Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Phạm trù sở hữu trong triết học mác và một số vấn đề về thực tiễn sở hữu ở việt nam hiện nay tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.68 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sở hữu là một trong những vấn đề được các nhà sáng lập ra chủ nghĩa
Mác – Lênin quan tâm đặc biệt. Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển
học thuyết của mình, đặc biệt là lý luận về chủ nghĩa xã hội, các nhà kinh điển
đã phải liên tục đấu tranh không khoan nhượng với mọi học thuyết khác để
bảo vệ quan điểm cơ bản của mình: “xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân TBCN về
TLSX là một quá trình tất yếu khách quan của lịch sử loài người”.
Ở nước ta, sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chúng
ta đã đạt được nhiều thành tựu, nhất là thành tựu trên lĩnh vực phát triển kinh
tế. Sự khởi sắc của nền kinh tế nước ta được bắt đầu từ quá trình đổi mới nhận
thức, đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế và vận dụng một cách đúng đắn
những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn. Tuy nhiên, trong
hàng loạt các vấn đề thì vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là vấn đề quan trọng nhất.
Theo lý luận mác xít, sở hữu là mặt căn bản của quan hệ sản xuất, nó phụ
thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vậy, với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất như ở Việt Nam hiện nay thì quan hệ sở hữu nói
riêng và quan hệ sản xuất nói chung như thế nào là phù hợp. Từ đó để phát
triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì cơ cấu sở hữu
phải như thế nào? Những yếu tố nào tác động mạnh mẽ đến sự hình thành và
biến đổi quan hệ sở hữu? Đặc trưng của chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đó là vấn đề cấp bách
cả về lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay.
Ở nước ta, sở hữu đang là một vấn đề nhạy cảm trong công cuộc đổi mới
toàn diện, lâu dài, đang là sự thển hiện tập trung nguyện vọng và lợi ích của


các tầng lớp nhân dân. Thực tiễn của công cuộc đổi mới, đặc biệt là trong đổi
mới về kinh tế đã chứng minh tính đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về nhận
thức và xử lý đối với các vấn đề sở hữu. Việc xây dựng một nền kinh tế hàng


hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN đang đòi hỏi phải có sự xem xét và giải quyết một cách
đúng đắn những vấn đề sở hữu. Hơn nữa, nền kinh tế mà chúng ta đang xây
dựng đòi hỏi phải có những chủ sở hữu thật sự và cụ thể; những chủ sở hữu đó
không chỉ là Nhà nước, tập thể mà còn là cá nhân công dân. Theo tinh thần của
Nghị quyết Hội nghị Trung ương VI (lần 1) khóa VIII, để thực hiện việc giải
phóng và phát huy mọi lực lượng, mọi tiềm năng, cần tạo điều kiện thuận lợi
cho mọi người, mọi gia đình, mọi doanh nhân kinh doanh có hiệu quả, tạo môi
trường và điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Đồng thời chủ
trương của Đảng và Nhà nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường, đặt con
người vào vị trí trung tâm, phát huy sức mạnh của từng cá nhân con người và
cũng tất cả vì con người. Do đó, cần phải chú trọng nghiên cứu xây dựng một
hệ thống pháp luật, bảo đảm được sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với
sự phát triển và thỏa mãn những yêu cầu về mặt xã hội giữa cá nhân và cộng
đồng.
Xác định vai trò và tầm quan trọng của vấn đề sở hữu ở Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay. Chúng tôi vấn đề: “Phạm trù sở hữu trong triết học Mác
và một số vấn đề về thực tiễn sở hữu ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài khóa
luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên các sách báo trong nước những năm trở lại đây đã có nhiều công
trình, bài báo, bài viết, của các nhà nghiên cứu khoa học về vấn đề liên quan
đến đề tài. Trong đó, có những công trình chủ yếu sau đây:


Ở nước ta, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng công cuộc đổi
mới, nhất là khi Đảng ta công bố "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội", khẳng định việc xây dựng nền kinh tế nước ta là
một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, đã có
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu tới vấn đề sở hữu. Chuyên đề "Cơ

cấu sở hữu và cơ chế kinh tế - Những vấn đề lý luận pháp lý và thực tiễn ở
Việt Nam" của cố Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Trọng Hựu trên Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, tháng 3-1989. Bài viết "Vấn đề sở hữu trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội" của Phó giáo sư Tiến sĩ Lê Hữu Nghĩa trên Tạp chí Cộng sản,
tháng 6-1989; Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ “Sự phù hợp giữa chế độ sở hữu
và chế độ chính trị ở nước ta hiện nay” của Viện khoa học chính trị, Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1996 do PGS.PTS Lưu Văn Sùng làm chủ
nhiệm; Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ “Những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề sở hữu trong chủ nghĩa xã hội và ý nghĩa của những quan điểm
đó đối với quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay”,
Hà Nội, 2001 do TS Trần Ngọc Linh làm chủ nhiệm đề tài; công trình “Vấn đề
sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội do GS.TS Nguyễn Kế Tuấn làm chủ biên; công
trình “Một số vấn đề sở hữu ở nước ta hiện nay” do PGS.TS Nguyễn văn Thạo
và TS. Nguyễn Hữu Đạt đồng chủ biên. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm
2004;…. Ngoài ra, trên các báo, tạp chí khoa học khác trong nước cũng có
đăng tải những bài báo khoa học của các nhà nghiên cứu về vấn đề sở hữu
như: Tạp chí cộng sản, tạp chí triết học, tạp chí nghiên cứu kinh tế… là những
công trình nghiên cứu về vấn đề sở hữu ở nước ta hiện nay.
Trong số các công trình nói trên phải kể đến những công trình có tính
chất nghiên cứu sâu sắc, toàn diện và có hệ thống về vấn đề sở hữu như, công
trình Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ “Những quan điểm của chủ nghĩa Mác -


