Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế CHÍNH TRỊ QUAN điểm của hồ CHÍ MINH về sự lựa CHỌN CON ĐƯỜNG xã hội CHỦ NGHĨA và bản CHẤT KINH tế CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.36 KB, 10 trang )

1
Chuyên đề
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH
VỀ SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ BẢN CHẤT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa
1.1. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là qui luật nhất định trong sự phát triển xã hội.
Kế thừa và phát triển các luận điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin,
Hồ Chí Minh đã chứng minh quá trình thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa bằng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa tất yếu khách quan.
Hồ Chí Minh viết: “Lịch sử loài người là do người lao động sáng tạo ra,
người lao động sáng tạo ra của cải, luôn luôn nâng cao sức sản xuất. Sản xuất
phát triển tức là xã hội phát triển. Chế độ nào hợp với sức sản xuất thì đứng vững.
Nếu không hợp thì giai cấp đại biểu cho sức sản xuất mới sẽ nổi lên cách mạng lật
đổ chế độ cũ. Hiện nay chủ nghĩa tư bản có mâu thuẫn to, nó không giải quyết
được. Một là, nhà tư bản sản xuất hàng hoá quá nhiều , quá mau, nhưng không
bán được; hai là, tính chất sản xuất là công cộng mà tư liệu sản xuất thì nằm
trong tay một số ít người...chỉ có chế độ cộng sản mới giải quyết được mâu
thuẫn ấy”1
Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con
đường nào khác là con đường cách mạng vô sản” 2 và “chỉ có chủ nghĩa cộng
sản, mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc,
nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bắc ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm
cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình hạnh phúc, nói tóm lại là nền
cộng hoà thế giới chân chính”3.
Người viết: “Con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội của các dân tộc là con
đường chung của thời đại, của lịch sử, không ai ngăn cản nổi.” 4
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là qui luật nhất định trong sự phát triển xã hội.
Hồ Chí Minh lập luận: “Từ xưa đến nay chế độ công cộng nguyên thuỷ sụp đổ
1
2


3
4

Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh

toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr.246.
toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.9, tr. 314.
toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.1, tr. 461.
toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.8, tr. 449.


2
là do chế độ nô lệ thay thế. Chế độ nô lệ sụp đổ là do chế độ phong kiến thay
thế... đó là qui luật nhất định trong sự phát triển của xã hội.
Người viết: “Cách mạng Nga thành công, mặt trận đế quốc và tư bản thế
giới đã tan vỡ một phần sáu trên quả đất, đồng thời đã lập thành một chế độ xã
hội chủ nghĩa vững chắc. Tiếp đến cách mạng các nước dân chủ nhân dân
Trung, Đông Âu thành công, xây dựng và phát triển nền dân chủ mới. Vì vậy
cách mạng Việt Nam phải làm cách mạng dân chủ mới.”5 (tức cách mạng dân
chủ gắn với chủ nghĩa xã hội).
Những giá trị của cuộc cách mạng dân chủ mới về mặt lý luận là quan
trọng, nhưng vấn đề quan trọng hơn là tìm ra con đường để thực hiện những giá
trị này. Theo Hồ Chí Minh, muốn nâng cao đời sống nhân dân, phải tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Nâng cao đời sống toàn dân là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm
nghiệm tính chất xã hội chủ nghĩa của các lý luận chủ nghĩa xã hội và chính sách
thực tiễn.

Nếu trượt ra khỏi quỹ đạo đó thì hoặc là chủ nghĩa xã hội giả hiệu, hoặc
không có gì tương thích với chủ nghĩa xã hội. Quan điểm này có ý nghĩa sâu sắc
đối với các thế hệ người Việt Nam trong quá trình xây dựng một xã hội mới.
1.2. Điều kiện để tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội
* Điều kiện trong nước
- “Tư tưởng của giai cấp công nhân (tư tưởng Mác - Lênin) là tư tưởng lãnh
đạo, ngày càng phát triển và củng cố.”6
Nghĩa là Đảng lãnh đạo cách mạng phải có đường lối đúng, trong đó xác định
chính xác tiến trình của cuộc cách mạng dân chủ mới.
Hồ Chí Minh viết:
“Tính chất thuộc địa và phong kiến của xã hội Việt Nam khiến cách mạng
Việt Nam phải chia làm hai bước. Bước thứ nhất là đánh đế quốc, đánh phong kiến
thực hiện người cày có ruộng; bước thứ hai là tiến lên chủ nghĩa xã hội giai đoạn
5
6

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr.210.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr. 247-248.


