Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Thực chất và vai trò của nhận thức luận trong triết học i cantơ tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.77 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Trong lịch sử tư thưởng nhân loại, I.Cantơ gìữ một vị trí đặc biệt
quan trọng, là người vừa sáng lập cổ điển Đức, vừa khai mở nhiều vấn đề
của triết học phương Tây hiện đại. Hệ thống triết học phê phán do ông
xây dựng gồm ba bộ phận chủ yếu: Triết học lý luận, triết học thực tiễn và
triết học thẩm mỹ; trong đó triết học lý luận hay lý luận về nhận thức gìữ
một vị trí khởi đầu, có vai trò làm phương pháp luận cho hai bộ phận còn
lại. Vì vậy, về mặt lôgíc, người ta chỉ có thể hiểu được nội dung tư tưởng
cũng như cách lập luận của I.Cantơ trên bình diện hệ thống, khi xuất phát
từ triết học lý luận.
Trong lịch sửu triết học, nhận thức luôn là mối quan tâm lớn và rất
sớm của nhiều nhà triết học. Đến I.Cantơ, nhận thức luận được bàn luận
sâu sắc về phương thức tư duy mang tính chủ thể của I.Cantơ. thực chất
của nhận thức là vấn đề trung tâm đối với nhận thức luận của I.Cantơ. Có
thể thấy rằng cả ở trong các hệ thống của chủ nghĩa duy lý cổ điển lẩn
trong học thuyết của chủ nghĩa kinh nghiệm duy vật, nhận thức luận được
xem xét như là kết quả hoạt động tư duy của chủ thể nhằm thấu hiểu thế
giới bên ngoài. Nếu chủ nghĩa duy lý thiên về nhận thức lý tính, lấy khái
niệm, phạm trù, tư duy lôgíc làm phương tiện chính của nhận thức thì chủ
nghĩa kinh nghiệm, ngược lại, nhấn mạnh vai trò của nhận thức cảm tính,
lấy các hiện tượng, kinh nghiệm và cảm giác chủ quan đơn lẻ làm tiền đề
cơ bản cho nhận thức. I.Cantơ cho rằng: “Không có cảm tính, con người
không thể tư duy, tư tưởng thiếu nội dung thì trống rỗng, trực quan thiếu
khái niệm thì mù quáng”.
Nghiên cứu tư tưởng của I.Cantơ nói chung và nhận thức luận của
ông nói riêng là công việc hết sức khó khăn nhưng lại là thường xuyên
của những người làm công tác triết học. Đối với sinh viên ngành triết học
thì đây là một đòi hỏi không chỉ giúp cho chúng ta nắm được nội dung
1



của vấn đề nhận thức mà còn làm sáng tỏ vai trò của nhận thức về những
cống hiến và hạn chế của I.Cantơ trong lịch sử tư tưởng của nhân loại.
Hơn nữa, thời đại ngày nay “nhận thức luận” đang được xem là vấn đề
cốt yếu trong tư tưởng nhân loại. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề này
trong triết học I.Cantơ có thể góp phần làm sáng tỏ một số khía cạnh nhất
định mà giới nghiên cứu đang quan tâm.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định chọn vấn đề Thực
chất và vai trò của nhận thức luận trong triết học I.Cantơ làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp cử nhân ngành triết học.
2.Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hơn hai thế kỷ trôi qua, kể từ ngày I.Cantơ – người sáng lập ra nền
triết học cổ điển Đức qua đời, lịch sử đã có nhiều biến động, nhân loại đã
nhìn nhận, đánh gìá ông dưới nhiều gốc độ khác nhau. Rất nhiều công
trình nghiên cứu về I.Cantơ trong đó có triết học lý luận, triết học thực
tiễn và triết học thẫm mỹ của ông, khai thác chưa nhiều. Nhìn chung, tài
liệu được dịch ra tiếng Việt có các công trình sau:
- Hội thảo khoa học triết học cổ điển Đức: Nhận thức luận và đạo
đức học, tham luận của các học giả nước ngoài, Hà Nội 2003.
- Hội thảo khoa học triết học cổ điển Đức: Những vấn đề nhận thức
luận và đạo đức học, Hà Nội, 2004. Đây là cuốn sách gồm các tham luận
của các nhà khoa học trong và ngoài nước tham gia. Hội thảo khoa học
quốc tế về vấn đề triết học cổ điển Đức nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất
của I.Cantơ – nhà triết học vĩ đại, người sáng lập triết học cổ điển Đức.
- Nguyễn Văn Huyên (1996), “Triết học IMANUIN CANTƠ (1724
– 1804)”, Trần Thái Đỉnh (2005) Triết học Kant.
- Trịnh Đình Bảy (1998), “Vấn đề niềm tin trong triết học I.Cantơ”,
Tạp chí triết học, số 1 tháng 2 – 1998. Phạm Minh Lăng (1996), “Cái tiên
nghiệm trong triết học I.Cantơ”, Tạp chí triết học, số 2, tháng 4 – 1996.


2


- Lê Công Sự (1998), “Quan niệm về “vật tự nó” của I.Cantơ và sự
đánh giá của một số nhà triết học tiêu biểu về quan niệm đó”, Tạp chí triết
học, số 1, tháng 02 – 1998.
- Vũ Văn Viên (1995),”Quan niệm của I.Cantơ về bản chất của nhận
thức”, Tạp chí triết học, số 1 tháng 3 – 1995.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của đề tài là làm rõ thực chất và vai trò của nhận thức
luận trong triết học I.Cantơ.
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
- Phân tích thực chất của nhận thức luận trong triết học I.Cantơ.
- Phân tích vai trò của nhận thức luận trong triết học I.Cantơ.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
- Cơ sở lý luận của đề tài là những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử được áp dụng vào nghiên cứu
một học thuyết triết học.
- Phương pháp nghiên cứu của đề tài là sự kết hợp các nguyên tắc
nghiên cứu lịch sử triết học rút ra từ phép biện chứng duy vật với các
phương pháp chung như so sánh, phân tích, tổng hợp, chú gìải theo từng
mục và đặc biệt là phương pháp lôgíc và lịch sử.
5. Đóng góp của khóa luận
Thông qua việc nghiên cứu nhận thức luận của I.Cantơ khóa luận đã
góp phần nâng cao trình độ tư duy triết học của bản thân, đồng thời giúp
chúng ta có được cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về nhận thức luận.
Khóa luận góp phần vào việc làm rõ những vấn đề thực chất, vai trò
với những cống hiến và hạn chế của nhận thức luận I.Cantơ.
6. Kết cấu của khóa luận :
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Khóa luận có hai

chương (5 tiết).

3


Chương 1
THỰC CHẤT CỦA NHẬN THỨC LUẬN TRONG TRIẾT HỌC
I.CANTƠ
1.1.

