Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Sử dụng phương pháp so sánh trong giảng dạy các tác phẩm văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.81 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG
Phần 1: Mở đầu
1
1.1 Lí do chọn đề tài
1
1.2 Mục đích nghiên cứu
1
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
Phần 2: Nội dung SKKN
3
2.1. Cơ sở lí luận của SKKN
3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
5
2.3.1. Tìm hiểu các kiểu bài so sánh văn học
5
2.3.2 Cách giảng bài cảm thụ văn học bằng phương pháp so sánh
9
2.3.3 Thực hành ứng dụng phương pháp so sánh trong một số đề thi
13
học sinh giỏi cấp trường, học sinh giỏi cấp tỉnh, thi tuyển sinh đại
học và đề thi THPT Quốc gia
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân,


18
đồng nghiệp, nhà trường.
Phần 3: Kết luận, kiến nghị
19
3.1. Kết luận
19
3.2. Kiến nghị
20


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Văn học là một môn học quan trọng trong chương trình phổ thông vì nó
có tác dụng rất lớn đến việc giúp các em học sinh có một thế giới quan, nhân
sinh quan nhân đạo và tiến bộ; giúp các em có một vốn tri thức về tiếng Việt để
bước vào cuộc sống. Bên cạnh đó, văn học còn giúp cho học sinh hình thành và
phát triển nhân cách. Các em đã được tiếp cận môn Văn từ thuở nhỏ qua những
câu hát ru của bà, của mẹ, qua những câu chuyện cổ tích... Khi lớn lên, các em
tiếp cận với Văn học nhiều hơn qua các bài học trong chương trình. Nhưng có
một điều đáng bàn là lớn lên, trưởng thành hơn, trong quá trình học tập thì một
bộ phận học sinh có xu hướng “lạnh lùng” với môn Văn. Để lí giải thực trạng
này các cấp quản lí giáo dục, những người tâm huyết với môn Văn đã đưa ra
nhiều nguyên nhân khác nhau như vấn đề đầu ra với học sinh ban Xã hội nói
chung và môn Văn nói riêng; chương trình sách giáo khoa còn nặng, ít chất
văn… nhưng một thực tế mà nhiều người phải công nhận là phương pháp dạy và
học môn văn trong nhà trường còn không ít bất cập. Bên cạnh đó, những năm
gần đây với việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới các dạng đề thi nhất là
đề thi THPT Quốc gia đòi hỏi phải đổi mới cách dạy và học văn … Để các em
học môn Văn đạt hiệu quả cao, có hứng thú trong các giờ học cũng như tham gia
tốt trong các kỳ thi và đáp ứng được nhu cầu cuộc sống hoặc nghề nghiệp sau

này, trong quá trình giảng dạy, cá nhân tôi đã cố gắng tìm tòi nhiều phương pháp
khác nhau để truyền thụ cho học sinh, ví dụ như phương pháp thuyết trình,
phương pháp vấn đáp, phương pháp làm việc theo nhóm, phương pháp phân
tích, phương pháp giảng bình…
Nhìn một cách chung nhất thì khi tiếp cận tác phẩm Văn học, học sinh
thường rất khó khăn bởi có quá nhiều điều phức tạp, thêm vào đó các em lại
không muốn vướng vào các vấn đề dài dòng khó hiểu. Vậy có cách nào giúp các
em không?
Từ kinh nghiệm giảng dạy môn văn trong những năm qua, cá nhân tôi
nghĩ rằng để có một giờ học hấp dẫn, học sinh yêu thích môn Văn, người giáo
viên cần sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Có thể nói rằng để có một giờ
Văn thành công giáo viên cần có một sự tổng hợp về phương pháp, trong đó “Sử
dụng phương pháp so sánh trong giảng dạy các tác phẩm văn học và làm các đề
thi liên quan” là một phương pháp khá phổ biến đã được tôi áp dụng và đạt được
những kết quả quan trọng.
Xuất phát từ những lý do trên tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng phương pháp
so sánh trong giảng dạy các tác phẩm văn học” giúp học sinh học tốt các giờ
ngữ văn và giải tốt các đề thi liên quan.
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.2.1. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm đối với giáo viên
Những năm gần đây, đề thi tuyển sinh, thi THPT Quốc gia, học sinh giỏi
các cấp có dạng đề so sánh văn học. Vì vậy, SKKN Sử dụng phương pháp so
sánh trong giảng dạy các tác phẩm văn học” sẽ giúp giáo viên Ngữ văn có cái
2


nhìn toàn diện hơn khi hướng dẫn học sinh so sánh tác phẩm văn học và thực sự
chú ý hơn trong việc rèn kĩ năng so sánh văn học cho học sinh, đồng thời xác
định được hướng dạy, hướng ôn tập, hướng khai thác tác phẩm và hướng ra đề
kiểm tra nhằm đáp ứng yêu cầu đề thi tuyển sinh, đề thi học sinh giỏi các cấp, đề

thi THPT Quốc gia.
Bên cạnh đó, SKKN Sử dụng phương pháp so sánh trong giảng dạy
các tác phẩm văn học” chắc chắn sẽ đưa ra những vấn đề cơ bản của chuyên
môn, nảy sinh những tranh luận, hoặc những ý kiến bổ sung, góp ý thêm. Vì thế,
SKKN còn góp phần thúc đẩy và khơi dậy phong trào học hỏi, tìm tòi, sáng tạo
của các thầy cô bộ môn Văn.
Mục đích của dạng bài so sánh văn học này là để chỉ ra được chỗ giống
nhau và khác nhau giữa các đối tượng được so sánh từ đó thấy được điểm kế
thừa, cách tân của từng khuynh hướng văn học, giai đoạn văn học, tác giả, tác
phẩm,…thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác giả, tác phẩm, sự đa dạng trong
phong cách nhà văn, góp phần hình thành kỹ năng lí giải nguyên nhân của sự
giống nhau, khác nhau giữa các hiện tượng văn học. Đối tượng của so sánh văn
học rất đa dạng, để cảm thụ một số tác phẩm văn học dưới dạng so sánh đạt hiệu
quả cao đòi hỏi người học sinh không chỉ nắm vững kiến thức cơ bản mà còn
phải nắm sâu, có năng lực cảm thụ tốt, tư duy khái quát cao…Nếu là học sinh có
năng lực thấp hoặc trung bình chắc các em sẽ khó có thể tìm ra điểm tương
đồng, khác biệt lại càng không thể lí giải được nguyên nhân vì sao lại như thế,
không biết được nét riêng biệt, độc đáo của các nhà văn, nhà thơ…Như vậy, giáo
viên căn cứ vào đây dễ dàng phân loại được học sinh và lựa chọn được những
học sinh chất lượng tốt cho các đội tuyển.
1.2.2. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm đối với học sinh
Trước đây thường có bộ đề thi và những bài văn mẫu có sẵn nên học sinh
đa phần chỉ cần học thuộc lòng là đủ đáp ứng yêu cầu thi cử và yêu cầu học tập.
Song với việc đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay, cách dạy và học cũ đã
không còn phù hợp. Học sinh tránh được lối học vẹt, học tủ, thụ động. Khi sử
dụng phương pháp so sánh trong giảng dạy tác phẩm văn học: học sinh phải có
một hệ thống kiến thức hoàn thiện từ tác giả, tác phẩm đến giai đoạn văn học
thậm chí là cả lí luận văn học…Để làm tốt phương pháp so sánh đòi hỏi học sinh
phải nhận ra những nét tương đồng, khác biệt dù là nhỏ nhất, những kế thừa,
cách tân, nét riêng… của từng tác giả, tác phẩm, qua đó đánh giá được chính xác

những đóng góp của mỗi nhà văn, nhà thơ. Đồng thời với việc sử dụng phương
pháp so sánh học sinh không chỉ nắm vững, nắm sâu tác phẩm mà còn khám phá
ra cái hay, cái đẹp… sẽ giúp học sinh có một năng lực cảm thụ tốt, tinh tế, phát
huy được năng khiếu, sở trường, cách suy nghĩ của mình, từ đó nâng cao hơn
chất lượng học tập. Không chỉ vậy, để làm tốt phương pháp so sánh văn học, học
sinh còn cần phải có một quá trình tích luỹ cộng với lòng yêu thích và say mê
tìm tòi, khám phá môn Ngữ văn. Chính điều đó đã thắp lên ngọn lửa của sự đam
mê khiến các em ngày càng thích thú và gắn bó với môn học Ngữ văn hơn.
1.2.3. Đáp ứng được yêu cầu của xu hướng đề thi hiện nay
3


