Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế tập bài GIẢNG LUẬT KINH tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.58 KB, 82 trang )

Chuyên đề 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT KINH TẾ
1. Sơ lược quá trình hình thành phát triển và khái quát chung về
pháp luật kinh tế, luật kinh tế
1.1. Sơ lược qúa trình hình thành phát triển pháp luật kinh tế và Luật
kinh tế
1.1.1. Pháp luật kinh tế Việt Nam trước năm 1945
Trong các triều đại phong kiến Việt Nam đã có các bộ luật như Bộ hình
thư (Triều Lý), Bộ Quốc triều thống chế (Triều Trần), Bộ Quốc triều hình luật
(triều Lê), Bộ Hoàng Việt luật lệ (triều Nguyễn). Cho đến nay, hai bộ luật thời
Lý, Trần không còn được lưu lại. Còn bộ Quốc triều hình luật và bộ Hoàng
Việt luật lệ, mặc dù nội dung nặng về hình sự nhưng ngoài những quy định về
luật hình sự, hai bộ luật này còn chứa đựng một số chế định của luật dân sự và
một số ngành luật khác và hai bộ luật cổ này có thể được coi như nguồn gốc
của dân luật Việt Nam.
Như vậy, các quy định của luật dân sự có từ thời phong kiến, còn pháp
luật kinh tế hầu như không được biết đến trong pháp luật Việt Nam thời
phong kiến. Điều đó có thể lý giải, là vì nền thương mại Việt Nam lúc bấy giờ
còn kém cỏi, chưa có gì phát triển đáng kể.
Đến thời Pháp thuộc ở nước ta mới xuất hiện những quy định, chế định
của luật kinh tế. Năm 1864 người Pháp đem Bộ luật thương mại của mình áp
dụng vào Nam Kỳ và Bộ luật đó cũng được áp dụng vào Bắc Kỳ năm 1888.
Bộ luật thương mại Pháp quy định về các vấn đề như thương gia và quyền
hạn nghĩa vụ của thương gia; về các hội buôn; về thương phiếu; về luật hàng
hải; về phá sản (khánh tận) và về tòa án thương mại. Năm 1892, Pháp ban
hành sắc lệnh quy định việc hành nghề thương mại của người Á Đông ngoại
quốc và người Việt Nam sinh sống tại các nhượng địa Pháp (Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng) thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật Pháp.
Theo tinh thần các văn bản kể trên, họat động thương mại của các thương
nhân trên lãnh thổ Việt Nam được điều chỉnh bằng pháp luật của Pháp, trong
trường hợp những người này có vi phạm thì được xét xử ở các tòa án Pháp và


theo pháp luật của Pháp.
Ngoài những văn bản đó, về sau còn có những văn bản khác quy định về
từng vấn đề cụ thể như: Đạo luật về bán và cầm cố cửa hàng thương mại năm
1909; Đạo luật về bảo vệ quyền sở hữu cửa hàng thương mại năm 1909; Đạo
luật về bảo vệ quyền sở hữu cửa hàng thương mại năm 1926; Luật về hối
phiếu, thương phiếu năm 1894, 1992, 1935; sắc luật về chi phiếu năm 1935.


Mãi đến năm 1942, triều đình Huế mới ban hành Bộ luật thương mại
Trung phần. Bộ luật này có nội dung cơ bản giống Bộ luật thương mại của
Pháp, có hiệu lực thi hành tại Trung bộ từ ngày 25/1/1944.
Sau cách mạng tháng Tám, trên cơ sở sắc lệnh 90/SL ngày 10/10/1945 và
sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa trong những năm đầu cách mạng, pháp luật về thương mại vẫn còn có
hiệu lực trừ những luật lệ trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và
chính thể cộng hòa.
Hòa bình lập lại (1954) đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai chế
độ chính trị khác nhau. Ở Miền Nam, chính phủ Việt Nam cộng hòa đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật về thương mại quan trọng. Chẳng hạn như: Luật
số 13/57 về nhãn hiệu thương mại; Luật số 12/57 về sáng chế; Nghị định số
92/BKT/CKN ngày 9/4/1968 và Nghị định số 406/BKT/ND ngày 11/10/1968
về danh sách các ngành nghề tiểu công nghệ…Quan trọng hơn hết trong pháp
luật thương mại của Việt Nam cộng hòa phải kể đến Bộ luật thương mại ban
hành ngày 20/12/1972. Với sự ra đời của Bộ luật thương mại, luật thương mại
Việt Nam cộng hòa có một bước phát triển đáng kể với nội dung khá phong
phú, đề cập nhiều vấn đề của đời sống thương mại lúc đó ở miền Nam Việt
Nam. Luật thương mại Việt Nam cộng hòa có những vấn đề cơ bản như định
nghĩa và lịch sử của luật thương mại; những hành vi thương mại; thương gia
và sự hành nghề thương mại; những nhiệm vụ nghề nghiệp của nhà buôn; cửa
hàng thương mại; khế ước thương mại; thương phiếu và hối phiếu; những hội

buôn, khánh tận, phá sản và tư pháp thanh toán tài sản. Ngoài ra trong luật
thương mại còn đề cập vấn đề tòa án thương mại.
1.1.2. Pháp luật kinh tế và Luật kinh Việt Nam từ năm 1945 đến năm
1986.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, luật kinh tế được coi là một
ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Điều đó được thể hiện khá rõ
nét trong các giáo trình của các trung tâm đào tạo ở nước ta. Theo quan niệm
trong các giáo trình đó, luật kinh tế được hiểu là tổng thể những quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình lãnh đạo và
thực hiện các họat động sản xuất kinh doanh giữa các tổ chức kinh tế xã hội
chủ nghĩa với nhau.
Như vậy, luật kinh tế là ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh chủ yếu giữa các tổ chức XHCN với nhau trong quá trình lãnh đạo và
thực hiện họat động sản xuất kinh doanh. Chủ thể của luật kinh tế chủ yếu là
những tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Cũng cần nhấn mạnh rằng ở giai đoạn cuối của thời kỳ bao cấp, trong
nền kinh tế của chúng ta có sự tham gia của các thành phần kinh tế khác ngoài
thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Hơn nữa, để thu hút nhân


lực, vật lực và tài lực vào việc thực hiện thắng lợi kế hoạch của Nhà nước,
trong một số quan hệ kinh tế cụ thể, công dân có thể tham gia với tư cách là
chủ thể.
Trong thời kỳ bao cấp, việc kinh doanh chủ yếu được các tổ chức thuộc
thành phần kinh tế quốc doanh tiến hành. Chính vì vậy, để điều chỉnh các
quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình kinh doanh xã hội chủ nghĩa, luật
kinh tế trong thời kỳ này tập trung ghi nhận các chế độ pháp lý liên quan đến
việc tổ chức và họat động của các tổ chức kinh tế quốc doanh. Cụ thể, nọi
dung của luật kinh tế gồm có những chế độ pháp lý chủ yếu như: địa vị pháp
lý của các chủ thể luật kinh tế; chế độ pháp lý về tài sản của các đơn vị kinh tế

quốc doanh; chế độ pháp lý về kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân; chế độ
pháp lý hạch tóan kinh tế; chế độ hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế.
Nói tóm lại, do tính chất của kinh doanh trong nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, luật kinh tế thời kỳ này chủ yếu ghi nhận về tổ chức và họat động
kinh doanh của các đơn vị kinh tế quốc doanh.
1.2.4. Pháp luật kinh tế và Luật kinh tế từ năm 1986 đến nay
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã ghi nhận:
“Thực chất của đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo
phương thức hạch toán kinh doanh XHCN, đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ”. Cùng với việc khẳng định bản chất của việc đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế, Đảng ta cũng đã xác định hai đặc trưng cơ bản của cơ chế mới là “tính kế
hoạch - đặc trưng thứ nhất”, “sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa tiền tệ - đặc
trưng thứ hai”.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã làm thay đổi cơ bản tính chất của các
quan hệ trong kinh doanh. Điều này cũng đưa đến yêu cầu tất yếu phải có sự
thay đổi trong luật kinh tế cho phù hợp với thực tế khách quan.
Về thực chất, luật kinh tế trong giai đoạn này vẫn được hiểu là tổng hợp
các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh những quan hệ
kinh tế phát sinh trong quá trình họat động sản xuất kinh doanh giữa các
doanh nghiệp hoặc giữa chúng với cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước.
Nội dung của luật kinh tế có bốn bộ phận quy phạm pháp luật cơ bản, đó
là: pháp luật về chủ thể kinh doanh; chế độ hợp đồng kinh tế, pháp luật về phá
sản doanh nghiệp; pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế.
Như vậy, thoáng nhìn phạm vi điều chỉnh của luật kinh tế so với trước
đây hầu như không có sự thay đổi, vẫn là những quan hệ phát sinh trong quá
trình kinh doanh. Song, quá trình kinh doanh trong giai đoạn này có những
thay đổi cả về chủ thể lẫn phương thức kinh doanh, cho nên các quan hệ trong
quá trình này cũng có những sự thay đổi cơ bản.



