Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

BÀI GIẢNG KINH tế CHÍNH TRỊ CHUYÊN đề các mô HÌNH CHỦ yếu của KINH tế THỊ TRƯỜNG CHỦ NGHĨA tư bản HIỆN đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.63 KB, 20 trang )

Chuyên đề
CÁC MÔ HÌNH CHỦ YẾU CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
TƯ BẢN CHỦ NGHĨA HIỆN ĐẠI

Vì góc độ tiếp cận khác nhau nên người ta mô tả kinh tế thị trường ở mỗi nước cũng
rất khác nhau. Việc nghiên cứu các mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại là cần
thiết để có thể hiểu được trong thực tế nền kinh tế thị trường vận hành như thế nào ở mỗi nước
cụ thể. Dưới đây nghiên cứu một số mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại.
1. Mô hình kinh tế thị trường tự do Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là một quốc gia công nghiệp phát triển vào bậc nhất thế giới, có thu nhập bình
quân đầu người và tổng lượng sản phẩm – dịch vụ cao hơn nhiều quốc gia khác. Mô hình Hoa
Kỳ có đặc trừng là sự chiếm ưu thế của sở hữu tư nhân, cơ chế thị trường cạnh tranh và sự năng
đọng của kinh doanh, sự can thiệp thấp của Chính phủ và do đó, chấp nhận sự phân hóa xã hội ở
mức cao.
1.1. Đặc trưng về sở hữu
Sự phát triển các doanh nghiệp tư nhân là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế
thị trường tự do Hoa Kỳ. Tất cả các doanh nghiệp tư nhân được phân chia thành 2 loại: những
thập đoàn lớn (bao gồm các tập đoàn quốc gia và siêu quốc gia), bên cạnh là hàng trăm nghìn
công ty nhỏ. Sự tập trung nhiều ngành công nghiệp trong tay một số ít doanh nghiệp lớn là mộ
trong những đặc điểm của nền kinh tế thị trường Hoa Kỳ. Xu hướng tập trung các doanh nghiệp
quy mô lớn bắt đầu từ thế kỷ XIX. Vào những năm 1920 các tập đoàn lớn được khuyến khích
phát triển. Đặc biệt, Chiến tranh thế giới thứ hai đã thúc đẩy hình thành các tập đoàn lớn nhằm
sản xuất máy bay và xe tăng cho quân đội đồng minh, nhờ sáp nhập thành các tổng công ty
(Conglomerate merger).
Bên cạnh các tập đoàn lớn, ở Mỹ còn có hàng trăm nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc
hình thành các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là xu thế đang phát triển hiện nay. Các doanh
nghiệp này có thể do một số người trước đây vốn điều hành tập đoàn lớn nay tách ra thành lập
công ty riêng, hoặc là các công ty gia đình được hình thành trên cơ sở vốn riêng, nhằm tận dụng
những công nghệ hiện đại, thuê lao động có trình đọ cao, sử dụng kỹ năng quản lý tài chính tiên
tiến.
Bên cạnh sở hữu tư nhân, nền kinh tế thị trường Hoa Kỳ còn có bộ phận không lớn kinh


tế nhà nước. Sở hữu nhà nước trong các ngành công nghiệp ở Hoa Kỳ khá hạn chế, nhưng chính
phủ các cấp, từ trung ương đến địa phương đều sở hữu và vận hành những doanh nghiệp thuộc


nhiều ngành nghề khác nhau. Ví dụ như Tennessee Valley Authority (TVA), một xí nghiệp công
rất lớn chuyên sản xuất và phân phối năng lượng công cộng cho khu vực Đông Nam Hoa Kỳ.
TVA được thành lập để xây dựng những công trình thủy lợi, những nhà máy thủy điện, cung cấp
điện năng, cải thiện dòng chảy của dòng sông Tennessee, kiểm soát lũ lụt trên con sông này và
ngăn chặn nạn xói mòn đất. Các cơ quan khác của Chính phủ cũng sở hữu các hệ thống vận tải
và các nhà máy sản xuất nước, gas và điện. Chính phủ cũng trực tiếp hay gián tiếp sản xuất năng
lượng nguyên tử và các hàng hóa khác, thực hiện các dự án nhà ở nhằm xóa các khu nhà ổ chuột.
1.2. Đặc trưng về sự can thiệp của Chính phủ trong nền kinh tế Hoa Kỳ
* Lý do sự can thiệp của Chính phủ đối với nền kinh tế
- Khi cạnh tranh trên thị trường xuất hiện những trục trặc, những khiếm khuyết, ví dụ như
độc quyền, độc quyền nhóm hay những cấu trúc không hoàn hảo của thị trường cạnh tranh, khiến
việc phân bổ các nguồn lực không hiệu quả và hiệu quả kinh tế - xã hội không được đảm bảo.
- Khi trong nền kinh tế thị trường, cơ chế giá cả không đảm bảo cung cấp thông tin chuẩn
xác, hoặc việc phản ứng đối với quá trình sản xuất và bán ra những hàng hóa độc hại.
- Khi tiến bộ công nghệ tạo nên những ngoại ứng thị trường. Ví dụ quá trình phát triển
ngành chế tạo ôtô đã có những tác động rất sâu rộng đến nền kinh tế Hoa Kỳ trong thời kỳ đầu
của thế kỷ XX, tạo ra hàng nghìn việc làm trong những ngành có liên quan như thép và cao su.
Tuy nhiên, ngành công nghiệp ôtô cũng là thủ phạm chính dẫn đén tình trạng ô nhiễm không khí
và tiếng ồn.
- Trợ cấp thất nghiệp và các quỹ an sinh xã hội để cung cấp một công cụ bảo vệ những
người lâm vào tình trạng khó khăn mà không phải hoàn toàn do lõi của họ. Cần lưu ý rằng các
chương trình phúc lợi xã họi ở Hoa Kỳ được đưa vào thực hiện chậm hơn nhiều chưa được hoàn
thiện như ở nhiều quốc gia khác.
* Một số lĩnh vực can thiệp chủ yếu của Chính phủ Hoa Kỳ trong nền kinh tế.
Tài chính công là một chỉ số đánh giá mức độ tham gia của chính phủ trong nền kinh tế thị
trường, mà thuế là công cụ quan trọng. Các chính sách bình ổn kinh tế. Những quy định và sự kiểm

soát Chính phủ đối với doanh nghiệp. Khuyến khích cạnh tranh. Thi hành luật chống độc quyền để
tăng cường tính cạnh tranh trên thị trường bằng việc ngăn cấm các hoạt động liên kết giữa một nhóm
doanh nghiệp nhằm thao túng thị trường. Ban hành các quy định xã hội đối với doanh nghiệp trên
các phương diện như thuê mướn người tàn tật, an toàn lao động, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi
trường…
* Đánh giá nền kinh tế Hoa Kỳ
- Trong suốt thế kỷ XX và giai đoạn đầu của thế kỷ XXI, với sức mạnh kinh tế và tiềm
năng khoa học công nghệ, Hoa Kỳ đã và đang có vai trò hết sức quan trọng trên thế giới. Hoa Kỳ
2


không chỉ đã giành lại được mà còn mở rộng vai trò dẫn đầu thế giới về thị phần trong các ngành
công nghệ cao như hàng không, dược phẩm, phần mềm và viễn thông. Nhưng Hoa kỳ đang đối
mặt với những thách thức về những “bong bóng” kinh tế và những “tài sản ảo” tồn tại trong nền
kinh tế, sự ra đời Liên minh châu Âu và đồng tiền chung Euro cũng đang đe dọa vị thế của Hoa
Kỳ.
Sức mạnh của nền kinh tế Hoa Kỳ còn có nguyên nhân do nước Mỹ nằm trong vùng khí
hậu ôn đới và nền văn hóa của họ thích hợp cho quá trình tăng trưởng kinh tế…Hoa Kỳ được
xem như miền đất hứa, nơi các cá nhân có cơ hội phát triển mạnh mẽ dựa vào sức lực và khả
năng của họ và mỗi thế hệ tiếp nối lại càng có thêm các cơ hội làm giàu.
Người Mỹ rất đề cao của cải và chủ nghĩa tiêu dùng. Sự giàu có trong xã hội Hoa Kỳ,
chưa bao giờ bị khinh miệt hay căm giận mang tính giai cấp như các xã hội khác đã tạo ra những
chuẩn mực tiêu dùng hàng hóa mà người Mỹ đều cố gắng đạt được. Tổng giám đốc kiêm Chủ
tịch Microsoft, nhà tỷ phú giàu nhất Hoa Kỳ, đã truyền cho người dân sự kính trọng và niềm tin
rằng bất cứ ai có đầu óc, có ý tưởng đều có thể thành công trên đất Mỹ.
Khả năng cạnh tranh quốc tế của Hoa Kỳ có được là do hội đủ 4 yếu tố cơ bản sau: đó là ưu thế
tự nhiên về nhân tố sản xuất, những điều kiện thuận lợi về cầu hàng hóa trong nước, những ngành công
nghiệp liên quan hỗ trợ và chiến lược cũng như sự cạnh tranh toàn cầu của các công ty, mà các công ty
này chiếm đa phần số công ty lớn của thế giới.
Nền kinh tế Hoa Kỳ cũng có những điểm yếu. Đây là quốc gia nợ nhiều nhất thế giới,

