Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.59 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc đời cao đẹp và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Bác Hồ đã trở
thành “huyền thoại ngay từ khi Người còn sống” là niềm tự hào chung của
dân tộc ta và của nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hình mẫu tuyệt vời về sự vận dụng một
cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh đặc thù của Việt
Nam. Người đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội nhờ có sự
giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin và nắm bắt được xu thế tất yếu của thời
đại. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sợi chỉ đỏ xuyên suốt
tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã khẳng định không phải một lần rằng,
chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt
để vấn đề độc lập dân tộc, mới có thể mang lại tự do, hạnh phúc thực sự
cho nhân dân, mới xóa bỏ vĩnh viễn áp bức, bóc lột và nô dịch, mới giải
quyết tận gốc vấn đề giải phóng con người, giải phóng xã hội. Lựa chọn
con đường xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của Việt Nam, Hồ Chí Minh
đã mở đường cho sự phát triển mới của nước ta, đặt cách mạng Việt Nam
vào quỹ đạo của cách mạng vô sản.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1991 của Đảng nêu rõ: “Nắm vững
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là bài học xuyên suốt quá trình
cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập
dân tộc”.
Nhìn lại 20 năm đổi mới, trong Báo cáo Chính trị của Ban chấp
hành Trung ương tại Đại hội X, Đảng ta khẳng định rõ: “Trong quá trình
đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên


nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không


phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm cho chủ nghĩa xã hội được
nhận thức đúng đắn hơn, và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới
không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư
tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng” [7, 70]. Như
vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chính trị không thay
đổi, dù trong bất cứ giai đoạn nào, hoàn cảnh nào của cách mạng Việt
Nam.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, cả nước đang đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội thì vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
vẫn giữ nguyên tính cấp thiết của nó.
Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi chọn “Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ
Chí Minh là một vấn đề khá quen thuộc. Đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Như công trình nghiên
cứu của các tác giả:
Nguyễn Bá Linh (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh – độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội đã làm rõ tư tưởng
độc lập dân tộc là ngọn cờ bách chiến, bách thắng của cách mạng Việt
Nam, thêm vào đó là những vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý
luận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Gần đây nhất là công trình Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thuộc chương trình khoa học cấp bộ
trọng điểm: Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay giai đoạn 2008



– 2009 của Vũ Đình Hòe và Bùi Đình Phong (đồng chủ biên) đã tập trung
làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng
dân tộc là cơ sở lý luận cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do của
dân tộc Việt Nam. Thế giới đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn còn nguyên giá trị và nóng hổi tính
thời sự.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước,
chúng tôi tập trung nghiên cứu sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam
về tư tưởng “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” của Hồ Chí
Minh trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, thể hiện rõ nhất đó là
độc lập về chính tri – kinh tế, về văn hóa, và về đối ngoại, đồng thời là cơ
sở để Đảng ta giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc và giai cấp hiện
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ
* Mục đích: Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới ở
Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
- Làm rõ sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam về tư tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới
nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.


Về phương pháp nghiên cứu, đề tài có sử dụng nhất quán các

phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, lôgic và lịch sử, khái quát
hóa, hệ thống hóa, so sánh…
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần nghiên cứu làm phong phú thêm tư liệu tư tưởng
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đặc biệt
là làm rõ sự vận dụng của Đảng ta về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Đề tài có thể làm
tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
6. Kết cấu
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 2
chương, 5 tiết


CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Truyền thống văn hóa dân tộc
Chủ nghĩa yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì
tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước” [35, 484 - 485].
Thiên tài của Nguyễn Ái Quốc chính là ở chỗ, vượt lên tầm nhìn bị
ràng buộc của ý thức hệ Nho giáo hay hệ tư tưởng cải lương tư sản của
các bậc sĩ phu, những nhà yêu nước đương thời, Người đã mang đến cho
dân tộc Việt Nam sự thức tỉnh mới mang tính thời đại. Là người yêu
nước, thương dân, Nguyễn Ái Quốc sớm nhận ra sự giả dối giữa lời nói
và hành động của những kẻ nhân danh văn minh để khai hóa cho dân tộc

mình. Người hướng tới việc tìm cho ra nguồn gốc của mọi nỗi đau của
dân tộc từ bản chất kẻ thù - chủ nghĩa thực dân xâm lược. Trong quá trình
tìm đường cứu nước, cứu dân, từ khảo nghiệm, đúc kết kinh nghiệm trong
nước và thế giới, Người đã thâu tóm lý luận thời đại để hình thành nên
một chiến lược, một đường hướng cách mạng có khả năng giải quyết
những đòi hỏi khách quan đang đặt ra lúc bấy giờ của dân tộc Việt Nam.
Theo đó, Người khẳng định rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc,
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, “chỉ có chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng các dân tộc bị áp bức
và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” [23, 314]. Đó là