Lênin về vấn đề sở hữu trong chủ nghĩa xã hội và ý nghĩa của những quan điểm
đó đối với quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay”,
Hà Nội, 2001 do TS Trần Ngọc Linh làm chủ nhiệm đề tài. Công trình này bao
gồm sự tham gia của nhiều nhà khoa học, công trình này đã hệ thống những quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề sở hữu trong chủ nghĩa xã hội, coi đó
là cơ sở, nền tảng lý luận cho việc tìm ra những biện pháp, phương án xây dựng
một hệ thống các loại hình sở hữu thích hợp bảo đảm cho thành phần kinh tế nhà

nước giữ được vị trí chủ đạo, đồng thời phát huy được mọi tiềm năng của các
thành phần kinh tế khác trong toàn bộ nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
trong thời kì đổi mới.
Tiếp đến là công trình “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do GS.TS Nguyễn Kế Tuấn làm chủ biên.
Công trình đã làm rõ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về vấn đề sở hữu trong
mô hình kinh tế thị trường; vận dụng chúng để làm rõ vấn đề sở hữu trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; cung cấp luận chứng
khoa học cho việc bổ sung, điều chỉnh các quan điểm, chủ trương của Đảng và
cơ chế, chính sách của Nhà nước trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn tới.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu
Đề tài bước đầu làm rõ quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác –
Lênin về sở hữu, từ đó phân tích một số vấn đề thực tiễn của sở hữu ở Việt
Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Phân tích khái niệm sở hữu lịch sử hình thành và các hình thức của sở
hữu trong lịch sử, nội dung của quan hệ sở hữu.


+ Phân tích thực trạng vấn đề sở hữu ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những định hướng phát triển sở
hữu ở Việt Nam trong điều kiện mới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, đặc biệt là lý luận về hình thái kinh tế - xã hội.
Phương pháp nghiên cứu đề tài là kết hợp các nguyên tắc nhận thức duy
vật biện chứng trong nghiên cứu xã hội với phân tích và tổng hợp, so sánh và
đối chiếu, logic và lịch sử.

5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cấu thành 02 chương (06 tiết).

NỘI DUNG
Chương 1
PHẠM TRÙ SỞ HỮU TRONG TRIẾT HỌC MÁC
1.1. Khái niệm về sở hữu
Sở hữu luôn luôn là vấn đề chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như trong thực tiễn phong trào cách mạng
của giai cấp vô sản toàn thế giới.
C. Mác đã coi vấn đề sở hữu là vấn đề sống còn của bất cứ giai cấp nào
trong xã hội. Mác viết: “Vấn đề sở hữu bao giờ cũng là vấn đề sống còn của
giai cấp này hay giai cấp khác – tùy thuộc vào trình độ phát triển của công
nghiệp”


Khái niệm “sở hữu” đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVII. Trong thời kì
mà tư tưởng quyền tự nhiên được phổ biến rộng rãi. Chung quanh quan niệm
về sở hữu đã có hai khuynh hướng tư tưởng khác nhau: đó là tư tưởng của các
nhà triết học và các nhà luật học, mà các đại biểu nổi tiếng là Locke, Smit,
Ricardo, Hêghen, Savigny, Rútxô…
Thứ nhất, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, không có một khái niệm sở
hữu riêng biệt nằm ngoài quan hệ xã hội.
Thứ hai, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định rằng, sở hữu là một quan
hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể.
Thứ ba, sở hữu là quan hệ đối với những điều kiện của sản xuất. Theo
C. Mác và Ph. Ănghhen, cơ sở của sở hữu là mối quan hệ qua lại của con
người đối với tư liệu sản xuất.
Như vậy, “sở hữu” chính là mối quan hệ giữa người với người trong việc

chiếm hữu của cải vật chất xã hội, là quan hệ kinh tế khách quan, là điều kiện
của sản xuất và được thực hiện về mặt kinh tế thông qua quá trình tái sản xuất
xã hội. Và như đã nêu ở trên, sở hữu vận động và biến đổi theo sự thay đổi của
những điều kiện kinh tế - xã hội trong một không gian và thời gian nhất định.
Khi tìm hiểu khái niệm sở hữu, phải nhận thức được nội dung của nó.
Sở hữu luôn có hai nội dung kinh tế và pháp lý, bởi vì, nó tồn tại dưới hình
thức nào thì cũng luôn phản ánh các mối quan hệ kinh tế, giai cấp, qua hệ xã
hội và pháp lý nhất định.
Nội dung kinh tế của sở hữu, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, trước hết được thể hiện ở chỗ không phải là quan hệ giữa người với
vật, mà là quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất
và sản phẩm được tạo ra nhờ những tư liệu sản xuất ấy.
Nội dung pháp lý của sở hữu là xét về mặt chính trị, mặt tinh thần của
quan hệ đó. Sở hữu với tư cách là quan hệ pháp lý (hình thức pháp lý) của


quan hệ sản xuất và sở hữu với tư cách là quan hệ kinh tế hiện thực. Sở hữu
với tư cách là quan hệ pháp lý hay nói cách khác là hình thức pháp lý của quan
hệ sản xuất là muốn chỉ rõ rằng, trong tư pháp, quan hệ sở hữu được thể hiện
bằng những văn bản pháp luật, hay nói cách khác về mặt xã hội thừa nhận về
quan hệ chiếm hữu vật tự nhiên nào đó. Ví như: ruộng đất và tài nguyên trong
lòng đất thuộc sở hữu tư nhân hay sở hữu toàn dân.
Khi tìm hiểu khái niệm “sở hữu”, chúng ta cũng cần xem xét thuật ngữ
“chế độ sở hữu”.
Thuật ngữ “chế độ sở hữu” được C. Mác và Ph. Ăngghen dùng đến rất
nhiều lần trong các tác phẩm của mình, chẳng hạn như “chế độ sở hữu tư
nhân”, “chế độ sở hữu công cộng”, “chế độ sở hữu của giáo hội”, “chế độ
sở hữu của phong kiến”, “chế độ sở hữu nông dân”…Tuy nhiên, các ông lại
chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể nào, mà chỉ đi sâu vào phân tích chế độ sở
hữu tư sản.