đầu của chủ nghĩa cộng sản''

7

3
“Dưới sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công

nhân, nhân dân đánh đổ đế quốc và phong kiến. Trên nền tảng công nông liên
minh, nhân dân lao động làm chủ nước nhà, xây dựng nhân dân dân chủ chuyên
chính, nghĩa là dân chủ với nhân dân, chuyên chính (trừng trị) bọn phản động.”

“Chỉ có sự lãnh đạo của một Đảng biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước mình mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc
đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công.” 8
- Phải tổ chức các đoàn thể cách mạng để tập hợp nhân dân trong mặt trận
dân tộc thống nhất tạo sức mạnh tổng hợp trên nền tảng liên minh công nông thì
cách mạng dân tộc dân chủ mới thành công và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng Lao động kiên quyết lãnh đạo giai cấp
công nhân và nhân dân lao động (dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân có
đoàn thể cách mạng chắc chắn của nó như: công đoàn, nông hội, hội thanh
niên, hội phụ nữ...) thực hiện dân chủ mới và tiến dần đến chủ nghĩa xã hội
(cộng sản).”9
“Mục đích của Đảng là lãnh đạo nhân dân kháng chiến thắng lợi, kiến
quốc thành công, thực hiện dân chủ mới, tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi đến chủ
nghĩa cộng sản.” 10
* Điều kiện ngoài nước
Phải có sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước anh em trên thế giới.
Hồ Chí Minh viết: “Trong nước thì nhân dân ta hăng hái kháng chiến, thi
đua sản xuất; quyết tâm phấn đấu, quyết tâm tiến lên. Trên thế giới thì có phe
dân chủ hoà bình ủng hộ ta. Vì những lẽ đó ta nhất định thành công.”11
Tóm lại: Quan điểm nhất quán xuyên suốt của Hồ Chí Minh về sự lựa
chọn con đường của cách mạng Việt Nam là con đường xã hội chủ nghĩa không
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Quan điểm đó đã được thực tiễn kiểm
nghiệm, thể hiện một cách sinh động và sáng tạo trong suốt quá trình phát triển
7

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr. 249
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.8, tr. 303.
9
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr. 247-248.
10

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr. 243.
11
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr. 247-248.
8


4
của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội
2.1. Hai giai đoạn của xã hội cộng sản chủ nghĩa phản ánh trình độ
cao, thấp trong quá trình phát triển
Kế thừa và vận dụng sáng tạo các quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra qun điểm về sự giống nhau và khác nhau giữa
hai giai đoạn của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Quan điểm này có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với việc hoạch
định đường lối, chủ trương, chiến lược, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội trong
mỗi giai đoạn cách mạng, mà trước tiên là giai đoạn chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh viết:
“Cộng sản có hai giai đoạn, giai đoạn thấp tức chủ nghĩa xã hội, giai đoạn
cao tức chủ nghĩa cộng sản.
Hai giai đoạn ấy giống nhau ở nơi: sức sản xuất đã phát triển cao; nền
tảng kinh tế thì tư liệu sản xuất đều là của chung, không có giai cấp áp bức bóc
lột.
Hai giai đoạn ấy khác nhau ở nơi: chủ nghĩa xã hội vẫn còn chút ít vết tích
của xã hội cũ; xã hội cộng sản thì hoàn toàn không còn vết tích của xã hội cũ.”12
2.2. Những đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản là xã hội dựa trên chế độ công hữu, năng suất lao động
cao, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Hồ Chí Minh viết: “Cộng sản là nhà máy, ruộng đất đều là của chung;
lao động cũng chung của toàn dân. Cộng sản là chế độ xã hội không có chế độ

