Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệmsự vận dụng tư tưởng đó của đảng ta liên hệ với việc thực hiện nội dung này ở việt nam, ở địa phương và của bản thân hiện nay tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.58 KB, 16 trang )

MỤC LỤC


A. MỞ ĐẦU

Cuộc đời, sự nghiệp và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là biểu tượng cao đẹp cho các thế hệ người Việt Nam noi theo. Mặc dù Người
đã đi xa, nhưng tư tưởng, tình cảm và đặc biệt là tấm gương đạo đức của
Người vẫn còn sống mãi với những người dân yêu nước Việt Nam. Những
việc làm, những lời căn dặn, chỉ bảo của Người mãi là những chỉ dẫn hết sức
cần thiết cho chúng ta trong bước đường phát triển hôm nay và mai sau. Là
một người có tấm lòng nhân ái, tình yêu thương con người hết thảy, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thấu hiểu nỗi khổ của người dân, đặc biệt là những người cần
lao. Chính vì vậy, trong rất nhiều bài viết, bài nói chuyện của mình, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đề cập nhiều đến tiết kiệm và thực hành tiết kiệm. Vấn đề tiết
kiệm và thực hành tiết kiệm đã trở thành một trong những nội dung nằm trong
hệ thống tư tưởng của Người. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
mỗi cá nhân, tập thể, nhất là các cơ quan, đơn vị hành chính nhà nước đã
không ngừng triển khai thực hiện các biện pháp về thực hành, tiết kiệm tạo
thành phong trào thi đua rộng khắp trong đông đảo quần chúng nhân dân. Kết
quả đó đã góp phần thực hiện thành công Cuộc vận động "Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Nhận thấy ý nghĩa to lớn cả về mặt lý
luận và thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề nên trong học phần Tư tưởng Hồ
Chí Minh về kinh tế, tôi đã lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệm?Sự vận dụng tư tưởng đó của
Đảng ta? Liên hệ với việc thực hiện nội dung này ở Việt Nam, ở địa
phương và của bản thân hiện nay? Nghiên cứu viết tiểu luận. Mặc dù đã có
nhiều cố gắng nghiên cứu tìm hiểu, song do còn nhiều hạn chế nên bài tiểu
luận của em không tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong nhận được sự
góp ý của các thầy cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin
chân thành cảm ơn !


2


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐI ĐÔI VỚI THỰC HÀNH TIẾT KIỆM

1.1. Mục tiêu của phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệm
1.1.1. Phát triển sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm nhằm nâng
cao đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh luôn coi kinh tế là cơ sở, là nền tảng để chăm lo phát triển
con người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, phát triển
các lĩnh vực văn hóa, xã hội … Để cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng và phát
triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh, phải huy động sức lực
của toàn dân, mọi cấp, mọi ngành thi đua đẩy mạnh sản xuất.
Người nêu rõ: “Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện nay là
phát triển sản xuất, để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng
của mọi người ra để sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta hiện
nay ở miền Bắc,… khẩu hiệu của chúng ta là: tất cả phục vụ sản xuất! Tất cả
chúng ta, bất kỳ ở cấp nào, ngành nào, đều phải góp sức làm cho sản xuất
phát triển”.
Trong các bài nói chuyện với cán bộ và nhân dân các địa phương,
Người tiếp tục khẳng định tính tất yếu của việc đẩy mạnh sản xuất. Người coi
đẩy mạnh sản xuất là vấn đề trọng tâm, gốc rễ của mọi vấn đề kinh tế. Vì vậy,
tất cả mọi đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng ta đều không
ngừng đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm để nâng cao đời sống vật chất,
văn hóa của nhân dân. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, sản xuất bao giờ

