Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO tâm lý học QUAN điểm của b PH lômôv về HOẠT ĐỘNG CÙNG NHAU ý NGHĨA của vấn đề TRONG HOẠT ĐỘNG QUÂN sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.33 KB, 12 trang )

QUAN ĐIỂM CỦA B.PH. LÔMÔV VỀ HOẠT ĐỘNG CÙNG NHAU. Ý
NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ TRONG HOẠT ĐỘNG QUÂN SỰ
Sự ra đời của tâm lý học hoạt động có vị thế, tầm ảnh hưởng đặc biệt đối với
sự phát triển của tâm lý học. Với việc phát hiện cấu trúc chung của hoạt động có ý
nghĩa hàng đầu trong việc giải quyết hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn trong
khoa học tâm lý. Tuy nhiên, nghiên cứu phạm trù hoạt động trong tâm lý học, thông
thường được tập trung chú ý đến hoạt động cá nhân. Điều này được thể hiện trong
các quan điểm lý luận, các sơ đồ, các mô tả kinh nghiệm và cả các mô tả thực
nghiệm. Chỉ trong những năm gần đây, dưới ảnh hưởng của những đòi hỏi thực
tiễn, người ta quan tâm nhiều đến hoạt động nhóm, từ đó đặt ra vấn đề những
nghiên cứu tâm lý học cần phải được mở rộng sang hoạt động cùng nhau. Hơn nữa,
trong hoạt động cá nhân nhiều điều còn chưa thể hiểu được, nếu hoạt động cá nhân
được xem xét riêng không gắn với hoạt động cùng nhau.
Khái niệm “hoạt động cùng nhau” rất rộng. Nói chung, bất kỳ một biểu hiện
nào của đời sống xã hội đều có thể được coi là hoạt động cùng nhau của con người.
Cho nên về nguyên tắc, điểm khởi đầu của việc nghiên cứu hoạt động cá nhân là để
xác định vị trí của nó trong hoạt động cùng nhau tương ứng với chức năng của cá
nhân này. Vấn đề hoạt động cùng nhau được nghiên cứu kỹ lưỡng, được khái quát
thành lý luận, gắn liền với tên tuổi của B.Ph. LôMôv. Trong phạm vi bài thu hoạch
này xin được trình bày về quan điểm hoạt động cùng nhau của B.Ph. LôMôv và rút
ra ý nghĩa trong hoạt động quân sự.
1. Vài nét về tiểu sử B.Ph. Lômôv
Boric Pheđorovic Lomov sinh năm 1927 tại thành phố Goocki. Năm 1951
ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Leningrad (LGU), năm 1954 bảo vệ luận án Phó
tiến sỹ và năm 1963 bảo vệ thành công luận án Tiến sỹ Khoa học tâm lý. Năm
1967, ông được bầu là Viện sỹ thông tấn Viện hàn lâm Khoa học giáo dục Liên Xô
1


và đến năm 1976 là Viện sỹ thông tấn Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô. Ông mất
ngày 11/7/1989.