thâm hụt thương mại hàng hóa và cán cân ngoại thương liên tục tăng từ năm 1986. Vào năm
1997, tài sản nước ngoài tại Hoa Kỳ đã vượt tài sản của Hoa Kỳ ở nước ngoài. Đa phần nợ nước
ngoài của Hoa Kỳ là dưới dạng người nước ngoài nắm giữ các khoản nợ của kho bạc, ví dụ như
trái phiếu kho bạc. Tài khoản thương mại hàng hóa, bao gồm việc xuất nhập khẩu hàng hóa giữa
Hoa Kỳ với nước ngoài, đã âm 114 tỷ USD (năm 1997). Tài khoản vãng lai, bao gồm 4 tài khoản
cấp nhỏ hơn là tài khoản thương mại hàng hóa, tài khoản dịch vụ, tài khoản về thu nhập và chi trả tài
sản với nước ngoài, tài khoản chuyển giao đa phương đã âm hơn 100 tỷ USD từ năm 1997.
Quy luật cạnh tranh và đào thải ở Hoa Kỳ rất nghiệt ngã. Sự cạnh tranh để giành ngôi vị
dẫn đầu trên các thị trường đã đào luyện nên những người giỏi nhất, nhưng nó cũng gây sự lãng
phí lớn: thứ nhất, thu hút và tiêu diệt quá nhiều đối thủ cạnh tranh; thứ hai, khiến những khoản
tiêu dùng và đầu tư trở nên phi sản xuất.
Sự bất bình đẳng thu nhập và tài sản ở Hoa Kỳ rất trầm trọng và có chiều hướng gia tăng
kể từ thập niên 1980. Đối với 20% các gia đình nghèo nhất nước Mỹ, thu nhập thực tế của họ
hầu như không được cải thiện gì đáng kể; chỉ có 5% những người giàu nhất nước Mỹ là có lợi.
Nếu vào năm 1970, 20% dân cư nghèo nhất nhận được khoảng 5,4% thu nhập thực tế của xã hội
3


so với 40,9% của 20% những người giàu nhất; thì đến năm 1996 những con số tương ứng là
4,2% và 46,8% - tỷ số phần thu nhập thực tế giữa hai nhóm dân cư này là 1/11,2. Khi bất bình
đẳng thu nhập gia tăng, nhất là trong những năm của thập niên 1980-1990 thì cùng với nó sự bất
bình đẳng về tài sản cũng tăng theo.
Nghèo đói chính là mặt bên kia tấm huân chương của sự giàu có ở Hoa Kỳ. Mặc dù số
người sống trong mức nghèo đói giảm từ 22,3% (năm1960) xuống còn 13,7% dân số (năm
1996), nhưng con số tuyệt đối những người sống dưới mức nghèo đói vẫn là khoảng 36,5 triệu
người. Trong số đó có 13,8 triệu trẻ em. Đặc biệt, mức độ nghèo đói của da đen và người nói
tiếng Tây Ban Nha ở Hoa Kỳ rất trầm trọng.
1.2. Mô hình kinh tế thị trường có điều khiển Nhật Bản
* Về kết cấu sở hữu và tổ chức kinh doanh
Sở hữu tư nhân đã được đề cao và khuyến khích phát triển trong nền kinh tế thị trường

Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản đã ban hành nhiều đạo luật khiến nhiều ngành công nghiệp
không còn chịu sự điều chỉnh của các đạo luật chống độc quyền. Nhật Bản đã cho phép một số
hình thức cartel trong lĩnh vực xuất nhập khẩu được thành lập và đi vào hoạt động nhằm cải
thiện vị trí là một nhà xuất khẩu lớn của thế giới. Người Nhật nhận được từ Hoa Kỳ những ưu
đãi, những khoản vay lãi suất thấp và những máy móc kỹ thuật có khả năng phục hồi sức sản
xuất vốn có nhiều ngành công nghiệp, nhát là công nghiệp dệt may.
Nhật Bản ưu tiên đáp ứng nhu cầu trong nước, nhất là công nghiệp đóng tàu – ngành
được sự trợ giúp của Chính phủ đã phát triển nhanh chóng và năm 1956 trở thành quốc gia sản
xuất tàu thủy lớn nhất thế giới.
Nhật Bản tập trung cho các chính sách xuất khẩu sản phẩm những ngành công nghiệp mà
Nhật Bản có lợi thế nhờ chi phí nhân công thấp như thủ công mỹ nghệ, dệt may và các ngành
công nghiệp quy mô nhỏ khác. Nguồn lực con người là nhân tố rất quan trọng cho sự phát triển
kinh tế Nhật Bản thời kỳ hậu chiến.
Các tổ chức công nghiệp giữ vai trò lớn trong nền kinh tế thị trường Nhật Bản với số
lượng các tập đoàn lớn đứng thứ hai thế giới chỉ sau Hoa Kỳ. Đó là các doanh nghiệp theo chế
độ gia đình trị với hình thái tổ chức là 6 Keiretsu ngang (tập đoàn gia đình mà tầm hoạt động của
nó vươn tới nhiều ngành công nghiệp khác nhau và tập trung lại thông qua một ngân hàng, chúng
nằm trong số 500 tập đoàn lớn nhất thế giới) và 39 Keiretsu dọc (bao gồm một tập đoàn công
nghiệp và các công ty trực thuộc) có sự ủng hộ và giúp sức của Chính phủ đã sản xuất ra tới 90%
GNP của đất nước. Hình thái Sogo Shosha (các công ty thương mại) - có thể là một thành viên
trong Keiretsu là những công ty hàng đầu thế giới hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh doanh khác
nhau và cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau cho các hãng thành viên. Các Sogo Shosha tham gia
4


vào cả các hoạt động nhập khẩu, xuất khẩu và có thể giúp tập đoàn trong xử lý, hạn chế rủi ro
ngoại hối. Họ cũng tham gia vào các nghiệp vụ kinh tế ở nước ngoài cho các hãng của Nhật Bản
cũng như cho những người mua và bán của các quốc gia khác. Các Sogo Shosha hoạt động như
một cơ chế xét duyệt để loại ra những mặt hàng nhập khẩu có khả năng gây tổn hại đến các thành
viên của Keiretsu. Sự liên minh công nghiệp trên quy mô lớn giữ vai trò thống trị trong quan hệ

thương mại giữa Nhật Bản với nước ngoài.
Nhiều ngành công nghiệp quy mô nhỏ (như sản xuất thức ăn và công nghệ bán lẻ…) phát triển
nở rộ để đáp ứng nhu cầu rất đặc thù của những người tiêu dùng Nhật Bản. Năng suất của cách ngành
này thường thấp nhưng họ lại được Nhà nước bảo hộ trước sự cạnh tranh của nước ngoài. Cũng có
những công ty gia đình sử dụng từ 2 - 100 lao động, họ thường sản xuất những bộ phận hoặc chỉ cung
cấp dịch vụ thường xuyên cho các khách hàng lớn và phụ thuộc nhiều vào sự thành bại của các khách
hàng này.
Trong nửa cuối thế kỷ XIX, ngân hàng lớn đóng vai trò then chốt trong việc thực hiện các
chính sách phát triển của chính phủ Nhật Bản. Họ thực hiện cho vay đối với các thành viên của
Keiretsu và mua cổ phiếu phổ thông của các công ty này. Họ hoạt động trên phạm vi toàn cầu.
Ngoài ra, có một số ngân hàng tư nhân khác với quy mô nhỏ hơn rất nhiều và quan hệ với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, còn có vai trò của một số định chế tài chính thuộc sở hữu
nhà nước (ngân hàng Phát triển Nhật Bản, Ngân hàng Tiết kiệm Bưu chính, Ngân hàng Xuất
nhập khẩu) trong việc hỗ trợ hoạt động cho các tổ chức tài chính tư nhân, cho vay dài hạn với lãi
suất thấp đối với các ngành công nghiệp cơ bản trong nước, huy động tiết kiệm trong nước và
cho vay dài hạn với lãi suất mang tính trợ cấp cho các nhà xuất khẩu sản phẩm. Hệ thống ngân
hàng Nhật Bản đã lâm vào khủng hoảng đầu những năm 1990 với tỷ lệ nợ xấu lớn, tạo ra “bong
bóng” bất động sản và khi nền kinh tế “bong bóng” sụp đổ, thị trường cổ phiếu cũng đổ theo. Có
5 ngân hàng thất bại nặng nề nhất trên thị trường tài chính thế giới chính là các ngân hàng Nhật
Bản.
* Vai trò của Chính phủ Nhật Bản
Chính phủ sử dụng các chính sách tài khóa và tiền tệ để kích thích quá trình tăng trưởng
kinh tế, nhất là công cụ thuế; tạo lập được mối quan hệ thường xuyên, gần gũi giữa Chính phủ và
doanh nghiệp.
Chính phủ chỉ chiếm phần nhỏ trong tiêu dùng xã hội, nhưng lại lại chiếm phần lớn trong đầu
tư và giữ quyền kiểm soát chặt chẽ khu vực tư nhân thông qua các trung gian của Chính phủ. Chi tiêu
Chính phủ trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội cũng ít hơn nhiều.
Các cơ quan hành chính và các bộ, ngành trong nền kinh tế như Bộ Tài chính, Bộ
Thương mại và Công nghiệp quốc tế (MITI), là hai bộ quan trọng nhất trong chính phủ. Cơ quan
5