Gần đây trong đề thi tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là ở
kỳ thi THPT Quốc gia, ở câu nghị luận văn học (4,0 hoặc 5,0 điểm) có thể xuất
hiện dạng đề so sánh. Bên cạnh đó, các kỳ thi học sinh giỏi các cấp cũng rất chú
trọng dạng đề này. Vì vậy: Sử dụng phương pháp so sánh trong giảng dạy
các tác phẩm văn học” chính là giúp thầy cô và các em đáp ứng tốt yêu cầu của
xu hướng ra đề thi hiện nay
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các tác phẩm văn học trung đại, văn học hiện đại
trong chương trình THPT, áp dụng cho học sinh lớp 10, 11, 12 trường THPT
Quảng Xương 2.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết có kết quả yêu cầu, nhiệm vụ đã đặt ra của đề tài, tôi đã sử
dụng một số phương pháp lí luận như:
-Phương pháp thống kê
-Phương pháp phân loại, phân tích
-Phương pháp so sánh
-Phương pháp tổng hợp…
Cùng với một số phương pháp nghiên cứu thực tiễn như :

-Phương pháp quan sát, điều tra
-Phương pháp trải nghiệm thực tế giảng dạy
-Sử dụng sách tham khảo, tài liệu trên mạng internet…
PHẦN 2: NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trong kỳ họp của Quốc hội khóa X về đổi mới chương trình phổ thông,
đã khẳng định mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông lần
này là “Xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa
phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng
yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo
dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới” [1]. Ngành
giáo dục đang trên con đường thực hiện đổi mới theo Chỉ thị số 14/2001/CTTTg về việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã được xác định trong
Nghị quyết TW IV khóa VII (1993), Nghị quyết TW 2 khóa VIII (12/1996),
được thể chế hóa trong Luật giáo dục (2005), được cụ thể hóa trong các chỉ thị
của Bộ GD&ĐT, đặc biệt là Chỉ thị số 14 (4/1999).
Bên cạnh đó còn có: “Một trong những trọng tâm của việc đổi mới
chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung vào đổi mới
phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động
của học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn đúng mực của giáo viên nhằm phát
triển tư duy độc lập, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự
học, bồi dưỡng hứng thú học tập tạo niềm tin và niềm vui trong học tập”[2].
Chính vì vậy, chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ Văn đã viết rằng môn
4


Ngữ văn là một môn học công cụ. Năng lực sử dụng tiếng Việt và tiếp nhận tác
phẩm văn học mà môn học này trang bị cho học sinh là công cụ để học sinh học
tập và sinh hoạt, nhận thức về xã hội và con người, bồi dưỡng tư tưởng, tình
cảm, đặc biệt là tư tưởng nhân văn và tình cảm thẩm mĩ. Do đó nhiệm vụ của

chương trình môn Ngữ văn là cung cấp kiến thức về Văn học, trang bị những
đánh giá, nhận định về tác gia, tác phẩm, nâng cao năng lực thẩm mĩ, kỹ năng
sống... Học sinh học Ngữ văn không phải chỉ đọc hiểu các loại văn bản, viết các
loại văn bản thông dụng, nói đúng phong cách ngôn ngữ, mà còn biết đọc - hiểu,
giao tiếp với loại văn bản phức tạp nhất, là văn bản văn học nghệ thuật. Hiểu
được tính chất của bộ môn, chúng ta sẽ thấy, chỉ dạy văn học theo lối “giảng
văn” truyền thống, thầy giảng trò nghe một cách thụ động thì không thể đào tạo
ra những thế hệ học sinh mới được.
Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực; tự giác, chủ
động, sáng tạo cuả học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh cũng
như đáp ứng yêu cầu của các đề thi tuyển sinh, nhất là đề thi THPT Quốc gia.
Với những căn cứ đó, bản thân đã cố gắng tìm tòi và phát huy những phương
pháp dạy học tích cực trong đó có “Sử dụng phương pháp so sánh trong
giảng dạy các tác phẩm văn học”.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trên thực tế ta nhận thấy việc học nói chung và việc giảng dạy môn văn
nói riêng vẫn luôn là vấn đề nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và
đông đảo các nhà nghiên cứu, mọi tầng lớp nhân dân. Đội ngũ giáo viên luôn nỗ
lực tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học nhằm đem lại kết quả tốt nhất cho
hoạt động dạy và học, hướng tới nhận thức và tình cảm của học sinh. Tuy nhiên:
Về phía giáo viên: giáo viên gặp không ít những khó khăn thử thách như
tư liệu dạy học khan hiếm, trong phân phối chương trình những tiết làm văn
dưới kiểu bài so sánh văn học chưa nhiều nên tư liệu dạy học rất ít. Do phân
phối chương trình và thời gian lên lớp ngắn nên hầu hết các giáo viên chỉ chú ý
đi sâu, đào kĩ vào các vấn đề trung tâm tác phẩm, ít có điều kiện giảng tác phẩm
bằng phương pháp so sánh, nếu có cũng chỉ là sự liên hệ mở rộng chứ chưa đi
sâu vào các phương diện cụ thể. Thêm vào đó kĩ năng so sánh còn hạn chế, ngại
đầu tư công sức...

Về phía học sinh: hiện nay hứng thú học văn ở học sinh đã giảm sút đáng
kể. Học sinh thờ ơ với bộ môn, quá trình học không phải là quá trình tìm tòi
khám phá mà miễn cưỡng bắt buộc. Từ tư tưởng ấy dẫn đến kết quả không chỉ
cảm thụ sai tác phẩm mà năng lực rung cảm của học sinh cũng dần bị xói mòn.
Đây là vấn đề khiến chúng ta phải lưu tâm. Không chỉ vậy, phần nhiều học sinh
còn lúng túng, chưa có kĩ năng so sánh văn học: so sánh văn học đòi hỏi học
sinh phải tổng hợp nhiều kĩ năng. Những dạng bài so sánh thường khó, phức tạp
đòi hỏi học sinh phải có tư duy tổng hợp. Bên cạnh đó, học sinh sử dụng tài liệu
tham khảo nhiều, nhiều tài liệu chất lượng kém. Học sinh bị lúng túng, thiếu tự
5


tin, thiếu sự tìm tòi đánh giá, không phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo. Thực tế hiện nay, học sinh bị hổng kiến thức từ các lớp học dưới, học trước
quên sau, cho nên khi tiếp thu kiến thức ở mức độ cao và sâu còn hạn chế. Phần
lớn học sinh chỉ biết diễn xuôi nội dung một cách cứng nhắc và gượng ép, vụng
về, chưa biết cách đối chiếu so sánh giữa các văn bản với nhau.
Từ những vấn đề mang tính lí luận đến thực trạng của việc dạy và học văn
hiện nay, chúng ta có thể thấy việc đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn là
nhu cầu bức thiết; vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của mỗi người. Mỗi giáo
viên cần chủ động bồi dưỡng kiến thức linh hoạt kết hợp sử dụng các phương
pháp để đạt hiệu quả cao. Nhưng theo tôi, điều quan trọng trước hết là người
giáo viên biết cách khai thác tác phẩm từ nhiều góc độ. Trong đó, giảng dạy tác
phẩm bằng phương pháp so sánh là một hướng đi đơn giản nhưng góp phần
không nhỏ trong việc khám phá nội dung, chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Tác phẩm văn học trong nhà trường thường là những tác phẩm nghệ thuật
đã được cân nhắc, lựa chọn rất kĩ, có giá trị lớn cả về nội dung tư tưởng lẫn giá
trị nghệ thuật. Vì vậy để khám phá hết những cái hay, cái đẹp của một văn bản
không phải là một điều dễ dàng, đặt ra nhiều thử thách với giáo viên: làm thế
nào để có thể hướng dẫn dẫn học sinh chiếm lĩnh hết được những giá trị tác

