mở đầu
1. Tính cấp bách của đề tài
Theo quan điểm duy vật lịch sử, sự vận động và phát triển của xã
hội loài ngời, xét đến cùng, do sản xuất xã hội quyết định, trong đó lực lợng
sản xuất là yếu tố giữ vai trò tiên quyết. Vì vậy, để thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội, mọi con đờng, mọi biện pháp đều phải dẫn đến thúc đẩy sự
phát triển của lực lợng sản xuất.
Sau 15 năm thực hiện đờng lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xớng và lãnh đạo, đất nớc ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
đã đạt đợc những thành tựu "rất to lớn và rất quan trọng", thế và lực của đất
nớc đã đủ vững mạnh để chuyển sang một giai đoạn cách mạng mới, giai
đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc, nhằm mục tiêu đến
năm 2020 đa đất nớc về cơ bản trở thành một nớc công nghiệp, từng bớc
hiện thực hóa lý tởng dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và
văn minh nh tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã đề ra.
Vào giai đoạn mới, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và
kinh tế tri thức, lực lợng sản xuất của đất nớc cần phải phát triển nhanh hơn
so với trớc đây. Việc phát triển mạnh mẽ lực lợng sản xuất đồng thời từng
bớc cải tạo quan hệ sản xuất sao cho phù hợp trình độ phát triển mới của nó
là một yêu cầu tất yếu khách quan với những khó khăn và thách thức rất
lớn. Chúng ta đang chú trọng phát triển các yếu tố cơ bản của lực lợng sản
xuất nh nguồn nhân lực, khoa học, kỹ thuật và công nghệ nhằm tạo ra một
chất lợng mới cho lực lợng sản xuất, và trên thực tế, những năm gần đây,
chúng ta đã thu đợc những thắng lợi đáng kể. Tuy nhiên, sự phát triển của
các vùng, các khu vực trong nớc vẫn cha đồng đều và còn một khoảng cách
tơng đối lớn. Khu vực miền núi mặc dù chiếm đến 3/4 diện tích tự nhiên cả
1
nớc, nhng lại là vùng có các chỉ số phát triển thấp và rất thấp. Trong giai
đoạn cách mạng mới, mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ
chỉ thực sự thành công khi chúng ta làm giảm đợc khoảng cách phát triển
giữa khu vực này với khu vực đồng bằng và thành thị.
Nh đã biết, miền núi phía Bắc nớc ta là khu vực có các địa danh gắn
liền với lịch sử vinh quang của dân tộc và của cách mạng, nhng hiện lại là
khu vực chậm phát triển. Nguyên nhân sâu xa của sự chậm phát triển đó
nằm ở thực trạng yếu kém của lực lợng sản xuất. Sự lạc hậu về nhiều mặt,
trớc hết là về lực lợng sản xuất của khu vực miền núi và vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số nớc ta, đang gây khó khăn cho sự phát triển không chỉ của
các địa phơng đó mà còn gây khó khăn cho sự phát triển chung của cả nớc.
Sự đi lên của đất nớc đòi hỏi không thể kéo dài mãi tình trạng đó. Vấn đề
cấp thiết đặt ra là phải đẩy nhanh sự phát triển của
các địa phơng này, không những để giảm bớt sự bất bình đẳng mà còn để
đẩy nhanh sự phát triển chung của cả nớc. Muốn phát triển thì không có
cách nào khác hơn là phải tập trung phát triển lực lợng sản xuất. Cần
phải nhanh chóng tìm ra các giải pháp hữu hiệu cho công việc này, với
những con đờng, bớc đi, khâu đột phá thích hợp để lực lợng sản xuất khu
vực này phát triển nhanh hơn. Đây cũng là công việc có ý nghĩa chính trị
hết sức to lớn trong bối cảnh phức tạp của tình hình đất nớc và quốc
tế, mà liên tục đợc Đại hội VIII và Đại hội IX của Đảng ta đặc biệt quan
tâm [21], [23]. Vì vậy, đây là nhiệm vụ vừa có ý nghĩa bức xúc vừa có ý
nghĩa lâu dài đối với hoạt động của tất cả các ngành, các cấp, trong đó có
giới khoa học xã hội.
Nhận thấy triết học cần phải quan tâm giải quyết nhiệm vụ thực tiễn
và lý luận quan trọng này, chúng tôi chọn "Vấn đề phát triển lực lợng sản
xuất ở miền núi phía Bắc nớc ta hiện nay" làm đề tài luận án của mình.
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lực lợng sản xuất và vai trò của nó trong sự phát triển là một trong
những nội dung cơ bản và quan trọng của học thuyết C. Mác về hình thái
kinh tế - xã hội, nhng cũng là nội dung chứa đựng nhiều vấn đề còn gây
tranh cãi trong hệ thống các tri thức về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Từ nhiều
năm nay, lực lợng sản xuất và quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với trình độ của lực lợng sản xuất đã đợc quan tâm nghiên cứu từ nhiều khía
cạnh khác nhau ở cả trong và ngoài nớc.
ở Liên xô và một số nớc xã hội chủ nghĩa trớc đây, nhiều nhà khoa
học đã có những nghiên cứu khá sâu về lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất
và ứng dụng quy luật này vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều
vấn đề lý luận đã đợc giải quyết. Nhng cũng còn nhiều vấn đề thực tiễn cha
có câu trả lời, đặc biệt là từ giữa những năm 80 trở lại đây, khi chế độ xã
hội chủ nghĩa ở một số nớc lâm vào khủng hoảng.
ở Việt Nam, việc nghiên cứu về lực lợng sản xuất trong sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa đã đợc Đảng ta hết sức chú ý. Từ nhiều năm tr-
ớc đây, những bài học về sự cần thiết phải tôn trọng quy luật khách quan, về
những sai lầm do quá nhấn mạnh ý nghĩa mở đờng của các quan hệ sản
xuất, do sự tuyệt đối hóa vai trò của công nghiệp nặng đã đợc phân tích và
rút kinh nghiệm. Tuy vậy, với các công trình ở những năm trớc đây, vấn đề
đặt ra và cách giải quyết cũng có khác so với hiện nay, khi tình hình thế
giới đã có nhiều thay đổi và đất nớc ta đã bớc vào một giai đoạn mới của sự
phát triển.
Khoảng hơn 15 năm gần đây, ở nớc ta, đã có nhiều luận án tiến sĩ,
trực tiếp bàn đến vấn đề này. Chẳng hạn, luận án của Nguyễn Tĩnh Gia -
nghiên cứu biểu hiện đặc thù của quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất và trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Qua đó, tác giả đã khái quát những định hớng
3
cơ bản cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đề xuất một số nhiệm vụ
cụ thể để các yếu tố của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lợng
sản xuất, tạo điều kiện cho lực lợng sản xuất phát triển. Luận án của Hồ
Anh Dũng - khai thác một yếu tố cụ thể của lực lợng sản xuất là yếu tố con
ngời trong lực lợng sản xuất và việc phát huy yếu tố đó ở nớc ta hiện nay.
Qua công trình của mình, tác giả đã trình bày vấn đề con ngời trong nội
dung của lực lợng sản xuất, phân tích đặc điểm của ngời lao động Việt Nam
và đề xuất một số giải pháp để phát huy yếu tố này. Luận án của Đoàn
Quang Thọ - nghiên cứu về nhận thức và vận dụng quy luật trong thời kỳ
đổi mới và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Công
trình đã nghiên cứu quá trình nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ của lực lợng sản xuất trong trong thời kỳ đổi mới.