Khoa học và Kỹ thuật công nghiệp (AIST) là cơ quan bán độc lập được thành lập dưới sự cho
phép của MITI và có trách nhiệm chính là xúc tiến công nghệ và phát triển các công nghệ mới.
Các thể chế tài chính thuộc chính phủ tham gia vào các hoạt động thiết yếu trên thị trường tài
chính thông qua việc sở hữu một số thể chế chuyên về tín dụng Ngân quỹ cho vay của những thể
chế này được cấu thành từ những nguồn vốn đối ứng như từ ngân sách chính phủ hay tiết kiệm
dân cư dưới hình thức tiết kiệm (niên kim) và bảo hiểm xã hội…Bộ Bưu chính viễn thông (MPT)
là cơ quan giữ chức năng tiết kiệm chính yếu và quan trọng của Nhật Bản, với tổng số tiết kiệm
lên tới 1 tỷ USD. Ngân hàng Nhật Bản thực hiện chính sách tiền tệ thông qua ba công cụ chính
để kiểm soát tổng lượng tín dụng và tiền tệ cung cấp trên thị trường: lãi suất, tỷ lệ chiết khấu và
tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
* Đánh giá tổng quát về nền kinh tế thị trường Nhật Bản
- Những thành công
Nền kinh tế Nhật Bản là nền kinh tế đạt được nhiều thành tựu tăng trưởng nhất trong số các
quốc gia công nghiệp phát triển lớn của thế giới trong thế kỷ XX. Thời kỳ 1950-1987 tốc độ tăng
trưởng trung bình của GDP thực tế là 6,0% nhưng tốc độ tăng trưởng của Nhật Bản vẫn là 4,0% so
với 2,9% ở Hoa Kỳ, 2,4% ở Pháp và 2,2% ở Đức.
Xuất khẩu là lĩnh vực thành công điển hình của Nhật Bản. Trước năm 1900, nước Nhật
hoàn toàn không có xuất khẩu. Đầu thể kỷ XX với vị trí thứ 23 xét trên tổng kim ngạch xuất
khẩu so với vị trí thứ 12 của Trung Quốc. Đến cuối thế kỷ XX, năm 1997 nước Nhật đã xếp thứ
3 thế giới với tổng kim ngạch lớn hơn so với Vương quốc Anh là khoảng 150 tỷ USD. Cũng năm
1997 tài khoản thương mại hàng hóa của Nhật Bản đạt thặng dư 73 tỷ USD so với khoản thâm
hụt 114 tỷ USD trong tài khoản thương mại nói chung, khoảng ½ trong số đó là quan hệ thương
mại với Hoa Kỳ.
Nhật Bản là quốc gia cho vay hàng đầu thế giới. Họ tài trợ cho việc cầm giữ các tài sản
nước ngoài thông qua những khoản thặng dư liên tục trên tài khoản xuất nhập khẩu hàng hóa,
trong vòng 25 năm con số này đã lên tới 2,2 tỷ tỷ USD. Một phần đáng kể trong số này được đầu
tư vào các tài sản của Hoa Kỳ, từ trái phiếu kho bạc đến các nhà máy sản xuất ôtô. Nhật Bản cầm
giữ rất nhiều tài sản nợ của chính phủ Hoa Kỳ và đã trở thành quốc gia cho vay hàng đầu thế

giới.
Công nghiệp Nhật Bản phát triển mạnh bởi bốn nhân tố sau: (1) rất coi trọng chất lượng
sản phẩm. (2) coi trọng công tác nghiên cứu. (3) có một lực lượng lao động kỹ thuật cao cũng
như khối lượng lớn máy móc, thiết bị tính trung bình trên một công nhân. (4) có một lượng cầu
trong nước rất lớn là nhân tố chính dẫn đến thành công trong quá trình phát triển công nghiệp
Nhật Bản.
6


- Những điểm yếu
Hiện nay Nhật Bản đang phải đương đầu với hàng loạt những vấn đề nghiêm trọng khi
bước vào thế kỷ XXI. Nhật Bản đã mắc phải một chứng bệnh – căn bệnh Nhật Bản, nghĩa là một
sự đồng đều tuân thủ đến cứng nhắc, mất đi sự sáng tạo và niềm tin cũng như tinh thần của công
chúng giảm sút rõ rệt. Những vụ xì căng đan trong các lĩnh vực chính trị, hành chính và kinh
doanh dấy lên trong thập niên 1990 đang dần mất đi chất keo hàn gắn xã hội của họ, chất keo có
thể đưa họ tiếp tục quãng đường phát triển trong những thế kỷ tới.
Nhật Bản là một trong những nước có dân số già nhất thế giới; tỷ lệ sinh ra của nước
Nhật lại đang giảm xuống và cùng với nó là hiện tượng dân số trong độ tuổi lao động cũng giảm
dần. Nhật Bản phải đương đầu với hai vấn đề lớn: thứ nhất, nước Nhật chống lại việc nhập cư và
giữ sự đồng nhất về chủng tộc; thứ hai, người Nhật rất không muốn phụ nữ phải lao động vất vả,
họ không muốn bóc lột sức lao động của phụ nữ và do đó càng làm gánh nặng thuế khóa đối với
dân Nhật tăng lên.
Nền kinh tế Nhật Bản cũng đang ở trong sự bộn bề các vấn đê tài chính. Nhiều ngân hàng
thua lỗ và bị phá sản hoặc phải để chính phủ mua lại. Tổng lượng nợ của chính phủ và chi trả lãi
suất đã lớn hơn GDP cả nước. Các thể chế tài chính Nhật Bản hoạt động kém hiệu quả, thiếu
minh bạch, còn quan hệ với những kẻ đầu cơ bất chính.
Nguyên nhân chủ yếu là do sự sụp đổ của hệ thống tài chính và sự bất lực, nạn tham
nhũng đang hoành hành trong Chính phủ Nhật Bản.
1.3. Mô hình kinh tế thị trường xã hội Cộng hòa liên bang Đức.
Mô hình này có đặc trưng: phối hợp sức mạnh của cơ chế thị trường tự do với sự can thiệp

của Nhà nước để đạt được các mục tiêu xã hội đề ra. Nhà nước luôn đảm bảo sự tồn tại của cả hai
bộ phận: kinh tế tự do (tư nhân) và kinh tế mệnh lệnh (Nhà nước).
* Kết cấu sở hữu và tổ chức kinh doanh
- Hệ thống doanh nghiệp với đẳng cấp trung lưu đóng một vai trò rất độc đáo đối với sự
phát triển của nước Đức. Nó làm được hai việc cho nền kinh tế Đức: thứ nhất, thu hút khoảng
2/3 tổng số việc làm mà một nửa trong số đó là việc làm trong lĩnh vực kinh doanh buôn bán, và
trên 40% trong tổng lượng đầu tư của nền kinh tế; thứ hai, duy trì một hệ thống giáo dục hướng
nghiệp xuất sắc, một hệ thống giáo dục được đánh giá là đứng hàng đầu thế giới.
Ngoài ra, ở Đức còn các phòng thường mại và hiệp hội thương mại. Tất cả các doanh
nghiệp Đức bất kể quy mô đều phải là thành viên. Trách nhiệm chính của các phòng thương mại
Đức liên quan tới các chương trình đào tạo hướng nghiệp. Giống như một cơ quan pháp luật, họ
đề ra các quy định như thời gian mở cửa các cửa hàng, cấp giấy phép đăng ký kinh doanh và
giấy phép lao động, giải quyết các tranh chấp giữa các doanh nghiệp và quan hệ qua lại với chính
7


phủ các cấp. Do đó, chức năng của họ chính là hạt nhân cho sự vận hành của hệ thống kinh tế
Đức.
Doanh nghiệp nhà nước ở Đức có quy mô và vai trò lớn là đặc trưng riêng của nền kinh tế thị
trường xã hội cũng như của châu Âu, trong một số trường hợp, chính phủ tham gia trực tiếp hoặc
thông qua hình thức cổ phần. Quản lý doanh nghiệp nhà nước được phi tập trung hóa tới cấp doanh
nghiệp. Bộ Tài chính Liên bang vừa như một công cụ quản lý doanh nghiệp nhà nước vừa thực hiện
các nhiệm vụ tư nhân hóa. Quá trình phi quốc hữu hóa các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện
thông qua hai con đường là bán lại doanh nghiệp cho cá nhân và bán cho người có thu nhập thấp với
tỷ lệ ưu đãi. Các doanh nghiệp thuộc sở hữu công đoàn được tổ chức theo hình thức hỗn hợp,
hoạt động vì mục tiêu phúc lợi chứ không nhằm tối đa hóa lợi nhận.
- Hệ thống ngân hàng Đức có sức mạnh tài chính hơn các ngân hàng Hoa Kỳ. Họ cung
cấp nguồn tài chính chủ yếu cho nền công nghiệp; đồng thời là cổ đông lớn nhất trong nền kinh
tế. Họ cũng cung cấp đa phần các dịch vụ môi giới chứng khoán cho các khách hàng ở Đức. Các
ngân hàng lớn của đều là những ngân hàng tư nhân, trực tiếp hay gián tiếp đang nắm giữ tới 1/4

