Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN CAO học phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện tiên phước, tỉnh quảng nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.04 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Con người với nguồn tiềm năng trí tuệ vô tận, là nguồn lực quyết
định, là mục tiêu là động lực của sự phát triển. Trong bất kì thời đại nào
con người vẫn luôn là lực lượng sản xuất cơ bản và quan trọng nhất của
xã hội, giữ vị trí trung tâm trong sự phát triển kinh tế. Ngay trong những
buổi đầu tiên của xã hội loài người, thời kỳ nguyên thủy, con người sống
thành bầy đàn trong các thị tộc, bộ lạc, lúc đó trình độ nhận thức còn thấp
họ tồn tại bằng những hoạt động thường ngày như săn bắt, hái lượm
nhưng chính bản thân họ ngay lúc đó đã là chủ thể duy nhất của hoạt
động này. Với việc khám phá ra những công cụ, phương tiện lao động
mới cùng với sự phát triển ngày càng cao của bộ óc con người. Họ đã
không ngừng cải biến tự nhiên, làm chủ tự nhiên để phát triển mặt xã hội
của mình. Ngày nay, nhờ các tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật, các
máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại ra đời đã giải phóng phần nào sức
lao động của con người, cả lao động chân tay và lao động trí óc. Nhờ đó
năng suất lao động tăng lên gấp nhiều lần. Mặc dù vậy, những thành tựu
của khoa học đó không thể xóa nhòa vai trò của con người cũng như thay
thế vai trò của con người trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Máy
móc dù hoàn thiện đến đâu, dù thông minh như thế nào đi chăng nữa thì
cũng chỉ là khâu trung gian cho hoạt động của con người, do con người
sản xuất ra và chịu sự điều khiển bởi con người. Vì vậy, trong bất kì thời
đại nào nhân tố con người vẫn sẽ là nhân tố quyết định quan trọng nhất
và là chủ thể duy nhất của mọi hoạt động trong xã hội.
Phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất không phải là
một vấn đề mới, tuy nhiên, việc nghiên cứu nhân tố người trong lực
lượng sản xuất là một vấn đề mang tính thời sự phải diễn ra thường xuyên
trong các giai đoạn lịch sử, ở tất cả các quốc gia. Con người vừa là chủ

1



thể của lịch sử vừa là sản phẩm của lịch sử do đó việc phát triển con
người gắn liền với việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Đối với đất nước ta hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa hội nhập
quốc tế và kinh tế tri thức thì nhân tố người cần được chú trọng và phát
triển toàn diện trên tất cả các mặt. Có như vậy thì mới có thể đảm bảo cho
sự phát triển cả mặt chất cũng như mặt lượng của xã hội. Trong những
năm gần đây, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đầu tư phát triển lực lượng sản xuất và
đầu tư phát triển con người thu được nhiều thắng lợi đáng kể. Tuy nhiên,
thực trạng cho thấy nền kinh tế nước ta phát triển không đồng đều giữa
các vùng miền, các khu vực mà một trong những nguyên nhân gây ra tình
trạng trên là do nhân tố người trong lực lượng sản xuất chưa được quan
tâm và phát triển đúng mức cho từng địa phương cụ thể, đặc biệt là ở
những vùng miền núi có nền kinh tế kém phát triển. Nếu tình trạng này
kéo dài thì đây thực sự là một trở ngại lớn đối với nước ta trong thực hiện
mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Như vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra
là tiến hành nghiên cứu ở những khu vực có nền kinh tế kém phát triển để
không những tạo ra sự phát triển nơi đây mà còn tạo ra động lực phát
triển chung cho nền kinh tế của nước ta.
Với tinh thần là người con của quê hương Tiên Phước, em thấy
rằng, Tiên Phước là một huyên miền núi có nền kinh tế kém phát triển,
đời sống người dân nơi đây còn rất khó khăn, do vậy em đã hình thành
nên đề tài: “Phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện
Tiên Phước tỉnh Quảng Nam hiện nay”. Đây là việc làm cần thiết đối với
huyện Tiên Phước. Trên cơ sở đó có thể nắm bắt được một cách đầy đủ
tình hình sử dụng và bồi dưỡng phát huy nhân tố con người trong những
năm qua của huyện, đồng thời qua đó có thể chỉ ra những điểm hợp lý
cũng như những hạn chế, bất cập từ đó đề xuất phương hướng, góp phần


2


vào việc phát triển con người Tiên Phước một cách hiệu quả trong sự
nghiệp phát triển kinh tế hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Tác giả Nguyễn Thị Trâm, với công trình nghiên cứu nghiên cứu
của mình. “Vấn đề nguồn lực con người trong thời kỳ đổi mới” in trong
tác phẩm, “Đổi mới ở Việt Nam tiến trình, thành tựu và kinh nghiệm”,
nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội -2004.
Tác giả Nguyễn Văn Tài với công trình nghiên cứu của mình “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân tố con người”, Tạp
chí triết học, số 2(153), tháng 4 năm 2004.
Tác giả Trần Nhân trong tác phẩm “Tư duy lý luận với sự nghiệp
đổi mới”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội - 2004, với phần “Phát
triển nguồn lực con người - nhân tố quyết định thắng lợi của đổi mới và
phát triển”.
Tác giả Trần Văn Bính, “Xây dựng chiến lược con người - một đòi
hỏi cấp thiết”, trong tác phẩm “Về định hướng xã hội chủ nghĩa và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội - 2001.
Tác giả Tống Tất Đường, nghiên cứu về “Phát triển nhân tố người
trong lực lượng sản xuất ở tỉnh Nghệ An hiện nay”.
Tác giả Hồ Văn Dũng cũng khai thác “Nhân tố người trong lực
lượng sản xuất và việc phát huy nhân tố đó ở nước ta hiện nay”.
Tác giả Nguyễn Văn Thiện với công trình “Góp phần bàn thêm về
nhân tố người”, Tạp chí nghiên cứu trao đổi.
Tác giả Lê Quang Hoan với luận án tiến sỹ: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người và vấn đề phát huy nhân tố người trong đổi mới hiện
nay”.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Mục đích:
3