Luận án của Trơng Hữu Hoàn - tác giả đã xuất phát từ việc nhận thức và
vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lợng sản xuất ở một số
nớc xã hội chủ nghĩa, để làm rõ sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực l-
ợng sản xuất và một số tiêu chuẩn để đánh giá sự phù hợp đó. Luận án của
Trung Giang Vim - từ những đặc thù của một số tỉnh miền núi Tây Nguyên,
tác giả đi tìm con đờng cho sự phát triển ở vùng này là vận dụng quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lợng sản xuất trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Tây Nguyên. Luận án của Bùi Chí Kiên -
nghiên cứu quy luật này để ứng dụng phát triển nền kinh tế hàng hóa ở một
tỉnh miền núi Tây Nguyên. Trong luận án, tác giả làm rõ những yêu cầu của
một tỉnh có nhiều tiềm năng, nhiều đặc thù "Tây Nguyên" nhất khi bắt đầu
đón nhận cơ chế kinh tế mới. Luận án của Đoàn Văn Khái - nghiên cứu
nguồn lực con ngời trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc;
tác giả đã làm rõ khái niệm nguồn lực con ngời và vai trò quyết định của
nguồn lực con ngời trong so sánh với các nguồn lực khác của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và những năng lực, phẩm chất cần có của ng-
ời lao động trong quá trình này
4
Có thể nhận xét rằng, với các công trình đã viết về lực lợng sản xuất
và về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng
sản xuất, các tác giả đã khai thác những vấn đề theo hai hớng cơ bản. Thứ
nhất, sự hoạt động của quy luật này trong từng thời kỳ, ở từng điều kiện, với
từng khu vực địa lý cụ thể; thứ hai, đi sâu khai tác các yếu tố của lực lợng
sản xuất, đặc biệt là yếu tố con ngời đã đợc nhiều công trình nghiên cứu, lý
giải vai trò to lớn của nó và tìm cách phát huy vai trò đó.
ở khuynh hớng thứ hai, chúng tôi thấy có nhiều công trình và bài
viết phân tích vấn đề lực lợng sản xuất ở khu vực miền núi và vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số với những đặc thù của khu vực này. Cần phải kể
đến những tác giả với các bài viết đáng chú ý sau: Lê Xuân Đình, Ưu tiên
phát triển lực lợng sản xuất, Tạp chí Cộng sản, số 5 (3-1999); Nông Thị
Mồng, Phát triển lực lợng sản xuất - yếu tố tạo đà đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa miền núi phía Bắc nớc ta, Tạp chí Triết học, số 3 (6-1999);
Chu Tuấn Nhạ, Khoa học- công nghệ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí Cộng sản, số 2 (1-1999);
Lê Huy Ngọ, Khoa học- công nghệ phải là động lực mạnh mẽ đa nông
nghiệp, nông thôn sang bớc phát triển mới, Tạp chí Cộng sản, số 3 (2-1999);
Phan Xuân Dũng, Phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Cộng sản, số 17 (9-1997); Mai Quốc Chánh,
Nâng cao chất lợng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Hoàng Đức Nghi, Thực
hiện một số nhiệm vụ chủ yếu để vùng dân tộc miền núi đi lên công nghiệp
hóa, hiện đại, Tạp chí Cộng sản, số 18(9-1997); Lê Du Phong, Hoàng Văn
Hoa, Phát triển kinh tế- xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo hớng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Kinh tế thị
trờng và sự phân hóa giàu nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nớc
ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Nguyễn Tiến Mạnh, Dơng Ngọc
5
Thí, Phát triển nông lâm nghiệp theo hớng sản xuất hàng hóa ở trung du
miền núi phía Bắc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1996; v.v
Thời gian gần đây, cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa, đã
có một số bài báo và công trình bàn về lực lợng sản xuất cũng nh về quan
hệ sản xuất trong loại hình kinh tế trang trại ở khu vực miền núi và trung
du, chẳng hạn nh: Nguyễn Điền, Tổ chức quản lý kinh tế trang trại trên thế
giới và Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 251 (4-1999); Hoàng
Minh Ký - Bùi Minh Vũ, Về kinh tế trang trại lâm nghiệp, Tạp chí Nghiên
cứu kinh tế, số 214 (3-1996); Trần Đức, Nhìn lại kinh tế trang trại những
năm gần đây, Tạp chí Cộng sản, số 5 (3-1999); Trơng Công Hùng, Kinh tế
trang trại nông nghiệp ở nớc ta, Tạp chí Cộng sản, số 6 (3-1999) Các
công trình này tập trung bàn đến vai trò của mô hình kinh tế trang trại đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và sự phát triển của lực lợng sản xuất
nói riêng. Trong đó các công trình chủ yếu đi vào phân tích những u, khuyết
điểm của mô hình kinh tế này và tiềm năng phát triển nó ở khu vực miền núi
phía Bắc nớc ta là chính. Bởi vậy, việc làm rõ và góp phần giải quyết những
vấn đề đặt ra đối với sự phát triển lực lợng sản xuất miền núi, trên thực tế,
vẫn còn rất nhiều nội dung cần phải bổ sung và nghiên cứu sâu hơn.
Luận án của chúng tôi cố gắng tiếp thu kết quả đã đạt đợc của
những công trình vừa nêu, nhằm tổng kết, đánh giá sự vận động, phát triển
của các yếu tố của lực lợng sản xuất ở khu vực miền núi và vùng đồng bào
các dân tộc thiểu số; trên cơ sở đó làm rõ những vấn đề đang đặt ra, tìm h-
ớng giải quyết, đồng thời khuyến nghị một số giải pháp có tính định hớng
để thúc đẩy sự phát triển của lực lợng sản xuất miền núi trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Phân tích thực trạng lực lợng sản xuất của các tỉnh miền núi phía
Bắc. Chỉ ra những vấn đề cấp bách đang nảy sinh từ sự vận động và phát
6
triển của lực lợng sản xuất ở các vùng này. Nêu kiến nghị và đề xuất một số
giải pháp thúc đẩy sự phát triển lực lợng sản xuất ở miền nhằm đáp ứng
những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để thực hiện mục đích đó, luận án có những nhiệm vụ sau:
- Trình bày những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
về vai trò của lực lợng sản xuất trong sự phát triển xã hội.
- Phân tích tình hình kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc.
Làm rõ thực trạng, đặc điểm và những xu hớng biến đổi của lực lợng sản
xuất vùng này.
- Chỉ ra những yếu tố ảnh hởng đến sự phát triển của lực lợng sản
xuất miền núi phù hợp với yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n-
ớc và những mặt, những yếu tố còn yếu kém đang cản trở sự phát triển của
lực lợng sản xuất miền phía Bắc nớc ta.
- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển
lực lợng sản xuất, góp phần thực hiện thắng lợi chiến lợc phát triển kinh tế -
xã hội ở miền núi phía Bắc.