Quan hệ kinh tế thay đổi đòi hỏi pháp luật kinh tế cũng phải thay đổi
theo. Nội dung của luật kinh tế trong giai đoạn đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
có những thay đổi đáng kể. Những thay đổi lớn trong nội dung của luật kinh
tế tập trung vào ba điểm chính sau:
Một là, chủ thể của luật kinh tế được mở rộng một cách đáng kể, cả về
các loại hình lẫn tư cách pháp lý.
Để đáp ứng yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới Nhà nước đã ban
hành một lọat văn bản pháp luật kinh tế mới thay thế cho những văn bản pháp
luật được ban hành trong thời kỳ trước đây như Luật doanh nghiệp năm 1999,
Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 1995, Luật Hợp tác xã năm 1996, Luật phá
sản doanh nghiệp năm 1993, Luật thương mại năm 1997. Với những đạo luật
đó, các nguyên tắc cơ bản trong kinh doanh như tự do kinh doanh, bình đẳng
trong kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh…được xác lập, địa vị pháp lý của các
loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ta được xác định rõ ràng;
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp được ghi nhận một cách đầy đủ.
Hai là, nội dung của luật kinh tế có những thay đổi lớn cả về những chế
định (chế độ pháp lý) lẫn từng quy định cụ thể.
Trong kinh doanh, dù ở bất kỳ giai đoạn nào, giữa các tổ chức kinh tế
(doanh nghiệp) bao giờ cũng có những mối quan hệ kinh tế với nhau và các
mối quan hệ đó được hình thành trên cơ sở hợp đồng kinh tế. Cho nên, trong
nội dung của luật kinh tế ở giai đoạn đổi mới vẫn có một chế định quan trọng
đó là chế độ hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, tính chất của quan hệ hợp đồng
kinh tế hiện nay khác tính chất của quan hệ hợp đồng kinh tế trước đây. Do
đó, pháp luật về hợp đồng kinh tế trong giai đoạn đổi mới, về cơ bản, khác với
pháp luật về hợp đồng kinh tế trước đây:
Có thể khẳng định rằng mặc dù tên của chế định hợp đồng kinh tế không
có thay đổi nhưng nội dung của những quy định pháp luật trong chế định đó
hoàn toàn khác so với những quy định trong nội dung của chế độ hợp dồng
kinh tế trước đây. Nhiều quy định trong chế độ hợp đồng kinh tế hiện nay gần

giống như những quy định trong pháp luật hợp đồng dân sự.
Cùng với những thay đổi trong chế độ hợp đồng kinh tế, những quy định
của pháp luật về tài phán kinh tế cũng có những thay đổi lớn. Đó là những
thay đổi về hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế, về các cơ quan giải quyết
tranh chấp, về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đó cũng như những
nguyên tắc thẩm quyền và trình tự giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế.
Trong cơ chế bao cấp, những quy định của pháp luật về kế hoạch hóa nền
kinh tế quốc dân và hạch toán kinh tế là bộ phận chủ yếu trong nội dung của
luật kinh tế. Trong giai đoạn đổi mới, những quy định của pháp luật về những
vấn đề trên có những thay đổi lớn nhưng ở chừng mực nhất định nào đó cũng
chỉ có thể áp dụng đối với một số doanh nghiệp nhà nước, còn đối với phần


lớn các doanh nghiệp nhà nước hoặc các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác thì không còn phù hợp nữa. Trong khi đó, những quy định cụ thể
để bảo đảm cho Nhà nước tiến hành kế hoạch hóa ở tầm vĩ mô chưa được ban
hành. Chính vì vậy, trong nội dung của luật kinh tế, chế độ pháp lý về kế
hoạch hóa nền kinh tế quốc dân và về hạch toán kinh tế không còn giữ vị trí
chủ yếu như trước đây mà chỉ còn là bộ phận nhỏ trong hệ thống các chế định
của luật kinh tế. Bên cạnh đó, có những chế định mới chưa hề được biết đến
trong thời kỳ bao cấp được hình thành, chẳng hạn như chế định pháp luật về
phá sản doanh nghiệp.
Tóm lại, ở Việt Nam, pháp luật kinh tế mại hầu như không được biết đến
trong thời phong kiến, phải đến thời Pháp thuộc mới có những quy định, chế
định của luật kinh tế. Thời kỳ đất nước bị chia cắt ra hai miền với hai chế độ
kinh tế, chính trị, văn hóa khác nhau, do đó luật kinh tế ở miền Bắc và luật
kinh tế ở miền Nam có sự khác nhau về bản chất. Ở miền Nam, chính quyền
Sài gòn tiếp tục kế thừa pháp luật thương mại thời Pháp thuộc đồng thời ban
hành một loạt các văn bản pháp luật thương mại mới mà đỉnh cao của nó là
Bộ luật thương mại năm 1972; luật thương mại Việt Nam cộng hòa tồn tại

như là ngành luật phát sinh từ luật dân sự. Ở miền Bắc, phù hợp với nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung đã tồn tại ngành luật kinh tế độc lập, với những nội
dung chủ yếu ghi nhận về tổ chức và hoạt động kinh doanh của các đơn vị
kinh tế quốc doanh. Trong giai đoạn hiện nay, để phản ánh đầy đủ những đặc
điểm và yêu cầu của nền kinh tế thị trường, so với luật kinh tế trong nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, luật kinh tế đã có những thay đổi lớn cả về nội
dung lẫn hình thức. Điều đó được thể hiện rõ nét trong từng chế định, từng
quy định cụ thể của nó.
1.2. Khái quát chung về pháp luật kinh tế và Luật kinh tế
12.1. Pháp luật kinh tế
Phù hợp với xu hướng tất yếu của thời đại, trong những năm gần đây, nhà
nước ta đã chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tình hình đó, buộc chúng ta phải xem xét lại số phận của ngành luật kinh
tế, kể cả về lý luận và thực tiễn. Bởi lẽ, ngành Luật kinh tế đang bước vào giai
đoạn phát triển trong khuôn khổ của những hoàn cảnh mới.
Có thể hiểu khác nhau về nội dung của cơ chế kinh tế. Song, trong mọi
trường hợp, Luật kinh tế đều được coi là bộ phận cấu thành của cơ chế kinh tế.
Theo nghĩa đó, pháp luật kinh tế được hiểu là sự biểu hiện về hình thức pháp lý
những nội dung của các họat động và quá trình kinh tế. Như vậy, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường, pháp luật kinh tế ở nước ta hiện nay dần
dần sẽ là sự phản ánh hợp lý một cơ chế kinh tế thị trường với những đặc tính
sau đây:


- Thứ nhất, nền kinh tế ở nước ta hiện nay đang trong bước chuyển nhanh
sang một cơ chế mới. Tính chất quá độ đó của nền kinh tế ảnh hưởng lớn đến
tính chất của cả hệ thống pháp luật về quản lý kinh tế nói chung và Luật kinh tế
nói riêng. Điều đó thể hiện ở chỗ, chúng ta không thể có ngay một hệ thống pháp
luật kinh tế với chất lượng và cơ cấu hoàn toàn mới – pháp luật của nền kinh tế
thị trường.

- Thứ hai, cơ chế kinh tế mà chúng ta xây dựng không hình thành từ sự
hoàn thiện cơ chế cũ- cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, mà
ngược lại. Như vậy, quá trình hình thành cơ chế kinh tế mới đòi hỏi có sự xuất
hiện một tư duy kinh tế mới và theo đó là một tư duy pháp lý mới với tư cách là
cơ sở lý luận và tư tưởng của quá trình đó. Trong hệ thống pháp luật của nước ta,
những tư duy và hình thức pháp lýmới, cần thiết cho sự quản lý kinh tế thị
trường hình thành chậm chạp. Đó có thể là một trong những nguyên nhân dân tới
tình trạng thiếu và cháp vá của hệ thống pháp luật kinh tế hiện nay.
- Thứ ba, khi chuyển đổi cơ chế kinh tế, chúng ta chưa đồng thời và kịp thời
chuẩn bị được một hệ thống các quy tắc xử sự trong đời sống kinh tế nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.Như vậy, so với
tieếntrình của các quan hệ kinh tế, pháp luật thường xuất hiện quá chậm so với
sự biến động và phát triển của các quan hệ kinh tế. Trong khi hô hào “cởi trói”
cho cơ sở, chúng ta vẫn chưa tạo được một hành lang pháp lý cần thiết cho mọi
loại hình doanh nghiệp. Khi chủ trương hạn chế và đẩy lùi sự lũng đoạn của
những mệnh lệnh hành chính và hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh trong các họat động
kinh doanh, chúng ta chưa kịp thời có những công cụ khác hữu hiệu để thay thế.
Vì vậy, sự xuất hiện một số hiện tượng thiếu tổ chức, thiếu kỷ luật và lộn xộ ở
nhiều nơi trong đời sống kinh tế thời gian qua là điều dễ hiểu và không thể kết
luận đơn giản rằng, đó là những hiện tượng phát sinh từ bản chất của nền kinh tế
thị trường.
Như vậy, chuyển sang nền kinh tế thị trường, hơn bao giờ hết, pháp luật nói
chung và Luật kinh tế nói riêng có vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống
kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, quan niệm về luật kinh tế, về đối tượng điều
chỉnh, phương pháp điều chỉnh và hệ thống chủ thể của Luật kinh tế trong cơ chế
kinh tế mới cũng cần phải được đổi mới một cách tương thích. Đây là vấn đề
khó khăn phức tạp, đã và đang đặt ra trước khoa học pháp lý nói chung và khoa
học pháp lý kinh tế nói riêng.
Tóm lại: Pháp luật kinh tế không phải là một ngành luật độc lập theo tiêu
chuẩn phân loại của lý luận pháp luật hiện hành, đây là khái niệm tổng hợp,

bao gồm toàn bộ các văn bản pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau có
liên quan đến sự vận hành và quản lý nền kinh tế.- Pháp luật kinh tế bao gồm
nhiều ngành luật khác nhau như Luật kinh tế, Luật tài chính, Luật lao động, Luật