Tìm hiểu thưc trạng việc sử dụng và phát triển nhân tố người trong
lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước, qua đó đưa ra một số giải pháp
cũng như những bài học để phát huy nhân tố con người một cách hiệu
quả vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở huyện Tiên Phước hiện nay.
Nhiệm vụ:
Để thực hiện được mục đích đó, đề tài phải làm rõ những nhiệm vụ
sau:
- Trình bày quan niệm của triết học Mác - Lênin về nhân tố người
trong lực lượng sản xuất.
- Phân tích thực trạng lực lượng sản xuất hiện nay.
- Tìm ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm thúc đẩy cho sự phát triển
nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu đề tài:
Cơ sở lý luận:
Việc nghiên cứu và trình bày khóa luận dựa trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế xã hội, tư tưởng Hồ Chí Minh
cùng với các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các vấn đề
về con người, vấn đề về lực lượng sản xuất. Khóa luận có kế thừa, tiếp
thu những thành quả của công trình nghiên cứu trước như các bài viết,
các tư liệu điều tra trước đây để khái quát lại và đưa ra ý kiến của mình.
Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích - tổng
hợp, logic - lịch sử, so sánh, thống kê…khóa luận đặc biệt chú ý đến quan
điểm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu cũng như

trong trình bày đề tài này.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Khóa luận chỉ nghiên cứu những vấn đề cơ bản về sử dụng và phát
triển con người trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước tỉnh Quảng
4


Nam, qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần vào việc phát huy
nhân tố con người trong lực lượng sản xuất.
6. Đóng góp của đề tài:
Về lý luận:
Góp phần cũng cố nhận thức lý luận về học thuyết hình thái kinh tế
xã hội, về vai trò của các nhân tố trong lực lượng sản xuất, đặc biệt vai
trò của nhân tố người trong lực lượng sản xuất.
Về thực tiễn:
Những giải pháp để phát triển nhân tố người trong lực lượng sản
xuất ở huyện Tiên Phước có thể áp dụng cho những vùng có nền kinh tế
kém phát triển, có điều kiện tương tự như huyện Tiên Phước.
Đề tài này có thể để tham khảo và cung cấp thông tin cho huyện
Tiên Phước trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
7. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung đề tài được kết cấu gồm 2 chương 6 tiết sau:
Chương 1: Quan niệm của triết học Mác - Lênin về nhân tố người
trong lực lượng sản xuất.
1.1 Trình bày quan niệm triết học Mác - Lênin về sản xuất và
những nhân tố của quá trình sản xuất vật chất.
1.2 Kết cấu và vị trí của các yếu tố trong lực lượng sản xuất.
1.3 Vai trò của nhân tố người trong lực lượng sản xuất.
Chương 2: Phát triển nhân tố người - điều kiện quyết định sự phát

triển lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
2.1 Một vài nét về huyện Tiên Phước.
2.2 Thực trạng lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước.
2.3 Giải pháp cho phát triển nhân tố người trong lực lượng sản
xuất ở huyện Tiên Phước tỉnh, Quảng Nam hiện nay.
CHƯƠNG 1
5


QUAN NIỆM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ NHÂN TỐ NGƯỜI
TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
1.1Trình bày quan niệm triết học Mác - Lênin về sản xuất và
những nhân tố của quá trình sản xuất vật chất
1.1.1 Khái niệm sản xuất, sản xuất vật chất
“Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài
người. Sản xuất xã hội bao gồm: Sản xuất vật chất, sản xuất tình thần và
sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại
và phát triển của xã hội”[4, 287].
“Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao
động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự
nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát
triển của con người”[4, 287].
Vậy sản xuất là khái niệm có nội hàm rộng hơn khái niệm sản xuất
vật chất, sản xuất vật chất chỉ là một mặt của sản xuất mà thôi.
Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến
đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi chính bản thân mình.
Sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật
chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết
định phát triển xã hội từ thấp đến cao.

Sản xuất vật chất được tiến hành trong những điều kiện tất yếu như
môi trường tự nhiên và dân số (bao gồm sự tăng dân số và mật độ dân
cư).
Nhìn chung sản xuất vật chất có những vai trò quan trọng sau:
- Sản xuất vật chất làm cho con người thay đổi tư thế dáng đi, làm
cho tay chân thuần thục.
- Sản xuất vật chất tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của con người.
6


-

Sản xuất vật chất gắn các cá thể người lại với nhau thành xã hội.

