Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

quan điểm của ph ăngghen về chế độ tư hữu trong tác phẩm “nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.03 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những vấn đề quan trọng của việc nghiên cứu triết học
Mác - Lênin là đi sâu vào nghiên cứu các tác phẩm kinh điển, vì đó là cơ
sở xuất phát để nhận thức một cách chính xác và trung thành với tư tưởng
của các nhà triết học mácxít. Việc nghiên cứu tác phẩm kinh điển không
chỉ là tiếp thu, nhận thức mà còn bảo vệ chủ nghĩa Mác vào thực tiễn.
Trong số các tác phẩm của Ph. Ăngghen viết trong thời kỳ (18831889), tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” được coi là tác phẩm đặc biệt - là một trong những tác phẩm chủ
yếu tiếp tục phát triển tư tưởng thiên tài của C.Mác: Quan niệm duy vật về
lịch sử.
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” của
Ph.Ăngghen có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc tiếp tục phát triển và
luận chứng cho chủ nghĩa Mác. Trong tác phẩm của mình, Ph.Ăngghen
đã cụ thể hóa một cách căn bản khái niệm lịch sử thế giới do Ông cùng
với C.Mác nghiên cứu trước đó. Ông cũng bác bỏ với sức thuyết phục cao
hơn trước nhiều học thuyết giáo điều của khoa học tư sản, chẳng hạn, các
quan niệm về sự tồn tại ngay từ đầu của gia đình phụ hệ, của chế độ tư
hữu, của chính quyền nhà nước, của sự bất bình đẳng xã hội, của sự bóc
lột, áp bức, v.v..
Một trong những vấn đề chính của tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và của nhà nước” là sự lý giải theo tinh thần duy vật – biện
chứng quá trình chuyển biến hợp quy luật của nhân loại từ chế độ tư hữu đối
với tư liệu sản xuất, yếu tố đã trở thành cơ sở của chế độ người áp bức và bóc
lột người.
Trong tác phẩm, Ph. Ăngghen đã phân tích kỹ vấn đề xuất hiện tư
hữu.
1


Về mặt thực tiễn, Ở việt Nam, vấn đề sở hữu và thành phần kinh tế


luôn là vấn đề quan trọng được đề cập trong các kỳ Đại hội Đảng, cũng
như sự quan tâm của các nhà quản lý, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp và
người dân. Mục tiêu của giữu vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong
nền kinh tế thị trường, Đại hội IX chỉ rõ ba mục tiêu: Thứ nhất, phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xâ hội; thứ hai, nâng cao đời sống nhân dân; thứ ba,
phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản
xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối. Đại hội XI
cũng chỉ ra ba mục tiêu: thứ nhất, thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; thứ hai, giải phóng mạnh mẽ
và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; thứ
ba, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm
giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả
hơn. Như vậy, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển
kinh tế nhiều thành phần theo tinh thần Đại hội IX, Đại hội X và Đại hội
XI về căn bản là nhất quán.
Mặt khác, trong khi thống nhất về tính đúng đắn của chủ trương chiến
lược về phát triển hàng hoá nhiều thành phần, vẫn còn những ý kiến khác
nhau về sở hữu và về thành phần kinh tế, về mối quan hệ giữa quan hệ sở
hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối thích ứng với mỗi hình thức sở
hữu, về mối quan hệ tương hỗ và vị trí của mỗi hình thức sở hữu và thành
phần kinh tế trong hệ thống các hình thức sở hữu, về vấn đề sở hữu trong xã
hội chủ nghĩa, về mối quan hệ giữa các mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và các hình thức sở hữu, về những tác động và những
ràng buộc chính trị - xã hội với vấn đề sở hữu, thậm chí cả sự e ngại chệch
hướng xã hội chủ nghĩa khi phát triển sở hữu tư nhân và các thành phần kinh
tế ngoài nhà nước… Việc chưa thống nhất về hàng loạt vấn đề đó dẫn đến
nhiều hệ luỵ: thiếu rõ ràng trong quan điểm về sở hữu và thành phần kinh tế;
2



thiếu rõ ràng và nhất quán trong cơ chế, chính sách và chỉ đạo xử lý vấn đề sở
hữu trong xây dựng và hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; sự phân biệt
đối xử với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau; định
kiến xã hội đối với các chủ sở hữu tư nhân…
Do vậy, đã nảy sinh nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải
được nghiên cứu và giải đáp thỏa đáng hơn nữa, trong đó có vấn đề sở
hữu.
Để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra đối
với con đường phát triển hiện nay của nước ta, như vấn đề sở hữu, việc đi
vào nghiên cứu quan điểm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin là cần
thiết. Tác phẩm của Ph.Ăngghen “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư
hữu và của nhà nước” chiếm một vị trí đặc biệt trong sách báo mácxít
chuyên nghiên cứu lý luận về tiến trình lịch sử.
Từ thực tiễn đó, việc nhận thức và vận dụng đúng đắn các nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu và các hình thức sở hữu trong thời
kỳ quá độ đi lên xã hộ chủ nghĩa là một trong các vấn đề trọng yếu. Mọi
hành động và tư tưởng chủ quan duy ý chí mượn danh nghĩa chủ nghĩa
Mác - Lênin cũng như chủ nghĩa giáo điều trong xử lý các vấn đề phát
sinh đều tất yếu sẽ thất bại.
Từ nhận thức trên đây Tôi chọn vấn đề nghiên cứu Quan điểm của
Ph.Ăngghen về chế độ tư hữu trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và của nhà nước” và một số vấn đề thực tiễn ở Việt
Nam hiện nay làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài này đã có các công trình nghiên cứu như: Về
tác phẩm của của. Ph.Ăngghen “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư
hữu và của nhà nước” của tác giả I.L.An-Đrê-ép (Nxb Tiến bộ
Mátxcơva, 1987); “Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay” của
Nguyễn Văn Thạo (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004), cuốn sách