phẩm. Chính vì con đường khám phá có tính chất "mở" như vậy mà thời gian có
hạn, nên đòi hỏi người giáo viên cần xác định được trọng tâm bài dạy, thiết kế
giáo án phù hợp với đối tượng. Nhất là nên tìm những phương pháp khác nhau
để giúp học sinh tiếp cận đến đích văn bản.
Vì vậy, tôi mong muốn trình bày một vài suy nghĩ, giải pháp của bản thân
về giảng dạy tác phẩm bằng phương pháp so sánh. Đây là một cách hay để tạo
sự chú ý, kích thích hứng thú học tập của các em học sinh cũng như giúp các em
đạt kết quả cao trong học tập, trong thi cử. Mong rằng sẽ nhận được sự góp ý,
bổ sung chân thành của bạn bè, đồng nghiệp ....
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trong quá trình giảng dạy ở nhà trường tôi đã rút ra được những kinh
nghiệm cho bản thân (mặc dù những kinh nghiệm ấy còn chưa nhiều). Tôi nghĩ
rằng, một tiết học hấp dẫn và đạt hiệu quả phải có những phương pháp phù hợp
của giáo viên nhằm thu hút học sinh. Từ những suy nghĩ ban đầu, tôi đem nó
thực hiện vào quá trình giảng dạy và đã đạt những hiệu quả nhất định. Đó là
giảng dạy tác phẩm văn học bằng phương pháp so sánh. Cách thức tiến hành
như sau:
2.3.1. Tìm hiểu các kiểu bài so sánh văn học
a. Khái niệm về so sánh
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “so sánh là nhìn vào cái này mà xem xét cái
kia để thấy sự giống nhau, khác nhau hoặc sự hơn kém”[3].
Còn theo Từ điển Tu từ – phong cách học – thi pháp học thì “so sánh là
phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn là
giữa hai sự vật có một nét tương đồng nào đó để gợi ra hình ảnh cụ thể, những
cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức của người đọc, người nghe”[4].
6


Từ những khái niệm trên vận dụng vào việc rèn kĩ năng cảm thụ văn học
cho học sinh, có thể thấy so sánh giúp cho học sinh hiểu rõ hơn đối tượng (có

thể là những chi tiết, nhân vật, hình tượng, quan niệm…) cảm nhận được những
mới mẻ, độc đáo của đối tượng cũng như những sáng tạo của nghệ sĩ.
Bởi vậy, trong quá trình nhận thức người ta thường so sánh để tìm ra
những điểm giống và khác nhau giữa các đối tượng để có được những nhận xét,
đánh giá chính xác [6].
Với phân môn làm văn trong nhà trường phổ thông, so sánh văn học là
một thao tác lập luận cạnh các thao tác lập lụân như: phân tích, bác bỏ, bình luận
đã được đưa vào SGK Ngữ văn 11.
b. Các kiểu bài so sánh
Thông thường, ta hay gặp những kiểu bài:[8]
- So sánh các tác phẩm
- So sánh các đoạn tác phẩm (hai đoạn thơ hoặc hai đoạn văn xuôi)
- So sánh các nhân vật văn học
- So sánh các tình huống truyện
- So sánh các chi tiết nghệ thuật
- So sánh nghệ thuật trần thuật
- So sánh cái tôi trữ tình giữa các bài thơ
- So sánh cách kết thúc tác phẩm
-So sánh hai lời nhận định về một tác phẩm…
Quá trình so sánh có thể chỉ diễn ra ở các tác phẩm của cùng một tác
giả, nhưng cũng có thể diễn ra ở những tác phẩm của các tác giả cùng hoặc
không cùng một thời đại, giữa các tác phẩm của những trào lưu, trường
phái khác nhau của một nền văn học. Vì vậy ta có thể chia ra thành các kiểu
bài so sánh văn học như sau:
b.1. So sánh các tác phẩm
Đây là trường hợp hai tác phẩm trọn vẹn được yêu cầu phân tích, đối sánh
với nhau. Đó có thể là tác phẩm thơ hoặc tác phẩm thuộc thể loại khác. Tuy
nhiên, đây là một dạng đề bài có biên độ so sánh khá rộng nên có lẽ sẽ không
xuất hiện thường xuyên. Thường thì đối tượng so sánh là các bài thơ ngắn.
Sau khi giáo viên giảng dạy xong một số tác phẩm hoặc trong quá trình

giảng dạy một tác phẩm nào đó giáo viên hướng dẫn học sinh đối chiếu so sánh.
Ví dụ 1: Anh/chị hãy phân tích, so sánh bài thơ Đất nước của Nguyễn
Đình Thi và đoạn trích Đất nước (trích Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa
Điềm.
Ví dụ 2: Cảm hứng về dòng sông trong Người lái đò Sông Đà của Nguyễn
Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Ví dụ 3: Cảm hứng đất nước qua Việt Bắc và Tây Tiến.
b.2. So sánh đoạn thơ, đoạn văn
Đối với dạng bài này, phải thâm nhập được vào các đoạn thơ, đoạn văn,
xem xét chúng như những đơn vị nghệ thuật độc lập lại vừa phải đặt chúng trong
mối liên hệ với chỉnh thể để việc phân tích, luận giải được thỏa đáng hơn.
7


Ví dụ 1: Tiếng nói riêng của Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử trong cảm nhận
về sự sống trần gian qua 2 đoạn thơ sau [9]:
“ Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;”
( Vội vàng- Xuân Diệu)
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
(Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử)
Ví dụ 2: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn sau: [7]

“…Còn xa lắm mới tới cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần
mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là
van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên
như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ
lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng.”
(Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân)
“Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của
rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác,
cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu
dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như
một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại.”
(Ai đã đặt tên cho dòng sông – Hoàng Phủ Ngọc Tường)
b.3. So sánh ở cấp độ các vấn đề nội dung tư tưởng của tác phẩm (hoặc của
đoạn thơ, đoạn văn)
Những bài văn thuộc dạng này có thể yêu cầu phân tích, so sánh các
phương diện, nội dung tư tưởng như: tư tưởng hiện thực, tư tưởng nhân đạo, chủ
nghĩa yêu nước…
Ví dụ 1: Cảm hứng quê hương đất nước trong các bài thơ Việt Bắc của Tố
Hữu, Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên và đoạn trích Đất nước (trích Trường
ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm.
Ví dụ 2: Anh/chị hãy phân tích, so sánh tư tưởng hiên thực, tư tưởng nhân
đạo của Nam Cao và Kim Lân qua truỵên ngắn Chí Phèo và truyện ngắn Vợ
nhặt.
b.4. So sánh ở cấp độ các vấn đề hình thức nghệ thuật của tác phẩm

8



Dạng này có thể xảy ra: nghệ thuật xây dựng tình huống truyện (tình
huống hành động, tình huống tâm trạng, tình huống nhận thức), nghệ thuật phân
tích và diễn tả tâm lí nhân vật, nghệ thuật sử dụng ngôn từ…
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện
Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của tác phẩm truyện ngắn. Nó
chính là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó
cuộc sống hiện lên rõ nhất và ý nghĩa tư tưởng của tác giả cũng bộc lộ một cách
rõ nét.
Ví dụ 1: Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện trong Vợ nhặt của Kim
Lân và Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
- Nghệ thuật phân tích và diễn tả tâm lí nhân vật
Khi phân tích đối sánh cần chú ý các yếu tố bên ngoài góp phần thể hiện
nội tâm, yếu tố bên trong thể hiện nội tâm…
Ví dụ 2: Diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ với
người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt...
b.5. So sánh các hình tượng nhân vật văn học
Có thể hình tượng nhân vật là con người, hình tượng thiên nhiên, hình
tượng cái “tôi” trữ tình hoặc một hình tượng nào đó trong thế giới nghệ thuật
của tác phẩm.
Ví dụ 1: Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Việt trong truyện ngắn Những
đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi và nhân vật Tnú trong truyện
ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Ví dụ 2: Phân tích, so sánh nhân vật nữ trong tác phẩm Vợ chồng A
Phủ của Tô Hoài, Vợ nhặt của Kim Lân, Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn
Minh Châu.
Ví dụ 3: Cảm nhận của anh chị về vẻ đẹp của nhân vật Dít trong truyện
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành và nhân vật Chiến trong truyện Những
đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi.
b.6. So sánh các chi tiết, hình ảnh
Dạng đề này thường hướng đến các chi tiết trong tác phẩm văn xuôi, chi