- Sản xuất vật chất là điều kiện thuận lợi cho con người hiểu thế giới
khách quan sâu hơn, thông tin về nó nhiều hơn, vì vậy bộ não của con
người phát triển.
- Sản xuất vật chất là điều kiện thuận lợi cho con người suy ngẫm.
cải tiến công cụ sản xuất, thay đổi cách thức quản lí nhằm nâng cao năng
suất lao động. Vì vậy, sản xuất vật chất là nhân tố quan trọng nhất, quyết
định nhất đến sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
1.1.2 Những nhân tố của quá trình sản xuất vật chất
Để tiến hành được một quá trình sản xuất vật chất, về cơ bản cần
có ba yêu tố: Hoạt động vật chất có mục đích của con người; Những tư
liệu vật chất cho chính hoạt động ấy và những đối tượng vật chất khách
quan mà hoạt động này hướng vào nhằm thay đổi chúng.
Trong sản xuất vật chất, con người phải sử dụng các năng lực vốn
có của mình, trước hết là những sức mạnh vật chất để tác động vào đối
tượng vật chất làm thay đổi tính chất, cấu trúc, hình thái của chúng.

Nghĩa là, con người phải tiến hành các quá trình trao đổi vật chất với
những đối tượng khách quan. Khi đi vào quá trình sản xuất vật chất, con
người không thể không đưa vào quá trình sản xuất các sức mạnh của
mình như kinh nghiệm và kỹ năng lao động, sở thích và thị hiếu, tình cảm
và niềm tin. Những sức mạnh này không giữ vai trò quyết định, song
chúng luôn ảnh hưởng theo những mức độ khác nhau đến quá trình sản
xuất vật chất.
1.2 Kết cấu và vị trí của các yếu tố trong lực lượng sản xuất
Khái niệm lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất là toàn bộ các
lực lượng được con người sử dụng trong quá trình sản xuất ra của cải vật
chất. Nó bao gồm người lao động với một thể lực, tri thức, kĩ năng lao
động nhất định và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong
quá trình sản xuất, sức lao động của co người kết hợp với tư liệu sản xuất,
7


trước hết là công cụ lao động tạo thành lực lượng sản xuất. Lực lượng sản
xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình
sản xuất. Nó thể hiện năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong
quá trình sản xuất ra của cải vật chất [ 5, 391].
Bản chất của lực lượng sản xuất được thể hiện ở các đặc trưng sau:
Thứ nhất, lực lượng sản xuất là nhân tố khách quan, là nền tảng vật
chất của toàn bộ lịch sử loài người.
Thứ hai, trong mỗi nền sản xuất vật chất, lực lượng sản xuất thể
hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và hoạt động của mỗi yếu
tố trong lực lượng sản xuất đều có tư cách là sự thực hiện trực tiếp hay
dán tiếp một phương diện nào đó của mối quan hệ này.
Thứ ba, lực lượng sản xuất mang tính năng động, ít bền vững, dễ
thay đổi và thường xuyên phát triển.
Kết cấu lực lượng sản xuất:

Lực lượng sản xuất là hệ thống bao gồm các yếu tố có quan hệ tác
động qua lại với nhau gồm người lao động và tư liệu sản xuất.
Trong các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thì người lao động
giữ vị trí hàng đầu. V.I Lênin viết “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn
thể nhân loại là công nhân là người lao động”[12, 430]. Chính con người
chế tạo ra tư liệu lao động, luôn luôn cải biến và sử dụng nó để tiến hành
sản xuất. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu nhưng nếu
không được con người sử dụng thì không thể phát sinh tác dụng, không
thể trở thành lực lượng sản xuất có ích cho xã hội. Do đó “Lực lượng sản
xuất là lực lượng của bản thân con người và trình độ của lực lượng sản
xuất cũng chính là trình độ phát triển của chính bản thân con người, là sự
phát triển năng lực làm chủ tự nhiên xã hội và bản thân con người qua các
giai đoạn lịch sử khác nhau” [8, 84].
Hiện nay, nguồn lao động ở Việt Nam đã có sự thay đổi lớn về số
lượng và chất lượng. Tuy nhiên, để hòa nhập với nền kinh tế tri thức như
8


hiện nay thì chất lượng nguồn lao động Việt Nam còn có nhiều vấn đề
đáng quan tâm, do đó cần phải có những giải pháp cụ thể cho việc phát
triển nguồn nhân lực Việt Nam cả về số lượng và chất lượng nhằm thúc
đẩy kinh tế xã hội của đất nước một cách vững chắc.
Tư liệu sản xuất:
Tư liệu sản xuất là những cái dùng trong sản xuất, điều kiện vật
chất của sản xuất [10, 13]. Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và
đối tượng lao động.
Tư liệu lao động là một hay nhiều hệ thống vật thể làm khâu trung
gian truyền tải sức lao động từ con người lên đối tượng lao động nhằm
biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con
người. Trong tư liệu lao động gồm có công cụ lao động và các phương

tiện khác hỗ trợ cho con người khi sử dụng công cụ cũng như khi tiến
hành lao động nói chung.
Trong tư liệu lao động thì công cụ lao động là thành phần quan
trọng nhất, bởi đây là nơi tập trung nhất sức mạnh của tư liệu lao động,
cái truyền tải sức lao động trực tiếp nhất đến với đối tượng. C.Mác cho
rằng: “Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay
chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp” [ 16, 187].
Hay trong Tư bản, Mác viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không
phải là ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng
cách nào, với những tư liệu lao động nào”.
Đối tượng lao động “Là những vật bị lao động của con người tác
động trong quá trình lao động sản xuất” [15, 13]. Đối tượng lao động hay
còn được gọi là toàn bộ những vùng của tự nhiên được con người đưa vào
sản xuất. Nó trước hết là những cái có sẵn trong tự nhiên, loại này con
người chỉ cần dùng lao động tác động vào để tạo ra của cải vật chất cho
xã hội. Những cái không có sẵn buộc con người phải tìm mọi cách để tạo
ra nó như: Sợi tổng hợp, vật liệu xây dựng, các hóa chất, loại này thông
9