3


trình bày một số vấn đề sở hữu ở nước ta trong những năm đổi mới, nêu
lên thực trạng chuyển biến sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước và lĩnh
vực đất đai gần 20 năm qua và sự tác động của nó tới sự phát triển kinh tế
- xã hội ở Việt Nam ; Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của Nguyễn Thanh
Tuyền (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006); “Phát triển kinh tế tư
nhân – xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” của
Đặng Minh Tiến (Tạp chí Triết học, số 3, 2007); “Từ quan niệm của C.
Mác về “xoá bỏ chế độ tư hữu”suy nghĩ về vấn đề sở hữu tư nhân trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”
của Vũ Thị Kiều Phương (Tạp chí Triết học, số 8, 2008); “Sự phát triển
quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về các hình thức sở hữu và nền
kinh tế nhiều thành phần” của Nguyễn Thị Huyền (Tạp chí Triết học, số
7, 2009); Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam của Nguyễn Kế Tuấn làm chủ biên (Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2010), nội dung cuốn sách làm rõ thêm những vấn đề
lý luận cơ bản về vấn đề sở hữu trong mô hình kinh tế thị trường, vận
dụng chúng để làm sáng rõ vấn đề sở hữu trong mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trong các công trình nghiên cứu ở trên có một số công trình đã đề
cập đến vấn đề chế độ tư hữu theo quan niệm của Ph. Ăngghen trong tác
phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” và
một số công trình đã đi sâu phân tích vấn đề sở hữu nói chung và sở hữu
tư nhân nói riêng trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. Các tác
phẩm cũng nêu ra thực trạng, xu hướng và giải pháp của vấn đề sở hữu
nói chung và sở hữu tư nhân nói riêng ở Việt Nam hiện nay.

Tuy nhiên, nhận thức một cách khái quát, toàn diện và sâu sắc
những vấn đề cơ bản nhất của vấn đề tư hữu thì cần phải được tiếp tục
4


nghiên cứu. Đề tài Quan niệm của Ph. Ăngghen về chế độ tư hữu trong
tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”
và một số vấn đề thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, vì thế, được thực hiện
trên cơ sở kế thừa, tiếp thu và hệ thống hóa từ kết quả nghiên cứu trong
công trình đi trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Làm rõ những quan niệm cơ bản về chế độ tư hữu của Ph.Ăngghen
trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” và một số vấn đề thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, góp phần
nắm vững các quan niệm duy vật biện chứng trong cách giải quyết các
vấn đề nhận thức luận, hơn nữa củng cố thế giới quan duy vật đối với bản
thân với tư cách là một sinh viên chuyên ngành triết học.
Nhiệm vụ:
Làm rõ vị trí, nguồn gốc, bản chất và các hình thức biểu hiện của
chế độ tư hữu trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước”.
Làm rõ thực trạng của chế độ sở hữu ở Việt Nam hiện nay; những
biểu hiện của chế độ tư hữu và các hình thức sở hữu tư nhân ở Việt Nam
hiện nay. Trên cơ sở đó bước đầu làm rõ vai trò và xu hướng sở hữu tư
nhân ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận:
Đề tài dựa trên cơ sở hệ thống những nguyên lý của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; đường lối của Đảng và chính

sách của Nhà nước làm sáng tỏ nội dung của chế đô tư hữu được
Ph.Ăngghen trình bày trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế
độ tư hữu và của nhà nước”.
Phương pháp nghiên cứu:
5


Kết hợp các nguyên lý duy vật với nguyên tắc thống nhất lôgíc và
lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng
hợp, cụ thể, trừu tượng để giải quyết các nhiệm vụ đã xác định.
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu đề tài.
Khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu phạm vi của tác phẩm “Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” và các vấn đề thực
tiễn ở Việt Nam hiện nay.
6. Đóng góp của đề tài
Với phạm vi của một khóa luận được hoàn thành trong một thời
gian ngắn, mong muốn của Tôi là góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề cơ
bản về chế độ tư hữu trong tác phẩm theo quan niệm của Ph.Ăngghen và
thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. Khoá luận có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho những người quan tâm đến vấn đề trên.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Khoá luận gồm
có 2 chương, 5 tiết.
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA PH.ĂNGGHEN VỀ CHẾ ĐỘ TƯ HỮU
TRONG TÁC PHẨM “NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CỦA CHẾ
ĐỘ
TƯ HỮU VÀ CỦA NHÀ NƯỚC”
1.1. Khái niệm sở hữu và vị trí của vấn đề tư hữu trong tác
phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”

1.1.1. Khái niệm sở hữu
Trong học thuyết cách mạng và khoa học của các nhà sáng lập của
chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề sở hữu có vị trí cực kỳ quan trọng. Dựa
vào tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể khái quát quan
niệm của Mác và Ph.Ăngghen về sở hữu thành những nội dung sau:
6


Thứ nhất, sở hữu được coi là điều kiện của nền sản xuất xã hội.
Thứ hai, sở hữu là một hình thái quan hệ xã hội.
Thứ ba, quan hệ sở hữu là mang tính lịch sử xã hội, không có một
hình thức sở hữu tồn tại vĩnh viễn mà thường xuyên biến đổi.
Bốn là, sự vận động, phát triển của quan hệ sở hữu là một quá trình
lịch sử tự nhiên.
Thứ năm, sự tồn tại nhiều loại hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ sáu, việc xóa bỏ chế độ tư hữu phải là một quá trình lâu dài và
khó khăn, phức tạp.
Bảy là, quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa chuyển biến theo hướng xã
hội hóa, quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu, các nhà
nghiên cứu lý luận ở nước ta đã đưa ra những quan điểm khác nhau về
nội dung của phạm trù sở hữu.
Tóm lại, xung quanh việc nhận thức về phạm trù sở hữu còn có
nhiều quan điểm, nhiều ý kiến chưa thống nhất với nhau. Để nhận thức về
phạm trù sở hữu, trước hết cần phải đứng vững trên quan điểm, phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; kế thừa có chọn lọc những kết quả
nghiên cứu đã đạt được và gắn lý luận với thực tiễn đời sống hiện thực để
xem xét,... Với cách tiếp cận như vậy, chúng tôi đồng ý với quan điểm
cho rằng: Sở hữu là một phạm trù xã hội phản ánh quan hệ giữa người