con đường đấu tranh lâu dài, gian khổ và phức tạp, đòi hỏi tất cả mọi
người phải kiên định: “Trong cuộc đấu tranh một mất một còn giữa một
bên là giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức với
một bên là bọn đế quốc cùng bè lũ tay sai bán nước, bọn phong kiến địa
chủ và tư sản phản động, nhân dân các nước cần có tinh thần cách mạng
triệt để, luôn luôn giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, không sợ gian khổ, hy sinh, kiên quyết đấu tranh đến cùng vì độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từ đó Người xác định con đường phát
triển của cách mạng nước ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội mà
trong Cương lĩnh chính trị, Người viết: “Làm cách mạng tư sản dân
quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
1.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Về phương diện thực tiễn – lịch sử, khẳng định của Hồ Chí Minh
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam, độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được đặt trên một nền hiểu biết sâu
rộng lịch sử của các cuộc cách mạng đã từng diễn ra trên thế giới. Trong
tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh chia các cuộc cách mạng đó
thành ba loại: A. Tư bản cách mệnh (như cách mệnh Pháp năm 1789), B.

Dân tộc cách mệnh (như cách mệnh Ý 1859), C. Giai cấp cách mệnh (như
cách mệnh Nga 1917).
Đánh giá vị trí lịch sử và chức năng xã hội của các cuộc cách
mạng dân chủ tư sản, đặc biệt là cách mạng Pháp 1789 và cách mạng Mỹ
1776, Hồ Chí Minh nhìn thấy và phát hiện rằng: Các cuộc cách mạng đó
đều là cách mạng tư sản và là những cuộc cách mạng không triệt để,
chẳng hạn “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay,
nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai”
[21, 270]. Hoặc như cách mạng Pháp 1789 mặc dầu được xem là một
cuộc cách mạng tư sản điển hình, nhưng “cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa
là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa dân


chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc
địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn mưu cách
mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức” [21, 280]
Trong quan niệm của Hồ chí Minh, tiêu chí hàng đầu để đánh giá tính
triệt để của một cuộc cách mạng không phải là những lý tưởng, khẩu hiệu
được nêu ra, mà là quy mô giải phóng quần chúng lao động bị áp bức. Qua
quá trình tìm tòi và khảo nghiệm, Hồ Chí Minh đã chọn cách mạng tháng
Mười Nga, rằng chỉ có cách mạng Nga 1917 chỉ rõ con đường đi tới của
cách mạng Việt Nam. Tính triệt để và nội dung nhân đạo của cách mạng
tháng Mười sau này còn được Hồ Chí Minh khẳng định lại. Nhờ cuộc
cách mạng đó mà nhân dân lao động đã làm chủ nước nhà, những dân tộc
nhỏ yếu giành được độc lập, ruộng đất trở về tay người cày.
1.1.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Về phương diện lý luận, Hồ Chí Minh tìm thấy nhiều câu trả lời
cho tình thế cách mạng Việt Nam trong lý luận của Lênin, đặc biệt là
những vấn đề về dân tộc và thuộc địa, về khả năng và triển vọng tương lai
của các dân tộc phương Đông. Trong những điều kiện lịch sử mới, Lênin

đã phát triển tư tưởng cách mạng không ngừng của Mác, Ăngghen, luận
chứng một cách toàn diện khả năng đi tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của các dân tộc thuộc địa, có nền kinh tế
lạc hậu, kém phát triển. Trên nền lý luận chung đó, Hồ Chí Minh đã lĩnh
hội những vấn đề mấu chốt, cần thiết nhất cho nhân dân mình, dân tộc
mình.
So với Lênin, điểm mới trong tư tưởng cách mạng không ngừng
của Hồ Chí Minh là giai cấp công nhân không phải tiến hành hai cuộc
cách mạng chính trị như cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc. Sự
thống nhất biện chứng giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp,
giải phóng con người được biểu hiện ở ngay trong nội dung cuộc cách
mạng. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là


một quá trình phát triển không ngừng của hai nhiệm vụ chiến lược trong
một cuộc cách mạng được tiến hành liên tục, xen kẽ và thúc đẩy lẫn nhau:
giải phóng dân tộc về mặt chính trị và giải phóng dân tộc về mặt kinh tế.
Như vậy, cách mạng không ngừng ở Việt Nam là một quá trình đấu tranh
và biển đổi liên tục, có thay đổi một phần về đối tượng, nhiệm vụ và
phương pháp nhưng không thay đổi phương hướng, mục tiêu, động lực,
lực lượng và giai cấp lãnh đạo.
Tư tưởng cách mạng không ngừng của Hồ Chí Minh – độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau là tổng hợp những
quan điểm chiến lược về chính trị, lý luận, về nhận thức và hành động của
toàn Đảng, toàn dân ta trong tiến trình cách mạng.
1.2 Vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư
tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1. Nhận thức của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên

suốt cách mạng Việt Nam, là một trong những nội dung cơ bản, cốt lõi
trong tư tưởng Hồ chí Minh, là một nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng việt Nam gần tám thập kỷ qua. Nhận thức của Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã trải qua một cuộc hành trình,
khảo nghiệm đầy gian khổ của Người, nhận thức đó dựa trên cơ sở của
truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và chủ nghĩa
Mác – Lênin để hình thành
Trước hết, theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là quyền độc lập thực
sự, độc lập hoàn toàn về chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh quốc gia, toàn
vẹn lãnh thổ… Quyền độc lập dân tộc là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Do vậy, bất cứ thế lực nào xâm lược đều bị đánh trả, bất cứ kẻ nào phá
hoại đều bị trừng trị


Nền độc lập thực sự và hoàn toàn phải được thực hiện một cách
triệt để theo nguyên tắc: nước Việt Nam của người Việt Nam, mọi vấn đề
thuộc quyền quốc gia Việt Nam đều do nhân dân Việt Nam tự giải quyết.
Nhân dân Việt Nam quyết không chấp nhận bất cứ sự can thiệp xâm lược
nào của nước ngoài
Độc lập dân tộc bao giờ cũng phải gắn với hòa bình, thống nhất đất
nước. Người nhấn mạnh: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay
đổi.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Đây là vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
Độc lập cho dân tộc mình đồng thời phải tôn trọng và ủng hộ cuộc
đấu tranh cho độc lập, tự do của các dân tộc khác, phải nêu cao tinh thần
quốc tế trong sáng
Quan niệm đó đã hướng Hồ Chí Minh đi theo con đường chủ nghĩa
xã hội, vì chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản “mới cứu nhân

loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc của
sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất”[29, 461]. Vì
vậy, “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã
hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”[34, 30].
Hồ Chí Minh không đưa ra một định nghĩa về chủ nghĩa xã hội với
những mục tiêu đầy đủ, toàn diện, hoàn chỉnh của một mô hình lý tưởng
được xây dựng sẵn trong tư tưởng, nhận thức để từ đó “bắt thực tiễn phải
khuôn vào”. Theo Người: “Xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng,
tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” [33, 159], “chủ nghĩa xã
hội là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến
bộ”[33, 97], “nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết
nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người
có công ăn việc làm, được ấm no và sống cuộc đời hạnh phúc”[33, 17].


Như vậy theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một xã hội
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ để “ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”.
Về chính trị, chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội do nhân dân lao
động làm chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, địa vị cao nhất là dân.
Về kinh tế, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu,
nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Về văn hóa, chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn
hóa, đạo đức, trong đó con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột,
bất công, có cuộc sống tinh thần phong phú, có điều kiện để phát triển hết
mọi khả năng của mình.
Như vậy, quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội có sự gắn bó thống nhất và quan hệ biện chứng với nhau. Đó
tuy là hai giai đoạn kế tiếp nhau của một quá trình cách mạng, nhưng lại

không tách rời nhau, mà giai đoạn trước là sự chuẩn bị điều kiện cho giai
đoạn sau và giai đoạn sau là sự kế tục và hoàn thiện các mục tiêu của giai
đoạn trước.
1.2.2. Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội
Mối quan hệ biện chứng thể hiện ở chỗ, độc lập dân tộc là điều kiện
tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm
bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng
giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh được
thể hiện qua mối quan hệ giữa ba cuộc cách mạng: cách mạng dân tộc, cách
mạng dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói đây là một quá
trình phát triển liên tục của cách mạng nước ta.
Trước hết, là mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc với cách mạng
dân chủ.


Ở Đông Dương, căn cứ tình hình tiến triển cách mạng chung trên thế giới,
trong Nghị quyết về cách mạng Đông Dương (9–1929), Quốc tế Cộng sản
chỉ rõ: Trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng đó chỉ có thể tư sản dân
chủ, nghĩa là trong giai đoạn đó nó chưa thể giải quyết những vấn đề trực
tiếp xã hội chủ nghĩa… Tính chất của nó, cách mạng Đông Dương phải là
và sẽ là một cuộc cách mạng ruộng đất và phản đế.
Việt Nam là nước thuộc địa, nửa phong kiến, nghĩa là hoàn cảnh
khác Nga và Trung Quốc, nên đòi hỏi Hồ Chí Minh phải vận dụng sáng
tạo kinh nghiệm cách mạng Nga, cách mạng Trung Quốc và Nghị quyết
của Quốc tế cộng sản trong tiến trình cách mạng Việt Nam nhằm đảm bảo
thắng lợi, đồng thời góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng thế
giới. Do đó, khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh “chủ trương làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Cuộc cách mạng mà Hồ Chí Minh chủ trương mang tính chất một cuộc

cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, nửa phong kiến, có nền kinh tế chưa
phát triển. Cuộc cách mạng đó có ba nhiệm vụ cơ bản được tiến hành
khăng khít với nhau, nhưng không nhất loạt ngang hàng nhau:
Một là, đánh đuổi thực dân đế quốc Pháp, giành lại độc lập cho dân
tộc;
Hai là, đánh đổ chính quyền tay sai của thực dân Pháp (phong kiến
đương quyền, tầng lớp đại địa chủ và đại tư sản việt Nam) thực hiện khẩu
hiệu “người cày có ruộng” và các quyền dân chủ cơ bản cho nhân dân.
Ba là, tiến hành từng bước xây dựng đất nước độc lập, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân, hướng theo
mục đích “ đi tới xã hội cộng sản”.
Ba nhiệm vụ cơ bản nói trên được chỉ đạo thực hiện lồng ghép
khăng khít, xen kẽ với nhau thành hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng:
- Chiến lược giải phóng dân tộc chủ yếu về mặt chính trị - độc lập
dân tộc.


- Chiến lược giải phóng dân tộc chủ yếu về mặt kinh tế - tức là
xây dựng chủ nghĩa xã hội (giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng
sản)
Khi đất nước đã giành được độc lập thật sự và tiếp tục sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội thì hai nhiệm vụ chiến lược đó có vị trí ngược
lại là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc.
Hai nhiệm vị chiến lược nói trên là nội dung của chiến lược cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là chiến lược
của cách mạng Việt Nam – độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có mối quan
hệ biện chứng không thể tách rời: không có độc lập thực sự thì không thể
xây dựng đất nước theo xã hội xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, xây dựng chủ
nghĩa xã hội để đi tới xã hội cộng sản thành công thì độc lập dân tộc thực sự

vững bền và vị thế của đất nước vững vàng, đời sống vật chất và tinh thần
của mọi người dân sẽ được bảo đảm và không ngừng được nâng cao. Cho
nên giành độc lập dân tộc là mục tiêu trước mắt và xây dựng chủ nghĩa xã
hội “để đi tới xã hội cộng sản” là mục đích của cách mạng Việt Nam.
Tiếp theo là mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ
nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh chủ trương không phải là một cuộc cách
mạng dân chủ tư sản kiểu mới, trong đó nhiệm vụ phản phong làm trước
nhiệm vụ phản đế như Chỉ thị Quốc tế Cộng sản về cách mạng Đông
Dương (12/ 1929) và Luận cương Chính trị (10/1930) đã chỉ ra.
Theo Hồ Chí Minh, tư sản dân quyền cách mệnh và thổ địa cách
mệnh để đi tới xã hội cộng sản lấy nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai làm
đối tượng đấu tranh và xóa bỏ trước tiên. Nhiệm vụ chống phong kiến
“rải ra” làm từng bước, nhằm phục vụ mục tiêu giải phóng dân tộc. Sau
khi giành chính quyền đã về tay nhân dân, nhà nước tiếp tục thực hiện
phần còn lại của nhiệm vụ dân chủ.


Hơn nữa, tư sản dân quyền cách mệnh và thổ địa cách mệnh để đi
tới xã hội cộng sản như Hồ Chí Minh vạch ra không phải trải qua hai
cuộc cách mạng chính trị, hai lần giành chính quyền như cách mạng Nga
và cách mạng Trung Quốc. Đường lối cách mạng Việt Nam do Hồ Chí
Minh vạch ra mang tính chất một cuộc cách mạng không ngừng hay một
cuộc cách mạng xã hội do giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó
tiến hành ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Cuộc cách mạng đó thực
hiện kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ dân chủ cũng như
kết hợp nhiệm vụ dân tộc dân chủ với nhiệm vụ xây dựng đất nước theo
con đường tiến dần lên xã hội xã hội chủ nghĩa “để đi tới xã hội cộng
sản”.
Sau khi chính quyền về tay nhân dân, thiết lập chế độ dân chủ nhân