đất đai v.v.. Các ngành luật trên khác nhau về tính chất, nội dung, chủ thể và
được điều chỉnh với những phương pháp khác nhau.
1.2.2. Luật kinh tế
Theo quan niệm truyền thống ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây, luật
kinh tế được coi là một ngành độc lập, điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát
sinh trong quá trình quản lý, lãnh đạo kinh tế của nhà nước và tổ chức thực hiện
các họat động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở xã hội chủ nghĩa.
Sự phá sản của mô hình kinh tế kế hoạch và thiết lập kinh tế thị trường trên
phạm vi toàn cầu đã kéo theo sự cáo chung của nhiều quan điểm và hệ thống lý
luận về quản lý kinh tế, về Luật kinh tế truyền thống.
Khác hẳn với mô hình kinh tế kế hoạch, kinh tế thị trường đòi hỏi phải xóa
bỏ chế độ độc tôn của một hình thức sở hữu, đòi hỏi phải khuyến khích và phát
triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với sự bình đẳng của chúng trước pháp
luật. Kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một môi trường pháp lý đảm bảo tất cả
các chủ thể sản xuất- kinh doanh tự do kinh doanh. Đặc biệt, kinh tế thị trường
đòi hỏi sự lùi bước và nhường bước của quyền lực công cộng trước nguyên tắc
tự do kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa rằng, nếu như Luật kinh tế của nền kinh
tế kế hoạch hóa được điều chỉnh chỉ bằng phương thức của luật công (tức là các
chủ thể chỉ được làm những gì mà pháp luật ghi nhận), còn ở kinh tế thị trường
luật kinh tế chỉ điều chỉnh theo phương pháp của luật tư (tức là các chủ thể được
làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm). Vì vậy, nếu quan niệm rằng, Luật
kinh tế chỉ là luật tư thì sẽ không thể phân biệt được Luật kinh tế với Luật dân sự
và đặc biệt không phản ánh được trong pháp luật vai trò của công quyền (Nhà
nước) trong đời sống kinh tế, trong quản lý kinh tế. Ngược lại nếu cho rằng Luật

Kinh tế là luật công thì cũng khó phân biệt được Luật kinh tế với luật nhà nước,
luật hành chính.
Thực ra, Luật kinh tế hay luật kinh doanh là những khái niệm rất rộng, khó
có thể định lượng chính xác về nội dung. Hiểu theo cách chung nhất thì Luật
kinh tế là tổng thể các quy phạm pháp luật mà với các quy phạm đó, nhà nước
tác động vào các tác nhân tham gia đời sống kinh tế và các quy phạm liên quan
đến mối tương quan giữa sự tự do của từng cá nhân và sự điều chỉnh của Nhà
nước. Nếu hiểu theo cách đó thì Luật kinh tế tồn tại cả ở pháp luật công và pháp
luật tư; một mặt nó điều chỉnh khả năng và cách thức sự can thiệp của Nhà nước
vào đời sống kinh tế, bảo vệ lợi ích công và mặt khác nó thể hiện nguyên tắc
bình đẳng và bảo vệ lợi ích của các thành viên tham gia thương trường.
Trên cơ sở như vậy, Luật kinh tế được hiểu là tổng thể các qui phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình tổ chức, quản lý và hoạt động của sản xuất kinh doanh giữa các doanh


nghiệp với nhau và với các cơ quan quản lý Nhà nước. Luật kinh tế là một bộ
phận của pháp luật kinh tế (Luật kinh tế; Luật tài chính; Luật lao động; Luật
đất đai).
2. Đối tượng, phương pháp và chủ thể của Luật kinh tế
2.1. Đối tượng điều chỉnh của Luật kinh tế
Điều chỉnh quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp
Trong quan hệ này, chủ thể tham gia có địa vị pháp lý khác nhau. Một
bên là cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế (cấp trên), một bên là đơn vị kinh
tế (cấp dưới). Cơ sở phát sinh quan hệ này là các văn bản quản lý nhà nước.
- Điều chỉnh quan hệ trong quá trình hoạt động giữa các doanh nghiệp.
Đây là nhóm quan hệ chủ yếu, nó có những đặc điểm như: phát sinh trực tiếp
trong quá trình sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp; phát sinh từ các chủ thể độc lập, bình đẳng với

nhau; phát sinh chủ yếu thông qua các hợp đồng kinh tế v.v..
- Điều chỉnh quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp
Các doanh nghiệp được cấu thành bởi các bộ phận như phân xưởng, đội sản
xuất... Việc sản xuất của các bộ phận này được tiến hành trên cơ sở hạch toán nội
bộ hoặc chế độ khoán. Giữa chúng phát sinh những quan hệ nhất định, được điều
chỉnh bằng điều lệ, nội qui của cơ quan dựa trên qui định của pháp luật. Ngoài
ra, luật kinh tế còn diều chỉnh:
- Các quan hệ xã hội diễn ra trong quá trình hình thành, tổ chức quản lý
doanh nghiệp, bao gồm cả giải thể và phá sản doanh nghiệp (pháp luật doanh
nghiệp).
- Các quan hệ và hành vi vì mục đích cạnh tranh trên thương trường, bao
gồm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và độc quyền hóa (pháp luật cạnh
tranh).
- Các quan hệ xã hội diễn ra trong quá trình tổ chức và thực hiện các giao
dịch kinh tế (pháp luật hợp đồng).
- Các quan hệ xã hội diễn ra trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh
tế, thông qua trọng tài và tòa án (pháp luật và tài phán kinh tế).
2.2. Phương pháp điều chỉnh của luật kinh tế
Trong cơ chế thị trường hiện đại, nơi mà công quyền không đứng bên trên
và bên ngoài đời sống kinh tế, buộc nhà nước phải có những điều tiết, định
hướng, khuyến khích phát triển kinh tế và trong chừng mực như vậy, những
quan hệ diễn ra trong lĩnh vực này khó có thể được điều chỉnh bằng phương
pháp của luật tư - phương pháp dân sự. Một ví dụ điển hình là trường hợp của sự
can thiệp của công quyền vào đời sống kinh tế, dù ở mức độ và hình thức nào,
cũng đều được điều chỉnh bằng phương pháp hành chính. Không thể có sự thỏa


thuận giữa nhà đầu tư, doanh nghiệp với cơ quan quản lý nhà nước về cấp giấy
phép hay điều kiện kinh doanh, không thể có sự “thông cảm” hay “linh động”
giữa cơ quan thu thuế và doanh nghiệp khi thực hiện các biểu thuế và thời hạn

nộp thuế…Như vậy, phương pháp hành chính vẫn tiếp tục tồn tại trong hệ thống
pháp luật của cơ chế thị trường. Khi điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống kinh tế
bằng phương pháp hành chính. Luật kinh tế được coi là một lĩnh vực của hệ
thống pháp luật công mà theo đó giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật không
có sự bình đẳng, không được tự do thỏa thuận về nội dung, thậm chí hình thức
của quan hệ pháp luật đã được pháp luật ghi nhận và mô tả. Chính vì thế, theo
phương pháp này, “các chủ thể được làm những gì mà pháp luật ghi nhận”. Ở
các nước thuộc Civil Law, mảng pháp luật kinh tế này được gọi là pháp luật kinh
tế công.
Bên cạnh việc điều chỉnh bằng phương pháp của luật công, Luật kinh tế của
cơ chế thị trường điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu bằng phương pháp của
luật tư- phương pháp dân sự. Theo phương pháp này, pháp luật tạo cho các chủ
thể những khả năng pháp lý của tự do sáng tạo và thỏa thuận. Việc sử dụng hay
không và đến mức nào của sự tự do và bình đẳng sẽ phụ thuộc vào ý chí riêng
của từng chủ thể quan hệ pháp luật. Việc một công dân hay doanh nghiệp nào đó
quyết định đầu tư hay không mức vốn bao nhiêu, hay có ký hợp đồng với một
đối tác nào đó, với số lượng, chất lượng và giá cả của sản phẩm, dịch vụ là bao
nhiêu hay họ sử dụng phương thức nào để giải quyết các bất đồng, tranh chấp
phát sinh…đều do họ tự quyết định.
Điều đáng lưu ý là, khi tự do của các chủ thể quan hệ pháp luật được thiết
lập, thỏa thuận sẽ được pháp luật bảo vệ và trở thành “pháp luật riêng” ràng buộc
các chủ thể tham gia quan hệ này. Một nhà đầu tư tự quyết định thành lập một
doanh nghiệp thì mọi quy định phát sinh từ việc đầu tư sẽ được áp dụng đối với
nhà đầu tư đó; một doanh nghiệp đã tự do thỏa thuận và ký một hợp đồng nào đó
thì toàn bộ nội dung đã cam kết sẽ trở thành bắt buộc đối với doanh nghiệp và
không ai ngoài các bên tham gia hợp đồng (kể cả tòa án) được tự do giải thích
nội dung của bản hợp đồng. Việc các bên tham gia quan hệ hợp đồng đã thỏa
thuận dùng trọng tài để giải quyết tranh chấp thì tòa án không thể vào cuộc. Xa
hơn nữa, trong các quan hệ pháp luật được điều chỉnh bằng phương pháp của
luật tư, Viện kiểm sát không thể thay mặt các chủ thể xuất hiện trước tòa.

