ cho quan điểm mà ý
kiến nêu ra, mỗi khía cạnh nội dung của tác phẩm được triển khai thành một ý
nhỏ và các ý nhỏ hơn.
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

15


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

- Luận điểm 2. Tương ứng với ý kiến thứ hai. Phân tích và triển khai các ý
tương tự như ở luận điểm thứ nhất với nội dung phù hợp trong tác phẩm văn học.
- Luận điểm 3. Bàn luận, đánh giá về mối quan hệ, tính đúng sai (nếu có),
sự mâu thuẫn hoặc thống nhất, bổ sung nhau của mỗi ý kiến; đồng thời đánh giá
về tác phẩm văn học được yêu cầu nghị luận.
c) Kết bài: Suy nghĩ, thái độ của bản thân về vấn đề được nghị luận.
3.3.2.2. Dàn bài minh họa
Đề bài
Nhà thơ Tố Hữu cho rằng: "Văn học trước hết là cuộc đời"; trong khi đó nhà
văn Nguyễn Tuân lại quan niệm: "Văn chương trước hết phải là văn chương".
Bằng việc phân tích truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao, anh chị hãy
bình luận ý kiến trên
Dàn bài chi tiết
a) Mở bài. Nêu vấn đề nghị luận: Quan niệm về bản chất, về cái gốc giá trị
của văn học; trích dẫn hai ý kiến lí luận và dẫn tác phẩm.
b) Thân bài:
* Khái quát vấn đề nghị luận
- Giải thích hai ý kiến:

+ Giải nghĩa các từ: văn học, văn chương, trước hết, cuộc đời, nghệ thuật.
+ Giải thích ý kiến của Tố Hữu: Đề cao giá trị phản ánh hiện thực và mói
quan hệ giữa hiện thực cuộc sống con người với văn học.
+ Giải thích ý kiến của Nguyễn Tuân: Đề cao tính văn chương nghệ thuật,
tính thẩm mĩ và sự sáng tạo của nhà văn trong việc phản ánh cuộc sống.
+ Đánh giá: Hai ý kiến trên vừa mâu thuẫn lại vừa bổ sung cho nhau.
- Giới thiệu nhà văn Nam Cao và truyện ngắn "Chí Phèo"; khẳng định tác
phẩm vừa là sự phản ánh rất chân thực về cuộc sống, vừa thể hiện rất rõ tài năng
sáng tạo của nhà văn.
* Phân tích vấn đề qua tác phẩm văn học và lập ý

Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

16


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

- Luận điểm 1. Văn chương trước hết là cuộc đời, truyện ngắn "Chí Phèo"
trước hết là phản ánh hiện thực đời sống bi thảm người nông dân và xã hội nông
thôn Việt Nam đen tối trước Cách mạng tháng Tám.
+ Đời sống của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám
được thể hiện qua số phận bi thảm của nhân vật Chí Phèo với những bi kịch
không lối thoát dưới sự áp bức bóc lột tàn bạo của bọn địa chủ phong kiến (phân
tích những bi kịch của nhân vật Chí Phèo).
+ Phản ánh cuộc sống của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám,
Nam Cao đồng thời cũng đã thể hiện rất cảm động những phẩm chất và khát
vọng cao đẹp trong tâm hồn của họ.

+ Phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, Nam
Cao đã lên tiếng tố cáo gay gắt đối với bọn địa chủ phong kiến đã cướp đi quyề
sống, hủy hoại nhân hình và tà phá tâm hồn người lao động.
+ Khi phản ánh hiện thực cuộc sống của người nông dân, ngòi bút của
Nam Cao đã thể hiện một tinh thần nhân đạo sâu sắc hiếm thấy.
- Luận điểm 2. Phản ánh cuộc đời, song văn chương còn là văn chương.
Văn chương không phản ánh hiện thực cuộc sống theo cách sao chép, mô phỏng
mà phản ánh qua lăng kính và sự sáng tạo của nhà văn. Truyện ngắn "Chí Phèo"
đã thể hiện một tài năng văn chương rất độc đáo
+ Sự sáng tạo của Nam Cao ở đề tài người nông dân so với những nhà văn
trước đó đã viết về đề tài này.
+ Sự sáng tạo trên phương diện cốt truyện và kết cấu.
+ Sự sáng tạo trên phương diện ngôn ngữ.
+ Sự sáng tạo trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.
+ Sự sáng tạo trong nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật.
* Đánh giá, bàn luận
- Đánh giá về tác phẩm truyện ngắn "Chí Phèo": là tác phẩm xuất sắc nhất
của văn học Việt Nam viết về người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, là

Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

17


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

sự phản ánh hết sức chân thực về cuộc sống đồng thời cũng là sự thể hiện tài
năng sáng tạo rất độc đáo của Nam Cao.

- Đánh giá, bình luận về hai ý kiến: Ý kiến của Tố Hữu đề cao giá trị phản
ánh hiện thực cuộc sống của văn học, còn ý kiến của Nguyễn Tuân thì đề cao sự
sáng tạo và tính thẩm mĩ. Hai ý kiến đều đúng, song mỗi ý kiến đều mới chủ yếu
đề cập đến một phương diện của tác phẩm, vậy nên nó bổ sung cho nhau để tạo
nên một cái nhìn toàn diện về văn học. Văn học cần phảm đảm bảo sự phản ánh
chân thực và mối liên hệ mật thiết với cuộc sống nhưng cũng cần đảm bảo những
yêu cầu về sự sáng tạo. Ngược lại, tác phẩm văn học dù có hình thức đẹp như thế
nào cũng sẽ không thể tồn tại được nếu xa ròi cuộc sống con người.
c) Kết bài: Quan điểm của bản thân về ý kiến của Tố Hữu và Nguyễn
Tuân cũng như các giá trị của truyện ngắn "Chí Phèo".
Trên đây là một dàn bài minh họa cho cách thức lập ý và lập dàn bài mà
chúng tôi thường hướng dẫn để học sinh rèn luyện kĩ năng đối với dạng đề bài
nghị luận về hai ý kiến văn học. Cũng như đối với dnajg đề bài nghị luận về một
ý kiến thì các yêu cầu đối với dạng đề nghị luận về hai ý kiến cũng rất đa dạng.
Việc hình thành một tư duy và kĩ năng lập ý, lập dàn bài cho học sinh để giải
quyết các vấn đề đặt ra là rất quan trọng.
3.4. Hướng dẫn học sinh thực hành và luyện tập
Trong quá trình rèn luyện cho học sinh, chúng tôi thường cho học sinh
thực hành và luyện tập theo các bước cơ bản như sau:
Bước 1. Hướng dẫn trực tiếp trên mỗi đề bài
Ở bước này, chúng tôi ra những đề bài tương ứng với mỗi dạng đề cụ thể.
Sau khi hướng dẫn học sinh về cách thức chung, chúng tôi cho học sinh tìm hiểu
đề bài và thực hiện các công việc cơ bản như: phân tích đề để xác định vấn đề
nghị luận mà ý kiến nêu ra; xác định phạm vi kiến thức văn học cần vận dụng,
lập ý và lập dàn bài chi tiết đến từng ý nhỏ, từng luận cứ cần triển khai. Học sinh
có thể thảo luận theo nhóm học tập hoặc làm việc độc lập. Sau đó, giáo viên là
người điều chỉnh, nhận xét và đưa ra định hướng chung để học sinh so sánh, đối
chiếu với sản phẩm của mình và tự điều chỉnh, bổ sung. Công việc này được
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng


18


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

thực hiện trực tiếp qua đối thoại dưới sự hướng dẫn của thầy để giải quyết những
băn khoăn, thắc mắc hoặc những điểm mà học sinh chư hiểu.
Bước 2. Học sinh thực hành lập ý và lập dàn bài độc lập
Chúng tôi sẽ ra một số đề bài theo buổi học, tuần học và yêu cầu học sinh
phải xây dựng được hệ thống ý và lập dàn bài chi tiết cùng với những kiến thức
văn học liên quan để giải quyết vấn đề cho mỗi đề bài cụ thể. Phần việc này chủ
yếu được học sinh thực hiện ở nhà theo một định mức khối lượng công việc nhất
định (chẳng hạn mỗi tuần làm bao nhiêu đề) tùy theo từng loại đối tượng. Học
sinh sẽ tự vận dụng những kĩ năng và kiến thức đã được học mà lập thành những
dàn bài hoàn chỉnh và nạp lại cho giáo viên. Công việc của giáo viên là điều
chỉnh, bổ sung để có những dàn bài văn hoàn chỉnh và phù hợp nhất, chỉ rõ cho
học sinh thấy được những chỗ đạt được và những hạn chế trong mỗi sản phẩm
để học sinh tự rút ra vài học cho bản thân.
Bước 3. Học sinh thực hành viết bài
Công việc này được thực hiện theo hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Viết bài ở nhà. Chúng tôi ra đề và cho học sinh viết bài ở
nhà để các em rên luyện từng bước sự kết hợp các kĩ năng làm văn nghị luận.
Qúa trình này được thực hiện liên tục trong một thời gian dài, có thể cho đến khi
học sinh kết thúc chương trình ôn tập. Những bài văn học sinh viết ở nhà sẽ
được giáo viên xem xét kĩ, chỉ ra những lỗi mà học sinh mắc phải cũng như
những điểm mạnh, điểm yếu của mói em trong từng bài cụ thể. Trên cở sở
những góp ý, nhận xét của thầy, học sinh tự nhận ra ưu khuyết điểm của mình và
sẽ khắc phục những hạn chế bằng cách làm lại chính bài văn đó. Có thể một đề

bài làm văn nhưng một học sinh phải viết bài nhiều lần, cho đến khi đạt những
yêu cầu mà đề bài nêu ra.
- Gai đoạn 2: Viết bài trong không khí phòng thi. Sau quá trình rèn luyện
kiến thức và kĩ năng, chúng tôi tổ chức cho học sinh viết bài văn theo đúng quy
định về thời gian và những yêu cầu của một bài thi chính thức. Học sinh sẽ làm
bài như một bài thi thật sự. Những buổi thực hành như thế chính là lúc để học
sinh hoàn thiện bản thân và giáo viên đánh giá đúng năng lực của mỗi em. Việc
chấm bài, xem xét những điểm mạnh yếu của mỗi bài văn sẽ là cơ sở để cả thầy
và trò rút ra những bài học và hoàn thiện bản thân đối với loại bài làm văn này.
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

19


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

Việc thực hành và luyện tạp không phải là công việc của mình học sinh
mà là công việc chung của cả thầy và trò. Đó cũng không phải là công việc của
ngày một ngày hai mà là một quá trình lâu dài, tất nhiên là phải được thực hiện
đan xem với những nhiệm vụ học tập khác. Chỉ có thực hành thì học sinh mới có
thể vận dụng một cách thuần thục những kĩ năng cơ bản, đặc biệt là đối với loại
đề bài khó như nghị luận về ý kiến văn học trong làm văn.
4. Hiệu quả vận dụng của sáng kiến kinh nghiệm
4.1. Hiệu quả vận dụng đối với hoạt động giáo dục của bản thân
Trong những năm qua, đặc biệt là trong công tác bồi dướng học sinh giỏi
và ôn tập học sinh thi đại học, tôi đã vận dụng thường xuyên cách làm này qua
nhiều lớp và đã đạt được những hiệu quả rõ rệt. So với những lớp không được rèn
luyện một cách bài bản những kĩ năng này thì kết quả của học sinh vượt trội đến

mức khác biệt. Ở đây tôi chỉ lấy kết quả của các đội tuyển học sinh giỏi mà tôi
trực tiếp rèn luyện qua các năm gần đây để làm số liệu minh chứng. Cụ thể là các
lớp 12B6 khóa 2009 - 2012, lớp 12A8 khóa 2010 - 2013, lớp 12B8 khóa 2012 2015, lớp 12A6 khóa 2013 - 2016 và lớp 11B2 khóa 2015 - 2018 (hiện mới kết
thúc lớp 11). Trong đó có lớp 12 A6 khóa 2013 - 2016, do trong quá trình giảng
dạy, tôi phải đi học lớp bồi dướng lí luận chính trị 18 tháng nên không rèn luyện
được cho các em những kĩ năng này và kết quả cuối cùng là rất thấp.
Bảng 1. Các lớp được rèn luyện kĩ năng
Lớp