3



cũng đi liền với tiết kiệm, giữa chúng có mối quan hệ rất mật thiết, tác động
thúc đẩy lẫn nhau và tạo điều kiện cho nhau phát triển. Người nói: “ Tăng gia
sản xuất phải đi đôi với tiết kiệm. Phải tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì
giờ, phải tiết kiệm tiền của để tăng gia. Tiết kiệm giúp cho tăng gia và tăng
gia giúp cho tiết kiệm để đi đến kết quả tốt” .
Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát triển kinh tế đi đôi với
thực hành tiết kiệm là vấn đề rất quan trọng không thể thiếu trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có thực hành tiết kiệm thì sản xuất mới nhanh
chóng mở rộng, xã hội mới phát triển và đời sống của nhân dân mới không
ngừng được nâng cao.
1.1.2. Phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệm nhằm giáo dục
đạo đức cách mạng và nhiệm vụ dân chủ cho toàn dân .
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiết kiệm không chỉ là điều kiện cho sự
phát triển kinh tế xã hội mà nó còn là tiêu chuẩn đạo đức của người cách
mạng, nó là một đức không thể thiếu của con người mới. Vấn đề giáo dục đạo
đức cho cán bộ đảng viên và nhân dân ta là vấn đề mà chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn luôn chú trọng. Đặc biệt trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn,
Người luôn nhắc nhở cán bộ đảng viên và nhân dân phải biết: Cần, Kiệm,
Liêm, Chính để xây dựng đất nước. Người cho đây là những phẩm giá cơ bản,
tốt đẹp nhất để làm người, làm cán bộ, đảng viên.
Thực tiễn lịch sử cách mạng dân tộc cho thấy, sự kết hợp đẩy mạnh sản
xuất và thực hành tiết kiệm có vai trò và ảnh hưởng lớn vì có nội dụng cụ thể
nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị, mục tiêu cách mạng của từng chặng
đường, từng thời kỳ. Chính nhiệm vụ chính trị, mục tiêu cách mạng đã định
hướng đúng đắn cho cả dân tộc, mọi tổ chức, đơn vị, cá nhân có ý thức về
trách nhiệm của mình và tạo nên tính cách mạng và sức sống của phong trào
đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm.
1.2. Nội dung chủ yếu của tư tưởng phát triển kinh tế đi đôi với

thực hành tiết kiệm

4


1.2.1. Phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệm là trách nhiệm,
là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi công dân đối với tổ quốc.
Đẩy mạnh sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm là nét nổi bật trong tư
duy kinh tế của Hồ Chí Minh. Người cho rằng, giữa sản xuất và tiết kiệm luôn
gắn liền với nhau như một phương châm thực hành lao động cho nền kinh tế
vốn nghèo nàn, lạc hậu như nước ta. Đẩy mạnh tăng gia sản xuất và thực hành
tiết kiệm là trách nhiệm, là một nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi công dân đối
với tổ quốc. Vì vậy, toàn dân phải hiểu rằng tăng gia sản xuất và thực hành
tiết kiệm tức là yêu nước, là ích nước, lợi nhà. Cho nên, mỗi người dân phải
có ý thức tự nguyện, tự giác, phải có lòng say mê nhiệt tình tham gia lao
động, góp phần xây dựng nền kinh tế nước nhà. Người nói: “ Để đẩy mạnh
tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, mỗi người chúng ta phải nhận rõ: lao
động là một nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người công dân đối với Tổ quốc.
Ai cũng phải tùy theo khả năng mình mà tự nguyện tự giác tham gia lao động,
góp phần xây dựng nước nhà. Mỗi chúng ta phải nhận rõ: lao động – lao động
chân tay hay lao động trí óc – đều là vẻ vang đáng quý. Chúng ta phải chống
tư tưởng xem khinh lao động”.
Quan điểm phát triển sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm của Hồ
Chí Minh là bằng mọi cách sử dụng có hiệu quả sức người, sức của cho công
cuộc xây dựng kinh tế. Sản xuất phải đi đôi với tiết kiệm, nếu sản xuất mà
không biết tiết kiệm thì khác nào như gió vào nhà trống, tiết kiệm là nghĩa vụ
của tất cả mọi người.
1.2.2. Tiết kiệm phải toàn diện, tiết kiệm ở mọi ngành
Quan điểm về tiết kiệm của Hồ Chí Minh mang nội dung khoa học – đó
là tích lũy để có nhiều sản phẩm và để được tiêu dùng nhiều hơn, để xây dựng

cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Tiết kiệm để sử dụng thời gian, nhân lực,
tài lực, trí tuệ của con người một cách đạt hiệu quả hơn trong điều kiện cho
phép. Tiết kiệm là hình thức giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng và huy

5


động nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Cho nên,
tiết kiệm mang ý nghĩa tích cực.
Tiết kiệm có thể được thực hiện ở mọi lĩnh vực sản xuất.
Thứ nhất, tiết kiệm sức lao động
Đây là nội dung quan trọng nhất trong tư tưởng tiết kiệm của Người.
Tiết kiệm sức lao động là phải biết tổ chức, sắp xếp nhân lực cho hợp lý, cân
đối, giảm bớt lao động dư thừa để nâng cao năng suất lao động của mỗi
người. Người nói: “Chúng ta phải tiết kiệm sức lao động. Thí dụ: việc gì trước
kia phải dùng 10 người, nay ta phải tổ chức sắp xếp cho khéo, phải nâng cao
năng suất của mỗi người, nhờ vậy mà chỉ dung 5 người cũng làm được” .
Người còn nhắc nhở: “Các cơ quan chính quyền và đoàn thể, các cơ
quan kinh tế và các Ủy ban, cần phải nâng cao năng suất, giảm bớt số người
(tinh giản)” .
Thứ hai, tiết kiệm thời giờ
Hồ Chí Minh cho việc tiết kiệm thời giờ là cần có kế hoạch cụ thể, chi
tiết, tính toán khoa học để giảm bớt thời gian cho mỗi sản phẩm, khắc phục
thời gian nhàn rỗi, đẩy mạnh tăng năng suất lao động. Người nói: “Chúng ta
phải tiết kiệm thời giờ. Việc gì trước kia phải làm 2 ngày, nay vì tổ chức sắp
xếp khéo, năng suất cao, ta có thể làm xong trong 1 ngày” .
Bởi lẽ, Người cho rằng: “Thì giờ cũng cần phải tiết kiệm như của cải.
Của cải nếu hết, còn có thể làm thêm. Khi thời giờ đã qua rồi, không bao giờ
kéo nó trở lại được. Có ai kéo lại ngày hôm qua được không? Thánh hiền có
câu: “Một tấc bóng là một thước vàng”. Do đó, chúng ta phải biết tiết kiệm

thời giờ, làm gì cũng cần có kế hoạch cụ thể. Người nhắc nhở: “Công việc bất
kỳ to nhỏ, đều có điều nên làm trước, điều nên làm sau. Nếu không có kế
hoạch, điều nên làm trước mà để lại sau, điều nên làm sau mà đưa làm trước,
như thế thì sẽ hao tổn thì giờ, mất công nhiều mà kết quả ít” .
Thứ ba, tiết kiệm tiền của