Như vậy, so với phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế trong cơ chế kinh
tế kế hoạch tập trung, phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế trong cơ chế thị
trường được bổ sung nhiều điểm mới. Sự thay đổi về đối tượng điều chỉnh của
luật kinh tế đòi hỏi có những thay đổi phù hợp về phương pháp điều chỉnh. Về
mặt kinh tế, do có sự phân định chức năng quản lý vi mô và quản lý vĩ mô nên
tính chất của mối quan hệ kinh tế không còn được hiểu là sự kết hợp của yếu tố
tổ chức kế hoạch và yếu tố tài sản. Các quan hệ kinh tế trong điều kiện kinh tế thị


trường nảy sinh và vận động theo những quy luật của thị trường, nằm ở ranh giới
của luật công và luật tư. Luật Kinh tế sử dụng phối kết hợp với các phương pháp
dân sự và hành chính, trong đó các phương pháp dân sự (tự do thỏa thuận, bình
đẳng, định hướng hành vi…) là các phương pháp chủ yếu của ngành luật này.
Như vậy, về cơ bản, Luật kinh tế sử dụng hai phương pháp:
- Phương pháp bình đẳng, tự nguyện
Nghĩa là, những vấn đề mà các bên quan tâm đều được giải quyết trên cơ
sở bình đẳng, bàn bạc thoả thuận. Hiện nay với cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần thì phương pháp này càng có ý nghĩa quan trọng và được sử dụng phổ
biến.
- Phương pháp mệnh lệnh, quyền uy
Phương pháp này chủ yếu dùng để điều chỉnh những quan hệ mà các chủ
thể không bình đẳng về địa vị pháp lý (một bên là cơ quan quản lý Nhà nước
về kinh tế, một bên là các đơn vị kinh tế).
2.3. Chủ thể của luật kinh tế
Theo quan niệm truyền thống, chủ thể của Luật kinh tế cũng có những dấu
hiệu đặc biệt. Chủ thẻ của luật kinh tế có đặc tính là nó có thể hiện bản chất kinh
tế của xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong kinh tế xã hội chủ nghĩa, họat động kinh tế
không phải do từng công dân riêng lẻ thực hiện mà do tập thể lao động của các
xí nghiệp, liên hiệp các xí nghiệp, các cơ quan kinh tế khác…thực hiện. Vì vậy,
chủ thể của Luật kinh tế trong điều kiện kinh tế xã hội chủ nghĩa luôn luôn là

những cơ quan, tổ chức kinh tế- được coi là những pháp nhân.
Chuyển sang cơ chế thị trường, chủ thể của Luật kinh tế có sự thay đổi căn
bản cả về “chất” và “lượng”. Hệ thống chủ thể của Luật kinh tế được mở rộng
hơn nhiều so với trước đây. Việc thiết lập một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
tất yếu sẽ dẫn đến một cơ cấu đa dạng và phong phú của các chủ thể kinh doanh.
Trước đây, Luật kinh tế về cơ bản chỉ thừa nhận những pháp nhân là chủ thể của
ngành luật này. Thực tiễn của bước chuyển sang nền kinh tế thị trường đã chứng
minh tính chất phiến diện của quan điểm đó. Ngày nay, trong hệ thống của các
chủ thể kinh doanh độc lập đồng thời là chủ thể pháp lý độc lập, bên cạnh các
pháp nhân còn có những doanh nghiệp không phải là pháp nhân. Đó là các công
ty đối nhân, các doanh nghiệp không phải là pháp nhân. Đó là các công ty đối
nhân, các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp họat động có mức vốn kinh
doanh dưới mức vốn pháp định theo quy định của pháp luật…Có thể tạm thời
nêu ra những tiêu chí cơ bản để xác định chủ thể của Luật kinh tế như sau:
- Thứ nhất, chủ thể của Luật kinh tế là chủ thể kinh doanh hoặc cơ quan
quản lý kinh tế được thành lập một cách hợp pháp”. Trong các chủ thể kinh
doanh, bộ phận quan trọng là các doanh nghiệp. Doanh nghiệp và các cơ quan
quản lý kinh tế được thành lập một cách hợp pháp, nghĩa là chúng được các cơ


quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập hay cho phép thành lập.
Chúng có chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực và phạm vi họat động rõ ràng, được tổ
chức dưới một hình thức nhất định thường được pháp luật quy định. Đáng lưu ý
là các cơ quan quản lý kinh tế có thể không phải là các cơ quan nhà nước và
cũng không quản lý mọi loại hình doanh nghiệp.
- Thứ hai, dấu hiệu tiếp theo của chủ thể luật kinh tế là tài sản. Tài sản là cơ
sở vật chất không thể thiếu được để các chủ thể Luật kinh tế, đặc biệt là các
doanh nghiệp, tiến hành các họat động kinh doanh và quản lý kinh doanh. Trên
thực tế, tài sản đó tồn tại dưới dạng vốn kinh doanh hay vốn hoạt động, khối
lượng và cơ cấu tài sản cũng như khối lượng quyền năng mà đơn vị kinh tế có

được đối với từng loại tài sản phụ thuộc vào tính chất sở hữu, phạm vi, quy mô
họat động của từng chủ thể.
- Thứ ba, một dấu hiệu nữa của chủ thể Luật kinh tế là sự xuất hiện đồng
thời năng lực pháp lý và năng lực hành vi- thể hiện chủ yếu trong hệ thống các
quyền và nghĩa vụ của chúng. Các quyền và nghĩa vụ này hoặc là được pháp luật
ghi nhận (cho phép) hoặc là được pháp luật chấp nhận (không cấm). Hệ thống
các quyền và nghĩa vụ của chủ thể Luật Kinh tế bao giờ cũng tương ứng với
chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực họat động của nó. Vì vậy, trên thực tế, mỗi đơn vị
kinh tế đều có hệ thống quyền và nghĩa vụ riêng và không đồng nhất. Thẩm
quyền kinh tế là cơ sở pháp lý để các chủ thể Luật kinh tế thực hiện các hành vi
pháp lý nhằm tạo cho mình những quyền và nghĩa vụ cụ thể, đồng thời nó cũng
định rõ giới hạn thực hiện. Các quyền và nghĩa vụ của các đơn vị và tổ chức kinh
tế (doanh nghiệp và cơ quan quản lý kinh tế) được quy định trong các văn bản
pháp luật và phần lớn phát sinh trong quá trình họat động kinh tế thông qua các
quyết định của bản thân và không vi phạm vào điều cấm hoặc không vượt quá
giới hạn mà khung pháp lý đã định.
Chủ thể của Luật kinh tế cũng được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa hẹp; chủ thể thường xuyên và chủ yếu của Luật kinh tế là các cơ
quan và đơn vị kinh tế, có chức năng chủ yếu là họat động trên lĩnh vực kinh tế
và có thẩm quyền kinh tế. Bên cạnh đó, theo nghĩa rộng, các cơ quan nhà nước,
các tổ chức xã hội cũng có thể tham gia các quan hệ kinh tế do Luật kinh tế điều
chỉnh khi việc tham gia các quan hệ kinh tế đó là có thể và cần thiết nhằm góp
phần thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Khi đó, những cơ quan và tổ
chức này cũng được coi là chủ thể của Luật kinh tế, vì một chủ thể của luật nào
đó có thể đồng thời tham gia nhiều quan hệ pháp lý do nhiều ngành luật khác
nhau điều chỉnh với tính cách là chủ thể của những ngành luật đó. Theo nghĩa
đó, ngay cả các đơn vị kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng có thể trở thành chủ thể của
nhiều ngành luật khác nhau ngoài Luật kinh tế.
Như vậy, Luật kinh tế có hai loại chủ thể chủ yếu: Một là, các doanh nghiệp
thuộc mọi hình thức sở hữu và phương thức tổ chức kinh doanh; hai là, các cơ