Chế độ sở hữu còn bao hàm một hệ thống các quan hệ rất phức tạp,
chẳng hạn quyền sở hữu, quyền sử dụng, chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu,
quyền chiếm hữu, phương thức chiếm hữu…
Khi nghiên cứu về quyền sở hữu trong các tác phẩm của mình, các nhà
kinh điển đã dùng các khái niệm “quyền sử dụng”, “quyền định đoạt”, “quyền
chiếm hữu”.
Quyền chiếm hữu là yếu tố đầu tiên, bao trùm của sở hữu. Nó tương đối
ổn định, tĩnh, tại. Song có lúc nó chỉ là quyền danh nghĩa. Đó là trường hợp
chủ sở hữu không thực hiện nó, không sử dụng nó, mà lại giao nó cho người
khác và chỉ giữ quyền thu nhập và sở hữu.
Khái niệm về quyền định đoạt cũng đã được C. Mác và Ăngghen đề cập
đến trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”. Theo các ông, quyền định đoạt có liên


quan chặt chẽ với quyền sử dụng. Các ông viết: “Quyền sử dụng và lạm dụng,
tức là quyền định đoạt theo ý mình”
Như vậy, quyền định đoạt là quyền thực hiện toàn diện đối với đối tượng
sở hữu. Quyền đinh đoạt đem lại cho chủ thể quyền và khả năng sử dụng đối
tượng sở hữu theo bất cứ cách nào.
Nói tóm lại, tìm hiểu phạm trù sở hữu trong triết học Mác, chúng ta có
thể đi đến kết luận rằng: “Sở hữu là quan hệ giữa người với người trong việc
chiếm hữu tư liệu sản xuất và của cải vật chất được tạo ra nhờ tư liệu sản xuất
ấy” [47; 507]. Định nghĩa này theo chúng tôi, là hoàn toàn dựa trên quan điểm
Mácxít. Qua nghiên cứu khái niệm này, chúng ta cũng sáng tỏ thêm các khái
niệm liên quan được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đề cập đến như: “chế độ
sở hữu”, “chiếm hữu”, “quyền sở hữu”, “quyền sử dụng”, “quyền định đoạt”.
Việc nhận thức đúng các khái niệm đó là cơ sở để xem xét và giải quyết một
cách đúng đắn những vấn đề về sở hữu trên bình diện lý luận cũng như trong
thực tiễn nước ta hiện nay, nhất là khi chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết

của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2. Các hình thức lịch sử của sở hữu
1.2.1. Sở hữu công xã và bộ lạc
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy là giai đoạn phát triển
đầu tiên trong lịch sử loài người, đây là hình thức sở hữu thị tộc – bộ lạc nó
phù hợp với giai đoạn nền sản xuất chưa phát triển. C. Mác gọi đó là giai đoạn
sở hữu ban đầu: “Sở hữu ban đầu không có ý nghĩa gì khác hơn là quan hệ
của con người, với tư cách là những điều kiện của chính mình với tư cách là
những tiền đề có sẵn cùng với sự tồn tại của chính con người, những tiền đề
có thể nói là đã chỉ tạo nên cái thể xác được kéo dài ra của con người”
1.2.2. Sở hữu trong xã hội chiếm hữu nô lệ


Bước sang hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, lúc này đã có bước
chuyển biến lớn về công cụ sản xuất, người ta có thể sản xuất với các loại
công cụ bằng đồng, sắt. Những loại công cụ lao động lao động bằng kim loại
cứng (bằng sắt) từng bước thay thế công cụ lao động bằng kim loại mềm
(đồng), nó đã tạo ra bước thay đổi lớn trong sản xuất, chất lượng, trình độ.
Điều này, đem lại cho con người một vị thế mới, thoát khỏi cách phụ thuộc
hoàn toàn vào giới tự nhiên.
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, có nhiều hình thức sở hữu khác nhau như:
sở hữu công xã; sở hữu Nhà nước; sở hữu tư nhân; sở hữu cá thể…, nhưng đặc
trưng cơ bản nhất vẫn là chế độ chiếm hữu nô lệ (là sự chiếm hữu về mặt thân
thể của người nô lệ).
1.2.3. Sở hữu trong xã hội phong kiến
Đến giai đoạn xã hội phong kiến, lúc này hình thức sở hữu công xã chưa
hoàn toàn mất đi, mà vẫn tiếp tục tồn tại và có vai trò nhất định trong xã hội.
Trong xã hội phong kiến, sở hữu ruộng đất gắn liền với tư hữu và được phân
chia theo đẳng cấp trong xã hội. C. Mác viết: “Nói chung, sự thống trị của chế
độ tư hữu bắt đầu từ chế độ chiếm hữu ruộng đất; chế độ chiếm hữu ruộng