4. Phơng pháp luận và phơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu và trình bày của luận án dựa trên các nguyên tắc
phơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và những
quan điểm của Đảng ta, đặc biệt là những quan điểm Mác - Lênin về lý
luận hình thái kinh tế - xã hội. Luận án có kế thừa, tiếp thu những thành quả
của các công trình nghiên cứu khoa học đi trớc nh các bài viết, các luận án
và các t liệu điều tra khảo sát
Luận án sử dụng các phơng pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, các phơng pháp phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử,
so sánh, thống kê ; luận án chú ý đặc biệt đến quan điểm thực tiễn là tiêu
chuẩn của chân lý và quan điểm về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong nghiên cứu cũng nh trong trình bày.
7
5. Đóng góp của luận án
- Đề cập đến vấn đề phát triển lực lợng sản xuất, một vấn đề cấp
bách ở khu vực miền núi phía Bắc nớc ta - một khu vực đặc thù, có trình độ
phát triển thấp, đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển. Vấn đề
đợc giải quyết trong luận án không chỉ có ý nghĩa khoa học, mà còn có ý
nghĩa chính trị trong bối cảnh phức tạp của tình hình trong nớc và quốc tế.
Việc giải quyết vấn đề đặt ra không những nhằm giảm bớt sự chênh lệch về
trình độ phát triển giữa các vùng, miền, mà còn nhằm đẩy nhanh sự phát
triển chung của cả nớc.
- Thông qua phân tích thực trạng của lực lợng sản xuất ở khu vực
miền núi phía Bắc, chỉ ra những vấn đề và những xu hớng vận động của lực
lợng sản xuất ở vùng này.
- Nêu một số giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của
lực lợng sản xuất ở miền núi phía Bắc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án góp phần củng cố nhận thức lý luận về học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội, về vai trò của các nhân tố của lực lợng sản xuất đối với sự
phát triển xã hội, nhất là đối với những vùng chậm phát triển. Luận án có
thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu,
giảng dạy lý luận Mác- Lênin ở các trờng Đại học, Cao đẳng và các trờng
Đảng, đặc biệt là các trờng khu vực miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu
số phía Bắc. Luận án có thể sử dụng vào việc nghiên cứu những vấn đề dân
tộc và chính sách dân tộc trong giai đoạn hiện nay ở nớc ta.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận án chia làm ba chơng với 7 tiết.
8
Chơng 1
Một số vấn đề lý luận về lực lợng sản xuất
Để tồn tại và phát triển, con ngời phải tiến hành lao động sản xuất
vật chất. Muốn hoạt động đó của con ngời đợc tiến hành bình thờng, cần phải
có một số điều kiện nhất định nh: môi trờng địa lý, điều kiện dân số, phơng
thức sản xuất. Các yếu tố kể trên đều có sự tác động qua lại lẫn nhau và ảnh h-
ởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất vật chất nói chung; nhng trong đó ph-
ơng thức sản xuất là yếu tố cơ bản và có ý nghĩa quyết định nhất.
Phơng thức sản xuất là cách thức làm ra của cải vật chất của con ng-
ời trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Trong đó bao gồm các yếu tố nh:
quan hệ sản xuất (là quan hệ giữa ngời với ngời trong quá trình sản xuất) và
lực lợng sản xuất (quan hệ giữa con ngời với tự nhiên và là sự biểu hiện của
mối quan hệ phức tạp đó trong quá trình sản xuất). Mặc dù quan hệ sản
xuất là tiêu chuẩn giúp chúng ta phân biệt đợc những chế độ xã hội khác
nhau của lịch sử, phân biệt hình thái kinh tế - xã hội này với hình thái kinh
tế - xã hội khác, song xét đến cùng, trong phơng thức sản xuất, lực lợng sản
xuất là yếu tố quyết định hơn cả. C.Mác đã từng nói: "Chúng ta không cần
phải xét ngời lao động trong mối quan hệ với ngời lao động khác. Một bên
là con ngời và lao động của con ngời, bên kia là tự nhiên và vật liệu của tự
nhiên,- thế là đủ" [64, tr. 276]. Vậy, lực lợng sản xuất là gì? Các nhà sáng
lập chủ nghĩa duy vật lịch sử đánh giá, xem xét nh thế nào?
1.1. Khái niệm lực lợng sản xuất và kết cấu của nó
Trong nghiên cứu sự vận động, phát triển của xã hội loài ngời, điểm
cơ bản làm cho C. Mác thành công và trở thành khác về chất so với các nhà
triết học trớc C. Mác là ở chỗ, ông đã vận dụng phép biện chứng duy vật để
giải quyết những vấn đề của lịch sử. Cụ thể hơn, ông đã xuất phát từ những "sự
9
thật giản đơn" trong đời sống vật chất của con ngời và xã hội để giải thích các
hiện tợng của đời sống xã hội. Ph. Ăngghen đã nhận xét: "Cái sự thật hiển
nhiên là trớc hết con ngời cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao
động, trớc khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trớc khi có thể
hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học " [62, tr. 166]. Nhờ đó mà C.Mác đã
phát hiện hàng loạt các quy luật của lịch sử, đó là các quy luật: tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thợng tầng,
quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lợng sản xuất,
v.v Trong đó quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực
lợng sản xuất là quy luật cơ bản nhất, nó chi phối mọi quy luật khác của xã
hội, bởi vì mỗi con ngời, mặc dù có những mục đích riêng và đều cố gắng
theo đuổi những mục đích đó bằng nhiều cách khác nhau, song những mục
đích này không nằm ngoài nhu cầu ăn, mặc, ở và các nhu cầu khác của
chính con ngời. Về cơ bản, các hoạt động của con ngời đều do những nhu
cầu đó thúc đẩy, và con ngời phụ thuộc vào mức độ đáp ứng những nhu cầu
đó, nói cách khác là phụ thuộc vào hoạt động sản xuất vật chất và các quy
luật của nó.
Khi bàn về hoạt động sản xuất vật chất, C.Mác, Ph.Ăngghen cũng
nh V.I.Lênin không dành nhiều công sức cho việc định nghĩa các khái niệm
lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà các ông sử dụng và trình bày các
khái niệm này thông qua phân tích nội dung của quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với trình độ của lực lợng sản xuất và các hình thức biểu hiện
của nó trong những chế độ xã hội khác nhau. Tuy nhiên, qua việc các nhà
kinh điển sử dụng những khái niệm này, phần nào chúng ta đã có thể hiểu
nội dung, cấu trúc của các khái niệm đó. Với khái niệm "lực lợng sản xuất",
theo t tởng các nhà kinh điển, có thể hiểu những nội dung cơ bản của nó nh
sau:
10
Lực lợng sản xuất là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phản
ánh một hiện tợng xã hội tồn tại, tác động, vận động trong mọi giai đoạn
lịch sử của xã hội loài ngời. Khái niệm này dùng để chỉ quan hệ giữa con
ngời với tự nhiên và là sự biểu hiện của mối quan hệ phức tạp đó trong quá
trình sản xuất. Thuật ngữ "lực lợng sản xuất" lần đầu tiên đợc C.Mác và Ph.