với người trong việc chiếm hữu của cải vật chất, là hình thái xã hội có
tính lịch sử của việc chiếm hữu của cải vật chất và thông qua quan hệ xã
hội ấy thỏa mãn nhu cầu của mình; sở hữu không phải là quan hệ giữa
người với vật mà là quan hệ giữa người với người đối với vật.
1.1.2. Vị trí của vấn đề tư hữu trong tác phẩm
Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” của Ph.Ăngghen được đánh giá là một trong những tác phẩm tiêu biểu
7


trong đó những quan niệm duy vật về lịch sử của Mác đã được phát triển một
cách đáng chú ý.
Cuốn sách của Ph.Ăngghen mang nội dung giải thích có căn cứ trên
quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử loài người ở các giai đoạn phát
triển sơ khai của nó. Trong đó có nêu rõ đặc điểm chi tiết các tiền đề kinh
tế và điều kiện lịch sử làm phát sinh chế độ tư hữu, nhà nước và gắn với
chúng là sự tiến hoá của các hình thức hôn nhân và gia đình.
Chế độ tư hữu phát sinh, tồn tại, phát triển theo quy luật và có vai trò
lịch sử lâu dài trong xã hội loài người. Nói cách khác, chế độ tư hữu phát
sinh, tồn tại như một tất yếu khách quan và chỉ kết thúc vai trò lịch sử của
bằng sự quyết định bởi tính thích ứng của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, một khi lực lượng sản xuất phát
triển đầy đủ nhất, hoàn bị nhất.
Theo Ph.Ăngghen, sự phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và
phân công lao động xã hội là nguyên nhân sâu xa làm tan rã chế độ cộng
sản nguyên thuỷ, đưa đến sự hình thành chế độ tư hữu. Cùng với quá
trình phát triển của lực lượng sản xuất là sự chuyển hoá thích ứng về chất
và lượng của quan hệ sản xuất. Sự chuyển hoá này được thể hiện ở trình
độ xã hội hoá của quan hệ sản xuất (mà trung tâm là quan hệ sở hữu), quy
mô về cơ cấu tổ chức kinh doanh và cơ chế quản lý thích ứng. Chế độ tư

hữu cùng với các hình thức sở hữu của nó có vai trò thúc đẩy sự phát
triển của các quan hệ hôn nhân gia đình trong tác phẩm “Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” của Ph.Ăngghen.
Vậy, chế độ tư hữu đã xuất hiện và xã hội phân chia thành kẻ giàu
người nghèo, chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã thay thế chế độ quần
hôn. Đồng thời xuất hiện chế độ gia trưởng đặc trưng bằng vai trò tuyệt
đối và quyền lực vô hạn của người chồng trong gia đình. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nói: Gia đình cá thể đã trở thành một lực lượng đang đe
dọa thị tộc.
8


Vấn đề sở hữu trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ
tư hữu và của nhà nước” còn được Ph.Ăngghen đề cập trong sự ra đời và
phát triển của nhà nước đầu tiên trong lịch sử - nhà nước chiếm hữu nô lệ
Aten.
Nguyên nhân cơ bản của quá trình hình thành và phát triển của chế
độ tư hữu và giai cấp là do sự phát triển của sản xuất và sự phân công lao
động xã hội. Ph.Ăngghen viết: “Từ sự phân công xã hội lớn lần đầu tiên
đã nãy sinh ra sự phân chia lớn đầu tiên trong xã hội thành hai giai cấp:
chủ nô và nô lệ kẻ bóc lột và người bị bóc lột” [8;240].
Như vậy, xét về nguồn gốc nhà nước theo Ph.Ăngghen: “Nhà nước
nảy sinh chủ yếu và trực tiếp từ những sự đối lập giai cấp đã phát triển
ngay trong nội bộ xã hội thị tộc.
Như vậy, quá trình hình thành chế độ tư hữu chiếm một vị trí hết sức
quan trọng và góp phần làm cho tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu, và của nhà nước” là sự tiếp tục phát triển và hoàn thiện
quan niệm duy vật về lịch sử - một trong hai phát kiến thiên tài của Mác.
Đồng thời, tác phẩm của Ph.Ăngghen còn góp phần to lớn vào việc giáo
dục và trang bị cho giai cấp công nhân trên toàn thế giới vũ khí tư tưởng

sắc bén trong cuộc đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản và các trào lưu
phi mácxít khác, hướng giai cấp công nhân đoàn kết lại trong một khối
thống nhất, có tổ chức, đấu tranh vì một xã hội tương lai - xã hội xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
1.2. Nguồn gốc của chế độ tư hữu
Ph.Ăngghen đã coi sự phát triển của lực lượng sản xuất, việc phân
công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, cũng như việc tăng cường trao
đổi hàng hóa do các yếu tố đó gây nên là nguồn gốc phát sinh chế độ tư
hữu. Sự thiếu thốn hay khánh kiệt của các tiền tệ tự nhiên nào đó của sản
xuất và khan hiếm những sản phẩm tiêu dùng được tạo ra - tất cả những

9


điều đó đã làm cho xã hội phải điều tiết chúng trở nên cần thiết một cách
gay gắt.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất của lao động đã tạo ra một quá
trình hai mặt. Nó đòi hỏi phải tăng số lượng người thu hút vào quá trình
phát triển xã hội, quá trình gắn bó với nhau bởi việc đẩy mạnh các hình
thức trao đổi khác nhau. Đồng thời, nó gây nên việc giảm sút các tế bào
kinh tế đang tập trung trong mình chúng lẫn cả sản xuất và tiêu dùng, tức
là việc trực tiếp đảm bảo đời sống. Theo khuynh hướng sau, chế độ sở
hữu riêng biệt của các tế bào sản xuất khác nhau đã nảy sinh. Hiện tượng
cùng tồn tại của chế độ sở hữu tập thể cổ truyền thụ động và chế độ tư
hữu năng động, với tính cách là hai loại hình đối lập của quan hệ sản xuất
giữa người với người, về phương diện tư liệu sản xuất, đã hình thành.
Như vậy, theo Ph.Ăngghen trong “Nguồn gốc của gia đình, của chế
độ tư hữu và của nhà nước” thì sự phát triển của lực lượng sản xuất, việc
phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, cũng như việc tăng cường
trao đổi hàng hóa do các yếu tố đó gây nên, là nguồn gốc phát sinh chế độ