qua lao động sáng tạo của con người để cải biến ít nhiều phục vụ cho sản
xuất.
Mọi đối tượng lao động đều bắt nguồn từ tự nhiên nhưng không
phải mọi yếu của tự nhiên đều là đối tượng lao động. Bởi vì chỉ những
yếu tố tự nhiên nào mà do con người tác động trong quá trình sản xuất
nhằm biến đổi nó phù hợp với mục đích của mình mới gọi là đối tượng
lao động.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất thì khoa học kỹ thuật
đóng vai trò ngày càng to lớn, khoa học đã thâm nhập sâu vào trong quá
trình sản xuất và trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp” [4, 392]. “Khoa

học không còn đứng ở bên ngoài sản xuất mà chuyển thành một mắt khâu
bên trong, thống nhất chặt chẽ với những mắt khâu khác trong lực lượng
sản xuất” [6, 28].
1.3 Vai trò của nhân tố người trong việc phát triển của lực
lượng sản xuất
1.3.1 Quan niệm của triết học Mác- Lênin về con người và nhân
tố người trong lực lượng sản xuất
Có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề con người và nhân tố
người trong lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, vấn đề này chỉ được hiểu
đúng đắn và khoa học trên lập trường của chủ nghĩa Mác –Lênin, khi con
người không được hiểu theo một cách chung chung, trừu tượng.
Quan niệm của triết học Mác- Lênin về con người: Chủ nghĩa Mác
- Lênin cho rằng con người vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội
đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Con người trong quá trình tồn tại
không chỉ tác động vào tự nhiên mà con người còn quan hệ với nhau tạo
nên bản chất con người, làm cho con người khác với con vật.
“Bản chất của con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng
hòa các mối quan hệ xã hội” [15, 11].
10


Quan niệm về nhân tố người trong lực lượng sản xuất: Nhân tố
người trong lực lượng sản xuất hay nguồn lực con người là “Tổng thể
những nhân tố thuộc về chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri
thức, vị thế xã hội...tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người
có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất
nước và trong hoạt động xã hội” [3, 271-272].
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhân tố người,
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh đã khẳng định

“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã
hội chủ nghĩa” [21, 310].
1.3.2 Con người – nhân tố quan trọng nhất của lực lượng sản
xuất
Xét trong mối quan hệ giữa nhân tố con người với những thành tố
cấu thành lực lượng sản xuất ta thấy:
Nhân tố người trong mối quan hệ với tư liệu sản xuất thì: Con
người với tư cách là chủ thể, các yếu tố cấu thành tư liệu sản xuất là
khách thể. Ở đây con người đóng vai trò quyết định, bởi vì: Con người là
chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị của cải vật chất, tinh thần của xã hội, trong
đó có sự sáng tạo ra những tư liệu sản xuất. Nói như vậy, không phải ở
đây ta bác bỏ sự tác động trở lại của tư liệu sản xuất đối với nhân tố con
người. Con người là nhân tố sáng tạo, quyết định song tư liệu sản xuất
đóng vai trò chi phối, trong một số trường hợp gây ảnh hưởng lớn đến
nhân tố con người.
Xét nhân tố người trong mối quan hệ với đối tượng lao động:
Trong mối quan hệ này, một bên (nhân tố người) là chủ thể khai thác, và
một bên là đối tượng của sự khai thác. Ở đây nhân tố người cũng đóng
vai trò quyết định, vì chỉ khi con người tác động vào đối tượng lao động
thì mới biến đối tượng lao động thành những cái có ích đáp ứng cho cuộc
sống của con người.
11


Môi trường tự nhiên bản thân nó rất phong phú, tuy nhiên tự bản
thân nó không thể sáng tạo ra các giá trị mới đáp ứng cho cuộc sống xã
hội của con người. Chỉ có người lao động với tiềm năng trí tuệ của mình
đã tìm mọi cách tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên để xây dựng cho
mình cuộc sống đầy đủ hơn.
Trong các nguồn lực có thể khai thác được như: Nguồn lực tự