Ăngghen sử dụng trong tác phẩm "Hệ t tởng Đức". Mặc dù cha đợc trình
bày hoàn chỉnh nh là một thành tố cơ bản của quy luật về lực lợng sản xuất
và quan hệ sản xuất, nhng tất cả những nội dung cơ bản của quy luật quan
hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lợng sản xuất đều đã đợc nêu
một cách khái quát trong tác phẩm này. Sau này nội dung của quy luật trên
đã đợc làm sáng tỏ và phát triển thêm trong các tác phẩm nh: "Sự khốn
cùng của triết học", "Lao động làm thuê và t bản", "Tiền công giá cả và lợi
nhuận", và đặc biệt là trong bộ "T bản". Thông qua việc phân tích mối quan
hệ giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất, các yếu tố của lực lợng sản
xuất, vai trò của lực lợng sản xuất trong hệ thống sản xuất vật chất của xã
hội các nhà kinh điển đã giúp chúng ta có cơ sở khoa học để hiểu đúng
nội dung của khái niệm "lực lợng sản xuất".
Qua ý kiến của các nhà kinh điển, chúng ta có thể hiểu rằng: muốn
chinh phục đợc tự nhiên, con ngời phải sử dụng tổng hợp những sức mạnh
vật chất và tinh thần có thể có, trong đó bao gồm cả sức mạnh cơ bắp, trí
tuệ và những tác nhân khác tác động lên tự nhiên, làm cho tự nhiên biến đổi
ở một mức độ nhất định. Cho nên, "lực lợng sản xuất" trớc hết phải là một
"lực lợng vật chất". Lực lợng vật chất này nảy sinh và phát triển do con ng-
ời và xã hội chinh phục tự nhiên, vì những mục đích, nhu cầu của con ngời.
Những sản phẩm mà con ngời cần có để phục vụ cho nhu cầu của mình,
thông thờng không sẵn có nh là sản phẩm có thể đáp ứng ngay những nhu
cầu của con ngời, mà nó nằm trong tự nhiên; thậm chí một phần đáng kể
còn tiềm ẩn trong tự nhiên. Muốn có nó, con ngời và xã hội loài ngời phải
11
tác động đến tự nhiên, can thiệp vào tự nhiên, làm biến đổi giới tự nhiên. Vì
vậy, lực lợng sản xuất là biểu hiện của mối quan hệ qua lại giữa con ngời
với tự nhiên. Nhng trong mối quan hệ này, chỉ có quan hệ vật chất giữa con
ngời với tự nhiên mới là biểu hiện trực tiếp của lực lợng sản xuất; còn các
quan hệ khác của con ngời với tự nhiên nh quan hệ thích nghi, quan hệ
nhận thức, quan hệ thẩm mỹ, v.v không trực tiếp tạo ra của cải vật chất
phục vụ cho những nhu cầu của con ngời, do đó không thể coi đó là biểu
hiện trực tiếp của lực lợng sản xuất.
Con ngời đã tạo ra những yếu tố của lực lợng sản xuất, trong đó có
những bộ phận đã sẵn có trong tự nhiên, cũng có những bộ phận con ngời phải
cải tạo nhiều lần, qua nhiều thế hệ, khi đó vật liệu tự nhiên mới trở thành các
yếu tố của lực lợng sản xuất. Tức là cùng với vật liệu tự nhiên, trong lực lợng
sản xuất còn có sự đóng góp sức lực "vật chất" của con ngời. Nh vậy, lực lợng
sản xuất là sản phẩm của các hoạt động vật chất của con ngời đợc tổng hợp,
gom góp, phát triển có kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nh C. Mác đã
viết: "Mỗi thế hệ sau có đợc những lực lợng sản xuất do thế hệ trớc tạo ra,
và những lực lợng sản xuất ấy là nguyên liệu cho thế hệ sau ấy để thực hiện
một hoạt động sản xuất mới,- nhờ hiện tợng ấy mà hình thành nên mối liên
hệ trong lịch sử loài ngời" [65, tr. 657-658].
Qua đó, có thể hiểu khái niệm lực lợng sản xuất đợc các nhà kinh
điển sử dụng với những nội dung cơ bản nh sau:
Thứ nhất: Lực lợng sản xuất là biểu hiện của mối quan hệ giữa con
ngời với tự nhiên, đó là một hệ thống lực lợng vật chất do con ngời và xã
hội loài ngời tạo ra để cải tạo, chinh phục tự nhiên. Hệ thống lực lợng vật
chất này đồng thời biểu hiện luôn cả sức mạnh, năng lực chinh phục tự
nhiên của con ngời.
Thứ hai: Lực lợng sản xuất là một thể thống nhất bao gồm yếu tố
ngời và các yếu tố vật, trong đó con ngời là yếu tố đặc biệt. Bởi vì, con ngời
12
là chủ thể sáng tạo, chế tạo ra những công cụ, các phơng tiện bổ trợ cho các
khí quan của mình, tác động đến khách thể - đối tợng lao động để tạo ra
những vật phẩm đáp ứng những nhu cầu của bản thân và của xã hội. Trong
quá trình đó, con ngời đồng thời tự cải tạo bản thân mình cả về sinh thể và
trí tuệ. Ngày nay, yếu tố trí tuệ đang ngày càng trở nên chiếm u thế và đợc
coi là lực lợng sản xuất trực tiếp.
Thứ ba: Lực lợng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất
trong phơng thức sản xuất, nó thờng xuyên vận động và phát triển; nó quyết
định sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài ngời.
Thông qua việc các nhà kinh điển sử dụng khái niệm lực lợng sản
xuất, đã có khá nhiều tác giả đa ra những định nghĩa khác nhau về lực lợng
sản xuất. Trong số đó, theo chúng tôi, định nghĩa sau đây phản ánh tơng đối
đầy đủ nội hàm và ngoại diên của khái niệm lực lợng sản xuất:
Lực lợng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa t liệu sản
xuất (trớc hết là công cụ lao động) và những ngời sử dụng những
t liệu này để sản xuất ra của cải vật chất. Lực lợng sản xuất chủ
yếu là những con ngời có thói quen, kinh nghiệm, tri thức và trình
độ chuyên môn nắm đợc kỹ thuật, sử dụng đợc công cụ để tiến
hành sản xuất [104, tr. 281-282].
Mặc dù vậy, trong định nghĩa này cũng còn nhiều vấn đề phải tranh
luận. Trong nội dung của định nghĩa cha đặt ra một cách đầy đủ các yếu tố
của lực lợng sản xuất và giới hạn nội dung của các yếu tố đó, nhất là trong
tình hình hiện nay, khoa học - công nghệ ngày càng có vai trò lớn hơn trong
lực lợng sản xuất, hàm lợng trí tuệ ngày càng chiếm u thế trong tổng chi phí
của một sản phẩm và đợc coi là một yếu tố trực tiếp của lực lợng sản xuất,
định nghĩa cha đặt nó thành vấn đề cơ bản trong cấu trúc của nó. Mặt khác,
trong định nghĩa trên cũng cha phản ánh đợc tính kế thừa, tính liên tục, tính
13
cách mạng trong quá trình phát triển của lực lợng sản xuất, làm cho ngời
đọc khó có thể hình dung ra toàn bộ nội dung sinh động của nó.
Chúng tôi hiểu lực lợng sản xuất bao gồm các yếu tố sau đây:
1.1.1. Ngời lao động
Ngời lao động là yếu tố quan trọng bậc nhất của lực lợng sản xuất.