6


Hồ Chí Minh yêu cầu tiết kiệm tiền của nghĩa là không phung phí
nguyên liệu, vật liệu và tiền của trong quá trình sản xuất và tiêu dùng. Người
cho rằng, phương châm để tiết kiệm phải do tất cả các cấp, các ngành, từng cá
nhân tự giác thi hành và tìm cách tổ chức, sắp đặt cho hợp lý. Người thường
xuyên nhắc nhở: “Chúng ta phải tiết kiệm tiền của. Việc gì trước phải dùng
nhiều người, nhiều thì giờ, phải tốn 2 vạn đồng. Nay vì tiết kiệm được sức
người và thời gian, nguyên liệu, cho nên chỉ tốn một vạn là đủ. Nói tóm lại:
chúng ta phải tìm cách tổ chức sắp đặt cho hợp lý, để 1 người có thể làm việc
như 2 người, 1 ngày có thể làm việc của 2 ngày, 1 đồng có thể dùng bằng 2
đồng” . Một trong những hình thức tiết kiệm tiền của mà Hồ Chí Minh rất
quan tâm trong hoàn cảnh nước nghèo và ít vốn như nước ta, đó là quay vòng
vốn. Người nói: “Biết làm cho vốn quay vòng nhanh, thì có ít vốn mà dùng
được nhiều lần, nên sản xuất được nhiều”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào cả nước thực hành tiết
kiệm, tất cả mọi người từ trên xuống dưới, từ thành thị đến nông thôn đều tiết
kiệm và phong trào ấy nhất định phải lan rộng, ăn sâu, nhất định sẽ thành
công tốt đẹp. Theo Người ai cũng có thể và cũng nên tiết kiệm, tiết kiệm có
thể thực hiện ở nhiều lĩnh vực và hình thức khác nhau.
Như vậy, quan điểm tiết kiệm của Hồ Chí Minh là phải tiết kiệm toàn
diện, tiết kiệm sức người, sức của, tiết kiệm thời gian, phong trào đó phải do
tất cả mọi người thực hiện và nhất định sẽ thực hiện được. Người nói: “Nếu

chúng ta khéo tiết kiệm sức người, tiền của và thời giờ, thì với sức lao động,
tiền tài của nước ta hiện nay, ta có thể tăng gia sản xuất gấp bội mà lực lượng
của ta về mọi mặt cũng tăng gấp bội… Chúng ta quyết tâm tăng gia và tiết
kiệm, thì nhất định tăng gia được và tiết kiệm được”.
Người nhắc nhở tất cả mọi người đều phải tiết kiệm, trước nhất là
những cơ quan, các đơn vị bộ đội, các xí nghiệp. Người nói: “rong quân đội
có quân nhu, quân giới, vận tải.v.v là những cơ quan cần phải tiết kiệm. Thí
dụ: Trước kia mỗi chiến sĩ bắn 60 viên đạn mới hạ được 1 tên địch, nay vì
7


luyện tập siêng năng mà bắn khá, chỉ bắn 10 viên đạn thì hạ được 1 tên địch.
Thế là chiến sĩ tiết kiệm được 80% đạn…Cơ quan nào cũng cần và có thể tiết
kiệm được. Thí dụ: cơ quan nào cũng dùng phong bì nếu mỗi cơ quan đều tiết
kiệm, chiếc phong bì dùng 2, 3 lần thì mỗi năm Chính phủ có thể tiết kiệm
được hàng chục tấn giấy” .
1.2.3. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và thực hành tiết kiệm.
Khi nói về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và thực hành tiết kiệm, Hồ
Chí Minh cho rằng cần phải đặt vấn đề đẩy mạnh tăng gia sản xuất với thực hành
tiết kiệm trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Đó là mối quan hệ giữa “xây”
và “chống” trong lĩnh vực kinh tế, trong đó xây dựng là nhiệm vụ trọng tâm.
Nhưng vừa phải “xây”, vừa phải “chống”, “chống” để phục vụ “xây”.
Phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệm là một trong những
mặt cần thiết và quan trọng để nâng cao toàn diện đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế nước ta ngày
càng vững mạnh theo hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn
động viên, khích lệ cán bộ, nhân dân ra sức tăng gia sản xuất và thực hành tiết
kiệm. Người thường xuyên nhắc nhở: “Chúng ta chỉ có thể xây dựng chủ
nghĩa xã hội bằng cách tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Sản xuất mà

không biết tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống”.
Nếu đẩy mạnh sản xuất mà không tiết kiệm thì sản xuất được bao nhiêu
lại sử dụng, tiêu dùng bấy nhiêu, kết quả là không lại hoàn không. Do đó,
Người nói tiếp: “Cần và Kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con
người. Cần mà không Kiệm “thì làm chừng nào xào chừng ấy”. Cũng như
một cái thùng không có đáy; nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy,
không lại hoàn không.
Kiệm mà không Cần, thì không tăng lên, không phát triển được. Mà vật gì
đã không tiến tức phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không
tiếp tục đổ thêm vào, lâu ngày chắc nó sẽ hao bớt dần, cho đến khi khô kiệt” .
8