quyền biểu quyết trong 25% các tập đoàn lớn nhất của Đức và chiếm tới 28% trong các hội đồng
tư vấn của họ. Sau đó phải kể đến các ngân hàng thương mại ở trung ương và địa phương cũng
thuộc sở hữu tư nhân, là nguồn tài chính hầu như duy nhất của các doanh nghiệp quy mô nhỏ.
Các ngân hàng Đức kiểm soát ít nhất một nửa nền kinh tế, do đó sự quan tâm được đặt nhiều vào
các mục tiêu dài hạn và sự ổn định tiền tệ.
Sức mạnh của các ngân hàng Đức là sản phẩm của thế kỷ XIX, khi Deutsche Bank và
Commezbank được thành lập bởi Nhà nước Phổ để tài trợ cho sự phát triển của ngành công
nghiệp hóa chất. Sau ngày nước Đức thống nhất, DeutscheBank trở thành ngân hàng quan trọng
nhất đối với cả chính phủ và doanh nghiệp. Họ có những đại diện ở cả doanh nghiệp cũng như
chính phủ đang làm việc trong ban giám đốc của ngân hàng. Trật tự được duy trì thông qua
những kênh nối từ ngân hàng với doanh nghiệp lớn, kiểm soát quyền bỏ phiếu và hoạt động của
các công ty.
- Đặc điểm về việc ra quyết định về các chính sách kinh doanh. Mục đích của việc này là
tạo cho người công nhân có tiếng nói trong các quyết sách chung. Khái niệm hợp tác cùng xác định
ra đời từ quá trình phát triển của chủ nghĩa nghiệp đoàn thương mại thế kỷ XIX. Nó gắn liền với ý
tưởng về một xã hội theo trật tự xã hội chủ nghĩa, điều này thấm nhuần vào suy nghĩ của các
nghiệp đoàn thương mại Đức thời đó.
Quá trình hợp tác cùng xác định diễn ra theo hai kết cấu - Ủy ban kiểm soát và Hội đồng
lao động. Ủy ban kiểm soát phải có từ 1/3 đến ≥ 1/2 số đại diện công nhân trong các doanh
nghiệp sử dụng từ 500 đến ≥ 2.000 công nhân. Đối với các công ty công, đại diện của công nhân
8


và nhà quản lý trong Ủy ban này phải ngang nhau; đối với công ty tư nhân số đại diện công nhân
phải bằng đại diện của nhà quản lý và có một đại diện trung lập khác. Ủy ban kiểm soát ra quyết
định đầu tư và các quyết sách dài hạn khác cho công ty. Là thành viên trong Ủy ban kiểm soát,
công nhân có tiếng nói nhất định đối với các vấn đề nhân sự, nhưng các vấn đề hoạt động của
công ty lại thuộc chức năng của những người quản lý.
Hoạt động ở cấp độ nhà máy, Hội đồng lao động có mặt ở hầu hết các doanh nghiệp Đức
và tham gia vào mọi vấn đề về đảm bảo điều kiện lao động. Bất cứ một quyết định thải hồi công

nhân nào cũng phải được trình lên Hội đồng này trước khi ra quyết định chính thức và Hội đồng
có thể can thiệp bằng cách đưa vấn đề này lên tòa án lao động để chống lại việc thải hồi. Hội
đồng này cũng giải quyết những quan tâm của người công nhân, như khi nhà máy đóng cửa hay
áp dụng quy trình sản xuất mới. Tuy nhiên họ không tham gia vào các quyết định đầu tư của chủ
hay can thiệp vào những giao dịch chuển giao vốn lớn trong doanh nghiệp; chức năng căn bản
nhất của họ vẫn là tạo cho người lao động những điều kiện làm việc tốt nhất. Trên một vài khía
cạnh, Hội đồng lao động còn quan trọng hơn Ủy ban giám sát vì họ gắn với công nhân hơn, nên
quan tâm đến những lợi ích sát sườn của công nhâ.
* Gải quyết vấn đề xã hội ở Đức
- Giáo dục hướng nghiệp: hệ thống giáo dục là một trong những điểm mạnh nhất của
người Đức, nó giúp tạo ra một lực lượng lao động kỹ năng cao, có khả năng tiếp nhận và sử dụng
những công nghệ hiện đại nhất. Lực lượng lao động Đức hàng năm còn có các chương trình đào
tạo nghề nghiệp cho khoảng một nửa số thanh thiếu niên Đức từ độ tuổi 15-19 trong khoảng 400
nghề chuyên môn khác nhau. Quá trình đào tạo thường được tiến hành với một ông chủ và được
chọn trước, kéo dài khoảng 2-3 năm. Ngoài ra còn có các khóa học ngắn hạn hoặc từ đầu dành
cho các công nhân có nhu cầu. Chi phí hàng năm cho các chương trình đào tạo dạy nghề đối với
các ngành công nghiệp là khoảng 35 tỷ DM (22 tỷ USD); kết quả cuối cùng là lực lượng lao
động được đào tạo tốt và nạn thất nghiệp đối với thanh niên là rất thấp. Nhờ thế, Đức là nước có
thị phần lớn nhất thế giới trong lĩnh vực trao đổi buôn bán các mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật cao.
- An sinh xã hội và các thước đo phúc lợi khác: Năm 1911, khi Sắc luật về bảo hiểm tổng
hợp đã thống nhất tất cả các chương trình bảo hiểm ở Đức lại với nhau thì tất cả công nhân Đức
đã được bảo hiểm khi không may bị bệnh tật hay tàn phế, mất khả năng lao động. Bảo hiểm thất
nghiệp đã được áp dụng ở Đức từ năm 1927. Các vấn đề liên quan tới chiến tranh là một bộ phận
quan trọng trong hệ thống phúc lợi xã hội của Đức. Trong đó, có các biện pháp khác nhau để
thiết lập và duy trì các trại chuyển giao và tiếp nhận người tị nạn. Các khoản trợ cấp sinh con
như cách gọi thông thường của người Đức (Kindergeld) không thuộc hệ thống bảo hiểm xã hội
và được tài trợ bởi nguồn thu ngoài ngân sách.
9



Các khoản chi tiêu dành cho mục đích an sinh xã hội nằm trong Ngân sách xã hội (Sozial
buget) và được quản lý bởi Chính phủ Liên bang nhưng tách hẳn khỏi Ngân sách Liên bang. hệ
thống an sinh xã hội được tài trợ từ các khoản thuế lương đối với cả chủ và các khoản thu chung
từ Ngân sách Liên bang. Vào năm 1997, tổng chi trả cho an sinh xã hội của Đức là khoảng 758
tỷ DM (348 tỷ USD), tương đương khoảng 24% GNP nước Đức.
* Đánh giá chung về nền kinh tế Đức
- Thành tựu kinh tế của Đức là tốt, nhất là trong thời kỳ ngay sau khi Chiến tranh thế giới
II kết thúc và kéo dài tới năm 1960. Những thành tựu này được hỗ trợ một phần nhờ kế hoạch
viện trợ Marshall của Mỹ và từ khoản chi tiêu của NATO. Chính sách kinh tế thời hậu chiến của
Đức xoay quanh sự kết hợp giữa tự do cá nhân và phúc lợi xã hội đặt trong khuôn khổ của một
nền kinh tế thị trường cạnh tranh. Các chương trình phúc lợi xã hội của Đức trở thành một trong
những hệ thống toàn diện, hiệu quả nhất châu Âu. Những khuyến khích về thuế được thiết kế để
kích thích đầu tư vào các doanh nghiệp Đức. Các chính sách tài khóa và tiền tệ của Đức sau
chiến tranh được thực hiện theo hướng nhằm nâng cao sản xuất. Nền kinh tế thị trường xã hội
Đức có từ sau Chiến tranh thế giới II vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
- Nền kinh tế Đức có những điểm mạnh riêng và trở thành nền kinh tế bá chủ trong Liên
minh châu Âu. Chính sách tiền tệ dựa vào lý thuyết mà chính Deutsche Bank đã theo đuổi trong
suốt 40 năm qua là tập trung vào mục tiêu ổn định giá cả. Nước Đức rất mạnh trong các ngành
chế tạo động cơ ôtô, hóa chất, dệt may và công nghiệp cơ khí. Ngoài ra, còn lợi thế so sánh về
sản xuất các sản phẩm quang học và các hàng hóa gia dụng (gốm sứ và trang thiết bị gia
dụng…). Các ngân hàng của Đức nằm trong số những ngân hàng có tính cạnh tranh nhất thế
giới. Những tác động dài hạn của EU tới Đức là tích cực vì Đức nằm ở trung tâm châu Âu. Bất
chấp hai cuộc Chiến tranh thế giới với những thảm họa đã tàn phá nền kinh và con người Đức,
nước Đức đã phát triển mạnh trong thế kỷ XX.
- Điểm yếu của nền kinh tế Đức là nạn thất nghiệp. Nhiều năm kể từ ngày tái thống nhất
đất nước, tỷ lệ thất nghiệp vẫn rất cao, nhất là ở Đông Đức và đối với phụ nữ. Cấu trúc thất
nghiệp đã thay đổi, thất nghiệp dài hạn tăng dần khi những công nhân lớn tuổi là đối tượng thất
nghiệp chủ yếu. Ngoài ra, cũng phải kể đến hiện tượng “thất nghiệp ngầm” bao gồm những
người phải về hưu sớm.
Dân số già và cơ cấu tuổi là vấn đề lớn của nước Đức. Cùng với sự gia tăng về tuổi tác