tiết thường biểu hiện cho số phận, tính cách, tâm hồn nhân vật…
Ví dụ 1: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà
ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…
Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt …”
(Vợ nhặt – Kim Lân)
“Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn
vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ
xuống những dòng nước mắt”
(Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu)
Anh/chị cảm nhận thư thế nào về chi tiết “dòng nước mắt” trong những
câu văn trên [10].
Ví dụ 2: Chi tiết “bát cháo hành” trong truỵên ngắn Chí Phèo (Nam Cao)
và chi tiết “lời di huấn” của Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử
9


tù (Nguyễn Tuân) đều tác động và đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời
những người lầm đường. Hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị về các chi tiết ấy
[8].
Ví dụ 3: Cảm nhận của anh/chị về chi tiết “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ
quá” mà nhân vật Chí Phèo cảm nhận được sau đêm gặp Thị Nở (Chí Phèo Nam Cao) và chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi” mà nhân vật
Mị nghe được trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)[11].
b.7. So sánh cái tôi trữ tình giữa các bài thơ
Ví dụ: Cái tôi của Xuân Diệu và Tố Hữu qua hai tác phẩm Vội vàng và Từ ấy
b.8. So sánh cách kết thúc tác phẩm
Ví dụ: So sánh cách kết thúc tác phẩm Chí Phèo, Lão Hạc… của tác giả
Nam Cao với kết thúc truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Vợ nhặt - Kim
Lân.
b.9. So sánh hai lời nhận định về một tác phẩm
Ví dụ 1: Về hình tượng sông Đà trong đoạn trích Người lái đò sông Đà

(trích tùy bút sông Đà) của Nguyễn Tuân) có ý kiến cho rằng: con sông Đà là
một loài thủy quái vừa hung ác vừa nham hiểm, ý kiến khác thì nhấn mạnh: con
sông Đà dịu dàng như một thiếu nữ, gợi cảm như một “cố nhân” và bí ẩn như
một “người tình nhân chưa quen biết”
Bằng cảm nhận về hình tượng sông Đà, anh/chị hãy bình luận các ý kiến
trên [12].
Ví dụ 2: Bàn về bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh có ý kiến cho rằng: bài thơ
thể hiện quan niệm rất mới mẻ và hiện đại của Xuân Quỳnh về tình yêu. Nhưng
lại có ý kiến khác cho rằng: bài thơ thể hiện quan niệm về tình yêu mang tính
truyền thống.
Từ cảm nhận về bài thơ Sóng, anh/chị hãy bình luận về các ý kiến
trên[12].
2.3.2. Cách giảng bài cảm thụ văn học bằng phương pháp so sánh
Để giảng được bài cảm thụ văn học trong thế đối sánh, trước hết người
giáo viên cần phải xác định được:
a. Yêu cầu của thao tác so sánh
– So sánh phải dựa trên cùng một tiêu chí, chung một bình diện để tránh khập
khiễng.
– So sánh trên nhiều cấp độ: nhỏ nhất là giữa các chi tiết, từ ngữ, hình ảnh; lớn
hơn là các nhân vật, sự kiện, tác phẩm, tác giả và phong cách…
– So sánh thường đi đôi với nhận xét, đánh giá thì so sánh đó mới trở nên sâu
sắc.
- Phải xác định trúng, nắm bắt chính xác yêu cầu của thao tác so sánh thì người
giảng mới có thể giảng đúng hướng, khoanh được vùng kiến thức để giải quyết
vấn đề.
Ví dụ về vấn đề so sánh Vợ nhặt của Kim Lân và Một đám cưới của Nam
Cao, người giảng cần biết đây là so sánh giữa hai tác phẩm, phạm vi rộng vì vậy
cần huy động kiến thức trong toàn bộ tác phẩm chứ không ở phương diện nhân
10



vật, chủ đề hay kết thúc tác phẩm. Từ đó đặt ra yêu cầu đối với người sử dụng
thao tác so sánh.
b. Yêu cầu đối với người sử dụng thao tác so sánh
- Phải có vốn tri thức rộng về văn chương kết hợp với trí tuệ sắc sảo và năng
khiếu liên tưởng, tưởng tượng.
- Phải có khả năng nắm vấn đề cụ thể, chi tiết đồng thời có khả năng khái quát,
tổng hợp.
- So sánh để làm nổi bật đối tượng chứ không phải phô trương kiến thức, rơi vào
lan man, mất trọng tâm. So sánh phải tự nhiên, phù hợp, không gượng ép.
Như vậy, kiểu bài cảm thụ văn học trong quan hệ đối sánh là kiểu bài nghị
luận mà đối tượng được đưa ra cảm thụ không phải chỉ là một tác phẩm riêng lẻ
mà thường phải từ hai tác phẩm (hay đoạn trích) trở lên. Đối với kiểu bài này,
người giảng bài và làm bài phải biết phân tích các đối tượng trong thế so sánh để
tìm ra những chỗ giống nhau, khác nhau, từ đó hiểu rõ hơn về cái hay, cái đẹp
của các tác phẩm, nét độc đáo trong phong cách của mỗi tác giả…
Kiểu bài này đòi hỏi người giảng bài, làm bài phải có năng lực thẩm bình
văn chương tinh nhạy, kiến thức lí luận văn học, kiến thức về văn học sử (tác
phẩm và tác giả) phong phú và phải có năng lực khái quát tổng hợp vấn đề cao.
Trong quá trình rèn luyện kĩ năng làm bài cho học sinh, nếu chúng ta biết
chọn và đưa ra nhiều đề văn thuộc dạng này không chỉ giúp các em củng cố
được thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát nâng cao vấn đề mà còn là cơ hội để
các em biết xâu chuỗi và vận dụng một cách nhuần nhuyễn các kiến thức đã học,
phát huy năng lực sáng tạo của các em.
Do phạm vi của một sáng kiến kinh nghiệm, tôi không có đủ điều kiện
để trình bày hết tất cả các cách giảng tác phẩm văn học bằng phương pháp
so sánh ở các dạng bài so sánh mà chỉ xin chọn một dạng so sánh nhỏ đó là
so sánh các chi tiết, hình ảnh nghệ thuật. Người giáo viên có thể làm như sau:
2.3.2.1. Chọn các chi tiết, hình ảnh
Để có được những tiết dạy như ý muốn và đạt được mục đích nhất định

cần phải có một hệ thống các chi tiết, giáo viên cần phải có một tri thức rộng về
các tác phẩm văn học. Khi đọc tác phẩm văn học, giáo viên cần hệ thống và
chọn lựa, sắp xếp các chi tiết theo tiêu chí như sau:
- Các chi tiết cùng trong một tác phẩm.
- Các chi tiết giống nhau trong các tác phẩm khác nhau theo loại thể:
Trong tác phẩm tự sự, tác phẩm trữ tình…
- Các chi tiết hình ảnh giống nhau giữa các tác phẩm không cùng loại thể.
- Các chi tiết về không gian trong các truyện ngắn.
- Các chi tiết, hình ảnh trong các tác phẩm thơ thể hiện quá trình trải
nghiệm cuộc sống, cách cảm nhận và thể hiện những cảm nhận trong tác phẩm.
2.3.2.2. So sánh các chi tiết, hình ảnh trong cùng tác phẩm
Chi tiết văn học không chỉ thể hiện nội dung mà đôi khi còn thể hiện tài
năng, khả năng quan sát, trải nghiệm tinh tế của nhà văn. Vì thế, phân tích tác
phẩm văn học, chỉ khai thác một cách đơn thuần các chi tiết đôi khi còn thiếu
11


sót. Cần đặt chi tiết và tác phẩm vào trong một mối quan hệ nào đó (tương đồng
hay tương phản) để rõ hơn nội dung phản ánh, phong cách tác giả, tài năng nhà
văn...
Khi tiến hành phân tích một tác phẩm, cần hướng học sinh khai thác các
tầng bậc ý nghĩa của tác phẩm bằng cách cho học sinh tìm và so sánh các chi tiết
giống nhau.
Ví dụ 1: Khi phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài ta cho học
sinh chú ý đến các chi tiết về không gian nghệ thuật: Đó là bóng tối. Yêu cầu các
em tìm các chi tiết nói đến không gian tối trong tác phẩm: Đêm Mị bị A Sử bắt,
căn buồng tối nơi Mị ở, những đêm tình mùa xuân, Mị bị trói đứng trong bóng
tối, những đêm Mị sưởi lửa, đêm Mị cắt dây trói cho A Phủ [7]...Tất cả các chi
tiết cho ta một ý nghĩa về số phận những người dân miền núi dưới ách thống trị
của Thực dân và quan làng.