Những vấn đề của nhận thức luận trong triết học I.Cantơ

1.1.1. Vấn đề tri thức
I.Cantơ cho rằng tri thức của con người là do nhận thức của con
người mang lại, kết quả nhận thức của con người về thế giới. Với I.Cantơ
thì tri thức là một thể thống nhất có 2 mặt:
Mặt thứ nhất, để có tri thức trước hết có những quan niệm, khuôn
hình của tri thức nhưng chỉ riêng quan niệm thì đó chỉ là khuôn hình
trống rỗng không có chất liệu nào cả.
Mặt thứ hai, là cảm giác kinh nghiệm có được từ đối tượng mà ra, tri
thức kinh nghiệm có thể lấy tính xác thực ở đâu ra nếu như tất cả các quy
tắc mà nó tuân thủ, đến lượt mình cũng là do kinh nghiệm mà có [14;
323].
Tri thức theo quan niệm của I.Cantơ có hai cấp độ: kinh nghiệm cảm
tính và tri thức khoa học.
1.1.2. Vấn đề đối tượng
Đây là bộ phận xác định điều kiện, giới hạn và năng lực của nhận
thức từ đó xác định đối tượng nhận thức và các kết quả của nhận thức là
tri thức.
Đối tượng của nhận thức là bản thân thế giới nhưng đây là thế giới

tri thức con người khác với thế giới nói chung. Vào lúc không có con
người thì thế giới đã có rồi. “Thế giới chung” và khi con người đã có thì
thế giới cũng đã có rồi.
Đối tượng nhận thức là thế giới hiện ra của con người chứ không
phải là thế giới chung mà thế giới bằng những năng lực của con người
làm cho thế giới hiện ra. Trong cách nhìn ấy thì thế giới có hai phần.
Phần thế giới hiện ra trước con người, “thế giới hiện tượng” thế giới
này chỉ tồn tại phụ thuộc vào năng lực của con người.

4


Phần thế giới vật tự nó, I.Cantơ cho rằng thế giới nói chung, nguyên
là vật tự nó, thế giới này không phụ thuộc vào con người, không do con
người mà có, nhưng thế giới này tác vào giác quan con người thì lúc này
thế giới này xuất hiện, thế giới hiện tượng nó được sinh ra “tự nó – và sự
tồn tại của giác quan con người”, nhưng thực ra chỉ nhận thức được thế
giới thông qua nhận thức con người mà thôi.
Theo I.Cantơ, thế giới hiện tượng là thế giới hữu hình, hữu hạn, có
giới hạn của nó về mặt không gian và thời gian. Đây là thế giới tuân theo
quy luật, tuần hoàn theo những quy luật tất yếu ,tuân theo liên hệ nhận
quả, trật tự chi phối.
Phần thứ hai của thế giới “thế giới câm”, tự nó mà có, tự bản thân
nó có, tự nó tồn tại, sự vật hữu hình “không có hình hài chứ không phải là
siêu hình”. Cho nên thế giới này không có không gian và thời gian.
Nếu như thế giới hiện tượng tuân theo tự do thì ở thế giới này không
tuân theo quy luật, không có liên hệ nhân quả, thì thế giới tự do “tự do
nó” không bị ràng buộc.
Thế giới này gọi là siêu nghiệm không thể sống trải và chúng ta
chẳng có kinh nghiệm nhận ra.

1.1.3. Vấn đề năng lực nhận thức
Theo I.Cantơ thì con người ta nhận thức bằng lý tính, lý luận “lý
tính tiên thiên” năng lực này có 3 cấp độ. Đó là cảm năng, trí năng và lý
năng. Lý tính tiên thiên trong nhận thức gọi là lý tính nhận thức.
Cảm năng là năng lực, khả năng đem lại cho con nguời ta tri thức
kinh nghiệm cảm tính.
Trí năng là năng lực đem lại cho con người những tri thức khoa học
với hai đặc tính phổ quát và tất yếu. Tri thức này là tri thức về quy luật,
tính liên hệ tất yếu, nhân quả nên nó tất yếu.
Lý năng: đây không phải là năng lực tri thức mà đây là năng lực
đem lại cho con người những ý tưởng, cái tuyệt đối, không phải là cái
hữu hình nằm ngoài quy luật, cái tuyệt đối chính là vật tự nó,không cho ta
hiểu biết nào.
1.1.4. Quá trình nhận thức

5


Con người ta có tri thức là nhờ vào hoạt động của năng lực nhận
thức, nhưng có hay không là nhờ vào quá trình nhận thức đó là quá trình
thực hiện, triển khai phát huy năng lực này thì mới có tri thức.
Từ đó cho rằng năng lực phát sinh ra quá trình nhận thức
Quá trình hoạt động của cảm năng bằng cảm tính, kết quả của tri
thức kinh nghiệm cảm tính đó là tri thức không gian và thời gian.
Quá trình hoạt động lý năng được coi là quá trình nhận thức, nhưng
coi quá trình nhận thức phải đem lại tri thức, thì hoạt động lý năng không
đem lại tri thức.
Ý niệm về cái tuyệt đối có 3 phương diện.
Ý niệm về cái tuyệt đối ở bên ngoài ta “có cái tuyệt đối ở ngoài ta”
lý năng hướng tới cái tuyệt đối bên ngoài con người.

Lý năng hướng tới cái tuyệt đối ở trong ta, nhưng vượt hết thảy mọi
cảm giác khách thể “thì đạt đến linh hồn bất tử”.
Cái tuyệt đối cả trong ta và ngoài ta, khi lý năng hướng đến cái
trong ta và ngoài ta.
Vật tự nó chính là vũ trụ vô hạn, linh hồn bất tử và chúa trời.
I.Cantơ cho rằng con người có ý niệm về vật tự nó nhưng lý tính một mặt
chỉ đem lại cho người ta cái tuyệt đối.
Lý tính tạo ra cái mường tượng mà nó còn có sự ham muốn về sự có
tri thức về cái tuyệt đối nhưng không chỉ ước vọng như thế mà muốn thực
hiện nó nên nó muốn thực hiện ham muốn này thì phải tìm kiếm công cụ,
nhưng công cụ đã có sẵn đâu? Do vậy nên phải mượn lại bộ công cụ của
các phạm trù lí năng “công cụ không phải để nhận thức cái tuyệt đối” mà
để nhận thức hiện tượng thôi “không phải là công cụ để nhận thức cái tự
nó được”. Ở đây, nó nảy sinh mâu thuẩn, vấp phải những Antromia
“những mâu thuẩn của lý tính”.
Đây là những sai lầm của lý tính, những cái gốc của sai lầm đó là sử
dụng công cụ không phù hợp với đối tượng..
Vật tự nó là vật bất khả tri. Con người đến bây gìờ vẫn bất lực trước
vật tự nó. Lập trường của I.Cantơ duy tâm tiên nghiệm “
I.Cantơ xuất phát từ lập trường nhất nguyên nhưng lại rơi vào nhị
nguyên, ở chổ thế giới theo I.Cantơ vừa là thế giới hình tượng vừa là vật
6


tự nó. Nhị nguyên ở công cụ nhận thức, ở nguồn gốc tri thức, ở tính bất
khả tri.
1.2. Nội dung cơ bản của nhận thức luận trong triết học I.Cantơ
Thực chất của nhận thức là vấn đề trung tâm đối với nhận thức luận
trước I.Cantơ. Có thể nhận thấy rằng cả ở trong các hệ thống chủ nghĩa
duy lý cổ điển lẫn trong các học thuyết chủ nghĩa kinh nghiệm duy vật,