tư hữu.
1.3. Bản chất của chế độ tư hữu
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, tuy trải qua nhiều
phương thức sản xuất khác nhau, nhưng chỉ có hai chế độ sở hữu cơ bản
là chế độ sở hữu tư nhân (còn gọi là chế độ tư hữu) và chế độ sở hữu
công cộng (còn gọi là chế độ công hữu) về tư liệu sản xuất. Đó là hai cực
của một hệ thống có sự phân biệt ranh giới rõ ràng về cả chủ thể sở hữu
(một bên chủ sở hữu là cá nhân và một bên chủ sở hữu là cộng đồng
người với quy mô và phạm vi khác nhau) và về phạm vi các đối tượng sở
hữu.
Chế độ tư hữu có hai phương diện: phương diện tự nhiên đối với tư
liệu sản xuất và phương diện xã hội đối với tư liệu sản xuất.
Trước hết, phương diện tự nhiên đối với tư liệu sản xuất.
10


Chế độ tư hữu về các loại tư liệu sản xuất đã tồn tại lâu đời qua các
phương thức sản xuất.
Trong đó, xã hội cộng sản nguyên thủy và cộng sản chủ nghĩa tồn tại
chế độ sở hữu công hữu với tư liệu sản xuất. Ba chế độ xã hội là: chiếm
hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa tồn tại chế độ chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất.
Về chế độ công hữu đối với tư liệu sản xuất trong xã hội công xã
nguyên thủy ở trình độ tự phát. Sở hữu công xã là chế độ sở hữu xuất
hiện trong những giai đoạn nhất định của phương thức sản xuất công xã
nguyên thủy
Với lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ thấp kém, phương kế
sinh tồn là dựa vào săn bắt và hái lượm, con người không thể chống nổi
với sức mạnh của thiên nhiên nên phải cố kết với nhau trong lao động
chung và kết quả lao động thuộc về công xã nguyên thủy.

Đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, trải qua ba giai đoạn: thời kỳ quá độ,
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Thời kỳ quá độ, tồn tại đa sở hữu:
tư nhân về tư liệu sản xuất (kinh tế cá thể); tư bản tư nhân; sở hữu tập thể
(kinh tế hợp tác xã); sở hữu nhà nước (doanh nghiệp nhà nước); công tư hợp
doanh. Giai đoạn chủ nghĩa xã hội, tồn tại hai hình thức sở hữu: sở hữu tập
thể và sở hữu nhà nước. Giai đoạn chủ nghĩa cộng sản, tồn tại sở hữu toàn
dân.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến và xã hội tư bản
chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Giai cấp
thống trị chiếm đoạt tư liệu sản xuất, bắt người lao động làm thuê và tạo
rất tư bản kếch sù cho các ông chủ. Cùng với tước đoạt tư liệu sản xuất,
người lao động làm giàu. Có ba hình thức sở hữu khác nhau trong ba chế
độ xã hội khác nhau đó.
Ở xã hội chiếm hữu nô lệ, tư liệu sản xuất chủ yếu là nô lệ. Ai có
nhiều nô lệ nhất sẽ trở thành giai cấp thống trị. Trong xã hội chiếm hữu
11


nô lệ, mọi tài sản thuộc về chủ nô, kể cả người nô lệ cũng thuộc về chủ
nô. Người nô lệ cũng chỉ là “công cụ biết nói”, cùng với các “công cụ
không biết nói” khác đều thuộc về chủ nô. Chiếm hữu tư liệu sản xuất,
của cải và nô lệ là phương thức tồn tại thống trị trong xã hội chiếm hữu
nô lệ.
Đến xã hội phong kiến, tư liệu sản xuất chủ yếu là ruộng đất (chế độ
địa tô). Ai nắm giữ nhiều ruộng đất sẽ trở thành giai cấp thống trị xã hội.
Sở hữu tư nhân của địa chủ, phong kiến là các hình thức sở hữu thống trị.
Trong chế độ sở hữu phong kiến, tư liệu chủ yếu là đất đai thuộc về nhà
nước phong kiến, địa chủ, quan lại. “Đất của vua, chùa của bụt” là
nguyên lý cho sự tồn tại của chế độ xã hội này. Khác với chế độ chiếm
hữu nô lệ, người lao động trong xã hội phong kiến là người tự do về thân

thể. Họ là chủ của sức lao động của mình.
Bên cạnh sự tồn tại của chế độ sở hữu phong kiến là hình thức sở
hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ và người buôn bán nhỏ.
Như vậy, với sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, sở hữu tư
nhân xuất hiện và làm nảy sinh hiện tượng người bóc lột người, xã hội
phân chia thành giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. sở hữu tư nhân là
sở hữu kinh tế của quan hệ xã hội đối với chế độ chiếm hữu nô lệ và xã
hội phong kiến.
Sang xã hội tư bản chủ nghĩa, chế độ tư hữu cùng với nền kinh tế thị
trường đã đạt tới sự phát triển cao. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì nền
đại công nghiệp rất phát triển nhưng vai trò của khoa học - công nghệ lớn
nhất. Suy cho cùng, tư liệu sản xuất của tư bản chủ nghĩa là tiền, quan hệ
sản xuất hàng - tiền. Tư hữu tư bản chủ nghĩa đã tập trung vào tay các nhà
tư bản khối lượng lớn về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động. thực hiện
tích tụ và tập trung cao độ về nguồn lực. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa
còn có hình thức sở hữu xuất hiện trong thời kỳ chuyển từ chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền là hình thức sở hữu
12