nhiên; nguồn lực khoa học công nghệ; nguồn vốn, thì nguồn lực con
người là quyết định nhất. Bởi lẽ, những nguồn lực khác chỉ có thể được
khai thác hiệu quả nguồn lực con người được phát huy.
Cùng với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, ngoại trừ con
người, những thành tố khác trong lực lượng sản xuất ngày càng lỗi thời,
tất yếu phải thay thế cho phù hợp với quá trình sản xuất, chỉ có bản thân
con người mới làm được điều đó. Con người cải tiến công cụ lao động,
con người làm biến đổi giới tự nhiên.
Vai trò quyết định của nhân tố người trong lực lượng sản xuất còn
được thể hiện ở khả năng sáng tạo vô tận của con người. Với quá trình
lao động ngày càng phức tạp, đòi hỏi ngày càng cao thì sự đáp ứng của
con người ngày một đầy đủ hơn. Con người dường như chưa bao giờ biêt
mệt mỏi, luôn lao động, sáng tạo ra những cái mới.
Ngày nay, khoa học đã trở thành một bộ phận quan trọng hàng đầu
của lực lượng sản xuất, tuy nhiên vai trò của con người trong lực lượng
sản xuất không vì thế mà bị xem nhẹ. Nhân tố người trong lực lượng sản
xuất vẫn là nhân tố hàng đầu và quan trọng nhất của lực lượng sản xuất,
không thể thay thế.
Từ việc phân tích vai trò của nhân tố người trong lực lượng sản
xuất và thấy được rằng nhân tố người là nhân tố quan trọng nhất trong lực
lượng sản xuất sẽ giúp chúng ta biết đầu tư phát triển nhân tố người một
cách hiệu quả tạo ra động lực phát triển chung cho lực lượng sản xuất.
Tổng kết chương 1:
12


Hành vi lịch sử đầu tiên của con người là sản xuất vật chất, sản
xuất vật chất đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Sản xuất vật
chất được tiến hành trong những môi trường tất yếu như tự nhiên, dân số.
Trong quá trình sản xuất vật chất con người không ngừng làm biến đổi tự

nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất
vật chất không ngừng phát triển, sự phát triển của sản xuất vật chất quyết
định sự biến đổi của các mặt của đời sống xã hội, quyết định sự phát triển
xã hội từ thấp đến cao.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ thuật của xã hội. Trong
lực lượng sản xuất bao gồm hệ thống các yếu tố cấu thành nó như người
lao động, tư liệu sản xuất, trong đó người lao động là nhân tố trung tâm
và quan trọng nhất. Không có con người lực lượng sản xuất không thể
phát huy được vai trò sức mạnh của nó, cũng như không có vai trò sáng
tạo của con người thì các yếu tố của lực lượng sản xuất sẽ không có được.
Con người đóng vai trò trung tâm vậy việc nhìn nhận và đầu tư nhân tố
con người trở thành một trong những ưu tiên và là cơ sở cho sự phát triển
sản xuất cho xã hội. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học con
người được giải phóng một phần nào đó sức lao động của mình, tuy nhiên
không vì thế mà hạ thấp vai trò của con người.
Vậy vấn đề cấp thiết hiện nay là phải đầu tư vào việc phát triển
nhân tố người trong lực lượng sản xuất. Đối với địa phương có nền kinh
tế kém phát triển như huyện Tiên Phước tỉnh Quảng Nam thì việc phát
triển nhân tố người hiện nay là điều kiện quyết định sự phát triển lực
lượng sản xuất.
CHƯƠNG 2
PHÁT TRIỂN NHÂN TỐ NGƯỜI – ĐIỀU KIỆN QUYẾT ĐỊNH SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở HUYỆN TIÊN
PHƯỚC, TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY.
2.1 Một vài nét về huyện Tiên Phước
13


* Vị trí địa lí và tài nguyên thiên nhiên:
Tiên phước là một huyện miền núi phía Tây tỉnh Quảng Nam. Tọa

độ địa lý được giới hạn bởi vĩ tuyến 15 021’ đến 15036’ vĩ độ Bắc và kinh
tuyến từ 10804’ đến 108027’56’’ kinh Đông. Huyện có 14 xã miền núi và
một thị trấn, trung tâm huyện lỵ đặt tại thi trấn Tiên Kỳ.
Tài nguyên thiên nhiên của huyện Tiên Phước rất đa dạng, đặc biệt
là hệ thực vật rừng có các loại gỗ quý như Lim, Chò, Huỹnh, Sơn Huyết,
Gõ, Dỗi; Có các loại dược liệu quý như Sa Nhân; Có các loại động vật
hoang dã quý hiếm như Voi, Gấu, Nai...
* Con người Tiên Phước.
Tiên phước tự hào là mảnh đất đất đã sinh ra các bậc đại khoa, một
tiếng sỹ, ba phó bảng và nhiều nhà yêu nước khác, trong đó điển hình như
Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Lê Cơ, Trần Huỳnh, Lê Vĩnh Huy.
Sau giải phóng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tiên Phước, người
dân nơi đây đã không ngừng tăng gia sản xuất và đạt được những thành
quả to lớn.
* Tình hình kinh tế xã hội:
Trong công cuộc đổi mới, dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung
Ương Đảng, Đảng bộ tỉnh, Tiên Phước đã bám sát tình hình cụ thể của
địa phương, xác định đúng đắn phương hướng, mục tiêu phát triển cho
từng chặng đường, phát huy tiềm năng thế mạnh của huyện nhà, đẩy
mạnh phát triển kinh tế xã hội, cải thiện nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân.
* An ninh quốc phòng:
Để đảm bảo cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội, trong lãnh
đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng luôn quán triệt quan điểm gắn nhiệm vụ
quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế xã hội.
2.2 Thực trạng lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước

14



2.2.1 Thực trạng nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở
huyện Tiên Phước
Thực tiễn đã chứng minh coi trọng nhân tố con người và phát triển
nguồn lực con người là bí quyết đi đến thành công và là điều kiện quan
trọng nhất quyết định sự phát triển nhanh, bền vững của các nước. Đối
với huyện Tiên phước hiện nay, cần có cái nhìn đúng đắn hơn về vị trí và
vai trò của nhân tố người. Phát triển nhân tố người là việc làm hết sức cần
thiết, và cấp bách. Để phát triển nhân tố con người ở huyện Tiên Phước
một cách đúng mức thì ta phải tìm hiểu một cách sâu sắc thực trạng nhân
tố con người nơi đây.
Thực trạng nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên
Phước có những mặt tích cực và hạn chế sau:
Mặt tích cực:
- Tiên phước có nguồn lao động dồi dào, đáp ứng nhu cầu cho việc
sản xuất không những trên địa bàn huyện mà còn lao động, làm việc sang
các vùng khác trên cả nước.
- Con người Tiên Phước thông minh, cần cù, chịu thương chịu khó
có thể vượt qua mọi khó khăn để nâng cao đời sống của mình.
- Nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước về cơ
bản đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước hiện nay.
Mặt hạn chế:
- Nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước còn
nhiều hạn chế về mặt chất lượng (về trình độ, kỹ năng lao động, tính khoa
học trong sản xuất...).
- Tác phong lao động chủ yếu là tác phong nông nghiệp, tác phong
công nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ.
- Trình độ nhận thức của một bộ phận người dân, đặc biệt vùng có
đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, kém.
15



2.2.2. Thực trạng tư liệu sản xuất trong lực lượng sản xuất ở
huyện Tiên Phước
Tư liệu sản xuất ở huyện Tiên Phước có những mặt tích cực và hạn
chế nhất định. Nhưng nhìn chung đã có sự thay đổi lớn so với trước đây.
Công cụ lao động ngày càng được cải tiến, các phương tiện giao thông
vận tải, hệ thống đường sá, thông tin liên lạc ngày càng được kiện toàn
đảm bảo đáp ứng cho nhu cầu sản xuất và phân phối sản phẩm diễn ra
nhanh hơn và thông suốt hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã
hội. Đồng thời các cơ sở sản xuất mọc lên trên địa bàn huyện ngày càng
nhiều, tuy là những cơ sở sản xuất nhỏ nhưng đáp ứng yêu cầu với điều
kiện hoàn cảnh nơi đây. Những cơ sở sản xuất ngoài việc sản xuất ra sản
phẩm còn có một vai trò quan trọng là giải quyết việc làm cho lực lượng
lao động trên toàn huyện. Một trong những điều kiện thuận lợi nữa cho
quá trình sản xuất là đất đai nơi đây tương đối phì nhiêu, phù hợp với
trồng lúa và các loại hoa màu. Diện tích đất chưa sử dụng của huyện còn
rất lớn.
Nhìn chung tư liệu sản xuất của huyện có những thay đổi lớn, tuy
nhiên nếu so với các vùng khác và so với yêu cầu của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thì chưa đáp ứng được yêu cầu, việc áp dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế. Do vậy cần phải tăng cường
hơn nữa trong việc đầu tư phát triển tư liệu sản xuất, đáp ứng cho nhu cầu
sản xuất ngày càng cao và hiện đại của xã hội.
2.3 Những giải pháp cho phát triển nhân tố người trong lực
lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước
2.3.1 Cơ sở lí luận của giải pháp
Để đưa ra giải pháp cho phát triển nhân tố người chúng ta phải
đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, có như vậy mới
có thể tạo nên được tính đúng đắn và khoa học cho việc phát triển nhân tố

con người.
16


Trong việc đưa ra giải pháp để phát triển nhân tố người ở huyện
Tiên Phước phải xét trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Tiên
Phước là một trong mười tám huyện của tỉnh Quảng Nam. Sự phát triển
của huyện Tiên Phước và những huyện khác sẽ tạo ra sự phát triển chung
của tỉnh. Đối với phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất cũng
vậy. Nhìn chung nhân tố người trong lực lượng sản xuất của tỉnh Quảng
Nam đều có sự thống nhất với nhau về mặt tích cực cũng như hạn chế.
Tuy nhiên, khi đưa ra giải pháp cho phát triển nhân tố người cần phải
đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể, tùy từng hoàn cảnh của từng địa
phương mà có những giải pháp thích hợp đối với từng huyện. Huyện Tiên
Phước có điều kiện tự nhiên tài nguyên thiên nhiên và có những tiềm
năng riêng nên phải có những giải pháp riêng thích hợp với điều kiện
hoàn cảnh của huyện.
Đồng thời để đưa ra giải pháp cho phát triển nhân tố người thì
chúng ta phải đặt chúng trong mối liên hệ với tất cả các nhân tố khác,
phải đứng trên quan điểm phát triển để có thể đưa ra những giải pháp tốt
nhất cho phát triển nhân tố con người trong lực lượng sản xuất ở huyện
Tiên Phước tỉnh Quảng Nam hiện nay .
2.3.2 Phương hướng phát triển nhân tố con người ở Tiên Phước
tỉnh Quảng Nam hiện nay
Đối với huyện Tiên Phước hiện nay để phát triển nhân tố người
trong lực lượng sản xuất một cách toàn diện cần tiến hành một cách hệ
thống chính sách sau.
Thứ nhất, phải luôn quan tâm đúng mức đến nhu cẩu và lợi ích của
người lao động.
Thứ hai, tạo môi trường xã hội đảm bảo các điều kiện phát triển

nhân tố con người trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước.
Thứ ba, đổi mới tăng cường giáo dục đào tạo để phát huy nhân tố
con người trong lực lượng sản xuất.
17