V.I Lênin đã từng viết: "Lực lợng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là
ngời công nhân, là ngời lao động" [52, tr. 430]. Con ngời là chủ thể tích
cực, sáng tạo và quyết định hoạt động tác động đến tự nhiên. Trong hoạt
động sản xuất, con ngời không tác động một cách đơn giản, chỉ bằng sức
mạnh cơ bắp của mình đến tự nhiên, mà con ngời với trí tuệ là chủ đạo, biết
vận dụng tri thức khoa học - kỹ thuật, chuyên môn, kỹ xảo, v.v còn biết
tạo ra những công cụ bổ trợ cho các khí quan của mình, và sử dụng những
công cụ đó làm cho tự nhiên thay đổi theo mục đích, yêu cầu có sẵn hình
ảnh trong t duy từ trớc đó. Do đó, trong lực lợng sản xuất, con ngời phải là
một yếu tố đặc biệt và đợc xem xét ở những mặt cơ bản nh sức lao động,
bao gồm cả sức cơ bắp và sức thần kinh (trí tuệ) tham gia vào quá trình lao
động. Sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học - công nghệ đã và đang đòi hỏi
con ngời sử dụng sức mạnh thần kinh - trí tuệ ngày một nhiều hơn. Sức
mạnh thần kinh - trí tuệ của con ngời là một loại nguồn lực đặc biệt.
A.Toffler trong tác phẩm "Thăng trầm quyền lực" đã cho rằng, mọi nguồn
lực khác của thiên nhiên đều có thể bị khai thác cạn kiệt, còn "tri thức có
tính lấy không bao giờ hết". Để tiến hành lao động đợc, đòi hỏi ngời lao
động phải có một mức độ hiểu biết nhất định về thế giới xung quanh, nhất
là những hiểu biết về những khách thể mà mình sẽ trực tiếp tác động đến
nó. Nếu những hiểu biết đó càng sâu sắc, càng có tính khái quát cao thì
càng tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất phát triển, bởi vì nhờ đó quá
trình khai thác, tác động đến khách thể sẽ đơn giản nhất, đem lại hiệu quả
cao nhất và ít lãng phí nhất. Trên thực tế, trình độ hiểu biết (tri thức) của
14
ngời lao động đóng vai trò quyết định trong chất lợng của ngời lao động. Đ-
ơng nhiên là những hiểu biết - thế giới quan đó phải là đúng đắn và khoa
học. Ngời lao động còn có kỹ năng, kinh nghiệm lao động, dù là lao động
đơn giản đến đâu chăng nữa, thì ngời lao động trớc hết phải học những thao
tác, rèn luyện những thao tác đó thành thục ở một mức độ nhất định; sau đó
mới có thể tiến hành hoạt động lao động đợc, lao động càng phức tạp thì
quá trình rèn luyện các thao tác đó càng đòi hỏi công phu và lâu dài hơn.
Ngày nay, công nghệ cao đợc ứng dụng vào các hoạt động sản xuất, các
thao tác của ngời lao động ngày càng giản đơn hơn, nhng ngời lao động lại
cần đợc tăng cờng tri thức về khoa học - công nghệ.
1.1.2. T liệu sản xuất
Cùng với ngời lao động, t liệu sản xuất là một trong những mặt cơ
bản của lực lợng sản xuất. Theo C.Mác, t liệu sản xuất bao gồm t liệu lao
động và đối tợng lao động. Ông viết: "Nếu đứng về mặt kết quả của nó, tức
là đứng về mặt sản phẩm mà xét toàn bộ quá trình, thì cả t liệu lao động lẫn
đối tợng lao động đều biểu hiện ra là t liệu sản xuất" [64, tr. 271]. Trong
những yếu tố của t liệu sản xuất, t liệu lao động - đợc hiểu là những công cụ
lao động, đó là một trong những yếu tố thể hiện trình độ chinh phục tự
nhiên của con ngời, thể hiện trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, thông
qua nó, sức mạnh của con ngời trớc tự nhiên đợc tăng lên nhiều lần. C.Mác
chỉ rõ: "Một vật do bản thân thiên nhiên cung cấp đã trở thành một khí quan
của sự hoạt động của con ngời, khí quan mà con ngời đem chắp thêm vào
những khí quan của cơ thể mình, và do đó mà kéo dài cái tầm thớc tự nhiên
của cơ thể đó" [64, tr. 268].
Rõ ràng, công cụ lao động là những vật thể hay những phức hợp vật
thể do con ngời và xã hội tạo ra để "đặt" giữa con ngời và đối tợng lao
động. Chúng có vai trò truyền dẫn sức lực và trí tuệ của con ngời đến đối t-
ợng lao động, cải biến những vật liệu tự nhiên thành những vật phẩm theo
15
mục đích, yêu cầu có trớc của một quy trình sản xuất cụ thể nào đó. Tùy
thuộc vào loại công cụ và trình độ kỹ thuật của nó mà con ngời có thể bằng
những bộ phận khí quan nào của cơ thể mình để sử dụng nó. Đơng nhiên,
trong quá trình sử dụng, con ngời điều khiển công cụ lao động phải có sự
tham gia của trí tuệ, của t duy để đảm bảo cho những thao tác chính xác,
phù hợp với công cụ lao động và tác động đến đối tợng lao động theo một
nhịp độ, một trình tự khách quan. Có những công cụ lao động có kết cấu
đơn giản nh: công cụ thô sơ, công cụ thủ công; có những công cụ phức tạp,
tinh xảo nh máy móc cơ khí, máy móc bán tự động hoặc tự động, v.v
Trình độ phát triển của công cụ lao động chỉ rõ trình độ phát triển của lực l-
ợng sản xuất, mức độ tinh xảo của công cụ lao động giúp chúng ta phân biệt
đợc lực lợng sản xuất đó ở nền văn minh nào, ở giai đoạn lịch sử nào. Nếu
công cụ lao động càng tinh xảo, nó càng truyền dẫn đợc nhiều sức lực của
con ngời tác động đến đối tợng lao động thì năng suất lao động càng cao.
Vì thế có thể gọi công cụ lao động là "hệ thống xơng cốt" của nền sản xuất
xã hội. Hiện nay, khoa học - công nghệ đã đặc biệt quan tâm rất sâu và rất
rộng vào các yếu tố cụ thể của công cụ lao động, nên nhiều khi ngời ta đã
sử dụng khái niệm công nghệ sản xuất để thay thế cho khái niệm công cụ
lao động. Nhng trong thực tế khái niệm công nghệ sản xuất còn chứa đựng
nội dung rộng lớn hơn khái niệm công cụ lao động, bởi khái niệm đó còn đ-
ợc hiểu bao gồm cả các quá trình tổ chức và quản lý sản xuất.
Con ngời thờng xuyên tìm cách làm giảm chi phí sức lao động của
mình nhng lại muốn sản xuất ra ngày càng nhiều những vật phẩm cần thiết, vì
vậy, con ngời đã liên tục cải tiến những công cụ hiện tại đang đợc sử dụng
để nó ngày một tinh xảo và hiện đại, phù hợp với những thao tác, yêu cầu
mà con ngời đặt ra, đó là các quá trình thay đổi công nghệ sản xuất, làm
cho công cụ lao động trở nên yếu tố động nhất, cách mạng nhất, và xét đến
cùng mọi sự biến đổi của các yếu tố khác trong sản xuất và trong đời sống
xã hội đều chịu ảnh hởng của sự thay đổi này của công cụ lao động.