đất là cơ sở của chế độ tư hữu”
Trong chế độ phong kiến, đi liền với công cụ thủ công là ngành tiểu thủ
công nghiệp và thủ công nghiệp cũng có bước phát triển. Cho nên, cũng với sở
hữu nông thôn về ruộng đất, thì thành thị là sở hữu phường hội – tức là tổ
chức phong kiến của thủ công nghiệp. Như vậy, “ở thời đại phong kiến hình
thức sở hữu chủ yếu là ruộng đất lao động của nông nô và một số hình thức tư
bản nhỏ chi phối lao động của thợ bạn”
1.2.4. Sở hữu tư bản chủ nghĩa
Bước sang hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa, nền sản xuất xã hội
lúc này đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ và sâu sắc; phương thức sản xuất tự


cung, tự cấp xã hội phong kiến bị phá vỡ bởi nền sản xuất hàng hóa tư bản,
công cụ lao động sản xuất thủ công được thay thế chủ yếu bằng công cụ cơ
khí, máy móc. Nếu như hình ảnh tiêu biểu của xã hội phong kiến là chiếc cối
xay gió thì hình ảnh tiêu biểu trong xã hội tư bản chủ nghĩa (giai đoạn đầu) là
đầu máy hơi nước chủ nghĩa tư bản đã tạo nên một bước tiến khổng lồ trong
lịch sử nhân loại.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, sở hữu công xã về ruộng đất vẫn tiếp tục
tồn tại, thậm chí còn phổ biến ở nhiều nơi. Sự phát triển của lực lượng sản
xuất theo quy luật kinh tế khách quan, ngày càng mang tính xã hội hóa, trong
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện một số hình thức sở hữu tư nhân;
sở hữu cổ phần (xuất hiện từ thế kỉ XVII); sở hữu tư bản nhà nước, hợp tác xã
(xuất hiện từ giữa thế kỉ XX). C. Mác nhận định: “Trong công nghiệp lớn và
trong cạnh tranh, tất cả các điều kiện tồn tại…của các cá nhân đều hòa vào
trong hai hình thức giản đơn nhất: sở hữu tư nhân và lao động” . Như vậy,
đặc trưng của vấn đề sở hữu trong chủ nghĩa tư bản là sở hữu tư nhân, bóc lột,
cạnh tranh và thu lợi nhuận. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, sở hữu tư nhân
giữ vai trò chủ đạo, bên cạnh đó cũng xuất hiện nhiều hình thức sở hữu mới (ít
nhiều mang tính tích cực của dấu hiệu sở hữu trong chủ nghĩa xã hội), như:

công nhân có sở hữu trong các xí nghiệp cổ phần của các nhà tư bản, các xí
nghiệp công quản (tự quản) ngân hàng, tín dụng…
1.3. Nội dung của quan hệ sở hữu
1.3.1. Quan hệ sở hữu là gì?
Theo quan niệm của Mác: “Quan hệ sở hữu được biểu hiện trong những
hình thái hiện thực của quan hệ sản xuất”. Quan hệ sở hữu là nội dung bên
trong của chính thể mang tính thống nhất. Tính hiện thực của quan hệ sở hữu
chỉ được nhận thức một cách gián tiếp thông qua các quan hệ giữa các thành
tố của quan hệ sản xuất chứ không thể nhận thức một cách trực tiếp vì quan hệ


sở hữu là tổng hoà các quan hệ sản xuất. Quan hệ sở hữu đồng thời là sự
chiếm hữu. Chiếm hữu bộc lộ qua hình thái giao tiếp vật chất tương ứng của
một trình độ phát triển của sản xuất mà cụ thể là sự phân công lao động mang
tính chất xã hội.
Như vậy quan hệ sở hữu là mối quan hệ con người - con người trong việc
chiếm hữu tư liệu sản xuất cùng với các điều kiện sản xuất do đó quan hệ sở
hữu là một mặt của quan hệ sản xuất.
1.3.2. Nội dung của quan hệ sở hữu
Như đã phân tích ở trên, quan hệ sở hữu là các quan hệ thể hiện sự chiếm
hữu tư liệu sản xuất thể hiện “sự tha hóa của người lao động” trong việc chiếm
hữu tư liệu sản xuất của họ. Nói cách khác đây là những quan hệ nói lên
khoảng cách giữa kẻ chiếm hữu và người sản xuất đối với tư liệu sản xuất và
kết quả của lao động sản xuất. Như vậy, quan hệ sở hữu chính là quan hệ sản
xuất chứ không phải là quan hệ ý chí.
Trong quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu là bộ phận cơ bản quyết định
các quan hệ tổ chức, quan lý và phân phối. Người nào sở hữu tư liệu sản xuất,
thì người đó có quyền quyết định phương thức tổ chức, quản lý sản xuất, phân
phối sản phẩm.
Quan hệ sở hữu không những là quan hệ sản xuất, mà còn là quan hệ xã

hội, quan hệ giữa con người và con người về đối tượng chiếm hữu. Chính vì
vậy, quan hệ sở hữu cũng mang tính giai cấp. Giai cấp nào nắm vững quyền
thống trị thì dùng Nhà nước mà giai cấp đó dựa lên để bảo vệ quan hệ sở hữu
của giai cấp đó. Cho nên, vấn đề sở hữu là vấn đề sống còn của giai cấp này
hay giai cấp khác.
Theo đó, Mác và Awngghen cũng đã đưa ra quan quan điểm cần thiết
phải xóa bỏ chế độ tư hữu, thủ tiêu chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa là một tất
yếu khách quan, một lẽ đương nhiên trong quá trình lịch sử loài người, mà giai