Thứ tư, phát triển đội ngũ lao động ở vùng sâu, vùng xa, vùng có
đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ năm, một trong những phương hướng quan trọng trong chiến
lược phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên
Phước hiện nay là tiến hành đào tạo nghề cho nông dân.
2.3.3 Những giải pháp cơ bản để phát triển nhân tố người trong
lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước tỉnh Quảng Nam
Muốn phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện
Tiên Phước một cách toàn diện thì cần phải quan tâm đến phát triển tất cả
các mặt, các yếu tố tác động đến sự phát triển của con người nơi đây. Qua
quá trình điều tra phân tích những mặt tích cực cũng như hạn chế của
nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện em đã đưa ra một số
nhóm giải pháp sau:
* Nhóm giải pháp về giáo dục và đào tạo:
Thứ nhất, cần sắp xếp và qui hoạch lại mạng lưới trường lớp, tăng
cường hệ thống trang thiết bị trong nhà trường, tạo điều kiện tốt nhất cho
công tác phát triển nhân tố con người từ thấp đến cao. Thực hiện tốt công
tác giáo dục, giáo dục đạt chuẩn đối với tất cả các học sinh đến trường.
Đặc biệt cần phải chú ý, quan tâm đến khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng
có đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên, công nhân viên có đủ
đức đủ tài, có thể đảm nhiệm tốt sự nghiệp trồng người ở từng địa
phương, từng đơn vị xã. Cần tiến hành tổ chức mở các lớp đào tạo để
nâng cao kiến thức cho giáo viên trong điều kiện phát triển mới của đất

nước.
Thứ ba, cần tăng cường kỹ luật kỹ cương trong nhà trường, không
những đối với học sinh mà còn đối với tất cả cán bộ công nhân viên chức
trong nhà trường.

18


Thứ tư, thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục, huy động mọi
nguồn lực cá nhân và tổ chức trong và ngoài tỉnh phục vụ vào sự nghiệp
giáo dục và đào tạo của huyện.
Thứ năm, nhanh chóng tập trung đào tạo nguồn nhân lực cho thanh
niên ở nông thôn, tạo điều kiện cho họ có việc làm và tăng thu nhập.
Thứ sáu, cần tiến hành đào tạo nghề cho nông dân.
Thứ bảy, một trong những giải pháp cơ bản nhất hiện nay là đưa
văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng vào việc nâng cao nhận thức về vai
trò của con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
* Nhóm giải pháp về phát triển kinh tế
Một là, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Hai là, làm tốt công tác tuyên truyền, tạo bước chuyển về nhận
thức cho người lao động, phải làm cho người dân có ý thức tự giác trong
việc tự tạo việc làm để tăng thu nhập, ổn định cuộc sống trước mắt. Có
như vậy mới tạo được nền tảng phát triển kinh tế về sau.
Ba là, thực hiện có hiểu quả các chương trình phát triển kinh tế
trọng điểm.
Bốn là, cần phải khai thác có hiệu quả diện tích đất chưa sử dụng
trên địa bàn huyện.
* Nhóm giải pháp về giải quyết việc làm và phát triển nguồn
lao động sau đào tạo:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức đối với lãnh đạo các ngành các cấp,

các tổ chức chính trị xã hội và toàn dân trong công tác giải quyết việc làm
cho nguồn lao động của huyện.
Thứ hai, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để mọi người lao động
đều có cơ hội tìm việc làm thông qua các cơ chế hỗ trợ vốn, dạy nghề,
phát triển cơ sở hạ tầng.

19


Thứ ba, nâng cao hiệu quả giới thiệu việc làm, tổ chức các đợt
khảo sát, nắm bắt tình hình lao động tại một số tỉnh trong cả nước để giải
quyết nguồn lao động của huyện.
Thứ tư, cần có chính sách thu hút đối với nguồn lao động sau khi
đào tạo.
Thứ năm, tạo mọi điều kiện về cơ sở, trang thiết bị, môi trường làm
việc cho các nguồn lao động trong lĩnh vực nghiên cứu.
* Nhóm giải pháp về chính sách xã hội.
Một là, tăng cường chăm lo công tác giáo dục xã hội. Đẩy mạnh
cải cách giáo dục, dạy nghề, từng bước xã hội hóa đầu tư trong y tế, văn
hóa, thể dục thể thao.
Hai là, triển khai các đề án đảm bảo an ninh quốc phòng trên địa
bàn huyện.
Ba là, tăng cường công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao nhận
thức về giảm nghèo cho mọi người dân.
Bốn là, có chính sách nâng cao đời sống đối với đồng bào dân tộc
thiểu số.
Năm là, thực hiện tốt công tác chăm sóc giúp đỡ người tàn tật,
người mất khả năng lao động, người già cả, gia đình chính sách, người
có công với cách mạng… cả về vật chất lẫn tinh thần.
Tổng kết chương 2:

Tiên phước là huyện miền núi phía Tây tỉnh Quảng Nam. Đây là
mảnh đất chứa đựng nhiều tiềm năng cả về tài nguyên thiên nhiên lẫn con
người.
Thực trạng lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước có những khó
khăn và những thuận lợi nhất định. Trong lực lượng sản xuất, nhân tố
người là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên Phước có
những điểm tích cực và hạn chế, nhưng nếu có chính sách đầu tư phát
20


triển đúng mức sẽ tạo điều kiện cho phát triển nguồn lực này. Cùng với
nhân tố người, tư liệu sản xuất cũng đóng góp không nhỏ vào trong quá
trình sản xuất, nhưng nhân tố người vẫn là nhân tố quan trọng nhất trong
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Từ thực trạng nhân tố người trong
lực lượng sản xuất, huyện Tiên Phước cần có những phương hướng và
giải pháp cho phát triển nhân tố người. Trong phương hướng phát triển
nhân tố người cần tiến hành đồng bộ một số chính sách: Quan tâm đúng
mức đến lợi ích của người lao động; Tạo môi trường xã hội đảm bảo các
điều kiện phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất; Đổi mới tăng
cường giáo dục đào tạo để phát huy nhân tố con người; Phát triển đội ngũ
lao động ở vùng sâu vùng xa, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số; Tiến
hành đào tạo nghề cho nông dân. Đồng thời cần tiến hành các nhóm biện
pháp sau để phát triển nhân tố con người: Nhóm giải pháp về giáo dục và
đào tạo; Nhóm giải pháp phát triển kinh tế; Nhóm giải pháp về giải quyết
việc làm và phát triển người lao động qua đào tạo; Nhóm giải pháp về
chính sách xã hội. Với những phương hướng và giải pháp đặt ra như trên
sẽ sớm giúp cho huyện Tiên Phước thoát khỏi tình trạng kém phát triển
như hiện nay.
KẾT LUẬN

Nhân tố người trong lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định đến
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Nhân tố
người nếu được đầu tư phát triển đúng mức là động lực cơ bản quyết định
đến sự phát triển của tất cả các lĩnh vực xã hội khác. Bởi vì con người là
lực lượng sản xuất số một, không có nhân tố con người thì quá trình sản
xuất và tái sản xuất xã hội không được thực hiện. Nhân tố người là nhân
tố quyết định đối với các nhân tố khác trong lực lượng sản xuất, song
không thể coi thường các nhân tố khác bởi vì nếu không có những nhân
tố khác thì nhân tố người có phát triển đến mức độ nào đi chăng nữa thì
cũng không thể phát huy được vai trò tác dụng của mình trong sản xuất
21


xã hội. Hơn nữa, nhân tố người tồn tại trong lực lượng sản xuất có quan
hệ với các nhân tố khác một cách biện chứng. Bất cứ sự thay đổi về trình
độ và kết cấu của các yếu tố khác trong lực lượng sản xuất đều ít nhiều
ảnh hưởng đến nhân tố con người theo nhiều chiều hướng khác nhau.
Khoa học kỹ thuật đóng vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình sản
xuất, do đó cần có cái nhìn đúng đắn và sáng suốt về vị trí và vai trò của
từng nhân tố trong lực lượng sản xuất cũng như khoa học kỹ thuật để có
chiến lược đầu tư phát triển đúng mức các nhân tố đó, tạo mọi điều kiện
thuận lợi nhất để tiến lên xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa.
Đối với huyện Tiên Phước hiện nay, vấn đề phát triển con người
trong lực lượng sản xuất là vấn đề mang tính bắt buộc để tạo ra động lực
phát triển kinh tế xã hội. Với một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông
nghiệp như huyện Tiên Phước, trình độ dân trí còn thấp và đa phần chưa
qua đào tạo nghề. Chính sách thực hiện và việc tiến hành đào tạo nghề
cho nhân tố người trong lực lượng sản xuất còn có nhiều vấn đề bất cập.
Trong những năm gần đây, với chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong
tình hình mới, dưới sự chỉ đạo của tỉnh Quảng Nam, huyện Tiên Phước

đã có nhiều biện pháp khác nhau để phát triển nhân tố người.
Phát triển nhân tố người trong lực lượng sản xuất ở huyện Tiên
Phước là một việc làm hết sức khó khăn và mang tính lâu dài. Vì nhân tố
người nơi đây có sự đa dạng, phong phú cả về trình độ lẫn sự phân bố
ngành nghề. Hiện nay cần phải đầu tư và tạo mọi điều kiện tốt nhất để
phát triển nhân tố con người. Phải biết đào tạo có trọng tâm, trọng điểm
một số ngành kinh tế là thế mạnh của vùng như nông, lâm nghiệp.
Phát triển nhân tố con người là cần tiến hành đào tạo từ cán bộ lãnh
đạo các cấp, các cán bộ đảng viên, cán bộ giáo viên, công nhân viên đến
những người lao động làm việc trong những lĩnh vực khác nhau. Muốn
tiến hành đào tạo có chất lượng cần phải có chiến lược đầu tư cả về vật
chất lẫn phương pháp đào tạo. Phải thu hút được nhiều nguồn vốn phục
22


vụ cho giáo dục, đồng thời phải thường xuyên đổi mới phương pháp giáo
dục, phù hợp với xu hướng phát triển của từng thời kì, từng đối tượng.
Với chiến lược phát triển nhân tố con người trong lực lượng sản
xuất ở huyện Tiên Phước, trong thời gian tới, huyện Tiên Phước sẽ có
những khởi sắc về chất trong phát triển kinh tế xã hội, hòa nhập chung
cùng nền kinh tế của tỉnh và cả nước trong chiến lược hội nhập nền kinh
tế quốc tế như hiện nay.

23



×