16
Cùng với công cụ lao động, trong t liệu sản xuất còn yếu tố đối tợng
lao động là một trong những nội dung của lực lợng sản xuất đang đặt ra
nhiều vấn đề trong tình hình hiện nay.
Trong lực lợng sản xuất, nếu yếu tố con ngời là chủ thể sáng
tạo, là yếu tố đặc biệt bởi con ngời có ý thức, và thông qua ý thức điều
khiển mọi hoạt động - là một đặc điểm khác về chất so với mọi yếu tố
khác, thì đối tợng lao động là khách thể, là mặt đối lập cũng là yếu tố có vai
trò quan trọng. Khi bàn về vai trò của đối tợng lao động, C.Mác nói: "Công
nhân không thể sáng tạo ra cái gì hết nếu không có giới tự nhiên, nếu không
có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu trong đó lao động của anh ta
đợc thực hiện, trong đó lao động của anh ta đợc triển khai, từ đó và nhờ đó,
lao động của anh ta sản xuất ra sản phẩm" [67, tr.130].
Đối tợng lao động trớc hết là những dạng vật chất có sẵn trong tự
nhiên, kể cả trên mặt và trong lòng đất, dới đại dơng và trong khí quyển nh
đất đai, sông, biển, rừng núi, động thực vật, tài nguyên khoáng sản, v.v Tuy
nhiên, không phải tất cả mọi dạng vật chất trong tự nhiên đều là đối tợng lao
động, chỉ có những dạng vật chất nào có khả năng tạo thành những vật phẩm
theo những mục đích, yêu cầu và đáp ứng đợc những nhu cầu nào đó của
con ngời, đã và đang đợc con ngời tác động, cải tạo, khai thác chúng thì dạng
vật chất tự nhiên đó mới là đối tợng của lao động xã hội. Chẳng hạn, những
loại vật liệu, khoáng sản nh than đá, dầu mỏ, v.v khi con ngời cha biết sử
dụng nó để phục vụ đời sống và sản xuất, thì khi đó bản thân các yếu tố đó
cha trở thành đối tợng lao động của xã hội loài ngời. Trình độ khoa học -
công nghệ càng cao, sản xuất - xã hội càng phát triển, thì khả năng cải tạo
tự nhiên của con ngời ngày càng cao, khi đó càng nhiều những dạng vật
chất trong tự nhiên trở thành đối tợng lao động hơn.
Đối tợng lao động rất phong phú, đa dạng và có nhiều cấp độ khác
nhau. Trong quá trình sản xuất, có những vật phẩm trong tự nhiên con ngời
17
chỉ việc khai thác mang về là có thể đáp ứng ngay đợc những nhu cầu nào
đó của mình, cũng có những loại vật phẩm lại phải qua nhiều lần cải tạo,
nhiều khâu trung gian, mới trở thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con
ngời. Khi nền sản xuất xã hội càng phát triển, khoa học - công nghệ càng
cao, thì loại đối tợng phải cải tạo nhiều lần càng đợc mở rộng, điều này là
do nhu cầu ngày càng cao của con ngời quy định.
Chúng ta đã biết rằng, trong sản xuất con ngời thờng xuyên tự cải
tạo mình về mọi mặt, cũng nh liên tục cải tiến công cụ lao động, để ngày
càng làm ra nhiều sản phẩm nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng
của con ngời và xã hội. Ngợc lại, nhu cầu của xã hội cũng tác động làm cho
sản xuất ngày càng phát triển, kéo theo các lĩnh vực phục vụ cho hoạt động
sản xuất cũng phát triển theo. Đặc biệt là sự phát triển của công cụ lao động
và việc ứng dụng các thành tựu của khoa học để cải tiến, sáng chế, phát
minh những công cụ lao động đó, đã làm cho con ngời ngày càng có vai trò
to lớn, càng có sức mạnh ghê gớm trớc tự nhiên. Sức mạnh của con ngời
phát triển ở cả chiều sâu lẫn chiều rộng trong việc tác động, khai thác đối t-
ợng lao động. Vì thế mà hiện nay, vấn đề đối tợng lao động cần phải đợc
xem xét và quan tâm đặc biệt, để tránh những hiểm họa do chính sự phát
triển của nó gây ra nh tài nguyên cạn kiệt, môi trờng suy thoái và ô nhiễm
làm cho sự sống của con ngời đang bị đe dọa
Hoạt động lao động, nói theo C.Mác, là sự trao đổi chất giữa con
ngời với tự nhiên, con ngời phải kiểm tra và điều tiết một cách hợp lý các
hoạt động ấy, nhng phần lớn con ngời mới chỉ quan tâm phần nhiều đến
việc khai thác tự nhiên, lấy ở tự nhiên là chính, ít khi trả lại cho tự nhiên
những gì con ngời đã lấy. Đó là những những sai lầm nghiêm trọng, phải trả
giá đắt của con ngời, chính các nhà kinh điển sáng lập ra phép biện chứng
duy vật đã cảnh báo từ lâu:
18
Chúng ta hoàn toàn không thống trị đợc giới tự nhiên nh
một kẻ xâm lợc thống trị một dân tộc khác, nh một ngời sống bên
ngoài tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xơng thịt,
máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta
nằm trong lòng giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta
đối với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh
vật khác, là chúng ta nhận thức đợc quy luật của tự nhiên và có
thể sử dụng đợc những quy luật đó một cách chính xác [63, tr.
655].
Trong những đối tợng lao động mà con ngời tác động, khai thác, có
những yếu tố có khả năng phục hồi trở lại, cũng có những yếu tố không thể
hồi phục đợc bởi quá trình sinh thành nó phải trải qua một thời kỳ thiên tạo
rất lâu dài so với lịch sử của xã hội con ngời. Do đó, hiện nay
vấn đề cạn kiệt tài nguyên, cạn kiệt năng lợng, ô nhiễm môi trờng, bệnh tật,
v.v đã trở thành vấn đề toàn cầu, thách thức toàn nhân loại, bắt buộc mọi
quốc gia, mọi dân tộc, mọi khu vực phải xem xét lại những vấn đề thuộc về
đối tợng lao động của mình.
Trong t liệu sản xuất, ngoài các yếu tố công cụ lao động và đối tợng
lao động, còn cần phải có rất nhiều các điều kiện, phơng tiện khác hỗ trợ
cho hoạt động sản xuất nh đờng sá, các phơng tiện vận chuyển, bến bãi, nhà
kho, thông tin phối hợp sản xuất, v.v Mặc dù những yếu tố này không trực
tiếp làm ra sản phẩm, nhng có những ảnh hởng lớn đến sản xuất, sản xuất
càng phát triển đòi hỏi những điều kiện và phơng tiện phục vụ sản xuất
càng phải phát triển theo. Đặc biệt, trong sản xuất hàng hóa nếu nh không
chú ý thỏa đáng đến những điều kiện đó, nó sẽ ảnh hởng rất lớn đến hiệu
quả sản xuất xã hội vì những yếu tố này góp phần làm tăng hay giảm các
chi phí giao dịch, chi phí cho vận chuyển nguyên vật liệu, bảo quản các sản
phẩm, đó là những chi phí cũng đợc lấy ra từ giá trị của sản phẩm. Đối với
19
những vùng còn lạc hậu, càng cần phát triển các điều kiện và phơng tiện
này nhiều hơn, bởi vì nó còn góp phần lôi kéo đầu t, lu thông các yếu tố
phục vụ sản xuất.