tư bản độc quyền. Sự thống trị của tư bản độc quyền dẫn đến tăng nhu
cầu về nguồn lực, lao động, nguyên liệu và vốn. Điều đó, thúc đẩy các tổ
chức độc quyền vươn ra nước ngoài, hình thành hình thức sở hữu độc
quyền quốc tế.
Ngoài phương diện tự nhiên thì chế độ tư hữu đối với tư liệu sản
xuất còn có phương diện về xã hội.
Thông qua tiến trình phát triển lịch sử loài người đã hình thành chế
độ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Trong xã hội, Ai? Giai cấp nào? nắm
giữ nhiều và toàn bộ tư liệu sản xuất thì thống trị quá trình sản xuất, nghĩa
là thống trị xã hội. Trong xã hội công xã nguyên thủy và xã hội chủ nghĩa

cộng sản, tư liệu sản xuất thuộc về mọi người trong xã hội. Tất cả mọi
người đều có quyến nắm giữ, sử dụng tư liệu sản xuất. Đó chính là sở hữu
công hữu về tư liệu sản xuất. Còn trong xã hội chiếm hữu nô lệ, phong
kiến và tư bản chủ nghĩa thì giai cấp thống trị nắm giữ tư liệu sản xuất.
Đó là giai cấp chủ nô, địa chủ phong kiến và tư sản.
Đặc biệt là, trong tư tưởng của C.Mác về chế độ tư hữu và “xóa bỏ
chế độ tư hữu”. Song, theo quan niệm của C.Mác, cần lưu ý rằng, chủ
nghĩa cộng sản không xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà cụ thể là, xóa
bỏ “chế độ tư hữu tư sản” – “biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của
phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng
giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia” [9;615].
Theo nghĩa đó, lý luận về sự xóa bỏ “chế độ sở hữu tài sản” của chủ
nghĩa cộng sản có thể hiểu “tóm tắt” thành một luận điểm duy nhất là:
“xóa bỏ chế độ tư hữu”. Vấn đề mà C.Mác đề cập ở đây là tính chất của
chế độ tư hữu. Bởi theo tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong
“Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, chủ nghĩa cộng sản tuyệt nhiên không
muốn xóa bỏ sự chiếm hữu cá nhân của người công nhân đối với những
sản phẩm lao động của anh ta, vì sự chiếm hữu ấy đẻ ra một khoản dư
nào đó có thể đem lại một quyền lực chi phối lao động của người khác,
13


cũng không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã
hội; mà vấn đề đặt ra là, cần phải “xóa bỏ tính chất bi thảm của cái
phương thức chiếm hữu” [9;617- 618], sản phẩm do người công nhân làm
ra và dùng sự chiếm hữu ấy nô dịch lao động của người khác - cái
phương thức “khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư
bản” trong chừng mực “những lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi”.
Kết luận chương 1
Như vậy, tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và

của nhà nước” của Ph.Ăngghen có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc
tiếp tục phát triển và luận chứng cho chủ nghĩa Mác. Cuốn sách của
Ph.Ăngghen mang nội dung giả thích có căn cứ trên quan điểm duy vật
biện chứng về lịch sử loài người ở các giai đoạn phát triển sơ khai của nó.
Trong đó có nêu đặc điểm chi tiết các tiền đề kinh tế và điều kiện lịch sử
làm phát sinh chế độ tư hữu, nhà nước và gắn với chúng là sự tiến hóa
của các hình thức hôn nhân và gia đình.
Nghiên cứu nguồn gốc hình thành chế độ tư hữu và các hình thức
của sở hữu tư nhân trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ
tư hữu và của nhà nước” của Ph.Ăngghen rất cần thiết cho vấn đề sở hữu
ở các nước hiện nay. Cuốn sách của Ph.Ăngghen hiện nay vẫn mang tính
thời sự không chỉ về mặt phương pháp luận mà còn trực tiếp cả về
phương diện nội dung nữa. Các luận điểm và kết luận cơ bản của cuốn
sách vẫn phù hợp với các vấn đề chính trị - xã hội quan trọng nhất đang
liên quan tới cuộc sống của hàng trăm triệu người. Vì vậy, việc nghiên
cứu tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” là rất quan trọng đối với cán bộ làm công tác tư tưởng và cán bộ
nòng cốt của các đảng dân chủ - cách mạng ở các nước có khuynh hướng
xã hội chủ nghĩa, đối với tất cả những người cách mạng ở các quốc gia trẻ
tuổi mới giành được độc lập. Đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, vì
xét rằng tác phẩm của Ph.Ăngghen khá phức tạp và chứa đựng nhiều tài
14


liệu khoa học. Nhiệm vụ đó trước đây cũng đã được đặt ra trước đội tiên
phong cách mạng của nước Nga công nông. V.I.Lênin đặc biệt chú ý tới
tình hình này. Năm 1919 khi đọc bài giảng về nhà nước tại Trường đại
học cộng sản mang tên Ia. M.Xvec-lôp, Người nói: “Chắc chắn là tất cả
các phần của tác phẩm đó phải đều dễ đọc và dễ hiểu như: một vài phần
đòi hỏi người đọc phải có sẵn một số kiến thức về lịch sử và kinh tế.

Nhưng tôi xin nhắc lại: các đồng chí không nên lo ngại nếu các đồng chí
không hiểu tác phẩm này khi mới đọc lần đầu. Mới đọc lần đầu mà hiểu
được, điều đó hầu như không bao giờ có thể có được. Nhưng về sau, khi
các đồng chí đọc lại quyển đó, khi các đồng chí đã thấy hứng thú thì cuối
cùng các đồng chí sẽ hiểu phần lớn quyển đó, nếu không phải là toàn bộ”
[21;78-79].
Nhận thức sở hữu trong kho tàng kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin, trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhiều nước, đã và
đang ngày càng được làm giàu, phong phú hơn trong đường lối, chủ
trương, chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Trên thực tế, hơn 20 năm đổi mới, ở nước ta đã diễn ra qua trình khắc
phục chế độ công hữu hình thức, có tính áp đặt, đã làm xuất hiện nhiều loại
hình, hình thức sở hữu, khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế,
làm cho quan hệ sở hữu phù hợp, kích thích cho sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Giải quyết đúng quan hệ sở hữu chính là giữ được nguồn nuôi
dưỡng động lực kinh tế cho sự ổn định kinh tế - xã hội theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, thực hiện được dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và
văn minh.

CHƯƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHÌN
TỪ QUAN ĐIỂM CỦA PH. PH. ĂNGGHEN VỀ CHẾ ĐỘ TƯ HỮU
15


2.1. Thực trạng của vấn đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã được hình thành và
đang chuyển dịch theo chiều hướng tích cực. Do thực hiện việc sắp xếp
lại theo hướng tập trung vào các ngành then chốt, trọng yếu của nền kinh
tế quốc dân. Số lượng các doanh nghiệp nhà nước và tỷ trọng giá trị sản
xuất của chúng trong cơ cấu nền kinh tế có xu hướng giảm dần. “Nếu

năm 1995, tỷ trọng kinh tế nhà nước trong tổng sản phẩm trong nước còn
chiếm 40%, thì tới năm 2008 đã giảm xuống chỉ còn khoảng 35%”
[24;178]. Kinh tế ngoài nhà nước trong nước đã có sự phát triển hết sức
mạnh mẽ, giữ vai trò ngày càng quan trọng trong sự tăng trưởng chung
của nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Bộ phận này đóng góp
gần một nửa tổng sản phẩm trong nước và cũng là bộ phận chủ yếu tạo
việc làm cho người lao động.
Nhìn chung đến nay, cơ chế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa
được đổi mới một cách triệt để và toàn diện, chưa thể thoát khỏi cơ chế cũ và
chưa hình thành được đồng bộ cơ chế mới, vẫn còn nhiều lúng túng, vướng
mắc, chồng chéo; doanh nghiệp chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm đầy
đủ, thực hiện hạch toán kinh doanh; vừa hoạt động theo mệnh lệnh hành
chính vừa theo cơ chế thị trường, vừa còn được bao cấp, vừa kinh doanh;
chưa tạo được động lực mạnh mẽ, tối đa và xác định được trách nhiệm rõ
ràng để doanh nghiệp nhà nước hoạt động năng động, nhanh nhạy, có hiệu
quả ngày càng cao hơn.
Trong quá trình đổi mới kinh tế, nhu cầu và giá trị của đất đai đã
ngày càng được nâng cao. Giá trị sử dụng của các loại đất có xu thế được
đánh giá chủ yếu theo cơ chế thị trường. Hiệu quả sử dụng đất đai được
chú ý nhiều hơn.
Những năm gần đây ở Việt Nam đang diễn ra xu hướng cá thể hóa
chế độ sở hữu dưới dạng “cổ phần hóa”, nhũng tài sản của Nhà nước
16


thuộc sở hữu toàn dân đang dần dần có chủ sở hữu cụ thể. Nếu trước đây,
tài sản của vợ, chồng được coi là tài sản chung thì bây giờ đã tồn tại chế
độ sở hữu chung của vợ chồng và sở hữu riêng của vợ hoặc chồng… Chế
độ sở hữu ở Việt Nam hiện nay chưa thật sự ổn định, còn nhiều vấn đề
đang dặt ra cần phải được giải quyết trong hiện tại và tương lai.

2.2. Những biểu hiện của chế độ tư hữu và các hình thức sở hữu
tư nhân ở Việt Nam hiện nay.
Việc phân chia chế độ sở hữu tư nhân (chế độ tư hữu) về tư liệu sản
xuất thành các hình thức sở hữu khác nhau có thể đơn giản hơn rất nhiều
so với xác định các hình thức sở hữu của chế độ công hữu.
Ở Việt Nam hiện nay, tuy không chính thức xác định các tiêu chí cụ
thể phân định các hình thức cấu thành chế độ tư hữu, nhưng sự phân chia
được mặc định dựa vào quy mô số lượng sở hữu của mỗi chủ sở hữu và
cách thức thực hiện quyền sở hữu gắn với loại hình tổ chức kinh doanh.
Theo đó, chế độ sở hữu tư nhân có thể có các các hình thức sở hữu chủ
yếu sau đây:
- Hình thức sở hữu tư nhân gắn với loại hình thức tổ chức “hộ cá
thể”. Loại này thường có quy mô nhỏ, chủ sở hữu trực tiếp thực hiện
quyền sở hữu, đồng thời cùng trực tiếp tham gia với các thành viên trong
gia đình thực hiện thực hiện tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh
doanh. Hình thức này tồn tại phổ biến trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu thương và các loại dịch vụ nhỏ, phân tán.
Ưu điểm cơ bản của loại hình thức sở hữu này là tính cơ động trong thực
hiện hoạt động kinh doanh và khả năng huy động các thành viên trong gia
đình tham gia vào hoạt động ấy. Nhưng sở hữu này cũng là nét đặc trưng
của nền sản xuất hàng hóa nhỏ, phân tán, kém năng lực cạnh tranh và tính
tự phát cao.
- Hình thức sở hữu tư nhân gắn với loại hình tổ chức “hộ tiểu chủ”.
Loại này có quy mô vừa và nhỏ, chủ sở hữu trực tiếp thực hiện quyền sở
17


hữu. Khác với chủ sở hữu tư nhân quy mô nhỏ kinh doanh theo kiểu gia
đình, trong hình thức sở hữu này, ngoài các thành viên trong gia đình, chủ
sở hữu còn thuê mướn số lượng lao động nhất định thực hiện quá trình