1.2.4. Biện pháp để thực hành tiết kiệm
Để phát triển kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ chú trọng đến
việc đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm mà Người cũng cho rằng tiết
kiệm phải đi đôi với việc tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí, quan liêu. Do đó,
Người rất quan tâm chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí và quan
liêu. Trong các bài viết của mình, Người luôn nhấn mạnh: “Muốn tốt lúa thì
phải nhổ cỏ cho sạch, nếu không, thì dù cày bừa kỹ, bón phân nhiều, lúa vẫn
xấu vì lúa bị cỏ át đi. Muốn thành công trong việc tăng gia sản xuất và tiết
kiệm cũng phải nhổ cỏ cho sạch, nghĩa là phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí
và bệnh quan liêu. Nếu không, thì nó sẽ làm hại đến công việc của ta” .
Người cho rằng: “Tham ô, lãng phí và quan liêu là kẻ thù của nhân dân,
của bộ đội, của chính phủ” , là một trong những nguy cơ đe dọa sự sống còn
của sự nghiệp cách mạng, là một lực cản lớn đối với sự phát triển kinh tế của
đất nước. Theo Hồ Chí Minh, tham ô không chỉ biểu hiện ở những người có
chức, có quyền mà ngay cả nhân dân cũng có thể mắc tội tham ô. Người nói:
“Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: ăn cắp của công làm của tư; Đục
khoét của nhân dân; Ăn bớt của bộ đội… Đứng về phía nhân dân mà nói,

tham ô là ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế” . Như vậy, tham ô thực chất là
ăn cắp của cải của xã hội, nó là một tội ác lớn trong khi nhân dân đang phải
cần kiệm để phát triển kinh tế đất nước.
Bên cạnh tham ô, thì một trong những lý do cản trở, làm chậm bước
tiến của xã hội, làm chậm sự phát triển nền kinh tế đất nước đó là sự lãng phí.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãng phí có nhiều cách: “lãng phí sức lao động,
lãng phí thời giờ, lãng phí tiền của… Lãng phí tuy không lấy của công đút túi,
song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn
nạn tham ô” .
Người cho rằng, có nạn tham ô, lãng phí là vì quan liêu, vì những người
và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới xa rời thực tế, không gần
gũi nhân dân, không điều tra xem xét đến nơi đến chốn mà chỉ đại khái, chung
9


chung. Bệnh quan liêu là nguồn gốc sinh ra tệ tham ô, lãng phí. Vì thế, muốn
trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì trước hết phải tẩy sạch bệnh quan liêu.

CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ ĐI ĐÔI VỚI THỰC HÀNH TIẾT KIỆM CỦA ĐẢNG TA
2.1. Trước thời kỳ đổi mới
Nhận thức vai trò to lớn của việc phát triển kinh tế đi đôi với thực hành
tiết kiệm trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn của tình hình
kinh tế đất nước sau giải phóng, dân ta ở nhiều nơi đang gặp nạn đói nên
Đảng ta đã phát động phong trào: “Tích cực phát triển sản xuất, thực hành tiết
kiệm để phòng đói và cứu đói”, Đảng ta nhận định: “Trong việc chống nạn
đói thì việc phòng đói là căn bản, mà phòng đói là phát triển sản xuất, thực
hành tiết kiệm”. Theo đó, các địa phương phải kết hợp công tác tăng gia sản
xuất và tiết kiệm với công tác phát động quần chúng nói chung với công tác
thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ. Tiếp theo đó, ngay