1.1.3. Khoa học - công nghệ
Khoa học - công nghệ là tri thức của nhân loại, ở một phạm vi nhất
định nào đó nó đợc xem nh một yếu tố thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống
xã hội, nhng ngày nay ngời ta đã thừa nhận khoa học - công nghệ là một
nhân tố đặc biệt của lực lợng sản xuất, nhân tố này chỉ thực sự phát huy đợc
vai trò của nó khi đợc kết hợp với con ngời và các yếu tố của t liệu lao
động. Do khoa học - công nghệ đang ngày càng có vai trò to lớn trong các
yếu tố của lực lợng sản xuất, cho nên chúng tôi xét riêng nó nh một yếu tố
tơng đối độc lập để một mặt đánh giá đúng vai trò to lớn khoa học - công
nghệ, tránh những t tởng quá coi thờng hoặc quá đề cao vai trò của nó dẫn
đến làm lu mờ các yếu tố khác trong cấu trúc của lực lợng sản xuất; mặt khác
qua đó có điều kiện để xét đến những yếu tố bên ngoài lực lợng sản xuất
đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của lực lợng sản xuất, mà sự tác
động đó cũng là nhờ có sự xâm nhập của khoa học - công nghệ.
Khoa học - công nghệ đợc ra đời trên cơ sở nhu cầu và mục đích
của đời sống thực tiễn xã hội, chính thực tiễn là động lực thúc đẩy nó phát
triển. Khoa học công nghệ bao gồm toàn bộ các quá trình phản ánh đúng
đắn hiện thực khách quan và các quá trình cải tạo thế giới khách quan đó.
Về tổng thể, có thể coi khoa học - công nghệ là một hệ thống những tri thức
căn bản phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và những tri thức về các
giải pháp hành động để cải tạo hiện thực đã đợc thực tiễn kiểm nghiệm; đợc
ứng dụng nhanh chóng vào quá trình sản xuất vật chất. Nh vậy, khoa học -
công nghệ có nội dung khá phong phú, trong đó bao hàm các nhân tố thuộc
lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội và cả các nhân tố vật chất và cải tạo
thế giới vật chất. Công nghệ hiện đại là kết quả của sự kết hợp khoa học và
20
kỹ thuật với hoạt động của con ngời, là tập hợp những công cụ, phơng tiện
một cách hợp lý, có hiệu quả cao nhằm biến các nguồn tài nguyên thiên
nhiên thành những vật phẩm hay hàng hóa. Công nghệ còn là kỹ năng chế
tạo, sử dụng những công cụ lao động, trình độ tổ chức, quản lý sản xuất và
mua, bán sản phẩm, v.v Nhờ những thành tựu của khoa học - công nghệ
mà sản xuất xã hội có những thay đổi to lớn, nó không chỉ là sự thay đổi,
phát triển trong kỹ thuật sản xuất mà còn đa đến những công nghệ mới,
những ngành sản xuất mới, phát hiện và đề ra nhiều phơng pháp mới trong
sản xuất; nhất là những phát hiện về nguồn nguyên liệu và nguồn năng lợng
mới, nó đã làm cho hoạt động sản xuất của xã hội phát triển với một tốc độ
cha từng có, đáp ứng nhanh chóng tất cả các nhu cầu của con ngời. Hơn
nữa, nhờ có những thành quả của khoa học - công nghệ, chức năng của ngời
sản xuất đã thay đổi, con ngời ngày càng ít phải tham gia vào các hoạt động
sản xuất vật chất mà chủ yếu là điều khiển, nghiên cứu các quá trình sản
xuất đó. Trớc sức mạnh và hiệu quả kỳ diệu của nó làm cho nhiều ngời lầm
tởng rằng với khoa học - công nghệ thì có thể thay thế tất cả, nhng cần hiểu
rằng bản thân khoa học - công nghệ không thể tách khỏi con ngời, chúng
chỉ biểu hiện đợc sức mạnh của nó thông qua công cụ lao động và thông
qua hoạt động thực tiễn của con ngời. Mọi lý lẽ khác, muốn dựa vào khoa
học - công nghệ để giải thích, để lảng tránh một nội dung nào khác, hay
muốn thay thế vai trò to lớn của con ngời trong sản xuất đều không có cơ
sở tồn tại.
Nhân loại đã từng chứng kiến nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất
vật chất do những cuộc cách mạng về khoa học - công nghệ đem lại. Càng
về sau, khoa học càng đem lại cho con ngời những đổi thay mạnh mẽ và sâu
sắc. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ ngày nay, vừa phát triển mạnh
về chiều sâu, vừa mở rộng ra nhiều lĩnh vực và đang đợc đặc biệt quan tâm
ở ba mũi nhọn cơ bản là:
21
Thứ nhất: Công nghệ điện tử, tin học và viễn thông. Bằng kỹ thuật
số và ứng dụng rộng rãi tin học vào đời sống và sản xuất: từ tổ chức, quản
lý, điều hành cho đến mua bán các sản phẩm, tạo mẫu mã, v.v Quá trình
sản xuất vật chất và hoạt động của con ngời đã ngày càng tự động hóa cao,
trong đời sống - xã hội đã xuất hiện nhiều thuật ngữ mới nh: nền kinh tế ảo,
thị trờng ảo hoặc kinh tế mạng, kinh tế tri thức Sự toàn cầu hóa thông tin
và thị trờng kinh tế làm cho thế giới dờng nh trở nên nhỏ bé hơn đối với con
ngời. Điều đó cho phép những quốc gia chậm phát triển có cơ hội tránh đợc
các bớc phát triển tuần tự không cần thiết trong lịch sử để đi tắt, đón đầu tạo
ra sự phát triển mới của mình. Nhng đó cũng chính là rào cản lớn nhất, làm
giãn khoảng cách phát triển giữa các nớc phát triển cao với các nớc đang
phát triển và các nớc chậm phát triển nếu nh không có các chiến lợc phát
triển đúng đắn, không có các chính sách và biện pháp đi tắt đón đầu một
cách phù hợp.
Thứ hai: Công nghệ vật liệu, năng lợng mới. Nhờ các thành tựu của
khoa học - công nghệ, hàng loạt các loại vật liệu mới ra đời nh: vật liệu
cách điện cao cấp, vật liệu siêu dẫn, siêu bền, siêu cứng, siêu nhẹ, và các
dạng năng lợng mới nh năng lợng nguyên tử, năng lợng mặt trời, năng lợng
gió, cũng đã đợc khai thác theo công nghệ mới, giúp con ngời làm tăng
giá trị các vật liệu tự nhiên lên nhiều lần, thay thế đợc nhiều vật liệu gây ô
nhiễm môi trờng và khan hiếm mà trớc đây con ngời quen sử dụng.
Thứ ba: Công nghệ sinh học. Chỉ vài thập kỷ gần đây, công nghệ
sinh học đã chứng tỏ sức mạnh kỳ diệu của mình đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội nói chung, đối với lực lợng sản xuất nói riêng. Bằng những phát
hiện mới về công nghệ tế bào, công nghệ sinh sản, công nghệ gen và các
phơng pháp sinh học mới, con ngời tạo ra những giống cây trồng và vật
nuôi mới có nhiều u điểm lớn cả về chất lợng cũng nh năng suất và giá
thành. Đặc biệt nhờ công nghệ sinh học, làm cho con ngời ngày càng khỏe
22
mạnh, có tuổi thọ cao và ngày càng đẹp hơn. Hiện nay khoa học sinh học đã
công bố bản đồ gen con ngời và đã bắt đầu giải mã một phần bộ gen đó.