sản xuất kinh doanh. Với quy mô sở hữu lớn hơn, nghĩa là khả năng bảo
đảm các nguồn lực sản xuất lớn hơn, hình thức sở hữu này có năng lực thị
trường cao hơn.
- Hình thức sở hữu tư nhân gắn với loại hình “doanh nghiệp tư
nhân”. Loại này có thể tồn tại với những quy mô khác nhau, bao gồm cả
quy mô nhỏ, vừa và quy mô lớn. Quy mô kinh doanh hoàn toàn phụ thuộc
vào năng lực của chủ sở hữu: quy mô sở hữu của bản thân họ và khả năng
huy động các nguồn lực từ bên ngoài
Ở Việt Nam hiện nay, hình thức sở hữu này được ngầm hiểu tương
đồng với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa (hình thức sở hữu tư
bản tư nhân). Tuy nhiên đến nay vẫn còn những vướng mắc về hình thức
sở hữu này. Một số cho rằng, việc sử dụng phạm trù “hình thức sở hữu tư
bản tư nhân” có thể gây nên mặc cảm hoặc nghe ngại về chính trị - xã
hội của các chủ sở hữu có quy mô lớn, sử dụng nhiều lao động làm thuê
và khơi gợi những định kiến của xã hội với các chủ sở hữu này.
- Hình thức sở hữu tư nhân với những quy mô khác nhau được chủ
sở hữu ủy quyền cho người khác thực hiện quyền sử dụng các đối tượng
sở hữu của họ dưới các hình thức khác nhau nhằm tìm kiếm lợi nhuận
(tham gia công ty trách nhiệm hữu hạn, mua cổ phiếu của công ty cổ
phần, gửi tiền vào ngân hàng
2.3. Vai trò và xu hướng sở hữu tư nhân ở Việt Nam hiện nay
Vai trò của sở hữu tư nhân ở Việt Nam hiện nay.
Kinh tế tư nhân có tốc độ tăng trưởng nhanh và đóng góp ngày càng
lớn vào tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

18


Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã tạo ra đội ngũ doanh nhân năng
động, có khả năng thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh

tế quốc tế.
Nguồn gốc xuất thân của đội ngũ doanh nhân mới này hết sức đa dạng.
Một số có nguồn gốc xuất thân là cán bộ công chức các cơ quan quản lý nhà
nước, sỹ quan quân đội và công an, cán bộ quản lý và công nhân các doanh
nghiệp nhà nước đã nghỉ hưu hoặc thôi việc, trong đó không ít người là đảng
viên.
Sự hình thành đội ngũ doanh nhân mới là yếu tố trọng yếu góp phần
vào sự phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững nền kinh tế.
Sự phát triển kinh tế tư nhân tạo sức ép thúc đẩy đổi mới doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và đổi mới quản lý nhà nước.
Giành được sự quan tâm, nhưng không nhận được sự ưu đãi đặc biệt là
điểm chung trong sự phát triển kinh tế tư nhân và các doanh nghiệp tư
nhân của Việt Nam.
Kinh tế tư nhân đã góp phần phát triển kinh tế đối ngoại, thu hút vốn
đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường thế giới.
Kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy đất nước hội nhập kinh tế quốc
tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu đối với Việt Nam trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngoài ra, kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy thương mại Viêt Nam
phát triển và hội nhập nhanh vào nền kinh tế thế giới.
Trong thời gian tới, sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân sẽ tếp tục khẳng
định vai trò, vị trí ngày càng tăng lên của nó trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân sẽ phát triển với nhiều hình thức phong
phú và đa dạng, nhưng xu thế trong những năm tới là:

19



Tiếp tục chuyển từ kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ với một bộ phận
còn trong trạng thái tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa lớn với kỹ thuật
và công nghệ ngày càng hiện đại.
Kinh tế tư nhân sẽ tiếp tục phát triển với quy mô lớn hơn, tốc độ cao
hơn và sẽ vươn lên tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu về GDP của cả nước,
nhưng kinh tế nhà nước vẫn giũ vai trò chủ đạo.
Để tiếp tục hoàn thiện sở hữu tư nhân, phát triển kinh tế tư nhân
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2020, cần tập trung tháo gỡ giải
quyết những mâu thuẫn chủ yếu đang kìm hãm sự phát triển của khu vực
kinh tế tư nhân của nước ta.
Do vậy, bức tranh chung được dự đoán sẽ là: chủ nghĩa xã hội ở
nước ta sẽ thành lập một chế độ công hữu không hoàn toàn phủ định và
gạt bỏ các hình thức tiến bộ, tích cực của chế độ tư hữu mà biết liên kết,
dung nạp những nhân tố thành một chế độ kinh tế có sức sống dồi dào
dưới sự điều tiết và quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Từ đó, chúng ta đi đến nhận định rằng: Ở Việt Nam, sở hữu tư nhân,
kinh tế tư nhân không chỉ tồn tại và phát triển trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, mà có thể sẽ còn tồn tại cả trong thời kỳ chúng ta xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Kết luận chương 2
Như vậy, việc thực hiện chủ trương và chính sách phát triển đa dạng
các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp là
yếu tố trọng yếu tạo nên những thành quả trong phát triển kinh tế - xã hội
của nước ta trong những năm đổi mới vừa qua.
Trong quá trình này, sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước và các
doanh nghiệp nhà nước luôn được chú trọng đổi mới và phát triển. Tuy đã
có những đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn
đề xã hội, nhưng sự phát triển kinh tế nhà nước và các doanh nghiệp nhà
20



nước chưa tương xứng với sự đầu tư và ưu đãi mà nhà nước đã dành cho.
Việc quản lý các tài sản thuộc sở hữu toàn dân, đặc biệt là đất đai, và hoạt
động của các doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập. Sở
hũu tập thể còn quá nhỏ bé, kinh tế tập thể và các hợp tác xã có nhiều cố
gắng đổi mới để thích ứng với điều kiện kinh tế thị trường, nhưng hiện
vẫn là lực lượng kinh tế yếu kém và chưa phát huy được rõ rệt vai trò tích
cực trong nền kinh tế quốc dân. Với việc thừa nhận sở hữu tư nhân và các
chính sách khuyến khích phát triển của Nhà nước, kinh tế tư nhân đã phát
triển mạnh mẽ và được thừa nhận là một trong những động lực phát triển
kinh tế. Tuy nhiên, khả năng các nguồn lực và khả năng cạnh tranh còn
thấp kém, thiếu một chiến lược đầu tư, kinh doanh dài hạn đang là những
yếu tố cản trở sự phát triển thành phần kinh tế này. Kinh tế vốn đầu tư
nước ngoài ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong tăng trưởng kinh tế
của đất nước. Hiện đang có hàng loạt vấn đề đặt ra cần giải quyết để phát
huy vai trò tích cực của thành phần kinh tế này trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