dân số, lực lượng lao động của Đức sẽ sụt giảm, tỷ lệ chết cao hơn tỷ lệ sinh. Ngoài ra, khi quá
trình thống nhất đất nước diễn ra đã buộc phải chấp nhận hàng triệu người Đông Đức đang được
hưởng trợ cấp - những người vốn không thực hiện nghĩa vụ với hệ thống an sinh xã hội Tây Đức.
- Đức là một siêu cường kinh tế có vai trò quan trọng ở châu Âu trong thế kỷ XX, và sẽ
10


tiếp tục vai trò đó cho dù chỉ là một thành viên của EU. Nước Đức có vai trò quyết định đối với
các chính sách tiền tệ của EU. Đức là quốc gia đứng thứ hai thế giới về kim ngạch ngoại thương.
Sức mạnh của nền kinh tế Đức nằm trong những chương trình đào tạo hướng nghiệp dạy nghề
chất lượng cao và hệ thống giáo dục hoàn thiện, đây là nhân tố quyết định sự phát triển các
ngành công nghệ kỹ thuật cao và nâng cao mức sống. Điểm yếu rõ nhất trong nền kinh tế Đức là
hệ thống luật lệ, quy tắc chưa hiệu quả và hoàn thiện, nhất là trong khu vực dịch vụ; dân số đang
già đi nhanh chóng và gánh nặng từ những chi phí phúc lợi xã hội đang ngày một tăng lên.
1.4. Mô hình kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi Thụy Điển.
Mô hình Thụy Điển là mô hình tăng trưởng gắn với thực hiện công bằng. Trải qua sự
thách thức hơn hai thập kỷ trước thập kỷ 1970, nền kinh tế Thụy Điển đã nhận được nhiều sự
thán phục, được xem như “con đường trung gian” của cải cách và thay đổi thể chế.
Vai trò nhà nước tác động tới phân phối được đánh giá cao. Tuy khu vực tư nhân chi phối
lĩnh vực sản xuất, nhưng trong lĩnh vực phân phối sản phẩm thì nhà nước lại có vai trò chi phối
thông qua chi tiêu chính phủ. Vào những năm 1980, tổng chi tiêu của Chính phủ chiếm 40,8%
GNP (Hoa Kỳ 22,9%). Trong đó, cơ cấu chi tiêu của chính phủ chủ yếu cho nhà ở, tiện nghi công
cộng, bảo hiểm xã hội, phúc lợi - chiếm 54,2% tổng chi tiêu chính phủ vào năm 1988 (nhiều hơn
20% so với những khoản mục tương ứng trong chi tiêu của chính phủ Hoa Kỳ); chi tiêu cho giáo
dục cũng chiếm tỷ lệ lớn hơn, còn chi tiêu quốc phòng thì có tỷ lệ giảm đi; trái lại, chi tiêu y tế
chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn 1,1% (Hoa Kỳ 12,5%).
Các chương trình chính phủ được tài trợ chủ yếu từ các khoản thuế, năm 1988 tổng
doanh thu thuế chiếm 42,9% GNP (Hoa Kỳ 19,7% và Anh 36,4%). Cơ cấu các nguồn thu cũng
khác nhau đáng kể: cũng năm 1988, thuế từ thu nhập, lợi nhuận và vốn chiếm 17,8% doanh thu
của chính phủ trung ương (Hoa Kỳ 51,5%), đóng góp từ bảo hiểm xã hội chiếm tỷ lệ cao. Tuy

nhiên, Thụy Điển dựa chủ yếu vào các khoản thuế đánh vào hàng hóa và dịch vụ - số thu này
chiếm 29% doanh thu của chính phủ trung ương (Hoa Kỳ 3,6%). Tác động của nhà nước phúc
lợi tới tái phân phối thu nhập được thể hiện thông qua phân phối thu nhập thực tế giữa các nhóm
dân cư: vào giữa những năm 1980, 20% số hộ có thu nhập thấp nhất ở Thụy Điển nhận được 8%
tổng thu nhập của tất cả các hộ gia đình, trong khi 20% số hộ có thu nhập cao nhất nhận được
26,9% tổng số thu nhập (Hoa Kỳ, tương ứng là 4,7% và 41,9%).
Tuy Thụy Điển vẫn là nền kinh tế thị trường dựa trên sở hữu tư nhân, nhưng do Nhà nước
thực hiện vai trò như là cơ quan tái phân phối thu nhập, nên có những thay đổi quan trọng và bản
chất của nó cũng trở nên phức tạp, Thụy Điển đề cao quan điểm về môi trường, dựa vào nhập
khẩu nguyên liệu, có nguồn lực lao động được giáo dục cao, do đó, đã hình thành một cơ cấu sản
xuất và chính sách kinh tế phù hợp với các nguồn lực trên. Cốt lõi của mô hình Thụy Điển là
11


khung cảnh của một nền dân chủ xã hội, trong đó có sự bổ sung và hợp tác thay cho cạnh tranh
xã hội, các mục tiêu và quan điểm của dân chúng đạt được sự thống nhất thông qua việc tham dự
vào những tổ chức đoàn thể như công đoàn, hiệp hội và các tổ chức khác. Thông tin thị trường
được phân bố sao cho có thể mang lại lợi ích xã hội cho tất cả mọi người, ví dụ, thị trường lao
động phát triển và hoạt động hiệu quả, với việc áp dụng các hình thức hợp đồng lao động tập thể
toàn ngành. Người lao động có thể tham gia vào quản lý doanh nghiệp và sở hữu thông qua các
quỹ đầu tư của mình – một cơ chế chuyển lợi nhuận thành sở hữu của người lao động. Nhà nước
còn có vai trò tích cực thông qua cac công cụ truyền thống như chính sách tài khóa và tiền tệ.
Thụy Điển đảm bảo phân phối thu nhập công bằng chủ yếu thông qua các hình thức chuyển giao
về hưu trí, y tế, giáo dục và các khoản tương tự, cùng với cam kết về việc làm đầy đủ đã tạo ra
một môi trường xã hội ổn định cho phát triển kinh tế.
Vào những năm 70 của thế kỷ XX, các nền kinh tế trên thế giới đều gặp khó khăn do tác
động của cuộc khủng hoảng dầu lửa. Nền kinh tế Thụy Điển cũng không ngoại lệ. Chi phí sản
xuất trong nước tăng lên, năng suất giảm sút. Khó khăn về kinh tế thực sự là một thách thức lớn
đối với mô hình nhà nước phúc lợi. Duy trì mức sống tăng cao như trước đây trong hoàn cảnh
kinh tế khó khăn là điều không thể. Hơn nữa, sự can thiệp quá nhiều của Nhà nước vào phân

phối đã làm giảm sự hấp dẫn của đầu tư, bất lợi cho các xí nghiệp tham gia cạnh tranh quốc tế,
tạo ra mức thất nghiệp cao có tính chất nhân tạo. Tình hình này đã buộc Đảng cầm quyền ở Thụy
Điển phải điều chỉnh các chính sách cho hợp lý.
Vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, chính phủ đã hạ tỷ lệ thuế thu nhập cá nhân: từ
mức cao nhất 70% trước đây xuống dưới 50%, thuế suất danh nghĩa của xí nghiệp cũng từ 56%
hạ xuống 28%; bên cạnh đó là điều chỉnh mạnh chính sách phúc lợi xã hội, ví như mức bù bảo
hiểm xã hội từ 80% xuống còn 75%. Những điều chỉnh này nhằm đảm bảo phù hợp với điều kiện
kinh tế. Nhìn chung nỗ lực của chính phủ là bảo vệ chế độ phúc lợi, nhấn mạnh những nhu cầu cơ
bản của dân chúng như khám chữa bệnh, giáo dục và hỗ trợ người già, trẻ nhỏ…không để cơ chế
thị trường chi phối.
Để phát triển kinh tế, chính phủ đã đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, cải cách cơ cấu kinh
tế. Chính phủ ra sức tài trợ ngành công nghệ thông tin và các ngành sản xuất kỹ thuật cao phát
triển. Nhờ những điều chỉnh về chính sách nên từ năm 1995 đến năm 2000, GDP của Thụy Điển
bình quân hàng năm tăng 3%, lạm phát giảm xuống dưới 2% và tỷ lệ thất nghiệp cũng giảm một
nửa. Trên cơ sở phát triển kinh tế, từ năm 1988 chính phủ quyết định điều chỉnh mức trợ cấp bảo
hiểm xã hội trở lại mức 80%, khôi phục hoàn toàn bộ phúc lợi, nâng tiền dưỡng lão, bổ sung tiền
nghỉ hưu sớm, phụ cấp trẻ em, phụ cấp nhà ở… Đời sống của người dân lao động được nâng lên,
tuy nhiên khoảng cách giàu nghèo so với trước đây có xu hướng nới rộng. Ví dụ, năm 2000 thu
12


nhập thực tế của gia đình công nhân Thụy Điển chỉ tăng 4,2% nhưng của gia đình viên chức cao
cấp tăng 11,1%.
2. Các đặc trưng và xu hướng vận động của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
hiện đại
Nghiên cứu nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại, nhất là trong những thập
niên cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI cho thấy rằng, khác với kinh tế thị trường truyền thống,
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại nổi trội bởi những đặc trưng, xu hướng vận động
mang tính chi phối toàn cầu.
1.1. Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế

* Xu thế toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế là khách quan, nó biểu hiện sự phát
triển cao của xã hội hóa sản xuất vượt khỏi phạm vi quốc gia, dân tộc. Dưới tác động của xu thế
này, nền kinh tế thế giới hơn bao giờ hết đang trở thành một chỉnh thể hữu cơ liên kết chặt chẽ
các nền kinh tế khu vực và dân tộc, một hệ thống chung toàn cầu bao gồm các bộ phận hợp thành
có cơ cấu và lôgic riêng; mặt khác, trong điều kiện hợp tác và phân công lao động quốc tế ngày
càng sâu rộng, thế giới bắt buộc phải tiến hành các hoạt động kinh tế với sự chế ước và liên hệ
qua lại chặt chẽ, tuân theo luật chơi chung của kinh tế thị trường.
* Động lực toàn cầu hóa kinh tế là mở rộng sản xuất, thương mại, dịch vụ và đặc biệt là
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việc mở rộng này nhằm đáp ứng với các công nghệ đang thay
đổi, làm giảm chi phí vận chuyển và thông tin liên lạc, tạo điều kiện khuếch trương sản xuất và
tiếp thị trên toàn thế giới. Vào giữa thế kỷ XIX trên thế giới còn phổ biến các nền sản xuất địa
phương, khoảng 90% hàng hóa và dịch vụ được chế tạo bằng nguyên vật liệu tại chỗ, trong vòng
bán kính 150 km và cũng trong bán kính này mà người ta bán các sản phẩm làm ra. Trái lại, ngày
nay một nước công nghiệp phát triển có không dưới một nửa số sản phẩm được các công ty con
hoặc chi nhánh đặt ở nước ngoài làm ra, đồng thời có chừng ấy tỷ lệ nguyên vật liệu được nhập
khẩu hay sản xuất ở bên ngoài quốc gia.
* Toàn cầu hóa kinh tế được đẩy nhanh bởi quốc tế hóa sản xuất dưới tác động tích cực đi
tiên phong của các công ty xuyên quốc gia. Ba trung tâm kinh tế lớn là Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản
chiếm 75% mức sản xuất thế giới và các công ty xuyên quốc gia của chúng chiếm 80% sản
lượng của tất cả các công ty xuyên quốc gia toàn cầu. Nếu như vào năm 1995 thế giới có khoảng
40 nghìn công ty xuyên quốc gia với giá trị sản lượng hàng hóa tạo ra là 3.000 tỷ USD, thì hiện
nay đã tăng lên hơn 60.000 công ty xuyên quốc gia với giá trị sản lượng hàng hóa tạo ra là
4.5000 tỷ USD, tương đương 45% GDP của Mỹ.
Các công ty xuyên quốc gia tràn ngập khắp các hành tinh bằng các dòng FDI, tạo ra các
vùng kinh tế tự do và các xí nghiệp hỗn hợp, đặt hàng trăm nghìn chi nhánh đại diện hay các
13


công ty con ở nước ngoài. Hơn nữa, nhờ hoạt động mang tính toàn cầu, các công ty xuyên quốc
gia có những ưu thế đặc biệt như: lưu chuyển tư bản nhanh chóng toàn cầu, tiết kiệm thời gian

sản xuất và các dự trữ sản xuất; điều phối và giảm thiểu tối đa công suất thừa không sử dụng
giữa các nước, do đó kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm hay vòng đời của công nghệ - những
công nghệ lạc hậu ở chính quốc có thể được chuyển sang cho các nước ngoại vi; hơn nữa, làm
cho sản phẩm toàn cầu có thể thích ứng với nhu cầu dị biệt của mỗi vùng hay địa phương. Ngoài
ra, các công ty xuyên quốc gia còn thực hiện quốc tế hóa mạng lưới sản xuất của mình nhằm
khai thác tính kinh tế theo quy mô, các hệ thống tri thức và quản lý độc quyền để tận dụng tối đa
cơ hội phân bố các công đoạn sản xuất và tiếp thị giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc tiết kiệm
chi phí.
* Toàn cầu hóa có những đặc điểm đáng lưu ý:
- Sự phát triển nhanh chóng các quan hệ kinh tế - thương mại và chu chuyển hàng hóa và
dịch vụ trên phạm vi toàn cầu; trong đó, tốc độ chu chuyển thương mại thời kỳ đầu dần dần được
thay bằng sự gia tăng nhanh chóng chu chuyển các dòng FDI và tự do hoá thị trường tài chính toàn
cầu. Ngày nay giá trị thương mại toàn cầu đã tăng 12 lần so với hồi thế kỷ XX, còn thị trường tư bản
quốc tế đạt mức luân chuyển vốn khổng lồ 300.000 tỷ USD, song cũng tiềm ẩn nguy cơ rơi vào các
“bong bóng tài chính”.
- Quản lý vĩ mô toàn cầu dưới sự hỗ trợ của công nghệ thông tin trở thành yếu tố quyết
định và không thể thiếu đối với phát triển.
- Thủ tiêu tình trạng thế giới cô lập, đóng kín và bị chia cắt, buộc các nền kinh tế dân tộc
phải mở cửa, hội nhập với gia tốc rất nhanh; mọi chủ thể quốc gia, dân tộc nếu muốn tồn tại và
phát triển buộc phải cùng tham gia vào “một sân chơi” theo “một luật chơi” chung.
- Trong nền kinh tế toàn cầu có ít nhất 4 chủ thể tham gia chế định chính sách: ngoài các
quốc gia có chủ quyền và các công ty xuyên quốc gia, còn có các khối kinh tế khu vực, và đặc
biệt là các thể chế kinh tế quốc tế có ảnh hưởng toàn cầu như WTO, WB, IMF. Các tổ chức phi
chính phủ ngày càng có vai trò tích cực đối với đời sống kinh tế - chính trị thế giới và đóng góp
tiếng nói vào các quyết sách chung, làm cho nguyện vọng của nhân dân và dân chủ được chú ý.
- Cuối cùng, song song với toàn cầu hóa là xu hướng khu vực hóa và liên kết khu vực
được đẩy mạnh, nói cách khác, chúng ta sẽ đi tới nền kinh tế toàn cầu thông qua các liên kết khu
vực. Trên khắp các đại lục hình thành những khối kinh tế và các cơ cấu thương mại vùng như
EEC, ASEAN, OECD; đồng thời cũng tạo ra các tổ chức theo vùng như EU, ADB; các hiệp định
thương mại đa phương được ký kết như AFTA, NAFTA…Trên nền kinh tế thế giới đang diễn ra

2 quá trình song song là toàn cầu hóa và khu vực hóa, chúng gắn kết và bổ sung cho nhau, đem
lại cho hành tinh một không gian kinh tế thống nhất. Đây chính là điểm khác biệt của thị trường
14


thế giới hiện đại so với trước đây, khi mà các liên hệ kinh tế chủ yếu chỉ dựa trên cơ sở thỏa
thuận song phương.
* Mặt tích cực và tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế
- Toàn cầu hóa kinh tế đang mở ra cơ hội đối với mọi quốc gia, nhất là các nước đang
phát triển. Nó thúc đẩy xã hội hóa sản xuất và không ngừng mở rộng thị trường thế giới (thị
trường tiền tệ, vốn quốc tế và ngoại hối, dịch vụ lao động – việc làm, khoa học công nghệ và
bằng sáng chế, công nghệ thông tin và công nghệ cao, hàng hóa và dịch vụ chất lượng cao,
thương mại điện tử qua mạng…) với kết cấu nhiều tầng nấc nhưng thống nhất trên quy mô toàn
cầu. Truyền bá các thành tựu phát triển làm các quốc gia xích lại gần nhau, thúc đẩy cải cách sâu
rộng nền kinh tế của mỗi nước cuốn vào quỹ đạo phát triển kinh tế thị trường và cuối cùng, tạo ra
khả năng và yêu cầu phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách tụt hậu.
- Toàn cầu hóa kinh tế vừa tăng cường sự phụ thuộc lại vừa khoét sâu các mâu thuẫn của
thế giới, buộc loài người phải tìm ra các giải pháp mang tính toàn cầu cho các vấn đề nóng bỏng
như: nguy cơ cạn kiệt các nguồn tài nguyên không thể tái sinh, mất cân bằng sinh thái, đói nghèo
và bất ổn định xã hội, chiến tranh và thảm họa hạt nhân…Gây ra không ít bất lợi cho các nước
chậm phát triển do TCH KT bị chi phối bởi luật chơi của nước giàu áp đặt cho nước nghèo, làm
gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Hay nói như một nhận xét: duy trì vùng ngoại vi lạc hậu và
phụ thuộc, bóc lột ngoại vi để dồn váng mỡ lợi nhuận về nuôi béo vùng trung tâm. Các nước
công nghiệp phát triển hiện dành 350 tỷ USD mỗi năm để trợ cấp cho nông dân nước họ, gấp 7
lần tổng số tiền viện trợ quốc tế cho các nước nghèo. 1 Trên thế giới hiện có khoảng 1,2 tỷ người
sống dưới mức nghèo khổ với thu nhập dưới 1 USD/người/ngày. Nguyên nhân chủ yếu là do
chính sách trợ cấp nông nghiệp trên và sự hạn chế nông phẩm của nước nghèo tiếp cận thị trường
nước giàu. Chính vì vậy, các nước châu Á có xu hướng tăng cường trao đổi thương mại nội khối,
chống lại bảo hộ mậu dịch của các nước giàu. Phong trào phản đối toàn cầu hóa trên thế giới
cũng bắt nguồn từ những mâu thuẫn trên đây của chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Quan hệ phân công

và trao đổi bất bình đẳng. Trong đó, các nước đang phát triển tham gia vào hệ thống phân công
chung với tư cách là những quốc gia nông nghiệp, chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm sơ cấp,
nguyên liệu hay khoáng sản. Trái lại, các nước phát triển tham gia vào hệ thống này như là
những quốc gia công nghiệp, chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm chế tạo hay chế biến cao cấp chứa
hàm lượng khoa học công nghệ và giá trị gia tăng cao. Theo đó, cũng bộc lộ mâu thuẫn nan giải
của quan hệ kinh tế Bắc – Nam dựa trên trao đổi bất bình đẳng giữa các nước công nghiệp và các
1