Tên tuổi của B.Ph.Lomov gắn liền với các vấn đề lý luận, phương pháp luận,
nguyên tắc, cách tiếp cận hệ thống vấn đề phát triển, giao tiếp, tâm lý học nhân
cách và các quá trình nhận thức. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt hoạt động sáng tạo của ông
là cách tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu con người. Ông có công lớn trong việc
phát triển tâm lý học đại cương, Tâm lý học kỹ sư, Tâm lý học xã hội, tâm lý học
sư phạm và tâm lý học quản lý.
B.Ph.Lomov là một trong những thủ lĩnh của Tâm lý học Xô viết. Uy tín của
ông vượt ra khỏi biên giới. Ông đã viết trên 300 tác phẩm khoa học, trong đó có
hơn 10 cuốn chuyên khảo.
B.Ph.Lomov là người sáng lập Phòng thí nghiệm Tâm lý học kỹ sư ở Liên
Xô (1959), là Trưởng khoa Tâm lý học LGU (1966), Viện trưởng Viện Tâm lý học
thuộc Viện hàn lâm khoa học Liên Xô từ 1971 cho đến khi qua đời.
Từ năm 1968 đến 1983, B.Ph.Lomov là Chủ tịch Hội tâm lý học Liên Xô. Từ
năm 1972 là uỷ viên Ban chấp hành Hội tâm lý học thế giới, hai lần giữ cương vị
Phó chủ tịch Hội. Công lao khoa học của ông được nhiều cơ quan khoa học nổi
tiếng trên thế giới thừa nhận: Viện sỹ danh dự Viện Xắcsơn (Cộng hoà dân chủ
Đức), Tiến sỹ danh dự Đại học tổng hợp Beclin, Tiến sỹ danh dự Đại học tổng hợp
Onlu (Phần Lan), Huân chương vàng cho Nhà khoa học nước ngoài vĩ đại (Mĩ).
Những công trình khoa học chính: Con người và kỹ thuật - 1963, 1965,
1966; Con người trong các hệ thống điều khiển - 1967, Tâm lý học kỹ sư quân sự 1970, Những vấn đề tâm - vật lý - 1974; Tâm vật lý các hệ thống giác quan - 1979,
Tổng giác trong cấu trúc hoạt động - 1980, Vấn đề giao tiếp trong tâm lý học 1981; Phương pháp luận tâm lý học kỹ sư, tâm lý học lao động và quản lý - 1981;
Khoa học tâm lý ở các nước xã hội chủ nghĩa - 1981; Cẩm nang tâm lý học kỹ sư -

2


1982; Tâm lý học kỹ sư trong hoạt động quân sự - 1983; Những vấn đề lý luận và
phương pháp luận của tâm lý học – 1984.
2. Quan điểm của B.Ph. Lômôv về hoạt động cùng nhau
Trong lĩnh vực hoạt động tâm lý, đóng góp chủ yếu của B.Ph. Lômôv là các

nghiên cứu về hoạt động cùng nhau. B.Ph. Lômôv là một trong số ít người kiên trì
nhấn mạnh nhiều lần lĩnh vực này trong tâm lý học. Tuy nhiên, cũng như hoạt động
của cá nhân, vấn đề này cũng đã có cơ sở trong triết học và tâm lý học trước đó.
Theo B.Ph. Lômôv, lý thuyết tâm lý học đại cương về hoạt động khó có thể xây
dựng chỉ trên nền tảng được xác định là hoạt động cá nhân, chúng ta không thể hiểu
hết tâm lý nếu không nghiên cứu hoạt động cùng nhau. Bởi vì, bản chất xã hội của
hoạt động được biểu hiện ra trong hoạt động cá nhân và trong hoạt động cùng nhau,
nhưng được biểu hiện rõ nhất, đầy đủ nhất trong hoạt động cùng nhau. Việc nghiên
cứu hoạt động cùng nhau có vai trò quan trọng trong sự phát triển nhiều lĩnh vực
của khoa học tâm lý và có giá trị mạng tính nguyên tắc đối học thuyết chung của
tâm lý học.
Trong hoạt động cùng nhau nhân tố liên kết con người là mục đích chung.
Mục đích này có thể gắn liền với tương lai đời sống của nhóm người thực hiện hoạt
động, nhưng nó có thể có tính giai đoạn, nghĩa là nó được xác định ở một thời điểm
nhất định nào đó. Tuy nhiên, trong bất kỳ trường hợp nào, nó phải được giữ trong
suốt quá trình thực hiện hoạt động cùng nhau.
Mục đích cùng nhau khi đã hình thành sẽ xác định các nhiệm vụ đặc trưng
của mỗi thành viên tham gia hoạt động cùng nhau, và đương nhiên cả các hành
động cụ thể mà mỗi thành viên phải thực hiện. Đồng thời, mỗi hành động của từng
thành viên đều là bộ phận cấu thành của hoạt động cùng nhau và có thể chỉ được
hiểu trong lôgíc của hoạt động đó.
Trong việc nghiên cứu mục đích của hoạt động cùng nhau, khía cạnh thứ hai
(khía cạnh nhân cách) có giá trị đặc biệt. Tham gia vào hoạt động cùng nhau, mọi
3