quan quản lý kinh tế. Hai nhóm chủ thể này họat động nhằm thực hiện hai loại
hình quản lý kinh tế; quản lý kinh tế vĩ mô và quản lý kinh tế vĩ mô với nội dung
và phương thức quản lý được phân định rõ ràng.
3. Vai trò của luật kinh tế
3.1. Những yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN đối với luật kinh tế
- Trong nền kinh tế thị trường văn minh, việc bảo đảm sự thống nhất, hài
hoà giữa kinh tế và xã hội là yêu cầu khách quan. Sự thống nhất giữa sự phát
triển của kinh tế - xã hội chỉ có thể đạt được bằng sự can thiệp của nhà nước
bằng pháp luật.
- Xuất phát từ nhiều thành phần kinh tế, nhiều lợi ích, từ đó yêu cầu đặt
ra phải bảo đảm bình đẳng và công bằng. Việc bảo đảm bình đẳng và công
bằng là chức năng quan trọng của pháp luật.
- Kinh tế thị trường tạo ra sự năng động, sáng tạo của nền kinh tế. Mặt
trái của nó là làm xuất hiện tình trạng vô chính phủ, tuỳ tiện, gian lận thương
mạiỳ Để nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững, lành mạnh cần có hệ thống
pháp luật kinh tế phù hợp.
3.2. Vai trò cơ bản của luật kinh tế
- Luật kinh tế tạo cơ sở pháp lý vững chắc để ổn định các quan hệ kinh
tế, bảo đảm cho mọi thành phần kinh tế phát triển vững chắc, hiệu quả, phát
huy tiềm năng sáng tạo.
- Luật kinh tế tạo cơ chế pháp lý bình đẳng giữa các thành phần kinh tế,
khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển.
- Luật kinh tế bảo đảm lợi ích xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, doanh nghiệp, người lao động, người tiêu dùng.
- Luật kinh tế tạo cơ chế pháp lý thuận lợi để doanh nghiệp hội nhập
nhanh, vững chắc, hiệu quả trong nền kinh tế toàn cầu.
4. Nguồn của Luật kinh tế

Nguồn của luật kinh tế là tổng hợp các văn bản pháp luật (các văn bản
luật, các văn bản dưới luật, điều ước quốc tế) do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
tổ chức, quản lý và hoạt động của sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp
với nhau và với các cơ quan quản lý Nhà nước.
Về nguyên tắc các án lệ, các quyết định hành chính, các quyết định của
trọng tài kinh tế, quyết định và bản án của toà án không phải là nguồn của luật
kinh tế.
Nguồn của một ngành luật là tổng hợp các văn bản pháp luật cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh một loại quan hệ xã hội nhất


định. Hệ thống pháp luật nước ta là hệ thống pháp luật thành văn theo trường
phái luật quy phạm. Do đó, về nguyên tắc các án lệ, các quyết định hành chính,
các quyết định của trọng tài kinh tế, quyết định và bản án của tòa án không phải
là nguồn của luật mà nguồn của luật nước ta chỉ bao gồm các văn bản luật và
các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, do những đặc thù trong việc điều chỉnh các
quan hệ thương mại nên nguồn của luật thương mại không chỉ bao gồm các văn
bản pháp luật mà còn có thể là các văn bản quy phạm khác.
Vì vậy, nguồn của luật thương mại có thể được hiểu là những văn bản quy
phạm có chứa đựng các quy tắc xử sự liên quan đến họat động thương mại.
Nguồn của luật thương mại bao gồm ba nhóm văn bản cơ bản sau:
a. Các văn bản quy phạm pháp luật
* Hiến pháp
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, hiến pháp xác định chế độ
chính trị, kinh tế- xã hội của đất nước nên hiến pháp có giá trị cao nhất và là
nguồn của nhiều ngành luật. Hiến pháp năm 1992 ( sửa đổi bổ sung năm 2001)
đã ghi nhận những vấn đề quan trọng sau đây:
- Xác định rõ định hướng cũng như mục đích xây dựng nền kinh tế của đất
nước (các điều 15,16);

- Xác định rõ chế độ sở hữu nhà nước (các điều 17, 18);
- Công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế (các điều 19,21,29) và sự
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong kinh doanh (Điều 22).
- Ghi nhận quyền tự do kinh doanh của công dân (Điều 57);
- Ghi nhận các biện khuyến khích và bảo hộ đầu tư (các điều 22, 23, 25).
- Xác định rõ các công cụ quản lý kinh tế (điều 26) cũng như quy định
nguyên tắc xử lý những vi phạm trong kinh doanh…
Những quy định liên quan tới chế độ kinh tế và các quyền tự do trong hiến
pháp là cơ sở pháp lý cao nhất cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh của
các chủ thể kinh doanh nói chung và thương nhân nói riêng. Do đó, hiến pháp là
một nguồn quan trọng của luật thương mại.
* Bộ luật dân sự
Bộ luật dân sự năm 1995 là bộ luật dân sự đầu tiên của nhà nước ta và hiện
nay. Để phúc đáp yêu cầu mới trong đời sống dân sự, Nhà nước ta đã ban hành
Bộ luật dân sự mới, đó là Bộ luật dân sự năm 2005. Sau hiến pháp, Bộ luật dân
sự là đạo luật có vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật, liên quan mật thiết
đến mọi mặt đời sống thường ngày của người dân, trong đó có lĩnh vực kinh tế.
Đối với họat động thương mại. Bộ luật dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Thông qua việc quy định về các vấn đề như: Tài sản và sở hữu, bảo vệ
quyền sở hữu, hợp đồng, sở hữu trí tuệ, chuyển quyền sử dụng đất…Bộ luật dan
sự quy định các chuẩn mực pháp lý cho các quan hệ kinh tế phát triển trong môi
trường thuận lợi, đưa lại cho mỗi giao dịch độ tin cậy pháp lý cao. Cùng với các


văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật kinh tế, Bộ luật dân sự góp phần
xây dựng nên khung pháp lý cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế thị
trường, tạo nên môi trường pháp lý thuận lợi và thống nhất cho các thương nhân
họat động và phát triển.
* Các luật do Quốc hội thông qua
Là nguồn của luật kinh tế, hiện ở Việt Nam có một số lượng khá lớn các

văn bản luật do Quốc hội thông qua, trong đó phải kể đến:
Thứ nhất, các luật quy định về địa lý pháp lý của các thương nhân như:
Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003, Luật hợp tác xã năm 2003, Luật doanh
nghiệp năm 2005…
Thứ hai, các luật quy định cụ thể về các loại hành vi thương mại như: luật
thương mại năm 2005, luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Luật ngân hàng năm
1997 được sửa đổi bổ sung năm 2003, Luật xây dựng năm 2003…
Thứ ba, luật phá sản năm 2004 quy định thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản
đối với thương nhân lâm vào tình trạng phá sản.
* Các văn bản dưới luật
Các văn bản dưới luật cũng là nguồn quan trọng của luật kinh tế, bao gồm:
Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ, quyết định
của thủ tướng chính phủ và các thông tư của các bộ, các cơ quan ngang bộ.
- Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành các pháp lệnh để điều chỉnh các
họat động đó. Hiện nay, ở nước ta đang hiện hành khá nhiều pháp lệnh điều
chỉnh các họat động cụ thể trong lĩnh vực thương mại; Ví dụ: Pháp lệnh giá năm
2002, Pháp lệnh đo lường năm 2002, Pháp lệnh thương mại năm 2003, Pháp
lệnh về việc chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004…
- Nghị định của Chính phủ
Để điều chỉnh một cách có hiệu quả các họat động kinh tế và các họat động
khác liên quan trực tiếp đến họat động thương mại, Chính phủ đã ban hành một
lọat các nghị định. Nhìn chung, các nghị định này đóng vai trò hướng dẫn cụ thể
việc thi hành các văn bản luật của Quốc hội hoặc các pháp lệnh của Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Trong họat động cụ thể, khi chưa có văn bản luật hoặc pháp
lệnh, nghị định của chính phủ sẽ là văn bản chính để điều chỉnh các họat động
đó. Hiện nay, ở Việt Nam còn hiện hành một số lượng lớn nghị định của Chính
phủ liên quan đến họat động kinh tế. Chỉ tính từ ngày 1/1/1990 đến ngày
31/12/2004 trong lĩnh vực thương mại (theo nghĩa hẹp) có 24 nghị định; trong
lĩnh vực đầu tư có 14 nghị định; trong lĩnh vực giao thông có 16 nghị định; trong

lĩnh vực doanh nghiệp có 43 nghị định..
- Ngoài ra, để hướng dẫn cụ thể các họat động mang tính chất nghiệp vụ
trong lĩnh vực thương mại, các bộ, các cơ quan ngang bộ còn ban hành các thông