cấp tư sản cùng với chế độ sở hữu của mình sẽ bị những người lao động tước
bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, giành lại lợi ích chung cho toàn
thể nhân dân lao động: “Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất và
tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ chế độ xã hội. Việc cải tạo này là kết
quả tất yếu của sự phát triển của công nghiệp”
Trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản” Mác và
Awngghen đã luận giải kỹ hai vấn đề liên quan tới tính tất yếu của việc xóa bỏ
chế độ tư hữu.
Thứ nhất, khi nào có thể thủ tiêu được chế độ tư hữu?
Việc thủ tiêu chế độ tư hữu chỉ có thể thực hiện được khi sự tồn tại của
chế độ tư hữu đã mâu thuẫn gay gắt với việc phát triển của lực lượng sản xuất,
tức là khi có ba điều kiện: một là, tư bản và lực lượng sản xuất đã được tạo ra
với quy mô lớn; hai là, giai cấp vô sản bị bần cùng hóa; ba là, lực lượng sản
xuất luôn luôn gây ra sự chấn động hết sức mạnh mẽ trong xã hội. Ph.
Ăngghen kết luận: “chỉ có ngày nay, (năm 1847 – TG) việc thủ tiêu chế độ tư
hữu mới trở thành không những là điều có thể thực hiện được, mà thậm chí
còn là điều hoàn toàn cần thiết”.
Thứ hai, Xóa bỏ triệt để chế độ tư hữu thì sẽ đưa lại những kết quả gì?
Theo Ph. Ănghen, việc thủ tiêu chế độ tư hữu sẽ đem lại kết quả như sau:
“xã hội sẽ tước khỏi tay bọn tư bản tư nhân việc sử dụng tất cả mọi lực lượng

sản xuất và mọi phương tiện giao dịch cũng như việc trao đổi và phân phối
sản phẩm; xã hội sẽ quản lý tất cả những việc đó căn cứ theo kế hoạch đặt ra,
căn cứ vào các nguồn lực lượng hiện có và vào nhu cầu của toàn xã hội;
Khủng hoảng sẽ chấm dứt; nền sản xuất mở rộng gây nên sản xuất thừa,
trong chế độ xã hội hiện nay, và là nguyên nhân to lớn của nạn nghèo đói thì
khi đó sẽ tỏ ra hoàn toàn không đủ nữa và cần phải có quy mô rộng lớn hơn


rất nhiều”; “trong nông nghiệp, do xiềng xích của chế độ tư hữu, do tình
trạng phân tán của ruộng đất, nên rất khó áp dụng những sự cải tiến và
những thành tựu của khoa học hiện có, - rồi đây cũng sẽ bước vào giai đoạn
hoàn toàn mới, giai đoạn phồn vinh và sẽ cung cấp hoàn toàn đầy đủ sản
phẩm cho xã hội”;...
Theo lập luận của C. Mác và Ph. Ăngghen, thời điểm chín muồi để xóa
bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa (cũng đồng thời là xóa bỏ mọi hình
thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nói chung) có thể hình dung là bắt đầu
từ giữa thế kỉ XIX. C. Mác và Ph. Ăngghen viết: “giờ đây, giống như một tay
phù thủy không còn đủ sức trị những âm binh mà y đã triệu lên. Từ hàng chục
năm nay, lịch sử công nghiệp và thương nghiệp không phải là cái gì khác hơn
là lịch sử cuộc nổi dậy của lực lượng sản xuất hiện đại chống lại những quan
hệ sản xuất hiện đại, chống lại những quan hệ sở hữu đang quyết định sự tồn
tại và sự thống trị của giai cấp tư sản”


Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN
CỦA SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng của sở hữu ở Việt Nam hiện nay
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
ngay từ khi mới ra đời Đảng ta đã chỉ ra mục tiêu cuối cùng mà cuộc cách

mạng của chúng ta phải đi tới. Trung thành với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
cao đẹp, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn thể nhân dân Việt Nam
vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, hy sinh tiến lên không ngừng trên con
đường cách mạng, đạt được những thành tựu vô cùng to lớn trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trong lĩnh vực kinh tế và hẹp hơn nữa, trong phạm vi vấn đề sở hữu, sau
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp (1954), chúng ta đã chủ trương
xây dựng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sau thắng lợi của


cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1975), chúng ta đã tiến hành xây dựng
chế độ sở hữu Xã hội chủ nghĩa trên cả nước. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IV Đảng ta đã chỉ rằng, vấn đề mấu chốt hiện nay là phải mau chóng
tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và tổ chức lại sản xuất xã
hội chủ nghĩa theo hướng tiến lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, là nền
sản xuất dựa trên chế độ sở hữu công cộng xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, lấy đại công nghiệp làm
nền tảng.
Trải qua hơn 20 năm đổi mới, tìm tòi, nghiên cứu và thể nghiệm, quan
điểm của Đảng về vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế luôn được bổ sung
hoàn thiện và phát triển phù hợp với các chặng đường phát triển của đất nước,
và được cụ thể hóa trong các kì Đại hội Đảng, đó là sự thể hiện các nhận thức
mới, những đột phá quan trọng trong lý luận và trong thực tiễn. Đặc biệt là
chuyển biến trong nhận thức vấn đề sở hữu, nó phù hợp và vận dụng được vào
trong thực tiễn của đất nước, làm sáng tỏ thêm học thuyết Mác – Lênin về vấn
đề sở hữu và nội dung của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Thực tiễn một số hình thức sở hữu hiện nay
Trong khuôn khổ của khóa luận này, chúng tôi chỉ nghiên cứu thực tiễn 3
loại hình sở hữu chủ yếu và cơ bản trong nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam
hiện nay.

a) Thực tiễn của sở hữu Nhà nước
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước luôn được đặt ở
vị trí hàng đầu. Cùng với kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước được xác định vai
trò dần dần trở thanhh nền tảng của nền kinh tế, trong đó “kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo”. Đó là tư tưởng được xác định nhất quán trong các văn
kiện của Đảng và các văn bản pháp quy của Nhà nước, từ Hiến pháp đến các
luật và văn bản dưới luật có liên quan.