người có thể có (và thường có) các mục đích khác nhau. Trường hợp trùng nhau
của các mục đích chỉ là ngoại lệ.
Vấn đề mục đích chung được hình thành trên cơ sở nào và mục đích cá nhân
có quan hệ với mục đích chung ra sao, cần phải xem xét trên những khía cạnh cụ

thể như sau:
Thứ nhất, không nên nhìn một cách đơn giản rằng, mỗi cá nhân tham gia vào
hoạt động cùng nhau chỉ có một mục đích duy nhất. Trong quá trình sống, ở mỗi cá
nhân hình thành một hệ thống mục đích nhất định, trong đó một số giữ vị trí chủ đạo,
số khác giữ vị trí phụ thuộc. Do đó, để phối hợp các mục đích cá nhân và hình thành
mục đích chung, đòi hỏi phải tổ chức một hoạt động cùng nhau một cách cụ thể.
Thứ hai, khi nói tới mục đích chung là nói tới sự trùng hợp các mục đích của
từng cá nhân tham gia vào hoạt động cùng nhau. Mục đích chung phải gắn liền với
các nhu cầu của nhóm, mục đích chung dường như đứng trên mục đích riêng của
các thành viên trong nhóm. Vậy, quá trình tham gia hoạt động cùng nhau chính là
việc chuyển mục đích riêng của từng cá nhân thành mục đích chung của nhóm.
Quá trình hình thành mục đích trong hoạt động cùng nhau chủ yếu phụ thuộc
vào các điều kiện xã hội đang diễn ra hoạt động cùng nhau. Sự hình thành mục đích
chung là điều kiện đầu tiên và tối cần thiết cho hoạt động cùng nhau. Nếu mục đích
này không được hình thành (vì các nguyên nhân nào đó), thì hoạt động cùng nhau
cũng không diễn ra.
Mối tương quan giữa mục đích và động cơ trong hoạt động cùng nhau khá
phức tạp so với trong hoạt động cá nhân. Các cá nhân liên kết trong hoạt động có
mục đích chung, nhưng động cơ thì có thể và thường khác nhau. “Sự liên kết lại”
giữa các động cơ cá nhân trong hoạt động cùng nhau đôi khi tạo ra bức tranh rất
phức tạp, sinh ra rất nhiều hiệu ứng đa dạng. Chẳng hạn, sự thay đổi động cơ và
mục đích của cá nhân trong điều kiện hoạt động cùng nhau, “sự phong phú thêm”
môi trường động cơ của mỗi thành viên hoặc “sự phân rã” hoạt động cùng nhau, là
4


kết quả của sự xung đột giữa các động cơ (thậm chí các động cơ có xung đột nhau
thì mục đích chung có thể vẫn được bảo toàn). Các quan hệ liên nhân cách trước
hết được hình thành cụ thể trong quan hệ giữa những người liên kết với nhau bởi
một hoạt động cùng nhau.