tư hữu, không có giai cấp áp bức bóc lột, là của cải đều của chung, sức sản xuất
cao, nhân dân lao động hoàn toàn giải phóng và rất tự do, sung sướng.” 13
Hồ Chí Minh đã trích dẫn lời của Đại nguyên soái Xtalin khi nói về đặc
điểm của chủ nghĩa cộng sản thể hiện ở ba điểm và có sự bổ sung, phát triển:
“1- Mọi ngành sản xuất phát triển rất cao và không ngừng.
2- Nông trường công cộng biến dần thành của chung cả nhân dân.
12
13

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr. 244.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr. 243-244.


5
3- Nâng văn hoá lên thật cao (bớt giờ làm việc, mỗi ngày chỉ làm độ 5, 6
giờ, để cho mọi người đủ thì giờ học văn hoá và kỹ thuật).
Đồng thời phải tăng lương bổng cho công nhân và công chức, tiếp tục
giảm giá hàng, luôn luôn nâng cao mức sinh hoạt của mọi người.
Dưới chế độ cộng sản, nguyên tắc là ‘Mọi người làm hết tài năng; ai cần
dùng gì có nấy’.
Nghĩa là: lúc đó mọi người đều có đạo đức; đối với mọi việc, ai cũng
xung phong. Sản xuất thứ gì cũng phong phú. Cho nên ai cần gì có nấy. Cố
nhiên tiêu dùng hợp lý và đúng mực, chứ không phải vì giàu mà lãng phí.
...Đến ngày cộng sản thực hiện khắp thế giới, thì sẽ không còn giai cấp
chống nhau, dân tộc chống nhau; sẽ hết áp bức, hết chiến tranh. Toàn thế giới
sẽ sống như anh em. Mọi người đều tự do, bình đẳng, sung sướng.
Lúc đó, thì bộ máy nhà nước cũng không cần nữa. Song xã hội vẫn cần có
những cơ quan để lãnh đạo công việc kinh tế và văn hoá; chứ không phải cộng
sản là hoàn toàn không tổ chức, không kỷ luật.”14
2.3. Bản chất đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.

* Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã
hình thành một hệ thống quan điểm hết sức đặc sắc về chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Khi tiếp cận lý luận chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có nhiều cách định
nghĩa khác nhau:
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội hoàn chỉnh đối lập
với chế độ tư bản chủ nghĩa;
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra các mặt riêng biệt của nó
(về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, quan hệ quốc tế…);
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách nêu bật mục tiêu (tổng quát và cụ
thể) của nó, v.v.
Trong các cách tiếp cận đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến cách tiếp cận
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, mục tiêu là sự thể hiện cô đọng nhất các bản
chất đặc trưng, tính ưu việt vốn hàm chứa trong chế độ xã hội tương lai mà chúng ta
14

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr. 245-246.


6
xây dựng. Tiếp cận chủ nghĩa xã hội về phương diện mục tiêu là một nét đặc sắc,
thể hiện phong cách và năng lực tư duy lý luận khái quát của Hồ Chí Minh.
Điểm then chốt, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng của Hồ Chí
Minh là đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể trong mỗi giai đoạn xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Chính thông qua quá trình đề ra các mục tiêu đó, chủ
nghĩa xã hội được biểu hiện với việc thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích thiết yếu của
người lao động, theo các nấc thang từ thấp đến cao, tạo ra tính hấp dẫn, năng
động của chế độ xã hội mới.
Vào những năm hai mươi thế kỷ XX, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu
chung của chủ nghĩa xã hội là đảm bảo cho mọi người không phân biệt chủng
tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no, việc làm cho mọi