Ví dụ 2: Khi phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám”,
giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh so sánh để thấy hành động của Tấm lúc
đầu còn cam chịu nhưng qua mỗi hành động Tấm dường như cương quyết hơn
trong sự đấu tranh giành hạnh phúc. Ban đầu Tấm dường như chỉ biết khóc mỗi
khi bị mẹ con Cám đày đọa, nhưng sau đó Tấm đã biết tự đấu tranh để giành lấy
hạnh phúc cho mình. Vì vậy hành động trừng trị mẹ con Cám ở cuối tác phẩm là
một sự phát triển tất yếu và hết sức phù hợp. Qua đó tác giả dân gian còn muốn
nhắn nhủ rằng: muốn có hạnh phúc con người phải biết tự đứng lên để đấu tranh.
Ví dụ 3: Khi giảng dạy đoạn trích “Trao duyên” (Truyện Kiều - Nguyễn
Du) Giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh tâm trạng của Kiều trước và sau khi
trao kỉ vật cho Thuý Vân để thấy rằng tâm trạng của Kiều ngày càng đi sâu vào
bi kịch. Dù đã trao duyên cho em nhưng Thuý Kiều vẫn không thôi nhớ nhung
Kim Trọng, nàng coi mình là nguời phận bạc, là người phụ tình. Qua đó, học
sinh có thể thấy rõ hơn vẻ đẹp trong tâm hồn Kiều.
2.3.2.3 So sánh chi tiết, hình ảnh trong các tác phẩm cùng loại thể
Các chi tiết văn học trong các tác phẩm khác nhau cùng loại thể đôi khi có
mối quan hệ mật thiết với nhau, mang những ý nghĩa tương đồng với nhau. Vì
thế khi giảng chi tiết, giáo viên nên chọn các chi tiết giống nhau ở các tác phẩm
khác nhau và so sánh để tìm ra ý nghĩa. Khi so sánh như thế, tự nhiên tiết giảng
sẽ sinh động và hấp dẫn hơn, học sinh sẽ chú ý theo dõi và phần nào giúp các
em tự phát hiện nhiều điều thú vị, giúp học sinh ngầm hiểu các chi tiết văn học
bản thân chúng chứa đựng rất nhiều điều thú vị, nhiều ý nghĩa mà chỉ khi tìm
hiểu thật kĩ càng thì mới hiểu được ngọn nguồn.
Khi so sánh các chi tiết ở các tác phẩm khác nhau, giáo viên cần chỉ cho
học sinh (hoặc chỉ cho học sinh tự phát hiện) những điểm giống và khác nhau để
từ đó tìm ra nét riêng của từng nhà văn, tìm ra ý nghĩa của chi tiết so sánh.
Ví dụ 1: Khi phân tích truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (đoạn Mị và A
Phủ còn ở Hồng Ngài), để làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm: bênh vực,
xót thương, cảm thông và tìm lối thoát cho nhân vật, ý thức phản kháng chống
lại chế độ, ta lấy chi tiết gần cuối đoạn trích “Mị cắt dây trói cho A Phủ”, so

12


sánh với chi tiết cuối trong hai tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố và Chí Phèo
của Nam Cao: trong Tắt đèn là chi tiết “Chị Dậu xô ngã ông quan” còn Chí
Phèo là chi tiết “Chí Phèo đâm chết Bá Kiến”.
Giáo viên cần cho học sinh thấy rõ: Cả ba nhân vật Chị Dậu, Chí Phèo và
Mị đều bị giai cấp thống trị dồn vào con đường cùng của cuộc sống và theo lẽ tự
nhiên “con giun xéo lắm cũng quằn”, con người bị áp bức quá sẽ phản kháng và
ý thức phản kháng lại quyết liệt hơn bao giờ hết. Chị Dậu xô ngã ông quan là xô
ngã chế độ đàn áp; chí Phèo đâm chết Bá Kiến là đâm chết, giết chết chế độ
cường hào. Cả hai đều tìm con đường thoát với sức phản kháng mãnh liệt như
thế nhưng tương lai vẫn không mở ra với họ: Chị Dậu chạy ra ngoài, trời tối
đen như mực như cái tiền đồ của chị, tương lai phía trước vẫn còn mờ mịt, niềm
hi vọng vẫn còn mong manh; Chí Phèo đâm chết Bá Kiến nhưng rồi Chí cũng bế
tắc, Chí đã phải tự vẫn kết liễu đời mình. Chí vẫn phải quằn quại cho đến chết.
Riêng Mị, thái độ phản kháng quyết liệt chống lại chế độ thể hiện ở hành động
cắt dây trói cho A Phủ một cách dứt khoát. Mị cắt dây trói là cắt đi cái vòng dây
thần quyền đầu độc mình và mọi người của cha con nhà Thống Lí Pá tra; cắt đứt
sự ràng buộc của thế lực áp bức. Và sau đó, Mị cũng đã tự “tháo cũi sổ lồng”,
tự giải thoát mình khỏi vòng kìm kẹp. Chi tiết ấy cũng chính là điều mới mẻ
trong giá trị nhân đạo mà Tô Hoài gửi vào tác phẩm.
Ví dụ 2: Khi giảng bài khái quát về tác phẩm Truyện Kiều, giáo viên có thể
hướng dẫn học sinh so sánh với tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” để thấy rằng
cảm hứng và thân phận những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh là cảm hứng
xuyên suốt trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Du, từ đó học sinh thấy rõ hơn
một nét mới trong sáng tác của Nguyễn Du là lòng thương cảm với những người
tài hoa bạc mệnh, đề cập đến một vấn đề rất mới trong văn học trung đại: xã hội
cần phải trân trọng những giá trị tinh thần, do đó cần phải trân trọng chủ thể
sáng tạo những giá trị tinh thần ấy. Từ sự so sánh ấy học sinh có thể thấy được

tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn lớn, đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Ví dụ 3: Khi giảng đoạn trích “Chí khí anh hùng” (Truyện Kiều - Nguyễn
Du) giáo viên có thể so sánh lí tưởng anh hùng của Từ Hải qua câu “Trượng phu
thoắt đã động lòng bốn phương’’ và “Làm cho rõ mặt phi thường”[5] với chí
làm trai của Nguyễn Công Trứ trong các câu thơ:
“Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”
Hay chí làm trai trong một số bài ca dao, bài thơ khác:
“Làm trai cho đáng nên trai
Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên”
(Ca dao)
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu vị ào ào gió thu
(Chinh phụ ngâm)
13


Từ sự so sánh ấy cho học sinh thấy rằng hình tượng người anh hùng Từ
Hải được xây dựng bằng lí tưởng đạo đức phong kiến, đó là người anh hùng có
sức mạnh phi thường, có ý chí lớn lao, có khát vọng thay đổi cả sơn hà. Người
anh hùng ấy được xây dựng bằng ước mơ của Nguyễn Du, một nhà nho phong
kiến.
Ngoài ra, giáo viên còn có thể so sáng hình tượng người anh hùng Từ Hải
với hình tượng người trai thời Trần trong “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão đễ
thấy được vẻ đẹp mang tầm vũ trụ của người anh hùng.
2.3.2.4 So sánh các chi tiết, hình ảnh trong các tác phẩm khác nhau không
cùng loại thể
Trong các tác phẩm khác nhau không cùng loại thể đôi khi những chi tiết