Trong điều kiện hoạt động cùng nhau, động cơ của cá nhân tham gia hoạt
động này, bằng cách này hoặc khác đều có quan hệ với động cơ của các thành viên
khác, do đó động cơ riêng có thể thay đổi. Trong điều kiện này đã bộc lộ một số
khía cạnh mới trong động thái của các động cơ cá nhân. Tính phức tạp của sự “đan
xen” các động cơ trong hoạt động cùng nhau có lẽ tạo ra những khó khăn lớn nhất
khi thực hiện hoạt động này.
Nếu mục đích chung định hướng hoạt động cùng nhau càng có triển vọng
thực hiện thì càng có khả năng liên kết các động cơ cá nhân và biến nhóm nhỏ
thành một tập thể chân chính. Điều này đã được chứng minh rất rõ qua lý luận và
thực tiễn của Macarencô.
Hoạt động cùng nhau đều đòi hỏi phải lập kế hoạch. Sự chuyên môn hóa các
nhiệm vụ có thể do nhóm nói chung hoặc thậm chí một thành viên thực hiện. Nó là
cơ sở cho việc lập kế hoạch của hoạt động cùng nhau.
Quá trình lập kế hoạch diễn ra khác nhau tuỳ thuộc vào nhiệm vụ của nhóm.
Nhiệm vụ này xác định mức độ tham gia vào quá trình hoạt động cùng nhau của
mỗi thành viên. Trên cơ sở kế hoạch chung, mỗi thành viên lập kế hoạch cá nhân
của mình (mặc dù rất đơn giản). Đồng thời, bất kỳ một kế hoạch cá nhân nào được
xây dựng không chỉ như là kế hoạch hành động riêng mà còn phải cân nhắc đến
những hành động của các thành viên khác.
Hoạt động cùng nhau tương tự hoạt động cá nhân, được hình thành từ các
hành động với đối tượng vật chất, cũng như với đối tượng lý tưởng. Sự phân tích
tâm lý học đòi hỏi phải xác định thành phần của hành động này và các mối liên hệ
qua lại giữa chúng. Nhưng ở đây xuất hiện vấn đề mới, đó là việc phối hợp các
5


hành động của các thành viên khác nhau. Hiệu quả hoạt động cùng nhau phụ thuộc
vào mức độ phối hợp này.
Yếu tố cơ bản để tổ chức hoạt động cùng nhau là sự phối hợp các hành động
cùng một thời gian: Về nguyên tắc, ở đây có thể có 3 phương án cơ bản:

Các hành động riêng lẻ hoặc hàng loạt hành động nối tiếp nhau của các thành
viên tham gia trong hoạt động cùng nhau thực hiện song song cùng một thời gian.
Sự phối hợp ở đây diễn ra chủ yếu từ đầu tới cuối hoạt động, nó có thể tiến hành
theo các giai đoạn.
Các hành động thực hiện tiếp nối nhau, trong đó kết quả hành động của một
thành viên, lại trở thành đối tượng của một hành động khác. Ở đây sự phối hợp đòi
hỏi ở từng bước chuyển tiếp.
Một số người thực hiện đồng thời một thao tác. Sự phối hợp hành động của
họ trong phương án này phải được thực hiện không ngừng trong suốt thời gian thực
hiện thao tác.
Các phương án hoạt động cùng nhau nêu trên đều được nghiên cứu ở các
bình diện khác nhau V.G.Axâyev, Ph.Đ.Gorbov, Z.I.Kiđer, R.G.Kincâyđer,
N.N.Obôzov, D.A Ôsanhin, L.I.Umanxki, AX.Chécnưsev và những người khác.
Đáng tiếc rằng trong các công trình của họ quá trình phối hợp hành động theo thời
gian và cơ chế tâm lý chỉ được nghiên cứu phần nào.
Trong quá trình thực hiện hoạt động cùng nhau, các hành động của cá nhân
riêng lẻ được điều chỉnh bởi sự phản ánh đối tượng, mà hành động hướng tới và cả
những hành động được các thành viên khác thực hiện và những biến đổi của đối
tượng. Như vậy, hành động của cá nhân được xây dựng không chỉ tương ứng với
đối tượng và nhiệm vụ. Cá nhân “điều chỉnh” hành động của mình phù hợp với các
hành động của những người khác.
Tổng giác có vai trò rõ ràng trong sự điều chỉnh hoạt động cùng nhau, bởi vì
nếu thiếu nó thì không thể điều chỉnh hành động của cá nhân đối với các hành động
6


của những người khác. Đồng thời, cá nhân thấy trước khuynh hướng thay đổi
không chỉ đối tượng hoạt động của mình, mà cả các hành động của người khác.
Cuối cùng, việc đánh giá kết quả thực hiện các hành động cá nhân cũng phụ
thuộc vào các yêu cầu được xác định bởi sự “tương hợp” thực hiện hoạt động.