người và niềm vui, hoà bình, hạnh phúc cho mọi người. Nghĩa là, chủ nghĩa xã
hội hướng tới bảo đảm các giá trị làm người chân chính trong quá trình phát
triển các quan hệ xã hội mang đúng bản chất người cao quý.
Vào những năm năm mươi, sáu mươi, khi miền Bắc trực tiếp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Người xác định rõ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là thoả mãn
các nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người: chủ nghĩa xã hội trước hết
nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có
công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc; hoặc ở mức độ khái
quát cao hơn: mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là không ngừng cải thiện và nâng
cao đời sống của nhân dân, cả đời sống vật chất và cả đời sống tinh thần. Đây là
cách diễn đạt Người thường dùng nhất.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về khát vọng, về mục tiêu cao cả của chế độ
xã hội mới - chủ nghĩa xã hội - rất gần với triết lý nhân sinh của Phật giáo: “Dĩ
chúng tâm vi kỷ tâm” (lấy cái tâm của người khác làm cái tâm của chính mình).
Vì thế, cách nói và diễn đạt này dễ đi vào lòng người, dễ được chấp nhận, bởi nó
không hoàn toàn xa lạ với tâm thức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bằng
cách xác định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho thấy, khi đề cập
đến một vấn đề hiện đại, Người vẫn đứng trên mảnh đất cội rễ truyền thống Việt
Nam, tạo nên một dòng chảy văn hoá liền mạch từ quá khứ, qua hiện tại, để


7
hướng tới tương lai theo một hệ chuẩn giá trị nhất quán, nhân văn và nhân đạo.
Theo Hồ Chí Minh, hiểu mục đích của chủ nghĩa xã hội, nghĩa là nắm bắt
nội dung cốt lõi con đường lựa chọn và bản chất thực tế xã hội mà chúng ta phấn
đấu xây dựng. Hồ Chí Minh có nhiều cách đề cập mục đích của chủ nghĩa xã hội.
Có khi Người trả lời một cách trực tiếp: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì?
Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”15. Hay “mục đích của
chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân” 16. Hoặc

Người diễn giải mục đích tổng quát này thành các tiêu chí cụ thể: “Chủ nghĩa xã
hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được
đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập
quán không tốt dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất
ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” 17. Nhiều khi
Người nói một cách gián tiếp, không nhắc đến chủ nghĩa xã hội, nhưng xét về bản
chất, đó cũng chính là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội theo quan niệm của Người.
Kết thúc bản Tài liệu tuyệt đối bí mật (sau gọi là Di chúc), Hồ Chí Minh viết:
“Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn
kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ
và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”18.
* Chỉ rõ và nêu bật mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng
định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch
sử, chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con người một cách toàn diện, theo các cấp độ: từ
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xã hội đến giải phóng từng cá nhân con
người, hình thành các nhân cách phát triển tự do. Quan niệm này của Hồ Chí
Minh hoàn toàn thống nhất với quan điểm mác-xít khi nói về xã hội tương lai,
với tư cách là một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện phát triển tự do của tất cả mọi người và đạt đến chiều sâu nhất, triệt để nhất.
Bằng chứng cho sự phân tích trên trên đây là quan điểm của Hồ Chí Minh
15

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t.10, tr.271.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t.10, tr.159.
17
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t.10, tr. 191.
18
Sđd, t.12, tr.506.
16