Bộ phận quan trọng của sở hữu nhà nước là doanh nghiệp nhà nước, tổ
chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động
kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã
hội do nhà nước giao.
Trong điều kiện hiện nay, sở hữu nhà nước được tập trung vào hai vấn đề
mà chúng tôi cho rằng đang là “nóng bỏng” nhất hiện nay đó là vấn đề quản lý
và sử dụng đất đai; vấn đề về đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước
- Vấn đề quản lý và sử dụng đất đai, trước đây, đất đai ở nước ta được coi
như là một tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất quan trọng hàng đầu của
sản xuất nông nghiệp, là môi trường sống và là địa bàn cho các hoạt động của
con người.
Vấn đề quản lý và sử dụng đất đai ở nước ta hiện nay có những bước
phát triển tốt cả về tư duy quản lý cũng như biện pháp thực hiện. Cùng với cơ
chế khoán và coi hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, việc giao cho các hộ gia
đình các quyền rộng rãi liên quan đến đất đai đã tạo ra động lực thúc đẩy sản
xuất nông nghiệp phát triển mạnh mẽ
Trên cơ sở đất đai là tài nguyên thuộc sở hữu nhà nước, trong những năm
trở lại đây mạng lưới các khu công nghiệp đã dần hình thành, thúc đẩy phát
triển sản xuất công nghiệp và dịch vụ, góp phần thúc đẩy tăng trửng chung cả
nền kinh tế.
Xét trên góc độ sở hữu, quản lý và sử dụng đất đai, có một vấn đề chủ

yếu sau đây:
Thứ nhất, mối quan hệ giữa quyền sở hữu theo quy định của pháp luật và
quyền sở hữu thực tế.
Trong các yếu tố sở hữu, sở hữu đất đai là vấn đề hết sức phức tạp và
nhạy cảm cả về kinh tế, chính trị và xã hội. Khẩu hiệu ‘người cày có ruộng”
đã tạo nên động lực to lớn dẫn đến thành công trong cuộc cách mạng dân tộc


dân chủ. Trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có những quyết định
mạnh mẽ trong xử lý mối quan hệ về đất đai. Theo quy định hiện hành, đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch và pháp
luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Thứ hai, tình trạng nông dân thiếu đất và không có đất với những hệ lụy
kinh tế - xã hội phức tạp.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa, việc chuyển
đổi mục đích sử dụng đất, chuyển từ đất nông nghiệp sang xây dựng cơ sở hạ
tầng, khu công nghiệp. khu đô thị và các loại công trình đô thị khác là một tất
yếu khách quan.
- Vấn đề về doanh nghiệp Nhà nước
Là bộ phận “nòng cốt của kinh tế nhà nước nhà nước” trong những năm
đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước đã hết sức coi trọng thực hiện các biện
pháp đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là
cơ sở, công cụ để nhà nước thực hiện sự quản lý, chi phối và hướng dẫn các
thành phần kinh tế khác đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xét theo mục đích kinh doanh thì doanh nghiệp nhà nước có 2 loại:
+ Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh, là doanh nghiệp nhà
nước hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận
+ Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích là doanh nghiệp nhà nức
hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của nhà
nước hoặc trực tiếp nhận nhiệm vụ quốc phòng.

Xét theo góc độ sở hữu, doanh nghiệp nhà nước có bốn loại:
+ Doanh nghiệp nhà nước chỉ có một chủ sở hữu duy nhất là nhà nước.
+ Doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó nhà nức
nắm giữ không dưới 50%.


+ Doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó có phần của
nhà nức có ít nhất gấp hai lần cổ đông lớn nhất khác trong các doanh nghiệp.
+ Doanh nghiệp nhà nước mà trong đó nhà nước không có cổ phần chi
phối, nhưng có quyền quyết định một số vấn đề quan trọng của doanh nghiệp
theo thỏa thuận trong điều lệ doah nghiệp.
Trong những năm trở lại đây, thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước có những bước chuyển biến sau:
+ Duy trì tốc độ tăng trưởng khá ổn định; tốc độ tăng trưởng của các
doanh nghiệp nhà nước thường thấp hơn tốc độ tăng trưởng của các doanh
nghiệp ngoài nhà nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Có mức đóng góp khá lớn vào tổng sản phẩm trong nước (GDP); tỷ
trọng của các doanh nghiệp nhà nước trong cơ cấu GDP của cả nước ngày
càng giảm.
+ Số lượng các doanh nghiệp ngày càng giảm do sắp sếp lại và do
chuyển đổi hình thức sở hữu.
+ Giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn tăng khá nhanh và
chiếm xấp xỉ một nửa toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
b) Thực tiễn của sở hữu tập thể
Ở nước ta trước đây, hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình
thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp), với
nội dung là cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tượng của đối tượng sở hữu
đều là của chung, mà các xã viên là chủ sở hữu.
Tổng quan về sở hữu tập thể ở nước ta có những điểm chính sau:
- Sở hữu tập thể có những dấu hiệu phục hồi và phát triển ở mức độ nhất

định, tuy chưa hoàn toàn đáp ứng được mong đợi.
- Kinh tế tập thể với nòng cốt là các hợp tác xã đã có những đóng góp
nhất định vào sự tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.