Nhìn chung nội dung tâm lý của hoạt động cùng nhau là phong phú hơn
nhiều so với hoạt động cá nhân. Mỗi thành viên của hoạt động cùng nhau đều đóng
góp kinh nghiệm độc đáo vào hoạt động.
Hoạt động cùng nhau có cấu trúc tâm lý giống hoạt động cá nhân. Nghĩa là
nó cũng bao gồm các yếu tố từ động cơ - mục đích hoạt động; lập kế hoạch; phân
tích và tổng hợp thông tin; ra quyết định; hành động và kiểm tra, điều chỉnh hành
động. Hoạt động cùng nhau cũng được hình thành từ các hành động với đối tượng
vật chất và hành động với đối tượng tinh thần (đối tượng lý tưởng), giống như sự
hình thành hành động cá nhân. Điểm khác biệt ở đây là, trong quá trình hình thành
hành động cùng nhau xuất hiện mối quan hệ giữa các thành viên. Hiệu quả hoạt
động phụ thuộc mức độ quan hệ phối hợp này. Yếu tố cơ bản để tổ chức hoạt động
cùng nhau là sự phối hợp các hành động cùng một thời gian, theo các nguyên tắc
khác nhau: nối tiếp hành động của các thành viên; tiến hành song song các hành
động của nhiều thành viên.
Từ những điều đã trình bày cho thấy, cấu trúc của hoạt động cùng nhau ở đây
được xem xét như là cấu trúc của hoạt động cá nhân: đều có sự phân chia các yếu
tố cấu thành tương tự. Các mối tương quan giữa chúng, trong những dạng hoạt
động cùng nhau khác nhau được hình thành khác nhau. Trong các hình thức phát
triển của hoạt động cùng nhau, các mối tương quan này thường được phân chia
giữa các thành viên trong nhóm, trở thành các chức năng đặc biệt của họ.
So sánh hoạt động cùng nhau với hoạt động cá nhân cho phép làm rõ nét đặc
trưng của các yếu tố cấu thành cơ bản hoạt động cùng nhau. Hoạt động cùng nhau
có những cách đo khác.
7


Trước hết là sự tác động qua lại về mặt tâm lý giữa các thành viên, diễn ra
theo cơ chế bắt chước, ám thị, thuyết phục, lây lan tâm lý. Sự hợp tác và cạnh
tranh. Quan hệ liên nhân cách được biểu hiện qua các biện pháp và phương thức lập
kế hoạch, ra quyết định, kiểm tra lẫn nhau và đánh giá hành động của mình với