nhận thức được xem như kết quả hoạt động tư duy của chủ thể nhằm thấu
hiểu thế giới bên ngoài.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, I.Cantơ đã đặt ra vấn đề tính
khách quan ở chủ thể hiện nhận thức.
Trong tác phẩm phê phán lý tính thuần túy, một trong những nội
dung cơ bản của triết học lý luận được I.Cantơ nêu ra là: tri thức khoa học
chân chính có khả năng đến đâu. Vấn đề là ở chỗ, những vấn đề làm nên
tính xác thực của tri thức, theo I.Cantơ, được tạo ra bởi những hình thức
tiền kinh nghiệm của nhận thức cảm tính. Đó là trình độ nhận thức thứ
nhất của nhận thức [14; 301].
Theo I.Cantơ nhận thức kinh nghiệm là khởi đầu của nhận thức quy
nạp, nhưng tính xác thực của các khái quát quy nạp nhờ kinh nghiệm lại
không nằm trong kinh nghiệm mà ở lý trí (nó mang tính tiên nghiệm).
I.Cantơ khẳng định rằng: mọi nhận thức đều bắt đầu từ kinh nghiệm
(cảm tính). Nhưng, cho dù toàn bộ nhận thức của con người được bắt đầu
từ kinh nghiệm, thì điều đó không hoàn toàn không có nghĩa là tri thức
được sinh ra hoàn toàn từ kinh nghiệm.
Vấn đề đặt ra: trực quan thuần túy có thể thực hiện bằng cách nào.
Khi nói đến trực quan đó là biểu tượng liên quan trực tiếp đến một đối
tượng nào đó.
I.Cantơ thừa nhận có hai trình độ của kinh nghiệm; một kinh nghiệm
được xây dựng trên cơ sở những tri giác cảm tính, nhưng để kinh nghiệm
có ý nghĩa là kinh nghiệm khoa học. Như vậy theo I.Cantơ, thì “ý nghĩa
khách quan và tính phổ biến, tất yếu thực chất là những khái niệm đồng
nhất, dù chúng ta không biết khách thể như nó vốn có là như thế nào,
nhưng khi ta cho phán đoán tính phổ biến và thông qua nó là tất yếu, thì
7


chúng ta đã cho nó ý nghĩa khách quan”, tính khách quan đó có được theo

I.Cantơ là nhờ các khái niệm của lý trí thuần túy [14; 332].
Để đảm bảo tính tất yếu và phổ biến của tri thức khoa học và tri
thức triết học, theo I.Cantơ thừa nhận vật phải phù hợp với nhận thức của
chúng ta chứ không phải nhận thức của chúng ta phải phù hợp với vật. Vì
nhận thức phải trùng hợp với đối tượng mới tạo nên chân lý.
Song I.Cantơ còn gìải thích, làm thế nào chủ thể lại có thể nhận
thức cả đối tượng hiện thực, sau khi đã tạo ra trong tư duy siêu nghiệm
khái niệm tiên nghiệm về “đối tượng nói chung”. Thực vậy, vì “đối tượng
nói chung” được tạo ra bởi tư duy siêu nghiệm, tức là bởi cái gì đó thuần
túy tư tưởng. Trong khi đó đối tượng kinh nghiệm tồn tại hiện thực ngoài
tư duy và các khái niệm về nó: Điều này nói đến mối quan hệ gìữa các
đối tượng với “các đối tượng nói chung”, thì trong triết học I.Cantơ mọi
đối tượng chỉ tồn tại như là đối tượng của ý thức, còn tất cả những gì nằm
ngoài khuôn khổ ấy đều được I.Cantơ coi là “vật tự nó”. Vì thế mọi đối
tượng đối với I.Cantơ đều là hiện tượng, tức là sản phẩm của ý thức con
người. Vậy thì thế giới đó diễn ra phụ thuộc vào năng lực, khả năng cách
nhìn của con người về thế giới thôi, khả năng con người phản ánh thế
giới. Đó là một phần của thế giới hiện ra trước con người chứ không phải
tất cả (của thế giới nói chung). Bởi vì thế giới nói chung, nguyên là vật tự
nó thì thế giới này không lệ thuộc vào con người, không do con người mà
có, nhưng khi thế giới này tác vào giác quan con người thì lúc này thế
giới xuất hiện, thế giới hiện tượng nó được sinh ra “tự nó” – và sự tồn tại
của giác quan của con người, nhưng thực ra chỉ nhận thức được thế giới
thông qua nhận thức con người mà thôi. Bởi vì, luận điểm cơ bản của
I.Cantơ là: Có một “vật tự nó” ở bên ngoài tầm nhìn lý tính của chúng ta,
chúng ta phải có cách nhận thức khác (ngoài lý tính) mới có thể hiểu được
bản chất sâu xa của sự vật.

8



Vậy từ quan điểm đó ta nói đến năng lực nhận thức là cái gì? “Tôi
có thể nhận biết được cái gì?”. Nếu trả lời được câu hỏi này thì sẽ tạo tiền
đề lý luận cơ bản để đi tới việc trả lời câu hỏi “Con người là gì”.
Từ đối tượng của nhận thức, nảy sinh năng lực nhận thức thế nào?
Được thực hiện nhờ khả năng nhận thức ở trình độ nhận thức lý tính. Ở
trình độ này lý trí đó chính là tư duy với hệ thống các khái niệm và các
phạm trù của mình đã thực hiện các phán đoán để xây dựng đối tượng
nhận thức.
Ở gìai đoạn nhận thức lý tính tư duy con người bắt gặp ba ý niệm
cơ bản đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con người. Linh
hồn - đối tượng nghiên cứu chủ yếu của tâm lý học duy lý; vũ trụ - đối
tượng nghiên cứu chủ yếu của siêu hình học duy lý; thượng đế - đối
tượng nghiên cứu chủ yếu của thần học tiên nghiệm..
Vậy, linh hồn, vũ trụ, thượng đế ba đối tượng của siêu hình học, mà
lý tính – cấp độ cao nhất của nhận thức con người đã nhiều lần muốn
vươn tới nhưng gặp phải antinomi. Điều đó chứng tỏ rằng nhận thức con
người có giới hạn và con người chỉ nhận thức được những gì nằm trong
khuôn khổ của thế giới hiện tượng, vượt ra ngoài thế giới đó là vương
quốc của thế giới vật tự nó. Đó là lời gìải đáp cho câu hỏi: “Tôi có thể
nhận biết được cái gì?”[14; 314–315].
Theo I.Cantơ hiểu “vật tự nó” được hiểu:thứ nhất, đó là những
hiện tượng (được I.Cantơ đồng nhất với các kinh nghiệm), mà chúng ta
chưa nhận thức được; thứ hai, đó là bản chất của mọi sự vật tồn tại bên
ngoài chúng ta, thuộc về lĩnh vực siêu nghiệm và về nguyên tắc chúng ta
không thể nhận thức được; thứ ba, “vật tự nó” là những lý tưởng, chuẩn
mực của mọi sự hoàn hảo tuyệt đối mà con người không thể đạt được, là
những điều mà nhân loại hằng mơ ước – đó là chúa, tự do, sự bất tử của
linh hồn[14;336].