dân, thực hiện chuyên chính dân chủ nhân dân – một hình thức biểu hiện
của chuyên chính vô sản. Trên nền tảng liên minh công nông và trí thức
dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động Việt Nam, nhà
nước dân chủ nhân dân kết hợp kháng chiến với kiến quốc. Về kiến quốc,
Nhà nước đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện từng bước cải
cách kinh tế, văn hóa, xã hội, con người, nhằm phục vụ quốc kế dân sinh,
nâng cao từng bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết
là nhân dân lao động. Đó là thực hiện từng bước nhiệm vụ giải phóng dân
tộc về mặt kinh tế.
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thắng lợi, bên cạnh những
quyền lợi kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội được cách mạng đem lại cho
nhân dân, Hồ Chí Minh không ngừng quan tâm đến đời sống thực tế của
nhân dân. Người đã nói: Chúng ta đấu tranh được tự do, độc lập rồi mà
dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Từ khi
nước nhà độc lập, Hồ Chí Minh chủ trương kết hợp giữ nước với dựng
nước, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tự cung tự cấp. Hồ Chí Minh
chỉ rõ thực hiện tự cung, tự cấp trong kháng chiến chống thực dân Pháp


không phải là bế quan tỏa cảng với nước ngoài, cũng không phải xóa bỏ
tất cả hệ thống phân công sản xuất, hoặc không còn việc lưu thông điều
hòa kinh tế giữa các địa phương với nhau. Người chỉ rõ, nước ta còn
nghèo, muốn sung sướng thì phải tự lực cánh sinh, cần cù lao động, cần
kiệm xây dựng nước nhà. Năm 1947 khi nói về mục đích của cách mạng,
Hồ Chí Minh viết:
“1. Mục đích: Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá
giàu. Người khá giàu thì giàu thêm. Người nào cũng biết chữ, người nào
cũng biết đoàn kết, yêu nước.
2. Cách làm: Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân” [25, 65].
Để thực hiện ý nguyện đó của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ, tất cả

các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước là không ngừng nâng
cao đời sống của nhân dân. “Chính sách của Đảng và chính phủ là phải
hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính
phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng
và Chính phủ có lỗi…Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh, thì chính sách của ta dù
có hay mấy cũng không thực hiện được” [26, 572]. Song song với việc
nâng cao đời sống nhân dân, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng từng
bước nền móng của chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, xem xét mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội thông qua những nhiệm vụ cụ thể của từng thời kỳ,
chúng ta sẽ thấy mọi nhiệm vụ được thực hiện đều xoay quanh một cái
trục có tính quy luật: cứu nước và dựng nước gắn bó chặt chẽ không tách
rời.
1.2.3. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là hướng tới giải
phóng dân tộc, giai cấp và con người triệt để
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để đi tới giải phóng
dân tộc, giai cấp và con người là điểm nổi bật nhất, là thực chất của tư
tưởng Hồ Chí Minh


Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định, chỉ có chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt đế vấn đề độc lập dân tộc,
mới có thể đem lại tự do và hạnh phúc thực sự cho nhân dân, chỉ có chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới xóa bỏ vĩnh viễn ách áp bức, bóc
lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản, mới thực hiện được giải phóng hoàn
toàn và triệt để đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động của tất cả
các dân tộc trên thế giới.
Bằng thực tiễn hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh làm phong
phú thêm cách tiếp cận chủ nghĩa xã hội khi hiểu bản chất của chủ nghĩa
xã hội là sự giải phóng con người, sự giải phóng kết tinh trong đó lý

tưởng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.
Chúng ta có thể thấy vấn đề giải phóng dân tộc và con người qua
cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, một xã
hội vì dân tộc, vì con người trong khái niệm cặp đôi của nó. Người quan
niệm: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh” [31,226],
“là cho mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do” [31,396], “là
làm cho mọi người được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ” [33, 97].
Chủ nghĩa xã hội là “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh
thần ngày càng tốt” [33, 591]. Những mục tiêu cụ thể trên đây được Hồ
Chí Minh khái quát một cách súc tích và nhất quán khi Người khẳng
định: “Xã hội chủ nghĩa không có bóc lột và áp bức dân tộc”[31,559], là
“một xã hội đảm bảo cho đất nước phát triển rực rỡ một cách nhanh
chóng chưa từng thấy, đưa quần chúng lao động đến một cuộc sống xứng
đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có
một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hung cường, hướng tới chân trời tươi
sáng mà trước kia không thể nghĩ tới” [31, 560].