người khác. Đồng thời quá trình triển khai các thành tố trên anhhr hưởng ngược lại
quan hệ liên nhân cách
Các nhân tố bên trong: quan trọng nhất của hoạt động cùng nhau là sự hợp
tác (giúp đỡ lẫn nhau) và cạnh tranh (thi đua). Trong một mức độ đáng kể, chúng
quyết định tính hiệu quả của hoạt động cùng nhau.
Đặc trưng nổi bật của hoạt động cùng nhau là trong đó diễn ra hoạt động
giao tiếp, giao tiếp được “bện chặt” một cách hữu cơ trong hoạt động cùng nhau và
thiếu sự bền chặt này hoạt động cùng nhau không thể tồn tại. Giao tiếp dường như
thấm vào toàn bộ quá trình hoạt động cùng nhau từ đầu đến cuối, hoạt động này
đóng vai trò tổ chức. Giao tiếp tham gia vào hoạt động cá nhân, nhưng chức năng
giao tiếp của tâm lý được nghiên cứu đầy đủ hơn trong hoạt động cùng nhau.
Chúng ta thấy rằng, trong quá trình hoạt động cùng nhau, ở những giai đoạn khác
nhau cường độ, hình thức và phương thức giao tiếp sẽ thay đổi. Những nghiên cứu
của A.V.Nhicônov, N.V.Krưlôva, N.N. Ôbôzov, N.B.Scôpôrov đã chỉ ra ở một vài
giai đoạn thì giao tiếp có cường độ mạnh, ở những giai đoạn khác hoàn toàn không
có giao tiếp, hay chính xác hơn nó không thể hiện ra bên ngoài. Điều này cũng
được ghi nhận trong những nghiên cứu của A.M.Machiuskin và đồng nghiệp của
ông. Động thái của giao tiếp trước hết quyết định nội dung hoạt động. Nhưng
phương thức tổ chức hoạt động cùng nhau có giá trị cơ bản trong việc quy định
hoạt động cùng nhau. Giao tiếp chủ yếu gắn liền với các yếu tố đòi hỏi sự phối hợp
các hành động được các thành viên khác nhau trong nhóm thực hiện. Khi thực hiện
hành động song song đồng thời thì cường độ giao tiếp sẽ cao hơn cả ở giai đoạn
đầu và cuối: khi cùng lập kế hoạch hoạt động và khi đánh giá kết quả hoạt động. Ở
8


đây giao tiếp được thực hiện dưới dạng ngôn ngữ. Trong hoạt động được tổ chức
nối tiếp nhau, cường độ giao tiếp cao nhất ở các thời điểm “chuyển tiếp” hành động
từ thành viên này sang thành viên khác. Trong trường hợp khi các thành viên của
nhóm cùng thực hiện đồng thời một thao tác thì giao tiếp cần thiết trong toàn bộ

thời gian thực hiện thao tác đó. Ở phương án phối hợp các hành động này thường
sử dụng rộng rãi các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ.
Về cơ bản động thái giao tiếp được quyết định bởi các quan hệ liên nhân
cách được hình thành trong nhóm (bởi tính chất và mức độ phát triển của chúng) và
các đặc điểm tâm lý cá nhân của những người cùng hoạt động.
Việc nghiên cứu hoạt động cùng nhau có ý nghĩa nguyên tắc để tiếp tục
nghiên cứu lý luận của tâm lý học, cho phép phát hiện được những yếu tố quyết
định đối với các hình thức và mức độ phản ánh tâm lý sâu sắc hơn và đầy đủ hơn,
đặc biệt là các quá trình liên kết, các quy luật của sự sáng tạo, động thái của các
mối quan hệ giữa ý thức và các thành tố vô thức trong hoạt động. Theo phương
hướng này sẽ làm giàu thêm những tri thức về các chức năng cơ bản của tâm lý:
chức năng nhận thức, điều chỉnh và giao tiếp. Trong hoạt động cá nhân và hoạt
động cùng nhau, các chức năng này có nét đặc trưng khác nhau. Như vậy, trong
hoạt động cùng nhau (so sánh với hoạt động cá nhân) không chỉ thể hiện rõ ràng
hơn chức năng giao tiếp mà bằng cách khác đã đưa ra các chức năng khác. Chức
năng nhận thức ở đây được thực hiện trong điều kiện trao đổi tri thức giữa những
thành viên của hoạt động cùng nhau, còn chức năng điều chỉnh có quan hệ không
chỉ đến bản thân cá nhân, mà đến cả những người khác. Xuất hiện khả năng điều
chỉnh hoạt động của những người khác và thể nghiệm các tác động điều chỉnh của
người khác đến bản thân mình. Trong các điều kiện cụ thể, các mức độ thể hiện các
chức năng tâm lý có thể khác nhau.