9


I.Cantơ quan niệm như vậy về “vật tự nó” thể hiện rõ tính chất nhị
nguyên trong quan niệm của ông về thế giới đồng thời thể hiện rõ quan
niệm của ông về giới hạn nhận thức của con người. Một mặt khẳng định
“vật tự nó” có các sự vật tồn tại bên ngoài chúng ta, thể hiện như một nhà
duy vật. Còn mặt khác “vật tự nó” thể hiện sự tồn tại của chúa, sự bất tử
của linh hồn, trên gốc độ này I.Cantơ là nhà duy tâm.
Từ quan niệm “vật tự nó” I.Cantơ xây dựng lý luận về nhận thức
luận của mình. Ông cho rằng, nhận thức không phải là sự phản ánh sự vật
trong hiện thực khách quan mà là quá trình con người tạo ra tri thức nhờ
tư duy của ta vận dụng khái niệm vào lĩnh vực kinh nghiệm (giác tính).
Do vậy, theo I.Cantơ đối tượng lý luận về nhận thức là nghiên cứu hoạt
động nhận thức của con người trong phạm vi hiện tượng luận để tạo ra tri
thức, xác định những quy luật hoạt động của trí tuệ và giới hạn trí tuệ của
con người.
Gìai đoạn nhận thức lý tính thuần túy. Lý tính kết hợp với các
phạm trù tiên thiên có thể cho ta tri thức về sự vật, hiện tượng.
Khi lý tính thuần túy muốn xâm nhập vào nhận thức (vật tự nó ) thì
gặp phải antinomi.Một mặt phản ánh sự bất lực của lý tính lý luận thuần
túy ,mật khac lại thể hiện tinh thần biên chứng của ông .
Ở đây lại có câu hỏi đặt ra: tại sao lại có những giới hạn của nhận
thức ấy. Bởi vì trong quan niệm về vật tự nó, I.Cantơ cho rằng gìữa “hiện
tượng” với “vật tự nó” là hoàn toàn khác biệt nhau.
Bên cạnh những hạn chế về quan niệm bản chất và giới hạn của
nhận thức, thì có những mặt hợp lý.
Một là: I.Cantơ đã phân biệt một cách rõ ràng nhận thức lý luận và
nhận thức kinh nghiệm. Quá trình vận động biến đổi của nhận thức lý
luận tuân theo những quy luật đặc thù của nó, không thể đồng nhất nhận

thức lý luận và nhận thức kinh nghiệm.
10


Hai là: I.Cantơ đã nhấn mạnh vai trò của tư duy trừu tượng, hay
của nhận thức lý tính đối với nhận thức cảm tính. Nhận thức lý tính
hướng dẫn nhận thức cảm tính, làm cho tri giác của con người mang tính
tự giác, có phương hướng xác định, chủ động.
Ba là: I.Cantơ nhấn mạnh đến vai trò của chủ thể con người trong
quá trình nhận thức. Con người chỉ có thể tạo ra tri thức của mình, chứ
không chỉ là sự tiếp nhận của thế giới bên ngoài, không phải thụ động phụ
thuộc vào thế giới bên ngoài.
Bốn là: ông đưa ra quan niệm về “vật tự nó”, bên cạnh việc thừa
nhận giới hạn nhận thức con người thì I.Cantơ còn muốn khẳng định tính
phức tạp đầy mâu thuẫn của quá trình con người nhận thức thế giới, cũng
như về mối quan hệ gìữa con người với thế giới nói chung[14; 341 –
342].
Thực chất từ những vấn đề được I.Cantơ đưa ra trong nhận thức
luận, thì những vấn đề đó liên quan với nhau một cách lôgíc, nhằm tạo ra
nét đặc biệt riêng của triết học I.Cantơ, mở ra những quan niệm mới cho
sự phát triển lý luận nhận thức mà mãi cho đến tận bây gìờ người ta vẫn
đang quan tâm và bàn đến.
Chương 2
VAI TRÒ CỦA NHẬN THỨC LUẬN TRONG TRIẾT HỌC I.CANTƠ
2.1. Vị trí của nhận thức luận trong triết học I.Cantơ
Nhận thức luận, nó là phương pháp luận của triết học I.Cantơ. Vấn
đề độc đáo đã được đặt ra đó là về đối tượng nghiên cứu của triết học như
thế nào và phương pháp tư duy nghiên cứu triết học ra sao?
Phương thức tư duy mang tính chủ thể của I.Cantơ đầu tiên là
phương thức tự phê phán đối với bản thân lý tính để khỏa sát năng lực

phát sinh quan hệ ngoại giới với chủ thể.

11


Theo I.Cantơ, những người đi trước đều bàn về nhận thức nhưng
không một ai đi sâu xem xét năng lực nhận thức của con người, họ vận
dụng sự phê phán lý tính đi theo đối tượng chứ không hề tiến hành sự phê
phán với bản thân lý tính. Nhiệm vụ ông đặt ra là trước khi nhận thức thì
phải xét năng lực nhận thức của con người, trước khi phê phán lý tính đối
với ngoại giới thì hãy xem xét với tính phê phán đối với lý tính đã.
Đặc điểm của phương thức tư duy mang tính chủ thể là căn cứ từ
gốc độ năng lực, phạm vi và giới hạn của chủ thể để đi tìm câu trả lời cho
cuộc tranh luận gìữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là vấn đề
bản nguyên của thế giới.
Đặc trưng cơ bản nhất của phương pháp tư duy chủ thể tích của
I.Cantơ là lấy chủ thể làm trục xuyên suốt để gìải quyết vấn đề nhận thức
luận.
I.Cantơ cho rằng nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt được những tri
thức mang tính tất nhiên phổ biến.
Theo I.Cantơ cho rằng, suy cho cùng tính khả năng của tri thức tất
nhiên, phổ biến ở tính năng động trong nhận thức chủ thể, nghĩa là tồn tại
một “cái tôi tiên nghiệm” ở đây nói về nhận thức của chúng ta trong quan
hệ với năng lực nhận thức mà thôi.
Một là, giai đoạn năng lực trực quan và nhận thức cảm tính. Đây là
năng lực do chúng ta tác động vào hiện tượng của đối tượng để tiếp thu
biểu tượng.
Hai là, năng lực tư duy giác tính và gìai đoạn giác tính của nhận
thức. I.Cantơ cho rằng, chủ thể không chỉ có năng lực trực quan cảm tính
mà còn có năng lực tư duy giác tính, đó chính là “năng lực khiến tôi có

thể tư duy”.
Ba là, I.Cantơ cho rằng, năng lực tổng hợp của lý tính và gìai đoạn
lý tính của nhận thức. Ông nói: “Tất cả các tri thức của tôi bắt đầu từ cảm
12