Với thành tựu này, khoa học còn có thể ứng dụng và chế tạo những ngời
máy sinh học và giải quyết nhiều vấn đề về sự sống nói chung.
Nh đã biết, trớc đây khoa học muốn tham gia vào quá trình sản
xuất thì phải thông qua hệ thống: con ngời - khoa học - kỹ thuật - sản xuất -
con ngời; trong đó quá trình chuyển từ khoa học đến kỹ thuật rồi đến sản
xuất là một thời gian rất dài, thậm chí nó đủ để làm lu mờ vai trò của khoa
học. Ngày nay sự phát triển của khoa học vợt trớc rất xa so với nhu cầu của
sản xuất, điều đó tác động rất mạnh đến mọi mặt của quá trình sản xuất nói
chung. Dới góc độ đó thì có thể nói rằng khoa học đã trở thành lực lợng sản
xuất. Nhng trong thực tế chỉ khi khoa học đã thẩm thấu vào các yếu tố của
lực lợng sản xuất thì chúng ta mới nhận rõ vai trò trực tiếp và to lớn của
khoa học đối với lực lợng sản xuất. Những thành tựu của khoa học - công
nghệ đem lại sự phát triển vợt bậc cho lực lợng sản xuất, song chính nó
cũng có mặt trái đáng phải lu tâm, nhất là những ngời sử dụng những thành
tựu này một cách phi nhân tính, chạy theo một vài lợi ích các nhân. Tất
nhiên ở đây không chỉ nói về khoa học tự nhiên mà ngay cả khoa học xã hội
cũng đang dần trong quá trình trở thành nh vậy.
Cùng với những thành tựu của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội
và nhân văn cũng đang ngày một phát huy vai trò to lớn của mình trong đời
sống - sản xuất vật chất xã hội. Một mặt, khoa học xã hội và nhân văn
nghiên cứu các quá trình tâm, sinh lý của con ngời và tìm cách phát huy cao
độ tính tích cực, sáng tạo của con ngời trong sản xuất vật chất. Mặt khác,
nó còn tìm ra những khuynh hớng vận động của xã hội nói chung và của
nền kinh tế nói riêng, nhờ đó có những chính sách, định hớng phát triển
kinh tế - xã hội một cách phù hợp.
23
1.2. Sự phát triển của lực lợng sản xuất và các nhân tố
ảnh hởng đến sự phát triển
Do những đòi hỏi của đời sống thực tiễn và của quá trình sản xuất
vật chất, lực lợng sản xuất đã thờng xuyên vận động, phát triển một cách
liên tục, khách quan. Trong quá trình vận động, phát triển của lực lợng sản
xuất, có những nhân tố tác động tích cực tạo điều kiện cho nó đi lên, nhng
cũng có những nhân tố cản trở sự đi lên đó. Vì vậy, muốn thúc đẩy lực lợng
sản xuất phát triển buộc chúng ta phải nhận thức, phải tác động đến các nhân
tố, các điều kiện và các quá trình có ảnh hởng đến sự vận động, phát triển
của lực lợng sản xuất, nhằm hạn chế tối đa những cản trở, những "xiềng
xích" có thể có từ nhiều góc cạnh khác nhau. Trong đó cần xác định cả những
nhân tố bên trong và bên ngoài của lực lợng sản xuất, vai trò của từng nhân
tố đó đối với tiến trình vận động, phát triển của lực lợng sản xuất, trên cơ sở
đó cải tạo để nó tạo điều kiện cho lực lợng sản xuất phát triển.
Sản xuất vật chất là điều kiện quyết định sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài ngời. Các nhân tố khác nhau của đời sống xã hội đều có quan hệ
mật thiết với hoạt động sản xuất vật chất nói chung và với lực lợng sản xuất
nói riêng. Do đó đối với lực lợng sản xuất, có rất nhiều nhân tố trực tiếp
hoặc gián tiếp ảnh hởng đến sự vận động và phát triển của nó, có thể tổng
hợp lại một số yếu tố cơ bản nh sau:
1.2.1. Tác động của chính các nhân tố cấu thành lực lợng sản xuất
Lực lợng sản xuất phát triển đợc trớc hết là do các nhân tố bên trong
nó quan hệ biện chứng với nhau và thờng xuyên vận động, phát triển không
ngừng. Nhng mỗi nhân tố đó lại có hình thức, cách thức và những động lực
thúc đẩy sự phát triển của nó một cách tơng đối khác biệt. Trong đó có một
số nhân tố nhạy cảm, năng động, có thể thúc đẩy sự phát triển của lực lợng
sản xuất một cách nhanh nhất. Đó là các yếu tố:
24
Thứ nhất là: Con ngời là động lực thúc đẩy lực lợng sản xuất phát
triển bền vững.
Con ngời là một bộ phận hợp thành lực lợng sản xuất, không những
thế mà còn là một bộ phận đặc biệt, thiếu nó thì tất cả mọi nhân tố khác đều
không thể trở thành lực lợng sản xuất. Con ngời đang ngày càng chứng tỏ vị
trí đặc biệt đó bằng hoạt động trí tuệ của mình, sáng chế ra những thành tựu
khoa học - công nghệ dần thay thế cho lao động của chính mình, bổ trợ cho
sức lực vật chất và trí tuệ của con ngời, tác động, chinh phục tự nhiên ngày
một hiệu quả hơn. Đồng thời, chính con ngời lại sử dụng, điều khiển các
phơng tiện, công cụ lao động đó để nó hoạt động theo một nội dung đã đợc
định trớc. Để phát triển một cách ổn định và bền vững mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội nói chung, phát triển lực lợng sản xuất nói riêng, mọi
dân tộc và mọi quốc gia đều phải cố gắng tác động, khai thác nguồn nhân
lực của mình. Nhất là trong tình hình khoa học - công nghệ phát triển một
cách mạnh mẽ nh hiện nay, các nguồn năng lợng và nguyên liệu ngày càng
có nguy cơ cạn kiệt, khan hiếm thì việc quan tâm phát triển nguồn nhân lực
ngày càng cần thiết hơn cả đối với sự phát triển, điều này đợc thể hiện ở
chỗ:
- Con ngời là động lực của sự phát triển. Vì nhờ có con ngời và qua
chế tác của con ngời thì vật liệu tự nhiên mới trở thành những công cụ lao
động, mới trở thành những vật phẩm đáp nhu cầu nào đó của con ngời và xã
hội. Do những nhu cầu trong đời sống - xã hội ngày càng tăng, con ngời đã
buộc phải thờng xuyên cải tiến những công cụ lao động, làm cho sản xuất
vật chất và mọi mặt của đời sống - xã hội ngày càng phát triển. Với sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ nh ngày nay, con ngời ngày càng
ít phải tham gia trực tiếp vào các hoạt động sản xuất, mà chủ yếu là nghiên
cứu, điều khiển, giám sát các quá trình đó. Điều này là một bằng chứng về
sức lực trí tuệ, một loại sức lực chỉ có ở con ngời và nhờ đó làm cho xã hội
25