CHƯƠNG 2
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
2.1 Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
2.1.1 Khái quát công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Việt Nam bước vào sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước và tiến
hành như một cuộc cách mạng thực sự chỉ bắt đầu từ năm 1986. Nhưng
trước đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách phát
triển kinh tế mang tính chất đổi mới. Những đổi mới này vừa đáp ứng đòi
hỏi của thực tiễn, vừa là bước tìm tòi, thử nghiệm con đường phát triển

của Việt Nam. Mặc dù, ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm
1960), Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú trọng vấn đề phát triển kinh tế và
xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Nhưng lúc đó và
cả sau này, khi cả nước đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội thì vấn đề phát
triển kinh tế của Việt Nam có nội dung cốt lõi là thực hiện công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa và trên cơ sở đó, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội. Chủ trương này là phù hợp với điều kiện cụ thể của
Việt Nam lúc đó nhưng càng về sau, nhất là khi cả nước đi vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội thì nó càng bộc lộ sự yếu kém trong nhận thức và vận
dụng một cách sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh vào từng giai đoạn phát triển cụ thể của cách mạng Việt
Nam. Đó là vấn đề nông nghiệp, nông dân khi đất nước chuyển giai đoạn
nhưng trên thực tế lại không được coi trọng, không nhìn thấy tầm chiến
lược của nó trong sự phát triển nền kinh tế - xã hội ở một nước sản xuất


nông nghiệp. Sự kéo dài chủ trương đó, hơn nữa lại có sai lầm trong thực
hiện đã làm cho nền kinh tế Việt Nam thực sự rơi vào một cuộc khủng
hoảng. Vì vậy, công cuộc đổi mới của Việt Nam có xuất phát điểm trước
hết từ chính yêu cầu phát triển nội tại của đất nước. Nó được bắt nguồn từ
nhu cầu thực tiễn phát triển đất nước, từ tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân lao động, từ kinh nghiệm sáng tạo của một số cơ sở, địa phương. Trên
cơ sở nhận thức lại chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, Đảng cộng sản và nhân dân Việt Nam đã tiến hành công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ
năm 1986.
Đến nay, sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã tiến hành được
trên 20 năm. Qua mỗi giai đoạn đổi mới (5, 10, 15, 20 năm), Đảng và
Nhà nước ta luôn có sự tổng kết cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn nhằm rút
ra những bài học và kinh nghiệm cho những giai đoạn phát triển tiếp theo.

Nhìn lại con đường phát triển của Việt Nam trước và từ khi đổi mới
đến nay dưới góc độ phát triển kinh tế - xã hội, có thể nói Việt Nam đã
trải qua những thời kỳ quan trọng như sau:
- Giai đoạn 1979 – 1985: Thời kỳ mà khủng hoảng kinh tế - xã hội
ngày càng trầm trọng, nhất là sau khi thực hiện chính sách giá – lương –
tiền năm 1985 mà hậu quả của nó làm cho cuộc khủng hoảng đạt đến
đỉnh điểm vào đầu năm 1986. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những sáng
tạo về phương thức quản lý kinh tế cả trong sản xuất nông nghiệp lẫn
công nghiệp ở một số địa phương trong cả nước.
- Giai đoạn 1986 – 1990: Bước đầu giải quyết được những hậu quả
của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nhờ thực hiện những chủ trương và
chính sách đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
- Giai đoạn 1991 – 1996: Việt Nam ra khỏi khủng hoảng và liên tục
phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng trên 8%.


- Giai đoạn 1991 – 1999: Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính ở châu Á nên tốc độ tăng trưởng GDP giảm xuống còn khoảng 5%.
- Giai đoạn 2000 – 2007: Việt Nam chính thức ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội và đạt sự phát triển ổn định trên tất cả các mặt, các
lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội với tốc độ tăng trưởng liên tục đạt
khoảng 8%, tỷ lệ lạm phát luôn giữ ở một con số (khoảng 5 – 6%).
- Giai đoạn từ năm 2008 đến nay: Do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế - tài chính thế giới, kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn,
tốc độ tăng trưởng giảm xuống còn khoảng trên 6% (tháng 9 năm 2009).
2.1.2 Đặc trưng của công cuộc đổi mới ở nước ta
Nhìn lại lịch sử, có thể khái quát sự nghiệp đổi mới ở nước ta ở
những đặc trưng chủ yếu sau:
Thứ nhất, sự nghiệp đổi mới được tiến hành theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.

Thứ hai, đổi mới toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm được
tiến hành một cách tuần tự, từng bước phù hợp với mỗi thời kỳ, mỗi giai
đoạn.
Thứ ba, đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới hệ thống chính trị.
Thứ tư, đổi mới để phát triển trong ổn định
Thứ năm, đổi mới đất nước gắn liền mở cửa với thế giới bên ngoài.
2.1.3 Triển vọng của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
Đến nay, công cuộc đổi mới của Việt Nam đã đạt được
những thành tựu vô cùng to lớn và vững chắc. Đúng như đánh giá ghi
trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng: “Đất nước đã thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế
tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân


tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng
và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không
ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều,
tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp”
[7, 67- 68].
Như vậy, có thể khẳng định triển vọng của sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam nhất định sẽ tiến triển tốt đẹp, nhất định sẽ thành công vì những
lý do sau đây:
Thứ nhất, sự nghiệp đổi mới được đặt dưới sự lãnh đạo tài tình
của một Đảng duy nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam xuất phát từ thực tiễn của
chính xã hội Việt Nam.
Thứ ba, thực tiễn đổi mới ở Việt Nam luôn được được tiến hành tổng

kết, khái quát thành lý luận chung về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.2 Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sơ sở lý luận để
giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc và giai cấp
Trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, nói
chung Đảng ta rất vững vàng và sáng tạo trong chỉ đạo thực hiện mối
quan hệ giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, góp phần vào thắng lợi
của các cuộc kháng chiến.
Ngày nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội chủ
yếu là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết
và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động
thống nhất với lợi ích toàn dân tộc dưới mục tiêu chung là độc lập và chủ
nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nội dung đấu tranh trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đấu tranh ngăn


chặn những tư tưởng và hành động cản trợ sự nghiệp đó, đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta rất coi trọng và giải
quyết tốt mối quan hệ giai cấp – dân tộc. Có thể khái quát quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc
trong thời kỳ đổi mới hiện nay trong những nội dung sau:
Một là, trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, sự tồn tại lâu dài của các
giai cấp là một tất yếu khách quan
Hai là, trong thời kỳ quá độ, đấu tranh giai cấp không còn dừng ở
hình thức sơ khai, ban đầu là đấu tranh giữa giai cấp này với giai cấp khác,
mà đã trở thành cuộc đấu tranh giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa cách mạng và
phản cách mạng, giữa chế độ xã hội ưu việt và chế độ xã hội lỗi thời.

Ba là, xuất phát từ thực tiễn trên đây, vấn đề có ý nghĩa trọng đại
nhất hiện nay, vấn đề có tầm chiến lược là phải phát huy sức mạnh của
đại đoàn kết dân tộc.
2.3 Nắm vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong hội nhập
kinh tế quốc tế
2.3.1 Độc lập về chính trị - kinh tế
Độc lập tự chủ trong chính trị được hiện thực hóa trong quá trình
thực hiện đường lối đổi mới và nó trở thành một bài học có tính nguyên
tắc, đổi mới nhưng không đổi màu, Đảng ta khẳng định: “Trong quá trình
đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng chủ nghĩa Mác – lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đổi mới toàn
diện, đồng bộ có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp; đổi
mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ
động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới;
phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện đổi mới” [7, 19].


Độc lập trong kinh tế được Đảng ta khẳng định: “xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, chủ động và tích cực hội nhập”.
Nhận thức sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta nhấn mạnh yêu cầu phải
“gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế
quốc tế” [6, 166], coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong
chiến lược phát triển kinh tế đất nước.
2.3.3 Độc lập về văn hóa
Thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin, am tường lịch sử văn hóa
dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, ngay từ năm 1943,
chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,

đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [22, 431]. Ở đây,
Hồ Chí Minh hiểu văn hóa theo nghĩa rộng nhất của khái niệm này, bao
gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, khẳng định lý do, tính tất
yếu của sự tồn tại và phát triển của văn hóa và đặc biệt, Hồ Chí Minh đã
hai lần nhấn mạnh đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa là “sáng tạo và
phát minh”, đồng thời chỉ ra các lĩnh vực, loại hình chính của văn hóa.
Độc lập về văn hóa, Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc…cần tập trung xây dựng môi
trường, lối sống và đời sống văn hóa của mọi người dân ở cơ sở, phát huy
tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân” [7,
34].
Từ thực tiễn lãnh đạo văn hóa trong thời kỳ đổi mới, Đảng cộng
sản Việt Nam đã nêu rõ 5 quan điểm chỉ đạo xây dựng và phát triển văn
hóa Việt Nam.


Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, nền văn hóa mà Việt Nam xây dựng là nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Thứ ba, nền văn hóa mà Việt Nam xây dựng là nền văn hóa thống
nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Viêt Nam.
Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân
do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò
quan trọng.
Thứ năm, văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa
là sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự
kiên trì, thận trọng