12B6
(2009 - 2012)
12A8
(2010 - 2013)
12B8
(2012 - 2015)
11B2
(2015 - 2018)

Số hoc sinh
dự thi

Tổng số

Số giải HSG
Nhất Nhì
Ba

Ghi chú

10


8

0

2

2

Khuyến
khích
4

4

4

0

0

3

1

5

4

0


0

4

0

2

2

0

0

0

2

Lớp 11
(2017)

Bảng 2. Lớp không được rèn luyện kĩ năng
Lớp

12A6

Số hoc sinh
dự thi
5


Tổng số
0

Số giải HSG
Nhất Nhì
Ba
0

0

Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

0

Ghi chú
Khuyến
khích
0

20


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

(2003 - 2016)

Tất nhiên, kết quả vận dụng còn phụ thuộc vào yếu tố năng lực của học sinh

trong mỗi khóa học. Song, từ những thành công và thất bại của bản thân, tôi rút
kinh nghiệm sâu sắc về hiệu quả của việc rèn luyện những kĩ năng cơ bản trong
làm văn nghị luận cho học sinh, nhất là những kĩ năng về loại bài làm văn nghị luận
về ý kiến văn học. Đây thực sự là một kinh nghiệm gắn liền với những kết quả giáo
dục trong mõi năm học, nhất là trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
4.2. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục của tổ
chuyên môn và nhà trường
Với những kinh nghiệm của bản thân, tôi đã triển khai trước tổ chuyên
môn và được các đồng nghiệp vận dụng một cách trong việc dạy bồi dưỡng học
sinh thi đại học và ôn tập học sinh giỏi. Cụ thể trong các năm học 2013 - 2014
và 2016- 2017 với bảng số liệu sau:
Lớp

12C10
(2013 - 2014)
12C5
(2016 - 2017)

Số hoc sinh
dự thi

Tổng số

Số giải HSG
Nhất Nhì
Ba

5

4


0

3

2

0

0

Ghi chú

3

Khuyến
khích
1

0

2

Nhứng kết quả vận dụng của môn Ngữ văn đã có ảnh hưởng và đóng góp
quan trọng với kết quả giáo dục chung của nhà trường. Từ giai đoạn 2010 đến
nay, trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên đã liên tục cải thiện vị trí xếp hạng của
mình trên bảng xếp hạng chất lượng giáo dục trong toàn tỉnh. Năm học 2015 2016, do kết quả yếu kém của môn Ngữ văn mà trường THPT Nguyễn Xuân
Nguyên đã bị tụt giảm đáng kể về kết quả giáo dục mũi nhọn, ảnh hưởng không
nhỏ đến vị thế của nhà trường.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận
Rèn luyện hệ thống kĩ năng làm văn nghị luận nói chung là công việc bắt
buộc đối với mọi giáo viên dạy học môn Ngữ văn. Rèn luyện kĩ năng theo loại
đề nghị luận về ý kiến văn học cũng là yêu cầu bắt buộc để đảm bảo thành công
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

21


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

đối với những giáo viên dạy học sinh ôn thi đại học và ôn tập học sinh giỏi. Nếu
không được rèn luyện những kĩ năng này thì học sinh sẽ rất khó khăn trong việc
giải quyết các vấn đề phức tạp mà ý kiến văn học nêu ra.
Những kĩ năng làm văn nghị luận nói chung và kĩ năng làm bài văn nghị
luận về ý kiến văn học không chỉ có tác dụng đối với học sinh trong việc giải quyết
các vấn đề nghị luận văn học, mà xa hơn, cùng với kiểu bài nghị luận xã hội, học
sinh sẽ dần hình thành được tư duy và kĩ năng lập luận để giải quyết những vấn đề
phức tạp trong công việc và cuộc sống sau này. Những kĩ năng này sẽ là những
trang bị cần thiết để học sinh thể hiện ý kiến, quan điểm của mình trong cuộc sống,
đấu tranh bảo vệ cái đúng và phê phán đối với cái sai trong xã hội.
4.2. Kiến nghị
Từ những kinh nghiệm của bản thân, tôi có một số kiến nghị như sau:
Đối với tổ chuyên môn: Mỗi giáo viên trong tổ chuyên môn Ngữ văn phải
nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc rèn luyện những kĩ năng làm văn nghị
luận cho học sinh để vận dụng vào thực tiễn công tác của bản thân.
Đối với nhà trường: Việc rèn luyện hệ thống kĩ năng làm văn nghị luận
nói chung và những kĩ năng đối với loại đề bài nghị luận về ý kiến văn học nói