8
trong “Thường thức chính trị”, được viết vào năm 1953:
“Căn cứ theo tình hình thực tế ở Liên Xô, thì thấy đặc điểm của chủ nghĩa xã hội là:
1- Công cụ sản xuất và tư liệu sản xuất đều là của chung. Ở nông thôn thì có
nông trường chung. Ngoài nông trường, nông dân vẫn có ít của riêng như: nhà ở,
lợn gà, vườn trồng rau, một con bò sữa, nghề phụ, v.v..
2- Tư bản, địa chủ, phú nông không có nữa.
Chỉ có công nhân và nông dân. Không ai bóc lột họ; cố nhiên họ cũng không
bóc lột ai.
Khoa học ngày càng phát triển, máy móc ngày càng nhiều, cho nên công
nhân và nông dân ngày càng đỡ khó nhọc.
3- Nguyên tắc sinh hoạt là: Ai không làm thì không được ăn và làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít.
4- Kinh tế có kế hoạch. Cả nước có một kế hoạch chung. Mỗi ngành theo kế
hoạch chung đó mà đặt kế hoạch riêng: Sản xuất thứ gì và bao nhiêu. Mục đích
là nâng cao đời sống của nhân dân và củng cố quốc phòng của Tổ quốc. Do kinh
tế có kế hoạch mà không có nạn khủng hoảng, không có nạn thất nghiệp; mà sức
sản xuất thì phát triển mau chóng.
5- Không có sự đối lập giữa thành thị và thôn quê, giữa lao động chân tay và
lao động trí óc. Vì thôn quê ngày càng văn minh, công nông ngày càng thông thái.
Đặc điểm của chủ nghĩa xã hội tóm tắt là như vậy.” 19
Hồ Chí Minh khẳng định: “Để thực hiện hoàn toàn dân chủ mới (là bước đầu
để tiến dần đến chế độ cộng sản) thì mọi người, trước hết là những người đảng
viên phải làm kiểu mẫu:
1- Ra sức đoàn kết đánh đổ thực dân và phong kiến, kháng chiến đến thắng
lợi hoàn toàn, ra sức củng cố chính quyền nhân dân.
2- Ra sức thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, chống quan liêu, tham ô, lãng phí.
3- Ra sức nâng cao trình độ văn hoá và giác ngộ chính trị của nhân dân lao
động. Giúp đỡ anh em trí thức cải tạo tư tưởng, cải tạo con người, thành người

trí thức của cách mạng.
19

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr.244- 245.


9
4- Ra sức củng cố Đảng, làm cho Đảng ngày càng lớn, càng mạnh, để lãnh
đạo nhân dân đấu tranh đến thắng lợi hoàn toàn.
Chúng ta cần phải đấu tranh lâu dài và gian khổ để đạt mục đích ấy. Nhưng
chúng ta nhất định đạt được, vì Đảng ta kiên quyết, dân ta hăng hái...Chúng ta
có quyết tâm: quyết tâm học tập, quyết tâm kháng chiến, quyết tâm công tác,
quyết tâm vượt mọi khó khăn, thì chúng ta nhất định thắng lợi.”20
Sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân và tiến hành xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn thách thức, song một khi có
hướng đi đúng, có quyết tâm thay đổi, vượt qua mọi khó khăn, nhất định chúng
ta sẽ giành được thắng lợi. Hồ Chí Minh viết: “Cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây
dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta.
Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến
có gốc rễ từ ngàn năm, chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xoá bỏ giai
cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có áp bức bóc lột. Muốn thế,
chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một
nước công nghiệp…Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một
nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc” 21 và “phải xây dựng nền
tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.”22
3. Đảng ta vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về con đường lên chủ nghĩa
xã hội và bản chất đặc trưng của chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con đường chủ nghĩa xã hội và mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, phát triển và ngày

càng hoàn thiện dần cùng với sự phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội
nói chung. Điều này được thể hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991). Qua hơn 25 năm đổi mới, Đảng ta
luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn: “Theo qui luật tiến hóa
của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”23.
20

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr.248 - 249.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.8, tr.493 - 494.
22
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.10, tr. 13.
23
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG-ST. Hà Nội -2011.
21


10
Quan niệm về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đã được Đại hội XI của Đảng
sửa đổi, bổ sung và diễn đạt lại: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.”24
Kết luận
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi cơ bản nhất, trên

cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng đó trở
thành tài sản vô giá, là cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta, đồng thời xác định hình thức, biện
pháp và bước đi lên CNXH phù hợp với đặc điểm dân tộc và xu thế vận động
của thời đại ngày nay.

24

Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. CTQG, H - 2011, tr. 70.



×