giống nhau, bổ sung ý nghĩa cho nhau rất nhiều. Vì vậy, khi phân tích tác phẩm
đôi khi cần cho học sinh tìm và so sánh các chi tiết trong các tác phẩm khác
nhau ấy để giúp học sinh hiểu rõ hơn về tác phẩm cần khảo sát. Thế nhưng, điều
khó khăn là học sinh sẽ không thể nhớ tất cả các tác phẩm có chi tiết giống nhau
nên giáo viên cần giới thiệu sẵn tác phẩm để các em tìm.
Ví dụ: Khi giảng tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn, đến hình tượng vòng hoa
trên nấm mộ Hạ Du - một hình tượng thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của tác
giả về tiền đồ cách mạng Trung Quốc vì đã có người hiểu, cảm phục những
người cách mạng như Hạ Du, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh liên hệ với
“Mồ anh hoa nở” của Thanh Hải để thấy rõ hơn điều đó.
2.3.3 Thực hành ứng dụng phương pháp so sánh trong một số đề thi học
sinh giỏi cấp trường, học sinh giỏi cấp tỉnh, thi tuyển sinh đại học và đề thi
THPT quốc gia (chỉ dẫn chứng một số đề về so sánh hình ảnh, chi tiết)
Ví dụ 1: ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC KHỐI D NĂM 2010 [13]
Câu III.b. (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về chi tiết “bát cháo hành” mà nhân vật thị Nở
mang cho Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao) và chi tiết “ấm nước đầy và nước
hãy còn ấm” mà nhân vật Từ dành sẵn cho Hộ (Đời thừa – Nam Cao).
ĐÁP ÁN
1. Vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)
- Nam Cao là nhà nhân đạo lớn, nhà hiện thực bậc thầy của văn học Việt
Nam hiện đại; sáng tác vừa chân thực giản dị vừa thấm đượm ý vị triết lí nhân
sinh; có biệt tài phân tích, diễn tả tâm lí phức tạp của con người.
- Chí Phèo và Đời thừa là những truyện ngắn xuất sắc, rất tiêu biểu cho sáng
tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám. “Bát cháo hành” và “ấm nước đầy
và nước hãy còn ấm” là những chi tiết đặc sắc góp phần quan trọng thể hiện tâm lí
nhân vật, tư tưởng tác phẩm và điển hình cho nghệ thuật Nam Cao .
2. Về chi tiết “bát cháo hành” (2,0 điểm)
- Ý nghĩa về nội dung:
+ Thể hiện sự chăm sóc ân cần của thị Nở khi Chí Phèo ốm đau, trơ trọi.

+ Là biểu hiện của tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận, là hương
vị của hạnh phúc tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng.
14


+ “Bát cháo hành” đã đánh thức tính người bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo:
- Gây ngạc nhiên, gây xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về
tình trạng thê thảm hiện tại của mình.
- Khơi dậy niềm khát khao được làm hoà với mọi người; hi vọng vào một
cơ hội trở về với cuộc sống lương thiện.
- Ý nghĩa về nghệ thuật:
+ Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa
sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.
+ Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tưởng vào khả năng
cảm hoá của tình người.
3. Về chi tiết “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm” (1,0 điểm)
- Ý nghĩa về nội dung: “Ấm nước đầy và nước hãy còn ấm” Từ dành sẵn
để Hộ có cái uống khi tỉnh rượu, thể hiện sự chăm chút tận tâm của Từ, dù trước
đó Từ vừa bị Hộ đối xử tệ bạc; biểu hiện của tình yêu thương sâu bền, lòng biết
ơn và sự bao dung nguyên vẹn của người vợ yếu ớt; đánh thức lương tâm và
lương tri của Hộ, khiến anh thấm thía về nghĩa tình, day dứt, ăn năn về những
hành vi vũ phu với vợ con khi say.
- Ý nghĩa về nghệ thuật: Giúp khắc hoạ tính cách, tâm lí nhân vật và góp phần
thể hiện sinh động tư tưởng của Nam Cao về khả năng cảm hoá của tình người.
4. Về sự tương đồng và khác biệt (1.0 điểm)
- Tương đồng: Cả hai chi tiết đều góp phần biểu hiện tình cảm, tấm lòng
của người phụ nữ. Tình người của họ đã đánh thức tính người của những kẻ bị
tha hoá. Những chi tiết đó đều bộc lộ niềm tin sâu sắc vào tình người; đều thể
hiện biệt tài sử dụng chi tiết của Nam Cao.
- Khác biệt: “Bát cháo hành” (và “hơi cháo hành”) được tô đậm trong

tác phẩm, là một nỗi ám ảnh đã thức tỉnh Chí Phèo, phù hợp với tâm lí của
người nông dân. “Ấm nước đầy và nước hãy còn ấm” chỉ xuất hiện thoáng qua,
nhưng cũng đủ tác động làm thức tỉnh lương tri của Hộ, phù hợp với tâm lí của
người trí thức.
5. Kết thúc vấn đề (0.5 điểm): Tổng hợp và nêu ý nghĩa.
Ví dụ 2: ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI CẤP TRƯỜNG NĂM HỌC 2016-2017
[10]
Câu 2:Nghị luận văn học.
+ “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm
nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt
kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”
(Vợ nhặt – Kim Lân)
+ “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào
người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống
những dòng nước mắt”
(Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu)
Trình bày cảm nhận của anh/chị về chi tiết “dòng nước mắt” trong những
câu văn trên
15


ĐÁP ÁN
Mở bài
Giới thiệu về nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Nguyễn
Minh Châu và truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.
+ Hai nhà văn đều thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo, nhân văn trong sự
nghiệp văn học.
+ Hai tác phẩm khắc họa tình người, tình mẹ, trong đó chi tiết “dòng
nước mắt” là một phương tiện biểu hiện.
Thân bài

a) Cảm nhận chi tiết “dòng nước mắt” trong Vợ nhặt.
* Giới thiệu diễn biến dẫn đến chi tiết: Nêu hoàn cảnh xuất hiện dòng
nước mắt của bà cụ Tứ – mẹ Tràng: tình huống truyện anh Tràng nhặt vợ, diễn
biến tâm trạng bà cụ Tứ.
* Cảm nhận, phân tích chi tiết “dòng nước mắt”:
+ Là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận: con lấy vợ vào giữa ngày đói
khiến bà lão vừa mừng lại vừa tủi, vừa lo lắng…
+ Giọt nước mắt chỉ “rỉ” ra hiếm hoi bởi cả đời đã cạn khô nước mắt
trong những tháng ngày khốn khổ dằng dặc…
+ “Kẽ mắt kèm nhèm” là sự hiện hình của một bức chân dung đầy khổ
hạnh của người phụ nữ nông dân lớn tuổi.
+ Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt lòng.
* Đánh giá:
– Giá trị nội dung: Dòng nước mắt đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo sâu sắc.
+ Hiện thực: phơi bày tình cảnh xã hội những năm trước cách mạng, trong
nạn đói 1945.
+ Nhân đạo: cảm thông thương xót; tố cáo xã hội; trân trọng ngợi ca vẻ
đẹp tâm hồn người mẹ.
– Đặc sắc nghệ thuật: chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lớn;
diễn tả nội tâm nhân vật đặc sắc.
b) Cảm nhận chi tiết “dòng nước mắt” trong Chiếc thuyền ngoài xa.
* Giới thiệu diễn biến dẫn đến chi tiết:
– Nêu hoàn cảnh xuất hiện dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài:
câu chuyện gia đình hàng chài, diễn biến tâm trạng người đàn bà hàng chài.
* Cảm nhận, phân tích chi tiết “dòng nước mắt”:
– Là biểu hiện của nỗi đau đớn: gia cảnh nghèo khó bế tắc -> tình trạng
bạo lực trong gia đình không có lối thoát -> câu chuyện thằng con phạm vào tội
ác trái luân thường đạo lí không thể giải quyết, nỗi lo lắng về sự phát triển nhân
cách lệch lạc của con đã không tìm được giải pháp…

– Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt lòng, khi
chồng đánh không hề có bất kì phản ứng nào, nhưng hành động của thằng con
khiến chị như sực tỉnh, như bị một viên đạn xuyên qua tâm hồn để thức dậy nỗi
đau tận cùng.
16


* Đánh giá:
– Giá trị nội dung: Dòng nước mắt đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo sâu sắc.
+ Hiện thực: phơi bày tình cảnh xã hội những năm sau chiến tranh và đêm
trước thời kì đổi mới 1986.
+ Nhân đạo: cảm thông thương xót; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn
người mẹ.
– Đặc sắc nghệ thuật: chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lớn;
diễn tả nội tâm nhân vật đặc sắc.
c) So sánh
* Điểm tương đồng
– Về nội dung:
+ Đều là những dòng lệ của người phụ nữ, của người mẹ trong hoàn cảnh
nghèo đói và khốn khổ.
+ Đều là “giọt châu của loài người”, giọt nước chan chứa tình người trào
ra từ tâm hồn những bà mẹ giàu lòng vị tha, đức hi sinh.
+ Đều góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm: phản
ánh hiện thực xã hội trong những thời điểm khác nhau; thể hiện tấm lòng thương
cảm đối với bi kịch của con người và sự trân trọng vẻ đẹp tình đời, tình người
của tác giả.
– Về nghệ thuật: Đều cho thấy ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sâu
sắc của hai nhà văn qua việc lựa chọn chi tiết đặc sắc.
* Điểm khác biệt