sau thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc (năm 1953) Đảng ta đã đánh giá kết quả
của việc thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm để chống đói, tiếp tục đưa ra
phương hướng để thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm. Đảng ta nhận
định: “Công tác sản xuất là công tác trung tâm bậc nhất của vùng tự do, nơi
chưa phát động quần chúng. Ở nơi phát động quần chúng thì phát động quần
chúng là công tác trung tâm bậc nhất, và phải kết hợp chặt chẽ phát động quần
chúng với sản xuất”

10


Sau khi giành độc lập trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
Đảng ta tiếp tục chỉ đạo việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
sản xuất. Trong Thông tri số 194 – TT/TW, ngày 31 – 1- 1959 của Ban bí thư
đã chỉ rõ phương hướng giải quyết vấn đề thiếu ăn của nhân dân là: “Tích cực
đẩy mạnh cuộc vận động sản xuất và tiết kiệm, đặc biệt chú ý vận động trồng
thêm màu ngắn ngày và trồng rau; vận động quần chúng tiết kiệm trong
những ngày tết” .
Như vậy, trong giai đoạn trước đổi mới, Đảng ta luôn nhận thức rõ vai
trò của phát triển sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm, đây được coi là điều
kiện tiên phong để đưa nhân dân thoát khỏi nạn đói và tích lũy, cung cấp vật
chất cho chiến trường. Vì vậy, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai
đoạn này được cụ thể hóa thông qua các chỉ thị và các cuộc vận động sản xuất
và tiết kiệm của Đảng đến toàn thể nhân dân.
2.2. Từ thời kỳ đổi mới đến nay
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đại hội lần thứ VI
của Đảng đánh dấu một bước chuyển hướng và đổi mới quan trọng trong sự
lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là sự đổi mới trong tư duy kinh
tế. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế đi đôi với thực hành
tiết kiệm, Đảng ta khẳng định: “Tiết kiệm là chính sách lớn phải được thực

hiện trong tất cả các hoạt động sản xuất, xây dựng và tiêu dùng xã hội. Chống
xa hoa lãng phí, phô trương, hình thức trong bộ máy quản lý Nhà nước và hợp
tác xã. Nêu cao lối sống giản dị, lành mạnh, dùng hàng trong nước sản xuất,
không chạy theo những thị hiếu tiêu dùng vượt quá khả năng của nền kinh tế”
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII và IX tiếp tục khẳng định
mục tiêu phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm của đất nước,
Đảng ta coi tiết kiệm là quốc sách hàng đầu, chỉ có thực hiện tốt chính sách
sản xuất đi đôi với tiết kiệm, chúng ta mới đẩy nhanh nền kinh tế đất nước,
mới tránh được tình trạng tụt hậu ngày càng xa so với các nước. Đảng ta chỉ
ra các nguy cơ lớn của đất nước, trong đó nguy cơ tham những và quan liêu
11


được đánh giá là diễn biến phức tạp và có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của
đất nước. Vì vậy, những chỉ dẫn của chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề tiết
kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu thực sự là kim chỉ nam cho việc tìm
ra những biện pháp tích cực và hiệu quả để vượt qua những thách thức
nghiêm trọng đó.