quan tiến tới giác tính và kết thúc ở lý tính, và ngoài lý tính thì không có
năng lực nào cao hơn”.
Vị trí của phương pháp luận đặt trong mối quan hệ với triết học thực
tiễn..
I.Cantơ cho rằng, tính chủ thể của con người không chỉ thể hiện
trong hoạt động nhận thức mà còn tồn tại trong thực tiễn đạo đức.
I.Cantơ quan tâm và coi trọng đối với lý tính thực tiễn về bản chất
chính là thể hiện sự quan tâm, coi trọng đối với tính chủ thể của con
người, nó khiến cho việc nghiên cứu tính chủ thể từ nhận thức luận được
nâng cao đến mức thực tiễn luận, đạo đức luận, biến nó từ vấn đề nhận thức
thuần túy trở thành vấn đề thực tiễn đạo đức.
Chủ trương của I.Cantơ là phát huy tính chủ thể của con người trong
thực tiễn đạo đức, nhấn mạnh đến việc phát huy sức mạnh đức tin, thông
qua tự luật đạo đức của chủ thể để tuân theo quy luật đạo đức, đạt tới ý chí tự
do, thực hiện ý chí thiện lương.
Vị trí phương pháp luận đặt trong mối quan hệ với triết học thẩm
mỹ.
Theo I.Cantơ, con người là động vật theo đuổi và sáng tạo nên thế
giới lý tưởng. Nhu cầu về sự thống nhất gìữa chân – thiện – mỹ và trong
tri thức tình cảm và ý chí là nội dung quan trọng trong hoạt động chủ thể
của con người.
Vấn đề ông bàn đến là mỹ cảm – cảm giác vui sướng là một loại thụ
cảm của chủ thể.
I.Cantơ cho rằng, xem xét từ mặt chất, sức thưởng thức là một loại

năng lực hoạt động tình cảm thuần túy vượt lên trên quan hệ lợi hại, là
một sức phán đoán tình cảm dựa vào sự xúc động hay phản vô lợi hại đối
với đối tượng nào đó và phương pháp của nó.

13


Tư duy chủ thể tính và phương thức nghiên cứu của I.Cantơ đã vượt
ra khỏi giới hạn của phương thức tư duy nhận thức cận đại.
Vị trí đặt trong mối quan hệ với nhận thức luận trước I.Cantơ và sau
I.Cantơ.
Nhiệm vụ trọng tâm của triết học cận đại XVII – XVIII là lý luận
nhận thức, là tìm ra phương pháp của tri thức chân lý cho tất cả các khoa
học.
Phe Bêcơn, T.Hôpxơ, J. Lốccơ – những người theo chủ nghĩa kinh
nghiệm cho rằng nguồn gốc duy nhất của tri thức là kinh nghiệm.
Đềcáctơ, Lépních, X Pinôda và một số người khác theo chủ nghĩa
duy lý cho rằng: kinh nghiệm dựa trên cảm giác con người không trở
thành phương pháp chung cho mọi khoa học được.
Cuộc tranh luận gìữa các nhà triết học xung quanh việc tìm cơ sở
của phương pháp mới chính là cuộc tranh luận chiến gìữa chủ nghĩa kinh
nghiệm và chủ nghĩa duy lý thời cận đại thế kỷ XVII – XVIII.
Thành tựu lớn nhất của nền triết học cổ điển Đức là phép biện
chứng. Phép biện chứng duy tâm khách quan của triết học cổ điển Đức
bắt đầu từ I.Cantơ qua Phíchtơ, Sêlinh đến đỉnh cao là Hêghen.
Học thuyết của I.Cantơ về mâu thuẫn (Antinomi) đã góp phần quan
trọng trong sự phát triển phép biện chứng với tư cách là lôgíc và phương
pháp luận.
Theo Hêghen, triết học là sự xem xét đối tượng một cách có suy
nghĩ. Đối tượng của triết học trùng với đối tượng của tôn gìáo đó là khách

thể tuyệt đối vô hạn thượng đế. Còn tư duy nói chung là cái làm cho con
người khác với động vật, sự phát triễn của triết học Hêghen là phương
pháp biện chứng, đây là phương pháp suy ngẫm triết học về thế giới.

14


Quan niệm của Hêghen về nhận thức: ý niệm, vật chất chuyển vào
bộ não. Toàn bộ hiện thực là quá trình triển khai ý niệm hay là của tư duy trải
qua ba gìai đoạn.
Ý niệm lôgíc (tư duy nói) khi trình bày “ý niệm tuyệt đối” vận động
và phát triển, Hêghen cho rằng đó là sự vận động nội tại của “ý niệm
tuyệt đối”.
Theo Hêghen thì thực tiễn chỉ là một phần, một bộ phận của nhận thức
mà thôi.
Sang triết học Phơ Bách, quan niệm của ông về nhận thức, ông là
người đã khẳng định các nguyên lý duy vật cơ bản về nhận thức.
Quá trình hình thành và phát triễn của lý luận nhận thức. Nếu tiếp
cận cụ thể về I.Cantơ, Phíchtơ, Sêlinh, Hêghen và Phơ Bách thì sẽ cho
chúng ta nhiều thông tin về vấn đề nội dung và phương pháp gìải quyết
vấn đề nhận thức: “vật tự nó” không thể nhận thức được, các kiến thức có
được của loài người là nhờ các hình thức “tiên nghiệm” của I.Cantơ; mối
quan hệ gìữa cái “tôi tuyệt đối” của Phíchtơ; cái tuyệt đối của Sêlinh; “ý
niệm tuyệt đối” của Hêghen, tuy có sự thống nhất nhưng cũng chứa đựng
sự khác nhau trong phương pháp luận, “cái bất biến” và “cái khả biến”
trong quá trình nhận thức của con người và loài người.
Mọi lý thuyết đều trở thành phương pháp. Hay nói khác đi, lý thuyết
nào, phương pháp đó. Tương ứng với toàn thể luận là một phương pháp
hệ.
2.2. Ảnh hưởng của nhận thức luận trong hệ thống triết học I.Cantơ

Vai trò phương pháp luận của nhận thức đối với triết học thực tiễn
như thế nào? Nếu như triết học lý luận nghiên cứu khả năng nhận thức
của con người (cảm tính, giác quan, lý tính) xác định giới hạn tri thức của
chúng ta, tức làm rõ vấn đề “tôi có thể biết được cái gì?” thì triết học thực
tiễn lại nghiên cứu các nguyên lý hoạt động thực tiễn của con người trong
15


xã hội gìải đáp vấn đề “tôi có thể biết được cái gì?” thì triết học thực tiễn
lại nghiên cứu các nguyên lý hoạt động thực tiễn của con người trong xã
hội, gìải đáp vấn đề “tôi cần phải làm gì?”. Lần đầu tiên trong lịch sử,
I.Cantơ hiểu được vai trò quyết định của hoạt động thực tiễn của con
người, đặt thực tiễn cao hơn lý luận[8;268].
Mối quan hệ gìữa triết học cổ điển và triết học lý luận ở I.Cantơ khá
phức tạp,triết học thực tiễn là mặt đối lập trực tiếp với triết học lý luận
của ông. Con người trong triết học thực tiễn cũng chính là con người
được bàn đến trong triết học lý luận, nhưng gìờ đây được xem xét ở gốc
độ hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn được I.Cantơ hiểu theo nhiều nghĩa. Theo nghĩa hẹp thì đó
là hoạt động đạo đức của con người, còn theo nghĩa rộng, đây là toàn bộ
các hoạt động chính trị, lịch sử, pháp quyền, văn hóa
I.Cantơ cho rằng con người ta tồn tại thì con người ta phải có hoạt
động, “hoạt động sống của mình”,
Trước khi có hành động thể hiện đang diễn ra thì con người ta còn
có những hành động khác thì với I.Cantơ gọi là hành động quyết định,
nhưng sự quyết định bao gìờ cũng đi trước những hành động thể hiện.
Ở I.Cantơ trong lĩnh vực đạo đức thì con người cần phải làm gì mới
có đạo đức? Bản thân của đạo đức chỉ phải thông qua đạo đức hành động
thực tiễn thì mới có đạo đức được.
Vậy ở đây bằng cách nào lý năng có thể đem lại cho con người ta