– Về nội dung: Hoàn cảnh riêng của 2 nhân vật khác nhau- nước mắt cũng
mang những nỗi niềm riêng.
+ Chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ gắn với tình huống anh cu Tràng
“nhặt” được vợ; bà cụ cảm thấy ai oán, xót thương cho số kiếp đứa con mình và
cũng xót tủi cho chính thân phận mình. Nhưng phía trước bà cụ là ánh sáng của
hạnh phúc nhen nhóm.
+ Còn dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài chan chứa sau sự việc
thằng Phác đánh lại bố để bảo vệ mẹ và hoàn cảnh éo le, ngang trái của gia đình
bà đã diễn ra trước mắt nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng; người phụ nữ vùng biển này
thấy đau đớn, nhục nhã vì không thể giấu được bi kịch gia đình, vì thương xót,
lo lắng cho con. Phía trước chị là một màu mù xám, bế tắc.
– Về nghệ thuật thể hiện: Để khắc họa chi tiết dòng nước mắt, Kim Lân
sử dụng hình thức diễn đạt trực tiếp, giản dị, Nguyễn Minh Châu dùng cách diễn
đạt ví von, hình ảnh.
d) Lí giải
* Vì sao giống? Giống về nội dung vì cùng hướng đến:
+ Từ nỗi đau -> đề xuất giải pháp cách mạng.
+ Từ vẻ đẹp tâm hồn -> ca ngợi vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam truyền
thống , cả hai tác giả cùng là những nhà văn hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
* Vì sao khác?
17


Hoàn cảnh khác và tương lai khác do được viết trong những bối cảnh khác
nhau (Kim Lân từ sau khi CM thành công nhìn lại viết nên mang cảm quan lạc quan;
Nguyễn Minh Châu nhìn trong hiện tại nên không dám chắc chắn tin tưởng ở tương
lai) – Phong cách nghệ thuật của mỗi tác giả khác biệt không trộn lẫn.
Kết bài
Khẳng định vấn đề: vẻ đẹp và sức mạnh của dòng nước mắt người mẹ.
Khẳng định giá trị tác phẩm và vị trí của tác giả trên văn đàn.

Ví dụ 3: ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2015 [14]
Phần 2: Làm văn, câu NLVH (4,0 điểm)
Cảm nhận của anh chị về chi tiết “nồi chè khoán” của bà cụ Tứ trong
truyện Vợ nhặt (Kim Lân) và “xương rồng luộc chấm muối” trong lời kể của
nhân vật người đàn bà hàng chài truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh
Châu).
ĐÁP ÁN
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm
- Kim Lân (1920 - 2007) là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông có nhiều
tác phẩm có giá trị về đề tài nông thôn và nông dân. Sáng tác của Kim Lân phản
ánh chân thực, xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông hiểu biết sâu sắc
về cảnh ngộ và tâm lí của họ. “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay
nhất của nhà văn Kim Lân và của văn xuôi hiện đại Việt Nam sau 1945, trích
trong tập truyện “Con chó xấu xí”.
- Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một tác giả tiêu biểu của nền văn
xuôi hiện đại Việt Nam. Hành trình sáng tác của ông trải qua hai thời kỳ, thời kỳ
chống Mỹ và thời kỳ đổi mới sau 1975. Ở thời kỳ đổi mới, Nguyễn Minh Châu
được coi là một trong những cây bút tiên phong và đạt được nhiều thành tựu
xuất sắc. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” sáng tác năm 1983 là một
truyện ngắn đặc sắc của ông trong chặng đường văn thời kỳ đổi mới.
- Nêu ý kiến cần nghị luận: chi tiết nồi “chè khoán” của bà cụ Tứ trong
truyện “Vợ nhặt” (Kim Lân) và “xương rồng luộc chấm muối” trong lời kể của
nhân vật người đàn bà hàng chài truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” để lại ấn tượng
sâu sắc trong lòng bạn đọc.
2. Cảm nhận hai chi tiết “nồi chè khoán” và “xương
rồng luộc chấm muối”
a. Cảm nhận chi tiết nồi “chè khoán” của bà cụ Tứ trong truyện “Vợ
nhặt” (Kim Lân).
* Ý nghĩa về nội dung:
- Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết: trong bữa cơm ngày đói đón con dâu mới

của bà cụ Tứ.
- Thể hiện số phận của một bà mẹ nghèo khổ trong nạn đói Ất Dậu năm 1945
- Tâm trạng vui mừng của bà cụ Tứ trong ngày hạnh phúc của con trai
- Ca ngợi tấm lòng nhân hậu, vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng

18


- Chi tiết có giá trị hiện thực: gián tiếp tố cáo tội ác của bọn thực dân phát
xít lúc bấy giờ. Chính chúng là thủ phạm đẩy người nông dân vào hoàn cảnh bi
đát nhất.
- Chi tiết có giá trị nhân đạo: trong tận cùng của cái đói, cái chết, người
nông dân Việt Nam vẫn thương yêu, cưu mang nhau, có niềm tin vào tương lai
và sự sống bất diệt.
* Ý nghĩa nghệ thuật:
- Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa
sắc nét tính cách, tâm lí và hành động của nhân vật bà mẹ nghèo nhưng rất
thương con.
- Là chi tiết nhỏ nhưng gửi gắm tư tưởng lớn: tin tưởng vào khát vọng
sống hạnh phúc và sức mạnh của tình thương, của tình người.
b. Cảm nhận chi tiết “xương rồng luộc chấm muối” trong lời kể của nhân
vật người đàn bà hàng chài.
* Ý nghĩa về nội dung:
- Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết: trong lời kể của người đàn bà hàng chài với
chánh án Đẩu tại toà án huyện.
- Lời kể của người đàn bà đã hé mở cuộc đời lam lũ, bất hạnh của chính
bà và của cả gia đình bà.
- Dự báo nguyên nhân của nạn bạo hành gia đình mà bà sẽ kể tiếp sau đó
cho chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng nghe ở phần sau. Lão đàn ông vì khổ quá
nên xách bà ra đánh.

- Chi tiết có giá trị hiện thực: phản ánh cái đói, cái nghèo của người dân
miền biển nói riêng, của người dân nói chung thời hậu chiến.
- Chi tiết có giá trị nhân đạo: Nhà văn thể hiện nỗi lo âu, khắc khoải về
tình trạng nghèo cực, tối tăm của con người; gióng lên tiếng chuông báo động về
tình trạng bạo hành gia đình mà gốc rễ của nó chính là do đói nghèo gây ra.
* Ý nghĩa nghệ thuật:
- Là chi tiết chân thực, tạo cầu nối giữa phần trước đó và sau đó để mạch truyện
được dẫn dắt tự nhiên, góp phần tạo tình huống nhận thức của câu chuyện.
- Là chi tiết nhỏ nhưng gửi gắm tư tưởng và nghệ thuật mới mẻ của nhà
văn: cần quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức
tạp, đời thường.
3. Về sự tương đồng và khác biệt
- Tương đồng: Cả hai chi tiết đều gợi nhớ đến cái đói trong cuộc sống,
góp phần biểu hiện tình mẫu tử thiêng liêng. Những chi tiết đó đều bộc lộ khả
năng sáng tạo độc đáo của các nhà văn Việt Nam trước và sau năm 1975.
- Khác biệt: “chè khoán” của bà cụ Tứ đã gửi gắm bức thông điệp: trong
cái đói, cái chết thì sự sống đã ươm mầm, trong khổ đau đã có hạnh phúc, trong
hiện tại đã thấy tương lai. “Xương rồng luộc chấm muối” tạo ra sức ám ảnh lớn
với người trong cuộc (trong truyện là nhân vật Phùng và chánh án Đẩu) và
người ngoài cuộc (bạn đọc), đó là: chính cái đói, cái nghèo sinh ra tội ác. Phải có
cái nhìn toàn diện và nhân văn về số phận con người sau chiến tranh.
19