tư hướng dẫn. Các thông tư hướng dẫn đó của các bộ, các cơ quan ngang bộ
cũng được coi là nguồn của luật kinh tế.
b. Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là sự thỏa thuận giữa các chủ thể của công pháp quốc tế
(chủ yếu là các quốc gia) trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện nhằm thiết lập nguyên
tắc pháp lý bắt buộc, là cơ sở cho họat động thương mại.
Điều ước quốc tế có thể chia ra làm hai loại: các điều ước có tính chất chỉ
đạo, quy định những nguyên tắc chung về họat động thương mại giữa các quốc
gia tham gia ký kết, ví dụ: Hiệp định thương mại hàng hải, hiệp định thương mại
Việt - Mỹ; các điều ước điều chỉnh trực tiếp quan hệ thương mại cụ thể. Ví dụ:
Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã
ký kết gần 60 hiệp định song phương về thương mại, hợp tác kinh tế, thương
mại, kỹ thuật với các nước, vùng lãnh thổ.
Ở Việt Nam, việc áp dụng điều ước quốc tế được pháp luật quy định: Đối
với điều ước quốc tế về thương mại Nhà nước đã tham gia ký kết và phê chuẩn,
chúng ta sẽ tuân theo những quy định trong điều ước quốc tế; đối với điều ước
quốc tế mà Nhà nước chưa tham gia và chưa công nhận, chúng ta có quyền bảo
lưu, không áp dụng những quy định trái với pháp luật của Việt Nam.
c. Tập quán thương mại
Nói đến nguồn của luật kinh tế không thể không nói đến tập quán thương
mại. Mặc dù, hệ thống pháp luật nước ta không phải là hệ thống “luật tập quán”
các án lệ không được coi là nguồn của luật nhưng trong họat động thương mại,
tập quán thương mại thường được áp dụng, đặc biệt trong họat động thương mại
với thương nhân nước ngoài. Ví dụ, trong thanh toán thể thức L/C (thư tín dụng),
Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP) cũng thường được

các bên thanh toán áp dụng hoặc trong giao nhận hàng hóa với thương nhân
nước ngoài, Incoterms 2000 thường được áp dụng.
Pháp luật Việt Nam cũng có những quy định về việc áp dụng tập quán trong
nhưng trường hợp nhất định. Theo Bộ luật dân sự năm, trong trường hợp pháp
luật không quy định về các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán,
nếu tập quán này không trái với các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam. Như
vậy, điều luật này là công nhận tập quán là một nguồn luật bổ sung của pháp
luật. Bên cạnh đó Bộ luật dân sự cũng quy định nguyên tắc áp dụng pháp luật
nước ngoài và tập quán quốc tế. Luật thương mại Việt Nam cũng cho phép các
bên trong quan hệ hợp đồng quốc tế được thỏa thuận áp dụng tập quán thương
mại quốc tế nếu tập quán quốc tế đó không trái với pháp luật Việt Nam (khoản 1
điều 5 Luật thương mại năm 2005).
Tập quán thương mại có thể hiểu là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong
họat động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại có


nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các
bên trong họat động thương mại.
Những thói quen thương mại sẽ được công nhận và trở thành tập quán
thương mại khi thỏa mãn các yêu cầu: Là một thói quen phổ biến được nhiều
người áp dụng và áp dụng thường xuyên; Về từng vấn đề và ở từng địa phương,
đó là thói quen độc nhất; Là một thói quen có nội dung rõ ràng và người ta có
thể dựa vào đó để xác định quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
Tập quán thương mại có ý nghĩa đặc biệt trong việc giải thích và bổ sung
các nghĩa vụ hợp đồng. Trong hợp đồng, nếu các bên đương sự cùng làm một
nghề và cùng là thương gia, không viện dẫn rõ ràng một số điểm đã được thói
quen chấp nhận thì các bên đã mặc nhiên công nhận tập quán.
Nếu một trong hai bên không phải là thương gia thì một bên có thể viện dẫn
là không biết đến tập quán thương mại, đến nghề nghiệp của bên kia. Còn đối
phương nếu tiếp tục bảo vệ đó là tập quán thương mại thì phải có nghĩa vụ

chứng minh bằng cách xuất trình cho tòa án một giấy chứng nhận của phòng
thương mại. Tập quán thương mại hay các nghiệp đoàn xác nhận đó là tập quán
thương mại. Tập quán thương mại có thể được ưu tiên áp dụng trước các quy
phạm pháp luật tùy nghi nhưng không thể đi ngược lại các quy phạm pháp luật
có tính mệnh lệnh bắt buộc.
Trong điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế hiện nay, các quan hệ song
phương và đa phương giữa các quốc gia đang phát triển tích cực cả về chiều sâu
và chiều rộng thì tập quán thương mại quốc tế ngày càng có ý nghĩa trong việc
điều chỉnh các quan hệ thương mại.
d. Điều lệ của thương nhân
Bên cạnh những nguồn quan trọng kể trên, điều lệ về tổ chức và họat động
của thương nhân (đặc biệt thương nhân là pháp nhân) cũng được coi là nguồn
của luật thương mại. Trên cơ sở quy định của pháp luật, điều lệ của thương nhân
và văn bản do chính thương nhân ban hành và được Nhà nước thừa nhận thông
qua một hình thức nhất định nhằm cụ thể hóa chi tiết các quy định của pháp luật
cho phù hợp với điều kiện về tổ chức và họat động của mỗi thương nhân. Các
quy định trong điều lệ của thương nhân được sử dụng chủ yếu để điều chỉnh
quan hệ trong nội bộ của thương nhân. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều trường hợp
cụ thể, cơ quan có thẩm quyền của nhà nước sử dụng điều lệ như là một căn cứ
pháp lý để xử lý các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của thương nhân
cũng như của các bộ phận cấu thành của nó. Điều đó thể hiện của thương nhân
cũng là nguồn của luật kinh tế.

Chuyên đề 2
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP


Giảng viên phụ trách giảng dạy: Thượng tá, Th.s Hoàng thế Nhân
1. Sơ lược quá trình hình thành, phát triển và khái quát chung pháp
luật về doanh nghiệp

1.1. Sơ lược quá trình hình thành, phát triển pháp luật về doanh nghiệp
1.1.1. Pháp luật về doanh nghiệp trong thời kỳ kinh tế tập trung
Ở nước ta trong thời kỳ kinh tế tập trung, phát triển kinh tế quốc doanh được
ưu tiên đặc biệt. Kinh tế quốc doanh được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực
của nền kinh tế quốc dân. Để phát triển kinh tế quốc doanh chúng ta đã thành lập
rất nhiều doanh nghiệp nhà nước. Vấn đề địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà
nước đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thích đáng. Ngay sau cách mạng
tháng Tám thành công, chúng ta đã có các văn bản pháp luật về doanh nghiệp nhà
nước.
Văn bản pháp luật đầu tiên về doanh nghiệp nhà nước là Sắc lệnh số 104/SL
do Chủ tịch nước ban hành ngày 01/01/1948. Sắc lệnh này khẳng định doanh
nghiệp quốc gia thuộc sở hữu quốc gia do Nhà nước quản lý. Nhiệm vụ của xí
nghiệp quốc gia là sản xuất ra nhiều sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của nền kinh
tế, điều phối các hoạt động kinh tế trong nước; bảo vệ kinh tế và tăng thêm tài
chính quốc gia…
Ngày 25/02/1949, Chủ tịch nước ký Sắc lệnh số 09/SL bổ sung Sắc lệnh số
104/SL về việc thành lập xí nghiệp quốc doanh. Để triển khai hai sắc lệnh đó,
Thủ tướng chính phủ đã ban hành Điều lệ tạm thời về xí nghiệp quốc gia theo
Nghị định số 214/TTg ngày 31/10/1952. Điều lệ này đã xác định vai trò chủ đạo
của xí nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế nước ta, xác định xí nghiệp quốc
doanh là pháp nhân và có trách nhiệm trước bộ chủ quản về thực hiện kế hoạch
và quản lý tài sản nhà nước.
Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Nhà nước ta bắt đầu chính thức
triển khai thực hiện những nguyên tắc và phương pháp quản lý kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, ngày 04/4/1957, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
130/TTg về việc thi hành từng bước chế độ hạch toán kinh tế để tăng cường việc
quản lý kinh doanh của xí nghiệp quốc doanh nhằm từng bước thi hành chế độ
hạch toán kinh tế để sản xuất.
Trong những năm 60, trong hoàn cảnh chiến tranh, Đảng và Nhà nước ta
không có điều kịên để thực hiện những quy định có tính nguyên tắc trên. Mãi tới

những năm 70, chúng ta mới có dịp quan tâm cải tiến công tác quản lý kinh tế ở
xí nghiệp quốc doanh. Ngày 09/01/1971, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số
11/TTg về ổn định sản xuất và cải tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh. Tuy nhiên
năm 1976 những quy định này mới được áp dụng thống nhất ở tất cả các xí
nghiệp quốc doanh.