đạo đức thật sự. Đối với I.Cantơ thì lý năng ở mỗi con người ai cũng có,
ở mỗi con người ai cũng có năng lực đạo đức cả. I.Cantơ muốn nói rằng:
đạo đức không có ai thiên tài trong lĩnh vực đạo đức cả, vậy thì bằng cách
nào đó để có đạo đức, thì lý năng tự mình ban ra những mệnh lệnh tuyệt
đối, những luật của đạo đức tự mình cưỡng bức ta hành động không thể
làm trái được.
16


Vấn đề đặt ra là, vậy phải làm gì để quyết định của ta có gìá trị đạo
đức hay có tự do tuyệt đối? I.Cantơ đã đưa ra tiêu chí để bảo toàn tính
chất cưỡng bức tuyệt đối của mệnh lệnh tuyệt đối.
Mỗi người đều có quyền và hành động theo điều kiện và ý muốn sao
cho ai cũng làm được như thế.
Mỗi người đều có quyền và cần phải cho phép những người khác có
được quyền như thế và tạo điều kiện để họ thực hiện được nó.
Mỗi người đều có quyền cần phải ngăn chặn những người khác hành
động trái với mệnh lệnh tuyệt đối trên trong những chừng mực có thể làm
được.
Mọi cái đều phải được làm vì con người, bởi vì sự tồn tại của con
người là cái cao quý nhất trên thế gian.
Trong triết học lý luận , tự do cũng là một vấn đề quan trọng, song
I.Cantơ cho rằng trong thế giới hiện tượng luận tự do của con người chỉ là
tương đối chứ không phải là tự do tuyệt đối mà đó là tự do trên cơ sở
nhận thức các quy luật chi phối giới tự nhiên hiện tượng luận .
Trong triết học thực tiễn I.Cantơ cho rằng , chỉ trong hoạt động thực
tiễn , con người nhận thấy tự do của mình là gìá trị cao quý nhất trên thế
gian .
Quan niệm như vậy của I.Cantơ về tự do đã khẳng định một điều
rằng: lý tính lý luận không đủ quyền năng để đi sâu vào lĩnh vực siêu

nghiệm (vật tự nó), mà chỉ có lý tính thực tiễn với tư cách là ý chí tự do mới
có thể xâm nhập vào lĩnh vực đó.
Nhận thức có sự phân phối, phương pháp này ảnh hưởng đến
phương pháp tư duy của I.Cantơ trong triết học thực tiễn: tác động của tư
duy có hai trường hợp.
Trường hợp 1: tư duy được xem như một quá trình khám phá bản
chất của sự vật, thì quá trình này gọi là quá trình nhận thức mâu thuẫn.
17


Trường hợp 2: tư duy là một hiện tượng độc lập tương đối, sự vận
động phát triển của tư duy và các hình thức tư duy tuân theo quy luật
triển khai và gìải quyết mâu thuẫn. Phương thức triển khai mâu thuẫn,
mỗi hình thức tư duy chứa đựng mâu thuẫn.
Vai trò phương pháp luận của nhận thức ảnh hưởng đến triết học
thẩm mỹ.
Tác phẩm chính “phê phán năng lực phán đoán”; nhiệm vụ của bộ
phận này là nghiên cứu năng lực phán đoán về các đặc thù; cụ thể là
nghiên cứu năng lực phán đoán thẩm mỹ, và nghiên cứu năng lực phán
đoán mục đích: hai loại này I.Cantơ gọi là phán đoán về các đặc thù.
Đặt vấn đề của I.Cantơ : xác định bản chất của con người với mục
đích cao nhất, nhằm giúp con người đạt đến cao nhất chân - thiện - mỹ.
Trong lĩnh vực đạo đức, I.Cantơ cho rằng: con người đạt được tự do
tuyệt đối. Đạo đức ở đây là những hành động mang tính chất lương thiện.
Và ông nói: “chỉ trong lĩnh vực đạo đức con người mới ngang hàng với
thiên thần”.
Từ cách đặt vấn đề đó I.Cantơ cho rằng: những mâu thuẩn gìữa đạo
đức học và thực tiễn, hi vọng rằng trong triết học thẫm mỹ và nhận thức
luận, năng lực con người ta có một đời sống như thế, sẽ tìm được đời
sỗng tự do của con người, cuộc sống thường nghiệm chứ không phải siêu

nghiệm.
Đặc trưng của phán đoán thẩm mỹ được I.Cantơ phân tích theo quan
điểm những phạm trù chủ yếu được thừa nhận trong hệ thống của ông:
chất lượng – số lượng - tương quan và phương thức.
Với bốn đặc trưng này đối với thẫm mỹ là đời sống hoàn toàn tự do,
nhưng khác với tự do trong đạo đức. Thế nhưng tự do trong đạo đức
mang tính siêu nghiệm, còn đối với thẫm mỹ thì tự do mang tính thường
nghiệm.
18


Năng lực phán đoán thẫm mỹ I.Cantơ gọi là khiếu thẫm mỹ. Khiếu
thẫm mỹ có trong tính tiên thiên nên về nguyên tắc nó vẫn mang tính tiên
thiên, nhưng khiếu thẫm mỹ nó không có sẵn.
I.Cantơ khẳng định trong lĩnh vực nhận thức không có thiên tài.
Trong lĩnh vực đạo đức cũng không có thiên tài nhưng trong đời sống
thẫm mỹ thì có thiên tài đồng thời cũng có kẻ ngu đần. Vì khiếu thẫm mỹ
là cái không có sẵn, mà là sản phẩm của thưởng ngoạn thãm mỹ.
Năng khiếu thẩm mỹ đem lại cho con người ta khiếu thẩm mỹ, ở
khiếu thẩm mỹ ở mỗi người là không như nhau, nhưng các phán đoán
thẩm mỹ đều do con người ta, do sinh hoạt thẩm mỹ, thưởng ngoạn thẩm
mỹ, do con người ta có thẩm mỹ đồng thời sáng tạo thẩm mỹ.
I.Cantơ nói “vẻ đẹp của người phụ nữ không ở đôi má hồng”. Với
quan niệm này I.Cantơ là người sáng lập ra chủ nghĩa chủ quan trong
thẩm mỹ học. Ông đã phát hiện ra vai trò của chủ thể trong thẩm mỹ là
một cống hiến to lớn của ông.
Đặc trưng của cái đẹp là luôn luôn là một antinomi vừa là cái phổ
biến, vừa là cái đơn nhất, vấn đề ở chổ nó gây cảm xúc, người ta thưởng
thức cái đẹp dưới cái đơn nhất không thể có cái chung chung. Thưởng
thức để người ta thưởng ngoạn cái đẹp luôn luôn là cái đơn nhất, nhưng

khi con người ta thưởng thức thì đó là cái phổ biến.
Thẩm mỹ, nếu như không có sinh hoạt thẩm mỹ người ta buộc phải
chấp nhận antinomi thẩm mỹ thì mơi có thẩm mỹ, người ta thưởng thức
cái đẹp khi phải chấp nhận antonomi.
Mục đích luận: phán đoán thẩm mỹ chẳng qua là phán đoán mục đích mà
thôi.
Luận chứng nguyên nhân sau khi Arixtôt nêu ra: nguyên nhân
thường có trước kết quả, nhưng đồng thời nguyên nhân có đồng thời với