Ngày 27-7-2004, tổ chức WTO nhóm họp thông qua quết định lịch sử: bãi bỏ trợ giá hàng nông sản và mở cửa thị
trường rộng lớn của các nước giàu đối với hàng nông sản của các nước nghèo. Tuy nhiên, để quyết định có hiệu lực
và thực thi trên thực tế cũng còn cả một chặng đường dài.

15


quốc gia nông nghiệp hay sự chênh lệch giá cả cánh kéo giữa hàng công nghiệp và hàng nông
nghiệp, dẫn tới gia tăng áp lực nhập siêu mậu dịch và cản trở sự phát triển kinh tế của các nước
phương Nam. Vì thế, người ta quy tình trạng nghèo đói hiện nay cho các nước giàu và đấu tranh
đòi phải xóa nợ cho các nước nghèo. Các tập đoàn xuyên quốc gia luôn tìm cách thao túng chính
sách, đặt ra những điều kiện ràng buộc khi tiếp nhận đầu tư, khống chế nghiêm ngặt việc chuyển
giao công nghệ, trong khi đầu tư ra ngoài thì 90% công việc nghiên cứu và phát triển (R&D)
được tiến hành tại nước gốc và giữ lại bí mật công nghệ nguồn.
Việt Nam tham gia vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế cần lường hết
những thuận lợi và khó khăn, mặt tích cực và tiêu cực, thời cơ và cả những thách thức không nhỏ
đang chờ đợi. Chúng ta cần biết tranh thủ tối đa ưu thế của người đi sau, phát huy thuận lợi và
hạn chế bất lợi; biết tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm trên thế giới, cân nhắc kỹ lưỡng những
điều kiện cụ thể của dân tộc để định ra một đường lối mềm dẻo, khôn ngoan trong thế giới đang
chuyển đổi và toàn cầu hóa để có thể đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh”.
2.1. Phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại dựa trên tiến bộ khoa học

và công nghệ
* Không thể phủ nhận kinh tế thị trường có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy áp dụng tiến
bộ khoa học và công nghệ, hiện đại hóa nền sản xuất và do đó, phát triển xã hội hóa các lực
lượng sản xuất. Kinh tế thị trường xét về bản chất là phương thức kinh tế tích lũy, kinh tế tăng
trưởng, do đó, luôn cách mạng hóa ngay chính trong cơ sở công nghệ - kỹ thuật của mình. Theo
C. Mác, cải tiến công nghệ - kỹ thuật và công nghiệp hóa không có gì khác hơn là những thủ
đoạn và phương pháp tạo ra giá trị thặng dư cho tư bản. Chủ nghĩa tư bản thông qua kinh tế thị
trường đã hơn một lần thực hiện xuất sắc vai trò lịch sử đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất để
chuyển xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp dựa trên cơ sở trang bị cơ giới hóa cho nền
sản xuất như tên gọi - chủ nghĩa tư bản đại công nghiệp cơ khí. Ngày nay chúng ta chứng kiến
một lần nữa chủ nghĩa tư bản đang thực hiện việc chuyển xã hội công nghiệp sang xã hội dựa
trên cơ sở tri thức, thông tin.
* Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp do sự bùng nổ của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ mới. Với đặc điểm là phát triển lý luận, nghiên cứu cơ bản gắn kết với
nghiên cứu ứng dụng; rút ngắn thời gian từ nhiên cứu - thí nghiệm đến ứng dụng công nghệ - sản
xuất; gắn kết hữu cơ giữa nghiên cứu khoa học, sản xuất và thương mại hóa sản phẩm; nó liên hệ
tới hầu hết các ngành, lĩnh vực công nghệ và thúc đẩy sự ra đời hàng loạt những ngành mới; cuối
cùng, cải tạo lại những ngành cũ hay còn gọi là “tái công nghiệp hóa” và hình thành những
ngành mới có giá trị gia tăng cao, chứa hàm lượng tri thức và tỷ lệ R&D lớn trong sản phẩm.
16


Tổng hợp nhiều ngành như vậy sẽ hình thành kinh tế tri thức – đó là nhờ vào 4 trụ cột công nghệ
cao: công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới và công nghệ thông
tin. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới trong xu thế TCH đã thúc đẩy sự hình thành
không chỉ các lực lượng sản xuất hùng mạnh của từng quốc gia mà còn mang tính chất toàn cầu.
* Một phương diện quan trọng khác của phát triển lực lượng sản xuất là làm thay đổi cấu
tạo hữu cơ của tư bản. Nếu như quá trình công nghiệp hóa cổ điển đã làm tăng một cách phổ
biến tư bản bất biến (C) - vốn đầu tư vào máy móc và thiết bị so với yếu tố khác trong nền sản
xuất, thì dự báo phát triển kinh tế tri thức sẽ chuyển sang giai đoạn tăng một cách phổ biến tư

bản khả biến (V) – vốn đầu tư vào con người và giáo dục, đào tạo so với các yếu tố sản xuất
khác. Khuynh hướng này đã xuất hiện ở một số nước công nghiệp hàng đầu. Theo số liệu thống
kê ở nước Mỹ trong những năm 90 thế kỷ XX, phát triển lực lượng sản xuất và chuyển dịch cơ
cấu nền kinh tế đã đạt ngưỡng thay đổi về chất: tổng gía trị tư bản đầu tư vào con người đã vượt
tổng giá trị tư bản đầu tư vào các phương tiện vật chất.
Kết luận rút ra là: nên chăng Việt Nam – quốc gia đã đi sau cần nghiên cứu, tham khảo
kinh nghiệm quốc tế và biết tranh thủ tối đa các yếu tố phát triển phi cổ điển mà thời đại đang tạo
ra ? Cần chủ động xây dựng các cơ chế - chính sách phát triển thích hợp, có chính sách về khoa
học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, trọng dụng nhân tài. Vì nguồn lực chủ yếu, nguồn vốn
của chúng ta hạn chế, nên phải đầu tư tập trung và thông minh, mà cách hiệu quả là đầu tư cho
giáo dục, khoa học và chuyển giao công nghệ. Hướng đi này sẽ tạo ra tiền đề cho sự phát triển
nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đó chính là đặc trưng của sự phát triển lực lượng sản xuất
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ nghĩa.
2.3. Xã hội hóa các quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa
Xã hội hóa tư bản chủ nghĩa hiện đại có những đặc trưng nổi bật: trước hết, mở rộng tất
cả các hình thức xã hội hóa theo quan niệm mácxit, và thứ hai, phát triển các hình thức sở hữu
hỗn hợp đa dạng. Ở các nước phát triển đang hình thành năm khuynh hướng xã hội hóa chủ yếu:
Thứ nhất, kế hoạch hóa phát triển kinh tế và cùng với nó là vai trò điều chỉnh vĩ mô của
Nhà nước ngày càng tăng lên;
Thứ hai, phân phối lại thu nhập quốc dân một cách phổ biến và với quy mô lớn, có tính tới lợi ích
của người lao động nhằm hòa dịu các xung đột xã hội trong chủ nghĩa tư bản;
Thứ ba, bên cạnh hình thái sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa truyền thống, đã phát triển sở
hữu hỗn hợp với các hình thức sở hữu xã hội và sở hữu nhà nước;
Thứ tư, kinh doanh tập thể dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau của tập thể lao động;
Thứ năm, phát triển kinh doanh cá thể dựa trên sự hợp tác của các chủ thể kinh tế riêng,
ví dụ như hình thành các hợp tác xã trang trại, tín dụng và dịch vụ, sửa chữa máy móc – kỹ
17