riêng là rất khó và cần cả một quá trình. Vì vậy, nhà trường cần tạo một cơ chế
và quỹ thời gian phù hợp để giáo viên có thể rèn luyện được cho học sinh thuần
thục những kĩ năng này, nhất là trong việc ôn tập học sinh giỏi.
Với đề tài sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi không khẳng định đây là
cách làm độc đáo mang tính đột phá mà chỉ đơn thuần là một kinh nghiệm của
bản thân đã được vận dụng và kiểm chứng trong thực tế dạy học. Chúng tôi cam
đoan đây là đề tài sáng kiến kinh nghiệm của bản thân, không sao chép hay lấy ý
tưởng của bất cứ một sáng kiến kinh nghiệm nào khác.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Người thực hiện

Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

22


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

Nguyễn Ngọc Dũng

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ GD&ĐT (2013), Đề thi tuyển sinh Đại học môn Ngữ văn - Khối C.
[2]. Hoàng Phê (1992), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển ngôn ngữ - Viện
ngôn ngữ học.
[3]. Nguyễn Quốc Siêu (2001), Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông, NXB
Giáo dục.
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng


23


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

[4]. Sách giáo khoa Làm văn: 10 (chương trình chỉnh lí hợp nhất - 2000) - NXB
Giáo dục, H. 2003.
[5]. Sách giáo khoa Làm văn: 12 (chương trình chỉnh lí hợp nhất - 2000) - NXB
Giáo dục, H. 2003.
[6]. Sách giáo khoa Ngữ Văn: 11 (chương trình đổi mới), NXB Giáo dục,
H.2007, 2008, 2009.
[7]. Sách giáo khoa Ngữ Văn: 12 (chương trình đổi mới), NXB Giáo dục,
H.2007, 2008, 2009.
[8]. Sở GD & ĐT Thanh Hóa (2012), Đề thi học sinh giỏi cấp tỉnh môn Ngữ văn.
DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐÃ ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA SỞ GD & ĐT THANH HÓA
Năm học

Tên đề tài

Xếp loại

Số quyết định

2010 2011

Phát huy trí tưởng tượng và liên hệ

thực tế của học sinh trong việc rèn
luyện các kĩ năng làm văn nghị luận
Nâng cao hiệu quả dạy ôn tập môn Ngữ
văn bằng cách phân nhóm các dạng đề
bài văn nghị luận
Phân tích ngôn ngữ nhân vật để thể
hiện thêm về tính cách và tâm hồn
nhân vật Tràng trong truyện ngắn "Vợ
nhặt" của Kim Lân
Xây dựng và phân loại hệ thống câu hỏi
để nâng cao hiệu quả trong việc dạy đọc
hiểu văn bản tác phẩm văn học

C

539/QD-SGD&ĐT,
ngày 18/10/2011

C

871/QD-SGD&ĐT,
ngày 18/12/2012

A

753/QD-SGD&ĐT,
ngày 03/11/2014

B


972/QD-SGD&ĐT,
ngày 24/11/2016

2011 2012
2013 2014

2015 2016

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NGUYỄN XUÂN NGUYÊN

Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

24


Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên

Sáng kiến kinh nghiệm 2017

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LÀM VĂN THEO ĐẶC TRƯNG LOẠI ĐỀ
ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BÀI LÀM VĂN
NGHỊ LUẬN VỀ Ý KIẾN VĂN HỌC

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Dũng
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn


THANH HÓA, THÁNG 6/2017

Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Dũng

25


×