9


Việc tiếp tục nghiên cứu lý luận tâm lý về hoạt động đòi hỏi cần phải tích
cực nghiên cứu hoạt động cùng nhau, hơn nữa hoạt động này có các đặc điểm đặc
trưng và các phép đo cơ bản.
Có thể nghĩ rằng điều đó cho phép phân tích các đơn vị và các thành tố hoạt
động theo lối mới, làm phong phú thêm các khái niệm lý luận về cấu tạo và phát

sinh hệ thống của hoạt động, đồng thời thay đổi các quan niệm về hoạt động cá
nhân. Với hướng này đã mở ra trong tâm lý học những khả năng phân tích mới về
chủ thể của hoạt động.
3. Ý nghĩa của vấn đề trong hoạt động quân sự
Ngày nay, Do nhu cầu phát triển của lĩnh vực quân sự, nhiều hình thức chiến
đấu mới xuất hiện: đổ bộ đường không, hải quân đánh bộ, trinh sát đặc nhiệm…,
bên cạnh đó sự ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ vào lĩnh vực quân sự với
sự xuất hiện của nhiều loại vũ khí trang bị hiện đại. Những yếu tố này làm thay đổi
căn bản nội dung và phương thức tiến hành hoạt động của người chiến sĩ, đòi hỏi
người chiến sĩ không chỉ thành thành thục các động tác chiến đấu cá nhân, thao tác
sử dụng vũ khí trang bị chiến đấu của mình mà còn phải thành thục trong hiệp đồng
hành động với đồng đội, với cán bộ chỉ huy. Hoạt động động của các quân nhân
trong một kíp trực ban, một phân đội chiến đấu đòi hỏi phải có sự ăn ý, nhịp nhàng,
sự phân công lao động hợp lý. Từ chính những đòi hỏi này, việc nâng cao hiệu quả
hoạt động cùng nhau giữa các quân nhân có một ý nghĩa quan trọng trong phát huy
sức mạnh của một tổ, một đơn vị trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động cùng nhau giữa các quân nhân, người cán bộ
chỉ huy cần chú ý đến những khía cạng cơ bản sau:
Thứ nhất, cần thống nhất mục đích hoạt động trong tập thể quân nhân. Điểm
thuận lợi trong hoạt động quân sự đó là mọi quân nhân đều có chung mục đích
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc khi gia nhập quân đội. Tuy nhiên, trong những thời điểm
cụ thể, hoàn cảnh, thời gian cụ thể thì mục đích hoạt động của tập thể cụ thể hóa
10


hơn để đảm nhiệm chức năng của đội quân chiến đấu, đội quân sản xuất, đội quân
công tác. Do đó, bước vào mỗi nhiệm vụ cụ thể, hoàn cảnh cụ thể, mục đích hoạt
động của mỗi quân nhân có thể bị biến đổi dưới tác động của điều kiện hoạt động
thực tiễn, đây là điều tất yếu khách quan bởi không phải lúc nào mục đích hoạt
động của mỗi quân nhân đều trùng với mục đích hoạt động của tập thể.