thuật…

Đặc biệt đáng lưu ý là các khuynh hướng xã hội hóa quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa. Đó
là việc phát triển rộng rãi các hình thức sở hữu tư bản cổ phần của các công ty và tập đoàn dưới
những dạng khác nhau và với sự tham gia của các tư bản lớn – nhỏ, độc quyền – không độc
quyền, nhà nước, các tổ chức xã hội và dân cư. Cùng với điều này, đã diễn ra quá trình phi nhân
cách hóa các tư bản lớn. Chúng ta thấy ngày càng ít xuất hiện gương mặt cụ thể của những nhà
đầu tư tư nhân – thể nhân trong các công ty tập đoàn, thay vào đó là các nhà tư bản tập thể (hay
xã hội) – pháp nhân, với cơ cấu gồm các tổ chức xã hội và dân cư (như các quỹ hưu trí, các ngân
hàng, công ty tài chính, bảo hiểm… mà vốn góp của nó rốt cuộc lại do tiền gửi của dân cấu
thành). Vid dụ, hiện nay ở Mỹ tổng đầu tư tư bản cổ phần của các pháp nhân đã ngang bằng đầu
tư cổ phần của các hộ gia đình (50:50). Trong các pháp nhân, cổ phần của quỹ đầu tư tương hỗ
chiếm 5,2%, ngân hàng ủy thác đầu tư chiếm 3,2% và các công ty bảo hiểm nhân thọ chiếm
2,7%1.
Mặt khác, có sự chuyên môn hóa và tách rời một cách phổ biến các mặt của quan hệ sở
hữu – giữa quyền chiếm hữu với các quyền sử dụng, quản lý và định đoạt tài sản. Trên thực tế,
người quản lý – điều hành công ty tư bản chủ nghĩa lúc này không phải là nhà tư bản – các cổ
đông của xí nghiệp, mà lại là các giám đốc và ban giám đốc – những nhà quản lý chuyên nghiệp
được thuê và trả lương cũng giống như các công nhân làm thuê. Còn người sở hữu (nhà tư bản
và các cổ đông) đã chuyển nhượng quyền sử dụng, định đoạt để nhận một khoản thu nhập nhất
định giống như lợi tức, do đó, thực tế họ đã chuyển quyền quản lý vào những bàn tay khác. Theo
điều tra trong 44% các công ty và tập đoàn Nhật Bản cho thấy, các giám đốc điều hành chỉ chiếm
giữ 0,1% tư bản cổ phần của chính xí nghiệp mà mình quản lý2.
Đồng thời, diễn ra các quá trình hữu sản hóa người lao động, dân cư và hình thành tầng
lớp đông đảo những người sở hữu nhỏ và trung. Trước hết, cùng với sự xuất hiện kinh tế tri thức
và sở hữu trí tuệ, giới lao động cổ cồn và các nhà khoa học cũng ngày càng giữ vai trò chủ thể
quyết định đối với tiến bộ kinh tế - xã hội, mà ở đây sự chiếm hữu trí tuệ trực tiếp là điều kiện
tiên quyết cho hoạt động sáng tạo. Nhờ vào vốn tài sản – trí tuệ của mình mà các nhà khoa học,
các chuyên gia làm thuê trong phòng thí nghiệm của những công ty và giảng dạy tại các trường
đại học có thể độc lập ký kết hợp đồng với nhiều cơ quan khác, họ còn sở hữu những cổ phiếu và
thậm chí kiêm nhiệm cả những hoạt động kinh doanh riêng. Như đã biết, hình thức sở hữu phi
vật thể - trí tuệ ngày càng có tâm quan trọng so với hình thức sở hữu vật thể - tư liệu sản xuất

1

1. Đỗ Lộc Diệp: Chủ nghĩa tư bản ngày nay: những nét mới từ thực tiễn Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2002, tr. 76-77.
2
2. X. Motrernưi: “Sở hữu và đặc điểm phát triển của nó trong các nước phát triển trên thế giới, Tạp chí Kinh tế
Ucraina, Số 4-1994.

18


hay tài chính. Điều này cùng với việc chuyên môn hóa sở hữu, tách rời tư bản sở hữu khỏi tư bản
chức năng, đã làm cho hình thía sở hữu tư bản vật thể cũng như quyền sở hữu tư bản chủ nghĩa
nói chung ngày càng mang tính thực lợi.
Ngoài ra, chúng ta còn thấy sự tham gia ngày càng đông đảo của dân cư trực tiếp mua cổ
phần tại doanh nghiệp hoặc gián tiếp thông qua các quỹ xã hội và các tổ chức đầu tư. Vào những
năm 2000 ở Hoa Kỳ ước tính có 80 triệu người dân mua cổ phần vốn đầu tư các tập đoàn, chiếm
30% dân cư hay 45% hộ gia đình trên toàn nước Mỹ. Theo một điều tra 9.000 công ty (trong số
hàng triệu công ty nhỏ và trung ở Hoa KỲ), cho thấy người lao động chiếm giữ 20-30% cổ phần
xí nghiệp. Ở nhiều xí nghiệp Hoa Kỳ, nhân viên hành chính và người lao động chiếm tới 70% cổ
phiếu , thậm chí như Hãng United Airline vào năm 1995 có 78.000 người lao động đã mua phần
lớn cổ phiếu của công ty1.
Bên cạnh đó, hình thức sở hữu cổ phần của tập thể những người lao động trong chính xí
nghiệp tư bản chủ nghĩa được đánh giá là quan trọng và rất có triển vọng. Công ty ESOP ở Mỹ
có tới 500 xí nghiệp lớn và vừa thuộc quyền quản lý của các tập thể lao động. Hình thức khác
nữa của sở hữu tập thể lao động là liên đoàn, hiệp hội, liên hiệp hợp tác. Các xí nghiệp tập thể có
ưu thế hơn hẳn so với các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa thuần túy: năng suất lao động gấp 2 lần, lợi
nhuận gấp 1,5 lần, tạo thêm chỗ làm việc nhiều hơn gấp 3 lần. Hiện nay các hình thức sở hữu tập
thể chiếm tới 10% cơ cấu kinh tế quốc dân các nước tư bản chủ nghĩa phát triển2.
Rõ ràng, sở hữu cổ phần của tập thể lao động cho phép dân chủ hóa các quan hệ kinh tế

và quản lý trong những giới hạn của xã hội tư bản, nâng cao tính tích cực của các chủ thể khác
nhau đang tham gia vào quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa (từ người sở hữu – chủ tư bản, nhà
quản lý – kinh doanh cho tới người lao động). Đặc biệt, nó cho phép khắc phục sự xa lạ cố hữu
của phương thức kết hợp tư bản chủ nghĩa truyền thống (lao động làm thuê + tư liệu sản xuất),
cũng như khắc phục sự xã hội hóa hình thức về tư liệu sản xuất dưới chủ nghĩa xã hội hiện thực
trước đây. Nó cũng làm giảm thu nhập của các tư bản cá biệt trong tổng thu nhập xã hội và han
chế bất bình đẳng xã hội; thúc đẩy tích tụ và tập hợp tư bản mà vẫn có thể giảm các mâu thuẫn
và trục đối kháng lợi ích tư bản và lao động. Chính logic nội tại của sự phát triển sản xuất dưới
chủ nghĩa tư bản đã kích thích các quá trình xã hội hóa đạt tới đỉnh cao ở hình thái tư bản tập thể
và cổ phần3.
1

1. Đ. Blađi: Những người sở hữu mới ở Mỹ (tiếng Nga), Nxb. Kinh tế Mátxcơva, 1995, tr. 6-7.
2. Theo GS. TS. I. Plenhicôp, tạp chí Đối thoại, tiếng Nga, Mátxcơva, số 5, tháng 7-2000.
3
1. C. Mac đã có nhận xét về sự hợp tác lao động của công nhân và xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa: “Trong các
công ty cổ phần, chức năng tư bản tách rời với quyền sở hữu tư bản; và dó đó lao động cũng vậy, nó hoàn toàn tách
rời với quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và về lao động thặng dư. Đó là kết quả của sự phát triển cao nhất của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa, là điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất,
nhưng không phải với tư cách là sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ nữa, mà với tư cách là sở hữu của
những người sản xuất liên hiệp, thành sở hữu xã hội trực tiếp. Mặt khác các công ty cổ phần cũng là điểm quá độ để
2

19


Xã hội hóa sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại là một hiện tượng mới, phức tạp. Nó được
giải thích theo những cách khác nhau tùy theo góc nhìn và lợi ích giai cấp mà các tác giả đại
diện. Có xu hướng giải thích xã hội hóa tư bản chủ nghĩa như sự hội tụ và thống nhất giữa chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội bằng cách kết hợp những điểm tích cực của cả hai mô hình

hoặc bằng cách bổ sung về kết cấu kinh tế giữa chúng. Nhưng lập luận này tỏ ra thiếu căn cứ,
nhất là từ khi chủ nghĩa xã hội hiện thực bị sụp đổ. Hiện nhiều học giả nghiêng về quan điểm
giải thích xã hội hóa như là sự tự phủ định biện chứng của chủ nghĩa tư bản. Từ đây, ra đời xã
hội mới với những nét định hướng xã hội chủ nghĩa được coi là kết quả tất yếu của quá trình xã
hội hóa tư bản chủ nghĩa.
Việt nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển hiện đại. Tuy nhiên, chúng ta cần nghiên cứu một cách
khoa học và tham khảo có điều kiện kinh nghiệm xã hội hóa trên thế giới, biết sử dụng những
hình thức xã hội hóa kinh tế và sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất và
truyền thống dân tộc. Cần phân biệt, lựa chọn và kết hợp các hình thức xã hội hóa phù hợp như:
tập thể hóa, cổ phần hóa đối với sở hữu tư nhân và nhà nước.

biến tất cả những chức năng của quá trình tái sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở hữu tư bản đơn giản thành
những chức năng của những người sản xuất liên hiệp, tức là thành những chức năng xã hội”. C. Mác và
Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.25, ph.I, tr. 668.

20



×