Như vậy, để quản lý doanh nghiệp thời kỳ này, Nhà nước ta đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước
nhưng những văn bản đó còn rất sơ sài, thiếu đồng bộ và một số văn bản chỉ có
giá trị tạm thời. Thời kỳ này, Đảng và Nhà nước còn ban hành nhiều chủ trương
và quy định về quản lý xí nghiệp quốc doanh như Điều lệ xí nghiệp công nghiệp
quốc doanh kèm theo Nghị định số 93/CP và Điều lệ liên hiệp các xí nghiệp kèm
theo Nghị định số 302/CP ngày 10/12/1977 của Chính phủ. Đó là những văn bản
pháp lý quan trọng quy định tương đối đầy đủ và cụ thể các quyền và nghĩa vụ
chủ yếu của xí nghiệp quốc doanh trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Có thể
nói đó là những văn bản pháp luật quan trọng nhất về địa vị pháp lý của doanh
nghiệp thời đó. Bản điều lệ này đã xác định vị trí, vai trò của xí nghiệp công
nghiệp quốc doanh và liên hiệp các xí nghiệp quốc doanh trong hệ thống kinh tế.
Điều lệ cũng hoàn thiện thêm một bước về cơ chế quản lý trong nội bộ doanh
nghiệp.
Đối với doanh nghiệp tập thể, trong cơ chế quản lý kinh tế tập trung bao cấp
có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đã
được ghi nhận trong các văn bản pháp lý khác nhau ngay từ khi Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà ra đời.
Kinh tế tập thể được tổ chức với nhiều hình thức khác nhau như: tổ hợp tác,
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong nhiều ngành kinh tế quốc dân, như: nông
nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải, thuỷ
sản, làm muối, mua bán, tín dụng, tiêu thụ… Tất cả các tổ chức kinh tế này được
gọi chung là doanh nghiệp tập thể.

1.1.2. Pháp luật về doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng và nhất là sau Hội nghị
Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ III (khoá VI), quan điểm của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về doanh nghiệp đã có nhiều thay đổi quan
trọng. Nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời, vị trí, vai trò chức năng của doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể có thay đổi đòi hỏi phải có những thay đổi
thích hợp trong chế định về địa vị pháp lý của chúng, tạo điều kịên pháp lý cho
chúng hoạt động hoạt động có hiệu quả trong môi trường mới. Đáp ứng nhu cầu
cấp thiết đó, Nhà nước liên tiếp ban hành những văn bản pháp luật xác định vị trí,
chức năng, nhiệm vụ… của các loại hình doanh nghiệp, điều chỉnh kịp thời
những quan hệ mới phát sinh. Cụ thể như: Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990,
luật Công ty năm 1990, luật Phá sản năm 1994, luật Thương mại năm 1997…
Ngày 12/6/1999 Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá X đã thông qua Luật Doanh
nghiệp thay thế cho Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990. Luật Doanh nghiệp
năm 1999 ra đời đã đánh dấu một mốc son trên con đường hoàn thiện khung pháp
luật về các loại hình doanh nghiệp ở nước ta. Gần đây nhất, ngày 29/11/2005,


Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật doanh
nghiệp thay thế cho Luật doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp nhà nước
năm 2003 và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 (sửa đổi, bổ sung
năm 2000). Luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời thể hiện sự thống nhất trong việc
điều chỉnh địa vị pháp lý của các doanh nghiệp ở Việt Nam trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2. Khái niệm chung về doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp
Trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế ở bất kỳ một quốc gia
nào, doanh nghiệp cũng là một đơn vị cơ sở, một tế bào của cả nền kinh tế, là
nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội, là nơi trực tiếp phối hợp các

yếu tố sản xuất một cách hợp lý để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ một cách có
hiệu quả nhất.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và thông tin, các
hình thức tổ chức doanh nghiệp ngày càng đa dạng, các loại sở hữu doanh
nghiệp ngày càng phong phú.
Có nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp:
Theo quan điểm của nhà tổ chức: Doanh nghiệp là tổng thể các
phương tiện, máy móc, thiết bị và con người được tổ chức lại nhằm đạt được
một mục đích.
Theo quan điểm mục tiêu cơ bản cho mọi hoạt động của mọi doanh
nghiệp là lợi nhuận: Doanh nghiệp là một tổ chức sản xuất, thông qua đó,
trong khuôn khổ một số tài sản nhất định người ta kết hợp nhiều yếu tố sản
xuất khác nhau nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ để bán trên thị trường nhằm
thu về một khoản chênh lệch giữa giá thành và giá bán sản phẩm.
Theo quan điểm chức năng: Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh
doanh nhằm thực hiện một, hoặc một số, hoặc tất cả các công đoạn trong quá
trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, hoặc thực hiện các nhiệm vụ
nhằm mục đích sinh lãi.
Theo quan điểm lý thuyết hệ thống: Doanh nghiệp là một bộ phận hợp
thành trong hệ thống kinh tế, mỗi đơn vị trong hệ thống đó phải chịu sức tác
động tương hỗ lẫn nhau, phải tuân thủ những điều kiện hoạt động mà nhà
nước đặt ra cho hệ thống kinh tế đó nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng của
xã hội.
Ở nước ta, Điều 4, Khoản 1 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định: "Doanh
nghiệp" là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định,
được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện
các hoạt động kinh doanh”.
1.2.2. Phân loại doanh nghiệp



Về lý thuyết cũng như thực tiễn có thể phân loại doanh nghiệp theo những
dấu hiệu khác nhau.
Nếu xét từ dấu hiệu sở hữu (tính chất sở hữu của những vốn và tài sản được
sử dụng để thành lập doanh nghiệp - sở hữu vốn) người ta có thể chia doanh
nghiệp thành:
- Doanh nghiệp nhà nước
- Doanh nghiệp tư nhân
- Doanh nghiệp tập thể
- Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị - xã hội
- Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
- Công ty cổ phần
- Công ty hợp danh
Nếu xem xét theo dấu hiệu về phương thức đầu tư vốn, có thể chia doanh
nghiệp thành:
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm doanh nghiệp liên doanh
và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài).
2. Địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước
2.1. Khái niệm và đặc điểm doanh nghiệp nhà nước
2.1.1. Khái niệm Doanh nghiệp nhà nước
Thuật ngữ Doanh nghiệp nhà nước được sử dụng chính thức trong Nghị
định số 388/HĐBT ngày 20/11/1991 ban hành qui chế về thành lập và giải thể
Doanh nghiệp nhà nước (trước đó thường được gọi là Công ty hay Xí nghiệp
quốc doanh). Điều 1, Nghị định này nêu: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức
kinh doanh do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách chủ sở hữu.
Doanh nghiệp nhà nước là pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật và bình
đẳng trước pháp luật”.
Năm 1995, Luật Doanh nghiệp nhà nước lần đầu tiên được ra đời, hình
thành khung pháp lý quan trọng trong lĩnh vực kinh tế nhà nước và đã phát huy

hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển kinh tế nhiều thành phần,
hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 đã
thể hiện những bất cập, cần có một văn bản pháp luật mới, phù hợp với tình hình
thực tiễn phát triển của nền kinh tế, do đó, ngày 20/11/2003 tại kỳ họp thứ 4
Quốc hội khoá XI đã nhất trí thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước mới thay
thế cho Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995.
Tại Điều 1, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003, có hiệu lực ngày 01
tháng 7 năm 2004 định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước như sau:


“Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn
điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty
nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”.
Theo nghĩa đó, doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước thành lập, cho phép
thành lập hoặc công nhận và tổ chức (trực tiếp hoặc gián tiếp) quản lý kinh doanh
hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà
nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền, nghĩa vụ
dân sự và tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong
phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
2.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước
Thứ nhất, đặc điểm về sở hữu: doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do
nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối.
Đó là những doanh nghiệp do nhà nước đầu tư toàn bộ vốn điều lệ để thành
lập hoặc là những doanh nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của nhà nước chiếm
trên 50% vốn điều lệ.
Thứ hai, đặc điểm về quyền quyết định hoặc quyền chi phối đối với doanh
nghiệp: Vì doanh nghiệp nhà nước do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc
có cổ phần, vốn góp chi phối nên nhà nước có toàn quyền định đoạt đối với
doanh nghiệp hoặc quyền định đoạt đối với điều lệ hoạt động, đối với việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý chủ chốt, đối với việc tổ

chức, quản lý và các quyết định quản lý quan trọng khác của doanh nghiệp.
Thứ ba, đặc điểm về hình thức tồn tại: doanh nghiệp nhà nước hiện nay rất
đa dạng, nó có thể được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như: công ty nhà
nước, công ty cổ phần nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một
thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước có từ hai thành viên trở lên,
doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của nhà nước.
Thứ tư, đặc điểm về tư cách pháp lý và trách nhiệm tài sản: doanh nghiệp
nhà nước là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, thực hiện hạch toán kinh
doanh, lấy thu bù chi và phải bảo đảm có lãi để tồn tại và phát triển. Doanh
nghiệp nhà nước có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng đó về
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (trách nhiệm hữu hạn).
Như vậy, doanh nghiệp nhà nước độc lập cả về kinh tế và pháp lý. Trong cơ
chế thị trường hiện nay, nhà nước không chịu trách nhiệm thay cho doanh nghiệp
mà doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước nhà nước về số vốn mà nhà nước
đầu tư vào doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước khách hàng bằng tài sản của
doanh nghiệp.
2.2. Các loại hình doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau:


a. Dựa theo hình thức tổ chức: Doanh nghiệp nhà nước được chia ra các
loại sau đây
- Công ty nhà nước
Là doanh nghiệp do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ. Nhà nước thành
lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động công ty nhà nước theo quy định của Luật
doanh nghiệp nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định số
180N/2004/NĐ-CP ngày 28/10/2004).
Công ty nhà nước tồn tại dưới hình thức công ty nhà nước độc lập và tổng
công ty nhà nước.
- Công ty cổ phần nhà nước