19


kết quả, tương tác, bắt đầu tương tác thì bắt đầu kết quả, tương tác đến
đâu thì kết quả đến đấy .
I.Cantơ cho rằng có nhiều loại mục đích khác nhau: mục đích tương
đối, cái gì đó là cái đích, hay kết quả là cái hướng đến. Mục đích tương
đối mục đích này là kết quả của cái khác hướng tới nhưng kết quả ấy có
thể trở thành nguyên nhân hoặc mục đích khác. Còn mục đích tuyệt đối
theo nghĩa những cái khác là phương tiện của nó và nó không còn là
phương tiện của cái gì nữa. Trong giới tự nhiên mục đích của chính mình,
con người là kết quả cuối cùng của sự phát triển thế giới tự nhiên, với con
người nó là mục đích của nó.
Trong vũ trụ này có nhiều mục đích mang tính nội tại và tất yếu.
Vậy tính mục đích của vũ trụ. Nhìn vào vũ trụ có một trật tự hòa điệu,
hợp lý thì con ngươi ta sẽ có những phán đoán rằng vũ trụ có tính mục
đích, trật tự ấy được sắp xếp theo một mục đích nào đấy, theo một ý định
ban đầu nào đó. I.Cantơ gọi phán đoán đó là phán đoán mục đích.
Lôgíc của sự hóa về đường tâm linh người ta hiểu theo một nghĩa
khác, sư hóa của lôgíc dường như nó là một trật tự mang tính mục đích.
Liệu những lôgíc của những linh cảm, những ý định mà dường như đang

bị phân đôi ra cả trong tư duy và cả trong hành động nhưng ta chưa biết
rõ là kết quả là như thế nào?
Do vậy năng lực phán đoán về tính mục đích có ba phán đoán sau:
Thứ nhất, là trật tự sắp xếp các loài trong tự nhiên, loài này là
phương tiện của loài kia, và loài kia là mục đích của loài này.
Thứ hai là toàn bộ trật tự hợp lý của giới tự nhiên thì mục đích cao
nhất là con người. Vì tất cả những loài khác đều biến thành phương tiện
cho con người, con người biến tất cả các loài thành phương tiện tồn tại
cho mình, con người không được lấy người khác làm phương tiện cho
chính mình.
20


Thứ ba là mục đích của con người là chúa trời không thuộc về thần
học mà triết học không bàn.
2.3. Ảnh hưởng của nhận thức luận của I.Cantơ đối với sự phát triển
triết học nói chung
Triết học của I.Cantơ là một trong những tiên đề lý luận trực tiếp của
triết học Mác. I.Cantơ đã để lại một di sản đồ sộ và nhiều vấn đề của triết
học, một trong những vấn đề đó lý luận nhận thức chiếm một vai trò quan
trọng trong hệ thống triết học của I.Cantơ, chính ở đó ông đã có nhiều
cống hiến và hạn chế.
Một trong những công lao của I.Cantơ là đặt thế giới bên ngoài (tồn
tại). Khác với chủ nghĩa duy cảm cho kinh nghiệm, cũng khác với chủ
nghĩa duy lý cho lý tính, trí tuệ là cầu nối cho tư duy và tồn tại, I.Cantơ
cho rằng cầu nối đó chính là con người nhận thức, con người đạo đức và
con người thẩm mỹ. Nhận thức là quá trình hình thành nên tri thức trong
tư duy của con người, Vậy không phải ngẫu nhiên mà I.Cantơ, triết học
mới phải trả lời câu hỏi.
1. Tôi có thể biết (nhận thức) được gì không?

2. Tôi cần phải làm gì?
3. Tôi có thể hi vọng gì?
Khi trả lời được ba câu hỏi này thì sẽ trả lời được con người là gì?
Ba vấn đề này là ba nội dung chính trong hệ thống triết học của I.Cantơ
thời kì phê phán. Mặc dù khi đưa ra những cách đặt vấn đề và ông đã cố
gắng tránh chủ nghĩa duy cảm và chủ nghĩa duy lý, nhưng ông đã trả lời
sai. I.Cantơ không hiểu được rằng, chính hoạt động thực tiễn của con
người mới là cầu nối gìữa tư duy và tồn tại. Nhận thức, đạo đức, thẩm mỹ
xét đến cùng chỉ là kết quả của hoạt động thực tiễn con người. Mặc dù,
I.Cantơ đã trả lời sai nhưng cách đặt vấn đề của ông là đúng đắn.

21


I.Cantơ có cống hiến thứ hai vào lý luận nhận thức theo ông, trước
khi nhận thức cái gì phải tìm hiểu, nghiên cứu công cụ và khả năng nhận
thức. Cách đặt vấn đề của I.Cantơ là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng I.Cantơ
lại sai lầm ở chỗ ông muốn tìm hiểu, nghiên cứu công cụ và khả năng
nhận thức tách rời khỏi quá trình nhận thức. Do vậy ông lại rơi vào gìáo
điều.
I.Cantơ cũng rơi vào siêu hình và sai lầm khi cho rằng tồn tại loại tri
thức có sẵn, có trước con người. Ông chia tri thức ra làm hai cấp độ. Thứ
nhất, tri thức chưa hoàn thiện, chưa đúng đắn. Thứ hai là, tri thức hoàn
toàn khoa học, đúng đắn, hoàn thiện. Tri thức này mang tính tất yếu và
phổ biến. Nhưng có điều I.Cantơ đã trả lời sai và có tính chất duy tâm chủ
nghĩa. Vì theo ông trong con người đã có sẵn những tri thức, những luận
đề trước kinh nghiệm, tiên thiên, chúng là điều kiện, là tiền đề cho những
tri thức khác, cơ sở tiên thiên của ý thức là gìống nhau ở tất cả mọi người.
I.Cantơ trong vấn đề về năng lực nhận thức, ông đã chia năng lực
này của con người thành ba cấp độ đó là: cảm năng, trí năng và lý năng.

Phù hợp với ba năng lực nhận thức này là ba bộ phận trong lý luận nhận
thức của I.Cantơ. Một là mỹ học tiên nghiệm, hai là phân tích tiên nghiệm
và ba là biện chứng tiên nghiệm.
Theo I.Cantơ, ứng với ba năng lực nhận thức thì có ba gìai đoạn
nhận thức.
Thứ nhất, là giai đoạn trực quan cảm tính. I.Cantơ nhấn mạnh vai
trò của nhận thức cảm tính, lấy cái hiện tượng, kinh nghiệm và cảm giác
chủ quan đơn lẻ làm tiền đề cho nhận thức.
Thứ hai là gìai đoạn giác tính.Ở giai đoạn này I.Cantơ phải nhờ các
phạm trù tiên thiên thì con người mới sắp xếp lại những hình ảnh lộn xộn
do trực quan cảm tính đem lại một cách chặt chẽ , hệ thống và chính xác
hơn.