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Qua thực tiễn áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào dạy học, bản thân tôi
nhận thấy sử dụng phương pháp so sánh trong giảng dạy tác phẩm văn học và
làm các đề thi liên quan đã đạt những hiệu quả rất đáng khích lệ.
Trước hết, tôi và các học sinh, đồng nghiệp đã nhận thức đúng đắn hơn,

sâu sắc hơn về vị trí và tầm quan trọng của việc sử dụng phương pháp so sánh
trong một giờ đọc hiểu văn bản và làm một số đề thi.
Hai nữa, đây cũng là một hướng đi tạo nhiều hứng thú hơn trong các tiết
học bởi tự thân các em cũng có thể khám phá những nét mới mẻ, tự khám phá
kiến thức, ôn lại các tác phẩm đã học một cách có hệ thống, nhớ bài học lâu hơn.
Hướng khai thác này thực sự phát huy được giá trị, tác dụng của nó trong quy
trình dạy học môn Ngữ Văn cũng như việc nâng cao chất lượng dạy - học bộ
môn. Học sinh của tôi đã chủ động, tích cực với giờ đọc hiểu văn học. Sự tiến bộ
của các em thể hiện cụ thể qua từng giờ học và qua từng cách cảm thụ tác phẩm.
Thứ ba, trong các giờ viết bài các em cũng đã biết vận dụng kiến thức so
sánh vào việc phân tích, bình giá làm sâu sắc hơn hiệu quả tiếp nhận nội dung
tác phẩm văn học.
Thứ tư, giúp học sinh có những hiểu biết, kỹ năng để làm tốt bài thi trong
các kì thi có câu hỏi về so sánh văn học...
Một cách cụ thể hơn, chẳng hạn trong năm học 2016 - 2017 vừa qua khi
dạy xong bài “Vợ chồng A Phủ" bằng cách so sánh chi tiết “Mị cắt dây cởi trói
cho A Phủ” trong tác phẩm với chi tiết “Chí Phèo đâm chết Bá Kiến” trong tác
phẩm "Chí Phèo" và so sánh cả cách kết thúc hai tác phẩm ... rồi từ đó khái
quát chủ đề tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm. Tôi đã thu được kết quả cụ thể
bằng số liệu như sau:
Lớp Sĩ số Điểm < 5.0 Điểm TB Điểm khá Điểm giỏi Ghi chú
12C5
36
0
18,9%
27%
54,1%
12C6
40
0

17,8%
48,3%
33,9%
Trong khi đó, cũng bài học này ở một lớp khác không vận dụng cách tiếp
cận tác phẩm từ việc so sánh tôi thu được kết quả sau:
Lớp Sĩ số Điểm < 5.0 Điểm TB Điểm khá Điểm giỏi Ghi chú
12C4
38
15,2%
49,1%
35,7%
0%
PHẦN 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi được viết với mục đích đưa ra vài ý
kiến tiếp cận tác phẩm văn học từ việc sử dụng phương pháp so sánh nhằm giúp
học sinh tiếp nhận, cảm thụ tác phẩm hiệu quả hơn.
Trong quá trình đến với văn bản văn học, phương pháp so sánh là yếu tố
gắn chặt với tìm tòi, sáng tạo của giáo viên và học sinh nhằm nắm vững chủ đề
tư tưởng của tác phẩm cũng như giá trị nghệ thuật.

20


Từ mục tiêu trên và từ công việc cụ thể của người giáo viên đứng lớp, tôi
đã tìm ra được những giải pháp so sánh hợp lí. Mặc dù kinh nghiệm giảng dạy
chưa thật dày như những giáo viên đã công tác lâu năm trong nghề nhưng với
hiểu biết và tích lũy, bản thân tôi vẫn mạnh dạn đưa ra một vài suy nghĩ, giải pháp
bước đầu để khẳng định sức hấp dẫn và tầm quan trọng của việc sử dụng phương
pháp so sánh khi tiếp cận tác phẩm văn học. Tất nhiên đây không phải là toàn bộ

nội dung các bài dạy, mà chỉ là một hướng khai thác giúp giáo viên dễ dàng gợi
mở và học sinh dễ dàng chủ động sáng tạo để nâng cao hiệu quả tiếp nhận đối với
tác phẩm văn học. Bản thân tôi tự thấy có hiệu quả khi giảng dạy nên chân thành
bày tỏ cùng đồng nghiệp. Vấn đề tuy nhỏ bé nhưng góp phần không nhỏ trong
hiệu quả giảng dạy một giờ đọc văn. Rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét, bổ
sung của bạn bè và quý đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn.
3.2. Kiến nghị
- Về phía học sinh: cần chủ động tích cực lĩnh hội kiến thức dựa trên sự
hướng dẫn gợi mở của giáo viên. Tự rèn luyện năng lực tư duy nghiên cứu khoa
học, đáp ứng yêu cầu nâng cao nhận thức, hoàn thành nhân cách người học sinh.
- Về phía giáo viên: Xác định tầm quan trọng và ý nghĩa của việc sử dụng
phương pháp so sánh khi tiếp cận tác phẩm văn học. Để có bài giảng đạt yêu cầu,
giáo viên cần nỗ lực trau dồi kiến thức, không ngừng học hỏi, kết hợp linh hoạt các
phương pháp và phương tiện dạy học, đặc biệt là phương tiện dạy học hiện đại, tác
động đến cảm xúc, hứng thú của các em để giờ học đạt kết quả tốt hơn.
- Về phía nhà trường: cần tạo điều kiện tốt nhất để giáo viên vận dụng
phương pháp dạy học tích cực, tổ chuyên môn cần tổ chức các buổi trao đổi
chuyên môn cũng như dự giờ thăm lớp đồng nghiệp để trao đổi hoặc tham khảo,
đúc rút kinh nghiệm giảng dạy ngày một hiệu quả hơn.
Tiếp cận tác phẩm văn học từ việc sử dụng phương pháp so sánh tuy là
một thao tác trong toàn bộ tiến trình dạy học tác phẩm văn chương nhưng nếu
biết chú trọng đúng mức sẽ có được những gợi mở đầy thú vị. Bản thân tôi tự
thấy qua thực tiễn áp dụng đã có hiệu quả khi giảng dạy nên chân thành bày tỏ
cùng đồng nghiệp. Song do điều kiện nghiên cứu có hạn nên đề tài chắc chắn sẽ
không tránh khỏi những khiếm khuyết, tôi rất mong được sự góp ý chân thành từ
phía các đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
Thanh Hoá, ngày 20 tháng 5 năm 2017
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam kết đây là SKKN của mình

viết, không sao chép nội dung của người
khác.

Đỗ Thị Ba

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết số 40/2000/QH10 (9/12/2000) của Quốc hội khóa X
2. Tài liệu “Bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, sgk lớp 10 THPT” của
Bộ GD & ĐT
3. Từ điển tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học) – Hoàng Phê chủ biên
4. Từ điển tu từ - Phong cách học – Thi pháp học – Nguyễn Thái Hòa (NXB
Giaó dục)
5. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, Tập 1- năm 2006, Tập 2- năm 2006, NXB Giáo
dục
6. Sách giáo khoa Ngữ văn 11, Tập 1- năm 2008, Tập 2 - năm 2007, NXB Giáo
dục
7. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, Tập 1- năm 2003, Tập 2 - năm 2008, NXB Giáo
dục
8. Tham khảo tài liệu trên mạng internet: Thu Trang.edu.vn
9. Đề thi học sinh giỏi cấp tỉnh môn Ngữ văn năm 2013 - 2014 (Tỉnh Thanh
Hóa)
10. Tham khảo tài liệu trên mạng internet: 123doc.org
11. Tham khảo tài liệu trên mạng internet:
12. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên THPT (Kỹ năng xây dựng ma trận, biên soạn
câu hỏi, bài tập đề kiểm tra, đề thi THPT Quốc gia môn ngữ văn), tài liệu lưu
hành nội bộ, sở GD và ĐT Thanh Hóa, Trịnh Trọng Nam, 3 - 2017
13. Tham khảo tài liệu trên mạng internet: thpt.daytot.vn

14. Tham khảo tài liệu trên mạng internet: 123doc.org hoặc tintưc.hoc247.vn...

22



×