Nhiệm vụ của người cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị phải nhìn nhận được vấn
đề này, phát hiện ra những mục đích mâu thuẫn, trái ngược với mục đích chung của
tập thể để điều chỉnh, hướng mọi quân nhân đến một mục đích chung nhằm thucwj
hiện có hiệu quả nhiệm vụ của đơn vị mình.
Thống nhất mục đích cho quân nhân cũng làm đồng thời với việc thống nhất
cho họ trong định hướng giá trị; hướng đến những giá trị chân chính, giá trị thời
đại. Sự thống nhất trong định hướng giá trị góp phần không nhỏ trong thống nhất
mục đích hoạt động trong tập thể quân nhân.
Thứ hai, Tổ chức hoạt động cùng nhau trong tập thể quân nhân đòi hỏi phải
lập kế hoạch chặt chẽ. Trong quá trình hình thành hành động cùng nhau xuất hiện
mối quan hệ giữa các thành viên. Hiệu quả hoạt động cùng nhau phụ thuộc vào
mức độ quan hệ phối hợp này. Yếu tố cơ bản để tổ chức hoạt động cùng nhau là sự
phối hợp các hành động cùng một thời gian. Do đó, hoạt động cùng nhau sẽ không
thể thực hiện một cách nhịp nhàng, trơn tru nếu như thiếu tính kế hoạch. Trên cơ sở
kế hoạch chung, mỗi quân nhân lập kế hoạch cá nhân của mình trên cơ sở cân nhắc
đến những hành động của các thành viên khác, đến sự ủng hộ hoặc phản đối của họ
để thay đổi, bổ sung, hoàn thiện sao cho phù hợp. Có như vậy, hiệu quả của hoạt
động cùng nhau mới được bảo đảm.
Thứ ba, quan tâm đến những cơ chế tâm lý nảy sinh trong hoạt động cùng
nhau. Hoạt động chung cùng nhau giữa các quân nhân sẽ diễn ra sự tác động qua lại
về mặt tâm lý giữa các quân nhân. Sự tác động này diễn ra theo những cơ chế bắt
chước, ám thị, thuyết phục, lây lan tâm lý, sự hợp tác và thi đua. Vấn đề cần quan
11


tâm ở đây là việc người cán bộ lãnh đạo, chỉ huy nhận thấy vai trò của các cơ chế
tâm lý như thế nào? việc sử dụng các cơ chế tâm lý này như thế nào để nâng cao
hiệu quả hoạt động cùng nhau trong tập thể quân nhân.
Các cơ chế tâm lý trong hoạt động cùng nhau có tác dụng gắn kết, thúc đẩy
hiệu quả hoạt động cùng nhau, song nó cũng có thể phá vỡ mối liên kết trong hoạt

động cùng nhau. Sự hợp tác có thể trở thành sự xung đột, thi đua có thể thành
ghanh đua. Do đó, cần phải nắm bắt chiều hướng phát triển của các hiện tượng tâm
lý nảy sinh trong tập thể thông qua mối quan hệ qua lại để định hướng, điều chỉnh
theo hướng tích cực thông qua các cơ chế tâm lý trên. Phải sử dụng các cơ chế tâm
lý làm công cụ để gắn kết các thành viên, tạo sức mạnh trong hoạt động cùng nhau.
Bên cạnh đó, người cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị cần quan tâm đến quan hệ
liên nhân cách, cụ thể về vai trò quan hệ liên nhân cách trong kiểm tra, đánh giá lẫn
nhau trong quá trình hoạt động và ngược lại về quá trình lập kế hoạch, ra quyết
định ảnh hưởng như thế nào tới quan hệ liên nhân cách. Mặt khác, trong hoạt động
cùng nhau không thể không quan tâm đến vấn đề giao tiếp bởi hoạt động giao tiếp
bện chặt với hoạt động cùng nhau, thấm vào toàn bộ quá trình hoạt động cùng nhau
từ đầu đến cuối. Thông qua hoạt động cùng nhau, các chức năng của giao tiếp được
bộ lộ một cách đầy đủ. Giao tiếp như một cầu nối quan trọng giữa các quân nhân,
phương thức để mỗi quân nhân thực hiện hoạt động cùng nhau. Vì vậy, phát triển
kỹ năng giao tiếp cho người quân nhân là góp phần tăng hiệu quả trong hoạt động
cùng nhau.
Hoạt động cùng nhau là một lĩnh vực lớn, cho đến nay các nghiên cứu về lĩnh
vực này còn chưa nhiều. Tuy nhiên, thực tiễn đang chứng minh đây là lĩnh vực cần
giành được sự quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nữa, góp phần bổ sung thêm những
vấn đề lý luận và thực tiễn cho khoa học tâm lý.

12



×