21


KẾT LUẬN
Tìm hiểu tác phẩm kinh điển của triết học Mác trong kho tàng phong
phú và vô giá của nó luôn là việc làm cần thiết và bổ ích. Ở đây, trong
những tác phẩm tiêu biểu nhất, gắn liền với các thời kỳ phát triển của chủ
nghĩa Mác, từ lúc hình thành các luận điểm chủ đạo đầu tiên đến những
năm 90 của thế kỷ XX, nội dung triết học trong các tác phẩm đã được
phân tích trên cơ sở các tài liệu gốc và các chuyên khảo có liên quan. Với
các nguyên lý nền tảng, triết học Mác đã được hệ thống hoá, bổ sung,
phát triển trong điều kiện lịch sử mới và phổ biến dưới những hình thức

khác nhau. Tuy vậy, ở mỗi thời kỳ và mỗi nước, cách thức phân tích các
tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác lại phụ thuộc ít nhiều vào yếu tố
chủ quan. Đối với các nước chủ trương định hướng xã hội chủ nghĩa, thì
chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng của sự phát triển xã hội. Sự phân tích
theo một phương pháp khoa học triết học Mác trong các tác phẩm kinh
điển chính là nhằm giúp cho chúng ta tiếp cận với triết học Mác trong
nguyên chất của nó, từ đó rút ra ý nghĩa và những bài học quý báu đối với
hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” là sự tiếp tục phát triển và hoàn thiện quan niệm duy vật về lịch sử
- một trong hai phát kiến thiên tài của C.Mác. Đồng thời, tác phẩm của
Ph.Ăngghen còn góp phần to lớn vào việc giáo dục và trang bị cho giai
cấp công nhân trên toàn thế giới vũ khí tư tưởng sắc bén trong cuộc đấu
tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản và các trào lưu phi mácxit khác, hướng
giai cấp công nhân đoàn kết lại trong một khối thống nhất, có tổ chức,
đấu tranh vì một xã hội tương lai- xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa.
Quan điểm của Ph.Ăngghen về chế độ tư hữu trong tác phẩm
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, là sự lý
22


giải theo tinh thần duy vật - biện chứng quá trình chuyển biến hợp quy
luật của nhân loại từ chế độ sở hữu tập thể nguyên thủy (thị tộc- bộ lạc)
sang chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất, yếu tố đã trở thành cơ sở của
chế độ người áp bức và bóc lột người.
Sở hữu luôn được coi là vấn đề trọng yếu của mỗi quốc gia, chi phối
nhiều vấn đề kinh tế và chính trị khác. Nhận thức và giải quyết hợp lý vấn
đề sở hữu sẽ tạo động lực huy động và phân bổ hợp lý các nguồn lực để
vừa đảm bảo lợi ích của chủ sở hữu, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế - xã

hội. Do vấn đề sở hữu có nội dung phức tạp, phạm vi rộng và là vấn đề có
tính thời sự, vừa có tính cơ bản, nên còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam
đã đánh giá khái quát 20 năm đổi mới của đất nước, nêu lên những thành
tựu rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta đã đạt được. Có thể nói,
những thành tựu ấy đã tạo nên sự thay đổi cơ bản và toàn diện trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, làm cho thế và lực, cũng như uy tín quốc tế
của nước ta tăng lên nhiều so với trước. Sự khởi sắc của đất nước ta trên
mọi phương diện được bắt đầu từ quá trình đổi mới nhận thức, đổi mới tư
duy, nhất là tư duy kinh tế vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo những
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn. Chính sự đổi mới
chế độ sở hữu và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước”, qua nội dung của nó, đã khẳng định một cách thuyết phục và có
căn cứ việc có thể vận dụng những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy
vật - biện chứng vào việc nghiên cứu thời kỳ tiền tư bản của lịch sử nhân
loại. Lần đầu tiên trong lịch sử khoa học thế giới, Ph.Ăngghen đã chứng
minh rằng các quy luật phát triển vốn có của xã hội cổ đại thì đồng thời là
của các xã hội khác trước chủ nghĩa cộng sản. Chẳng hạn, lịch sử cổ đại
và các cơ cấu xã hội tiền tư sản cũng sẵn có mâu thuẫn sâu sắc giữa lực
23


lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sẵn có cuộc đấu tranh giữa các tầng
lớp và các nhóm xã hội có những lợi ích vật chất mâu thuẫn cơ bản với
nhau. Và cuối cùng, cách mạng xã hội là biện pháp chủ yếu để thay thế
một cách hợp quy luật chế độ kinh tế - xã hội nguyên thuỷ bằng một
trong các hình thái của xã hôi có đối kháng giai cấp: chiếm hữu nô lệ
(Hy-lạp, Rô-ma), hay phong kiến (Giéc-manh).

Khoa học lịch sử mácxít hiện đại phát triển theo luồng tư tưởng của
Ph. Ăngghen nhờ dựa vào các di sản sáng tạo của ông trong lĩnh vực lịch
sử cổ đại, và nhờ hết sức chú ý vận dụng di sản đó, đặc biệt là trong
những thời điểm có những bước ngoặt trong quá trình phát triển, do việc
xuất hiện những phương pháp nghiên cứu mới. Những tư liệu mà các nhà
sử học có trogn tay đã khẳng định những tư tưởng cơ bản của lý luận do
các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác xây dựng, nói về bản chất của xã hội
nguyên thuỷ và các quy luật phát triển của nó lên các xã hội có đối kháng
giai cấp. Lý luận đó cho phép chi tiết hoá và xác định rõ đặc điểm hoạt
động của các quy luật chung của lịch sử đối với từng thời kỳ lịch sử, từng
nền văn hoá và từng dân tộc cụ thể.
Việc vận dụng di sản lý luận của Ph.Ăngghen có ý nghĩa cấp thiết to
lớn; và tác phẩm của Ông “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nước” là một mẫu mực kinh điển về nhân cách thực sự biện
chứng những vấn đề quan trọng nhất của lịch sử cổ đại.

24



×