Là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty nhà nước hoặc tổ
chức được nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo Luật
doanh nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên
Là công ty trách nhiệm hữu hạn do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ,
được tổ chức quản lý và đăng ký hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp
- Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước có từ hai thành viên trở lên
Là công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó tất cả các thành viên đều là công ty
nhà nước hoặc có thành viên là công ty nhà nước và thành viên khác được nhà
nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh
nghiệp.
- Doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của nhà nước
Là doanh nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của nhà nước chiếm trên 50%
vốn điều lệ, nhà nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó.
b. Dựa theo nguồn vốn, doanh nghiệp nhà nước có thể chia ra các loại
sau
- Doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước sở hữu 100% vốn
Đó là các công ty nhà nước, công ty cổ phần nhà nước, công ty trách nhiệm
hữu hạn nhà nước một thành viên, Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước có từ
hai thành viên trở lên.
- Doanh nghiệp do nhà nước có cổ phần, vốn góp chi phối
Đó là các công ty cổ phần mà nhà nước chiếm trên 50% cổ phiếu, Công ty
trách nhiệm hữu hạn mà nhà nước chiếm trên 50% phần vốn góp.
Trong loại doanh nghiệp này có sự đan xen sở hữu nhà nước và sở hữu của
các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác.
c. Dựa theo mô hình tổ chức quản lý, doanh nghiệp nhà nước có thể được
chia ra các loại sau đây:


- Doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị

Là doanh nghiệp nhà nước mà ở đó hội đồng quản trị là cơ quan đại diện
trực tiếp chủ sở hữu nhà nước thực hiện chức năng quản lý hoạt động của doanh
nghiệp và chịu trách nhiệm trước nhà nước về kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp nhà nước không có hội đồng quản trị
Là doanh nghiệp nhà nước mà ở đó giám đốc doanh nghiệp được nhà nước
bổ nhiệm hoặc thuê để điều hành hoạt động của doanh nghiệp và phải chịu trách
nhiệm trước nhà nước về kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2. Nội dung cơ bản trong địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước
2.2.1. Thành lập và giải thể doanh nghiệp nhà nước
Như trên đã trình bày, doanh nghiệp nhà nước tồn tại dưới nhiều hình thức
khác nhau nhưng chỉ có công ty nhà nước là được tổ chức và quản lý theo Luật
doanh nghiệp nhà nước năm 2003. Vì vậy, doanh nghiệp nhà nước ở đây chỉ đề
cập đến Công ty nhà nước.
a. Thành lập công ty nhà nước: Bao gồm 5 bước sau
Công ty nhà nước được thành lập mới ở những ngành, lĩnh vực, địa bàn sau
đây:
- Ngành, lĩnh vực cung cấp sản phẩm, dịch vơ thiết yếu cho xã hội;
- Ngành, lĩnh vực ứng dơng công nghư cao, tạo động lực phát triển nhanh
cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế, đòi hỏi đầu tư lớn;
- Ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh cao;
- Địa bàn có điều kịên kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà các thành phần
kinh tế khác không đầu tư.
Theo quy định, có hai loại thủ tục là xin phép thành lập và đăng ký kinh
doanh.
Bước 1: Đề nghị thành lập công ty nhà nước:
Phải do Thủ trưởng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề nghị (Thủ
trưởng của cơ quan sáng lập công ty nhà nước) như: Bộ trưởng các Bộ, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh.

Người đề nghị thành lập công ty nhà nước phải căn cứ vào danh mục những
ngành nghề do Thủ tướng Chính phủ ban hành và lập hồ sơ thành lập, gửi đến
người có thẩm quyền quyết định thành lập công ty nhà nước.
Hồ sơ thành lập công ty nhà nước gồm có:
+ Tờ trình đề nghị thành lập công ty nhà nước;
+ Đề án thành lập công ty nhà nước (Đề án thành lập phải đầy đủ các yêu
cầu: Danh mục sản phẩm, nhu cầu thị trường, dịch vụ của công ty địa điểm công


ty, diện tích đất sử dụng, khả năng cung ứng lao động và các điều kiện cần thiết
khác, dự kiến tổng vốn đầu tư, luận chứng khả thi về hiệu quả kinh tế - xã hội,
báo cáo đánh gía tác động môi trường, dự kiến mô hình quản lý, nếu là công ty
xây dựng mới thì phải có cả dự án thành lập mới).
+ Dự thảo điều lệ Công ty;
+ Đơn xin giao đất, thuê đất;
+ Đơn đề nghị ưu đãi đầu tư (nếu có).
Bước 2: Lập hội đồng thẩm định
Trước khi ra quyết định thành lập mới công ty nhà nước, người có thẩm
quyền quyết định thành lập công ty nhà nước phải lập hội đồng thẩm định để
thẩm định đề án thành lập mới công ty nhà nước. Hội đồng thẩm định xem xét
các điều kịên thành lập mới công ty nhà nước được quy định tại điều 8 Luật
doanh nghiệp nhà nước.
Bước 3: Quyết định thành lập công ty nhà nước
+ Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập mới công ty đặt biệt quan
trọng, chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt, làm nòng cốt thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước,
+ Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan
thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập mới
công ty nhà nước không thuộc đối tượng qui định như đối với Thủ tướng chính
phủ.

Như vậy, trong một số trường hợp người đề nghị thành lập công ty nhà nước
đồng thời là người ký quyết định thành lập công ty nhà nước hoặc được ký ủy
quyền.
Khi quyết định thành lập công ty nhà nước thì người có thẩm quyền quyết định
thành lập công ty nhà nước phải đồng thời bổ nhiệm xong Chủ tịch Hội đồng quản trị,
thành viên Hội đồng quản trị (nếu là công ty nhà nước có Hội đồng quản trị), Giám
đốc công ty (hoặc ký hợp đồng thuê giám đốc công ty) nếu công ty không có Hội
đồng quản trị.
Bước 4: Đăng ký kinh doanh
Muốn tiến hành hoạt động kinh doanh, công ty phải đăng ký kinh doanh tại
phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh, nơi công ty có trụ sở chính trong thời hạn
sáu mươi ngày kể từ ngày có quyết định thành lập. Công ty nhà nước có tư cách
pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau khi
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty mới được tiếp nhận vốn
đầu tư từ ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn để đầu tư xây dựng công ty và
hoạt động kinh doanh. Nếu công ty kinh doanh những ngành nghề có điều kịên
thì chỉ được kinh doanh khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép kinh
doanh.


Bước 5: Đăng báo
Là việc công ty nhà nước thông báo cho các đối tác khác biết trong thời hạn
ba mươi ngày kể từ ngày được cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, công ty phải
đăng trên báo năm kỳ liên tiếp (bao gồm báo địa phương và báo trung ương), nội
dung đăng báo bao gồm: địa chỉ giao dịch của công ty, vốn, ngành nghề, tên
người đại diện hợp pháp của công ty …
b. Tổ chức lại công ty nhà nước
Trong quá trình tồn tại, để hoạt động có hiệu quả hơn, công ty nhà nước có
thể được sắp xếp, tổ chức lại. Các hình thức tổ chức lại công ty nhà nước không
làm thay đổi sở hữu của công ty bao gồm: Sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển

công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên
hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước hai thành viên trở lên; chuyển tổng
công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập thành tổng công ty do các
công ty tự đầu tư và thành lập; giao, khoán, cho thuê công ty nhà nước và các
hình thức khác theo quy định của pháp luật.
c. Giải thể công ty nhà nước
Giải thể công ty nhà nước là để chấm dứt sự tồn tại của công ty, chấm dứt
hoạt động kinh doanh của công ty và xóa tên công ty trong sổ đăng ký kinh
doanh. Theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 và Nghị định 180/2004/NĐCP ngày 28/10/2004, công ty nhà nước bị xem xét giải thể trong các trường hợp
sau đây:
- Hết thời hạn hoạt động ghi trong quyết định thành lập mà công ty không
xin gia hạn;
- Công ty kinh doanh thua lỗ 3 năm liên tiếp và có số lỗ luỹ kế bằng 3/4 vốn
nhà nước tại công ty trở lên, nhưng chưa lâm vào tình trạng phá sản;
- Công ty không thực hiện được các nhiệm vụ do Nhà nước giao trong thời
gian 02 năm liên tiếp sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết;
- Việc tiếp tục duy trì công ty là không cần thiết;
Người quyết định thành lập công ty nhà nước có thẩm quyền quyết định giải
thể công ty nhà nước. Người quyết định giải thể doanh nghiệp nhà nước phải
thành lập một hội đồng giải thể. Hội đồng giải thể làm tham mưu cho người
quyết định giải thể và tổ chức thực hiện giải thể công ty. Trình tự và thủ tục giải
thể doanh nghiệp nhà nước được quy định cụ thể trong Nghị định 180/2004/NĐCP của Chính phủ ngày 28/10/2004.
d. Chuyển đổi sở hữu công ty nhà nước


×