- Các hợp tác xã là lực lượng hỗ trợ phát huy vai trò tích cực của kinh tế
hộ ở nông thôn.
- Hình thành nhiều mô hình hợp tác xã đa dạng thích ứng với điều kiện
cụ thể của từng địa bàn và lĩnh vực.
Bên cạnh những mặt tích cực, sở hữu tập thể còn nhiều khiếm khuyết bất
cập. Dưới đây, xin nêu một số nét chủ yếu sau:
- Kinh tê tập thể và các hợp tác xã có tốc độ tăng trưởng thấp và có xu
hướng chậm lại.
- Quy mô của kinh tế tập thể còn rất nhỏ bé, tỷ trọng trong cơ cấu tổng
sản phẩm trong nước khá khiêm tốn và có xu hướng giảm dần
- Các doanh nghiệp tập thể có quy mô nhỏ be và thiếu khả năng tự phát
triển sản xuất - kinh doanh.
- Phần lớn các hợp tác xã gặp khó khăn trong việc xác định phương
hướng chiến lược dài hạn.
Từ những nội dung khái quát về sở hữu tập thể trong quá trình phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã nêu trên đây, chúng tôi
xin đưa một số nhận định sau:
Một là, cần nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn về sở hữu tập thể trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, làm rõ hơn nội dung, vị trí, vai trò của kinh tế tập thể trong cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần phù hợp với điều kiện cụ thể của thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
c) Thực tiễn của sở hữu tư nhân
Sự phát triển sở hữu tư nhân, thành phần kinh tế tư nhân và các loại hình
doanh nghiệp tư nhân là một trong những điểm nổi bật của đổi mới tư duy và

hành động trong quá trình đổi mới kinh tế của Việt Nam trong vấn đề sở hữu.


- Kinh tế tư nhân có tốc độ tăng trưởng nhanh và đóng góp ngày càng lớn
vào tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã huy động được nguồn lực tài chính
to lớn trong nước vào sản xuất - kinh doanh.
- Kinh tế tư nhân là lực lượng chủ yếu tạo việc làm mới, góp phần tích
cực vào việc giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước.
- Các loại hình doanh nghiệp tư nhân đa sở hữu tăng nhanh về số lượng
với quy mô ngày càng lớn.
Từ những nội dung khái quát về thực tiễn sở hữu tư nhân trong giai đoạn
hiện nay, chúng tôi xin đưa ra một số nhận định sau:
- Thừa nhận sở hữu tư nhân, chủ trương phát triển thành phần kinh tế tư
nhân và các loại hình tổ chức kinh doanh tư nhân là quá trình điều chỉnh và
phát triển nhận thức trên cơ sở tổng kết thực tiễn
- Sự tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân, trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ trình độ phát triển kinh tế còn hết sức thấp
kém.
2.2. Xu hướng và định hướng sở hữu ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Các quan điểm giải quyết vấn đề sở hữu trong quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ nhất: Giải quyết vấn đề sở hữu trong khuôn khổ xây dựng và hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất trên cơ sở tôn trọng quy luật khách quan về
sự vận động của các quan hệ sở hữu
Thứ hai: Xác định rõ mục tiêu giải quyết vấn đề sở hữu phù hợp với điều
kiện và yêu cầu phát triển của Việt Nam trong những chặng đường đầu của
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội



Thứ ba: Giải quyết vấn đề sở hữu phải đảm bảo sự tương thích với giải
quyết vấn đề tổ chức quản lý và vấn đề phân phối
Thứ tư: giải quyết vấn đề sở hữu trong mối quan hệ chặt chẽ với quá
trình phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đổi
mới quản lý nhà nước về kinh tế.
Thứ năm: giải quyết vấn đề sở hữu phù hợp với yêu cầu của quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế
2.2.2. Xu hướng phát triển sở hữu ở Việt Nam hiện nay
a) Xu hướng chung
Quán triệt các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta vào điều kiện cụ thể hiện nay có thể khái quát xu hướng phát triển của sở
hữu ở Việt Nam như sau:
- Sự tồn tại và phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần
kinh tế và các loại hình tổ chức kinh doanh là xu hướng chủ đạo trong qua
trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Quy mô sở hữu nhà nước và kinh tế nhà nước sẽ ngày càng tăng lên gắn
liền với điều kiện nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, Nhà nước
phân bổ, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình.
- Quy mô sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân sẽ ngày càng tăng lên.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng sẽ tiếp tục phát triển mạnh cùng
với quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam vào đời sống kinh tế
quốc tế.
- Sự phát triển mạnh mẽ của loại hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu,
đặc biệt là loại hình công ty cổ phần, là xu hướng chủ đạo của việc phát triển
các loại hình donh nghiệp trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.


b) Những quan điểm cơ bản định hướng cho việc giải quyết vấn đề sở

hữu
Một là, Quan điểm về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng
sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn
lực vào phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, quan điểm về giải quyết vấn đề sở hữu phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa
2.3. Các hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay trong
điều kiện kinh tế thị trường
Hơn 20 năm thực hiện đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa đât nước chúng ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt. Điều
đó đã chứng tỏ tính đúng đắn của đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng
hóa các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn nhân dân ta
thực hiện.
2.3.1. Về sở hữu toàn dân
Sở hữu tòan dân ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là sở hữu về đất đai. Ở nước ta hiện
nay, như hiến pháp và luật đất đai đã quy định rõ: “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”.
Văn kiện đại hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ: “trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về
đất đai, ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng luật
pháp các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng ruộng đất…”[16; 68]. Như vậy, hình thức
sở hữu toàn dân ở nước ta hiện nay đã được xác định theo nội dung mới, có nhiều khả năng
để thực sự trở thành nguồn lực phát triển kinh tế.
2.3.2. Về sở hữu nhà nước
Văn kiện đại hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ: “trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về
đất đai, ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng luật
pháp các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng ruộng đất…”[16; 68]. Như vậy, hình thức


sở hữu toàn dân ở nước ta hiện nay đã được xác định theo nội dung mới, có nhiều khả năng
để thực sự trở thành nguồn lực phát triển kinh tế.