12


CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM VẬN DỤNG TỐT HƠN TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN KINH TÉ ĐI ĐÔI VỚI
THỰC HÀNH TIẾT KIỆM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

3.1.Thực hành tiết kiệm từ Trung ương đến địa phương
Một là các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến cơ sở trực tiếp lãnh đạo
việc thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu bằng những
chương trình hành động cụ thể và tổ chức động viên quần chúng nhân dân

thực hiện có hiệu quả nhất, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung
ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng
chống tham nhũng, lãng phí, tạo ra bước chuyển biến mạnh trong thực hành
tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, tham ô, lãng phí, xét xử công khai, thu
hồi tài sản về công quỹ những vụ việc đã phát hiện và có chứng cứ, những vụ
việc đã có đơn thư tố giác hoặc biểu hiện nhưng chưa có chứng cứ cụ thể phải
tổ chức thanh tra, kiểm tra, nếu đúng thì đưa ra xét xử, nếu không đúng thì
giải thích cho nhân dân rõ, không được che đậy, bưng bít làm mất lòng tin của
nhân dân.
Hai là về thể chế, cần rà soát và bãi bỏ những chế độ chi tiêu không
đúng quy định và không hợp lý đang tồn tại trong các lĩnh vực của đời sống
kinh tế -xã hội hiện nay. Điều này đòi hỏi các cơ quan Đảng, quản lý nhà
nước, tổ chức chính trị xã hội theo chức trách của mình rà soát lại các văn
bản, quy định và những chế độ, chính sách liên quan để bổ sung, sửa đối cho
phù hợp với quy định hiện hành của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, phòng
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những chính sách, chế độ nào không
còn phù hợp thì kiên quyết bãi bỏ và ban hành văn bản mới để thay thế.
Ba là phải củng cố và sắp xếp lại bộ máy quản lý nhà nước ở các cấp,
tránh cồng kềnh, chức năng quản lý chồng chéo, lựa chọn để có một đội ngũ
13


cán bộ quản lý hành chính, quản lý kinh tế đồng bộ từ Trung ương đến địa
phương và cơ sở có đủ năng lực quản lý kinh tế- xã hội theo tiêu chuẩn khách
quan đặt ra, song song với vấn đề trên là việc tích cực thực hiện cải cách hành
chính nhà nước theo tinh thần Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương 9
(khóa X) đã đề ra, chống mọi thủ tục phiền hà, sách nhiễu do quan liêu và vô
trách nhiệm gây ra làm thiệt hại của cải xã hội, đặc biệt là tệ nạn nhận hối lộ
của một số cán bộ trong cơ quan quản lý hành chính và kinh tế của nhà nước.
3.2. Xây dựng những con người của chế độ mới

Về con người, cần chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý, đặc biệt là những
cán bộ quản lý nhà nước có quyền lực và trách nhiệm liên quan đến các lĩnh
vực quản lý nhà nước, các hoạt động quản lý kinh tế và đời sống xã hội, cải
cách chế độ tiền lương sao cho tương xứng, bảo đảm chế độ cho cán bộ công
chức có thu nhập ở mức sống trung bình và có chính sách ưu đãi phù hợp với
từng đối tượng. Cải cách tiền lương đi đôi với tăng cường giáo dục và kiểm
tra việc thực hiện công vụ của cán bộ, công chức, gắn trách nhiệm với việc
thực hiện nhiệm vụ, nâng cao chất lượng hiệu quả trong công tác, xây dựng
và giáo dục cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước có đạo đức và nhiệt tình
cách mạng, trung thực, chí công vô tư, trong quản lý phải biết sử dụng tiền
của đúng lúc, đúng chỗ, tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà
nước trên mọi lĩnh vực nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mọi
người trong đó có bản thân và gia đình mình, như lời Bác Hồ dạy “Muốn giữ
nhân cách, tránh khỏi hủ hóa thì phải luôn luôn thực hành 4 chữ Cần, Kiệm,
Liêm, Chính”.
3.3.Thực hành tiết kiệm phù hợp với từng ngành, từng lĩnh vực
Trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội cần thực hiện nghiêm
Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Luật phòng chống tham nhũng,
các cơ quan thông tin đại chúng cần tuyên truyền sâu rộng, thường xuyên hơn
14