2.3.4 Độc lập về đối ngoại
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một quan
điểm lớn có tính chất bao quát và xuyên suốt, việc vận dụng vào công tác
đối ngoại và hoạt động ngoại giao trong điều kiện hiện nay là cần thiết và
phải quán triệt thật sâu sắc.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định rằng: ngoại giao là một
mặt trận không có tiếng súng nhưng không kém phần gay go và quyết
liệt, cán bộ hoạt động trên mặt trận ngoại giao phải có lập trường, quan
điểm vững vàng, phải có bản lĩnh và hết sức linh hoạt, sáng tạo. Coi
ngoại giao là một mặt trận kể cả trong điều kiện hòa bình có ý nghĩa là
đặt ngoại giao ngang hàng với các hoạt động nhà nước khác như kinh tế,
chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội
Nhận thức rõ giá trị tinh thần của ngoại giao Việt Nam và nghệ thuật
ngoại giao Hồ Chí Minh. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và
trong sự nghiệp xây dựng tổ quốc, chúng ta đã xây dựng được những mối
quan hệ quốc tế cực kỳ quý báu. Chúng ta có đồng chí gắn bó lâu dài,


láng giềng thân thiết, có bạn bè ở khắp năm châu cùng sát cánh trong
những lúc gian nan nhất. Có thế nói, giá trị tinh thần của ngoại giao Việt
Nam là giá trị chính nghĩa và nhân đạo. Ngày nay, trong hợp tác phát
triển, chúng ta vẫn mong muốn một sự “hợp tác thành thật” cùng có lợi
và tôn trọng lẫn nhau. Không lợi dụng hợp tác để phá hoại, lật đổ và
“diễn biến hòa bình”. Trong điều kiện hiện nay, để xử lý được tình thế
nhiều phức tạp và ngày càng có tính đan xen đòi hỏi những người làm
ngoại giao phải có sự linh hoạt và tinh tế, có bản lĩnh chính trị cao, có
nghiệp vụ, chuyên môn giỏi và đặc biệt phải có sự am hiểu sâu sắc về văn
hóa chẳng những của dân tộc mình mà cả của đối tác là các quốc gia, dân
tộc khác. Có như vậy mới làm chủ được tình thế và xử lý được theo
nguyên tắc “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của chủ tịch Hồ Chí Minh. Sáng

tạo là một nguyên tắc của sự tiến bộ và phát triển. Khi nói đến vận dụng
lý luận hay học hỏi kinh nghiệm, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc “phải
sáng tạo”. Muốn có những nhà ngoại giao tài ba, muốn có những chuyên
gia hoạt động quản lý nhà nước về đối ngoại nhất định phải khuyến khích
và nuôi dưỡng sự sáng tạo trong công tác đối ngoại và hoạt động ngoại
giao.
Nhìn lại chặng đường 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đã đạt
những thành tựu to lớn. Việt Nam từ một nước thuộc địa đã trở thành một
quốc gia độc lập có chủ quyền, từ một nước nghèo nàn, lạc hậu đã vươn
mình trở thành một quốc gia phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt trong những
năm đổi mới, cùng với kinh tế không ngừng tăng trưởng là vai trò quốc tế
của Việt Nam không ngừng mở rộng, giao thương ngày càng đi vào chiều
sâu và bền vững. Tất cả những thành tựu đó không tách khỏi đường lối
đúng đắn của Đảng và đặc biệt là quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội của chủ tịch Hồ Chí Minh.


Thực thi đường lối đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt nhưng vẫn có tính
nguyên tắc để bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc mà không làm phương hại
lợi ích của các quốc gia – dân tộc khác.
Ý thức dân tộc, tư duy về nền độc lập dân tộc trong thời đại ngày
nay đã và đang được bổ sung và phát triển, xuất phát từ những biến đổi
hết sức phức tạp trong mối tương quan giữa các lực lượng, mối quan hệ
giữa các quốc gia – dân tộc trong từng khu vực và trên toàn thế giới.


KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện Việt Nam. Những nguồn

gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những tinh hoa
văn hóa nhân loại đã được chắt lọc qua tư duy độc lập và bản lĩnh chính
trị vững vàng, kiên định của Người và tiếp thu và kế thừa chủ nghĩa Mác
– Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội là đóng góp quan trọng của Hồ Chí Minh, của Đảng và nhân dân ta
vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nó có giá trị to lớn và
ảnh hưởng sâu sắc đối với phong trào cách mạng thế giới, phong trào giải
phóng dân tộc; đối với cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới; đối với sự lựa chọn con
đường đi lên của nhiều quốc gia dân tộc trên thế giới.
Trong thời đại ngày nay, đấu tranh cho độc lập dân tộc vẫn là mối
quan tâm lớn của các quốc gia dân tộc trên thế giới. Do sự tác động của
tình hình, cuộc đấu tranh giữ vững nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, chống mọi hình thức lệ thuộc và phụ thuộc có nhiều nét mới, ngày
càng phong phú, đa dạng. Hướng tới chủ nghĩa xã hội không còn là vấn
đề xa lạ, mà đã trở thành vấn đề trực tiếp của nhiều quốc gia dân tộc trên
thế giới. Nhân dân các nước trên thế giới ngày càng nhận thấy rằng, chủ
nghĩa xã hội là biểu tượng cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, cho
những giá trị mà nhân loại phải phấn đấu và hướng tới, vị thế chủ nghĩa


×