2.3.2. Về sở hữu nhà nước
Ở nước ta trước đây, hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp
tác xã (gồm cả HTX nông nghiệp và HTX tiểu thủ công nghiệp), với nội dung là cả giá trị
lẫn giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là của chung mà các xã viên là chủ sở hữu.
2.3.4. Về sở hữu cá thể
Ở nước ta, hình thức sở hữu cá thể tồn tại chủ yếu dưới hình thức kinh tế cá thể, tiểu
chủ. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động
của bản thân và cho đến nay nó vẫn được coi là sở hữu cá nhân.
2.3.5. Về sở hữu tư bản tư nhân
Ở nước ta hiện nay, kinh tế tư bản tư nhân đang hình thành và được phép phát triển.
Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Trong điều kiện của kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sở hữu tư bản tư nhân, bao
gồm cả doanh nghiệp của các nhà tư sản và các đơn vị kinh tế mà phần lớn vốn do một
hoặc một số tư nhân góp lại, thuê lao động sản xuất kinh doanh dưới hình thức xí nghiệp tư
doanh hoặc công ty cổ phần tư nhân. Nó cũng bao gồm cả hình thức kinh tế tư bản tư nhân
nước ngoài đầu tư 100% vốn, hoặc nắm giữ tỷ lệ vốn khống chế.
2.3.6. Về sở hữu hỗn hợp
Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu có sự tham gia của nhiều loại hình chủ thể khác
nhau về tính chất. Có thể nói đây là một loại hình kinh tế trung gian, có tính chất đan xen
giữa thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong
điều kiện nền kinh tế thế giới hiện đang có nhiều biến đổi, nhìn chung các nước trên thế
giới, trong đó có nước ta, thường có ba chủ thể kết hợp với nhau để tạo ra các hình thức sở
hữu hỗn hợp khác nhau. Đó là sự kết hợp, liên kết giữa các chủ thể: nhà nước, tập thể và tư
nhân để tạo nên các dạng sở hữu sinh động như: nhà nước và nhân dân; nhà nước và tập
thể; nhà nước, tập thể và tư nhân,…


KẾT LUẬN
Nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và vấn đề sở hữu nói riêng, có
ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi



mới ở Việt Nam hiện nay. Đó là cơ sở lý luận khoa học dẫn đường để cho chúng ta vận
dụng vào thực tiễn. Quá trình đó đòi hỏi phải thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực
tiễn, đó là nguyên tắc căn bản và cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Như thế chúng ta mới
tránh được những hạn chế và sai lầm giữa nhận thức lý luận. Khi vận dụng vào thực tiễn
phong phú của của đời sống kinh tế - xã hội. Lịch sử loài người đã chứng minh rằng: không
một hình thái kinh tế - xã hội nào chỉ tồn tại một hình thức sở hữu, bên cạnh hình thức sở
hữu đặc trưng, bao giờ cũng tồn tại nhiều hinh thức sở hữu khác (các hình thức sở hữu tàn
dư của chế độ trước và các hình thức sở hữu mầm mống của xã hội sau). Lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin cũng chứng minh rằng: trong lịch sử không có một xã hội nào chỉ dựa
vào một hình thức sở hữu mà khai thác hết được những tiềm năng của đất nước, xã hội.
Trong xã hội, các hình thức sở hữu đan xen nhau, tác động lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau, cạnh
tranh nhau. Đối với nước đang duy trì định hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ nền
kinh tế nông nghiệp, tiền tư bản, nhất thiết phải trải qua một giai đoạn tồn tại đan xen các
hình thức sở hữu. Lúc đó mỗi hình thức tự bản thân nó phát huy được thế mạnh tất yếu phát
triển của lực lượng sản xuất của quy luật kinh tế - triết học.
Giải quyết vấn đề sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế và các loại hình kinh
doanh, phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải tôn
trọng quy luật khách quan về sự vận động của các quan hệ sở hữu. Trong quá trình này phải
xác định rõ mục tiêu phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển của Việt Nam trong những
chặng đường đầu của quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phải bảo đảm sự
tương thíc giữa giải quyết vấn đề sở hữu với giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và vấn
đề phân phối, bởi vì những vấn đề này chi phối trực tiếp hiệu quả của sở hữu. Ngày nay,
với việc hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, việc giải quyết vấn đề sở hữu, thành
phần kinh tế và doanh nghiệp không phải chỉ tính đến yêu cầu và ràng buộc trong nước mà
còn phải tính đến những yêu cầu và ràng buộc quốc tế.
Học tập lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, nắm vững chức năng, vị trí, và vai trò của
vấn đề sở hữu trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Chúng ta hiểu được sự tác động
và ảnh hưởng của sở hữu đối với quá trình sản xuất, phân phối lưu thông. Từ đó chúng ta

có cơ sở phương pháp luận khoa học về sự phát triển của phép biện chứng duy vật của quy
luật phủ định của phủ định là một tất yếu khách quan về sự vận động của phương thức sản
xuất, các hình thái kinh tế - xã hội.


×