trong nhân dân với nội dung và hình thức phù hợp về tư tưởng, quan điểm của
Bác Hồ, của Đảng và nhà nước ta về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng
phí, để tạo ra được quy tắc trong đời sống xã hội. Theo tư tưởng của Hồ Chí
Minh thì “tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không cũng là bạn
đồng minh của thực dân và phong kiến”. Trong tình hình lạm phát hiện nay,
tất cả các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước cần phải thực hiện nghiêm túc
Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp
chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh

xã hội, thực hiện tốt những biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ đã đề
ra nhất là chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, tránh đầu tư dàn
trải trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, giảm bội chi ngân sách nhà nước.
Phát huy dân chủ cơ sở, công khai mọi thủ tục hành chính, phải biết
coi trọng nhân dân như Bác Hồ đã nói “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền
cũng là dân”, biết lấy dân làm gốc thì nhiệm vụ khó khăn mấy cũng giành
được thắng lợi. Để thành công trong việc phòng chống tham ô, tham nhũng,
lãng phí, quan liêu đang diễn ra trên nhiều lĩnh vực trong xã hội và nền kinh
tế nước ta cần phải tổ chức thành phong trào cách mạnh của quần chúng để
đấu tranh và thực hiện, Bác Hồ đã đưa ra những giải pháp mà giá trị thời đại
của nó vẫn còn đang nóng hổi, đó là dựa vào dân, chỉ có dựa vào quần chúng
nhân dân thì việc phòng ngừa và chống tham nhũng mới có hiệu quả, dân chủ
là dựa vào lực lượng quần chúng, cho nên phong trào chống tham ô, lãng phí,
quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công

15


C. KẾT LUẬN
Tấm gương đạo đức sống trong sạch, tiết kiệm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã được báo chí nước ngoài nhiều lần nhắc đến. Nhà báo Mỹ Đavít
Hanbơcstơn viết: Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật kỳ lạ của thời đại
này – hơi giống Găngdi, hơi giống Lênin, hoàn toàn giống Việt Nam…Ông là
người Việt Nam lịch sự, khiêm tốn, nói năng hoà nhã, không màng địa vị, luôn
luôn mặc quần áo giản dị nhất, một phong cách mà phương tây coi là “thiếu
nghi thức quyền lực”, “không theo thời trang”…cho đến ngày nay họ nhận thấy
chính cái tính giản dị ấy, cái khả năng hoà mình vào nhân dân ấy là cơ sở cho
sự thành công của ông…”. Chúng ta đang thực hiện cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở mọi ngành, mọi cấp, thiết nghĩ
sau mỗi đợt sơ kết, các cơ quan, đơn vị cũng phải nêu ra được những cá nhân,

đơn vị cụ thể làm tốt, làm chưa tốt, có biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, xa hoa,
lãng phí để cuộc vận động này đi vào thực chất và đạt hiệu quả cao. Học tập
Bác là phải làm theo Bác, học thực chất, làm thực chất, học và làm theo bằng
chính trách nhiệm cán bộ, đảng viên trước nhân dân, bằng liêm sỉ và đạo đức
công vụ, chứ không học và làm một cách vô thức. Mỗi cán bộ, công chức, đảng
viên đang sống và làm việc theo pháp luật, được người dân giám sát hãy sống
và làm việc cho tốt sao cho không phụ lòng nhân dân, đi ngược lại với mong
muốn của Bác Hồ - đấy chính là những việc làm thiết thực và hiệu quả nhất
trong việc thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh. Thực hiện tốt điều đó cũng chính là chúng ta đã làm cho tấm gương
Bác mãi ngời sáng trong lòng mỗi người dân Việt Nam.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Tư tưởng Hồ Chí Minh – Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân
năm 2008
2) Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo, Nhà xuất bản lao động (2007)
3) Đặng Xuân Kỳ: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con
người, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2005.
4)Bộ Giáo dục và Đào Tạo: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb.Chính trị quốc gia, năm 2009
5) Học viện báo chí và tuyên truyền: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị - hành chính, năm 2013
6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2011

17




×