22


I.Cantơ cho rằng những phạm trù của tư duy (nguyên nhân và kết
quả, khả năng và bất khả năng vv) không phải là sự tổng kết kinh nghiệm
mà là những hình thức thuần túy. Quan niệm ấy là cơ sở cho học thuyết
của ông về tri thức tiên thiên, (trước kinh nghiệm).
I.Cantơ sai lầm cho rằng, những phạm trù này không phải là kết quả
nhận thức của con người trên cở sở hoạt dộng thực tiễn. Mà chúng có sẵn,
có trước con người, có tính chất tiên thiên.
Ở đây rõ ràng I.Cantơ đã không khắc phục được những hạn chế của
chủ nghĩa duy cảm cũng như chủ nghĩa duy lý, mặc dù ông đã cố tìm ra
những phương thức tôt nhất để khắc phục những hạn chế đó
I.Cantơ viết rằng: “từ trước tới nay vẫn thống trị giả thuyết cho rằng
nhận thức của chúng ta phải phù hợp với các đối tượng.
Thứ ba là giai đoạn của nhận thức trong quá trình nhận theo I.Cantơ
là nhận thức lý tính thuần túy. Do chổ vạch ra chổ khác nhau gìữa lý tính

và giác tính, mà I.Cantơ đã đề xuất ra dự đoán sâu sắc về sự khác nhau
gìữa phương pháp tư duy biện chứng và phương pháp tư duy siêu hình.
Thực chất hiện thực không phù hợp với những ý niệm của lý tính.
Những ý niệm ấy vốn chỉ có trong lý tính thuần túy. Khi mà lý tính thuần
túy tìm cách đem hiện thực đặt dưới những ý niệm của nó thì nó lại mâu
thuẫn với chính bản thân nó.
Nói khác đi, con người không thể bằng lý lính lý luận thuần túy để
tiếp cận nhận thức “vật tự nó”. Mà tiếp cận được nhận thức “vật tự nó”
thì con người phải thông qua lý luận “thực tiễn” – khả năng có tính chất
tiên thiên của con người tự quyết định về những hành vi đạo đức của
mình. Nhưng đáng tiếc, thực tiễn ở đây không phải là thực tiễn như triết
học Mác – Lênin quan niệm.
I.Cantơ cho rằng triết học không thể nhận thức được chân lý khách
quan, ông cố gắng làm cho người ta tin rằng, chỉ có triết học “phê phán”
23


của ông, thứ triết học nghiên cứu những phạm trù và những hình thức tiên
thiên “có trước kinh nghiệm” của ý thức là có thể chấp nhận được.
Từ những điều đó đã vạch ra cơ sở duy tâm của triết học nhị nguyên
của I.Cantơ. Nhận thức hoàn toàn bị tách rời khỏi hiện thực khách quan
và làm nhiệm vụ tự nó nghiên cứu “bản thân nó”. Đối tượng của triết học
không phải là thế giới khách quan, không phải là những quy luật chung
của thế giới hiện thực mà là thế giới hiện tượng do lý tính đem lại và
những hình ảnh của “ý thức tiên nghiệm”.
Về thực chất trong tính hiện thực, không có mà cũng không có thể
có sự ngăn cách về nguyên tắc gìữa những “vật tự nó” với những hiện
tượng. Chỉ có những giới hạn tạm thời có tính chất lịch sử gìữa những cái
còn chưa được nhận thức, và những cái đã được nhận thức rồi.
I.Cantơ không coi nhận thức như một quá trình lịch sử, dựa vào hoạt

động thực tiễn của con người mà lại coi nó là một cái gì một khi đã có thì
lúc nào cũng như vậy.
Quá trình nhận thức của I.Cantơ gặp phải nghịch lý (antinomi) một
mặt phản ánh sự bất lực của lý tính lý luận thuần túy trong nhận thức “vật
tự nó” mặt khác thể hiện tinh thần biện chứng của ông.
Những cống hiến của I.Cantơ trong vấn đề nhận thức thời kỳ “phê
phán” thể hiện ở những điểm cơ bản như: đặt mối quan hệ gìữa tư duy và
tồn tại, mong muốn khắc phục hạn chế của chủ nghĩa duy cảm cũng như
chủ nghĩa duy lý về quan hệ gìữa cảm giác và lý tính; đặt vấn đề nguồn
gốc và vai trò các phạm trù nhận thức cũng như vấn đề biện chứng trong
nhận thức thể hiện ở nghịch lý (antinomi). Những cống hiến trên của
I.Cantơ bị hạn chế bởi chính thế giới quan của ông và quan niệm của ông
về nhận thức.
V.I.Lênin đã từng chỉ rỏ trong “chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán”. Khi I.Cantơ thừa nhận rằng một cái gì đó ở ngoài
24


chúng ta, một vật tự nó nào đó, phù hợp với những biểu hiện của chúng ta
thì I.Cantơ là nhà duy vật. Còn khi ông tuyên bố rằng cái tự nó ấy là
không thể nhận thức được, là siêu nghiệm, là thế giới bên kia thì ông là
nhà duy tâm. Như vậy những đóng góp của I.Cantơ chủ yếu là đặt vấn đề
chứ không phải gìải quyết vấn đề. Mặc dù vậy còn có những hạn chế về
thế giới quan nhưng ông đã để lại những quan niệm phát triển duy vật
biện chứng về lý luận nhận thức sau này.

KẾT LUẬN
Nhìn vào toàn bộ tòa nhà tư tưởng triết học của I.Cantơ đã được xây
dựng trong bộ ba tác phẩm “ phê phán” của nó, người ta mới hy vọng tìm
ra ý nghĩa thực sự của triết học con người của I.Cantơ. Cuốn phê phán lý

tính thuần túy không còn là một mảnh rời rạc, hoặc một hệ thống đóng
kín không dành chổ nào cho hai cuốn phê phán kia, nhưng trái ngược lại
người ta sẽ thấy ở I.Cantơ là một kiến trúc sư tài tình và tỉ mỉ đã xếp đặt
ba cuốn phê phán cơ bản của ông thành một tòa nhà kiên cố và tráng lệ,
thực tế và nhân đạo.
Trong đó, đặc biệt với cuốn “phê phán lí tính thuần túy” . Nó là chổ
kết tinh những nhận định có tính phê phán đối với những trào lưu triết
học trước đó. Đây được xem là tác phẩm chính yếu gắn liền với tên tuổi
I.Cantơ và là tiền đề để thực sự hiểu được hai tác phẩm sau. Nếu “phê
phán lý tính thực hành và gắn liền với nó là tác phẩm khá ngắn nhưng
quan trọng: “đặt cơ sở cho siêu hình học về đức lý” khẳng định tính “thứ
nhất” của lý tính thuần túy thực hành và sinh hoạt đạo đức so với lý tính
thuần túy lý thuyết để trả lời câu hỏi “tôi phải làm gì?” và “phê phán năng
lực phán đoán”. Trong đó I.Cantơ bàn về mỹ học và mục đích luận – là
“viên đá cuối cùng” để hoàn tất mái vòm của cả tòa nhà triết học (tôi có
thể hy vọng gì?), thì “ phê phán lý tính thuần túy” này ( tôi có thể biết
gì?) là hòn đá tảng tạo nên cơ sở lý luận cho triết học I.Cantơ
25


×