Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN BIỂN đảo và PHÁT TRIỂN KINH tế BIỂN đảo gắn với bảo đảm QUỐC PHÒNG AN NINH ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.83 KB, 22 trang )

1

BIỂN ĐẢO VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN ĐẢO GẮN VỚI
CỦNG CỐ, ĐẢM BẢO QUỐC PHÒNG – AN NINH Ở NƯỚC TA
================================================
MỞ ĐẦU
Nghị quyết 09 - NQ/ TW ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt
Nam đến năm 2020” nhấn mạnh: “Thế kỷ XXI được thế giới xem là “thế kỷ
của đại dương”. Khẳng định điều này bởi hiện nay cũng như các quốc gia có
biển, Việt Nam rất quan tâm đến biển và coi trọng việc xây dựng chiến lược
biển. Đặc biệt với nước ta có vùng biển trong khu vực biển Đông, nơi có vị
trí địa kinh tế và địa chính trị rất quan trọng…Với nguồn tài nguyên thiên
nhiên phong phú và đa dạng, ngày nay biển càng có vai trò to lớn hơn đối
với sự nghiệp phát triển đất nước. Vai trò to lớn này không chỉ đối với kinh
tế mà cả với quốc phòng – an ninh. Tuy nhiên trên thực tế ở nước ta, vai trò
này của biển đảo không những chưa được phát huy tương xứng với tiềm
năng mà còn đang chứa đựng nhiều vấn đề phức tạp, cả trực tiếp và gián tiếp
ảnh hưởng đến quốc phòng – an ninh của đất nước. Vấn đề đặt ra là làm thế
nào để vừa phát triển kinh tế biển đảo, khai thác nguồn lợi từ biển đảo phục
vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức, vừa làm cho sức mạnh quốc phòng – an ninh biển đảo nói riêng và sức
mạnh quốc phòng – an ninh cả nước nói riêng được tăng cường, củng cố.
Giải quyết vấn đề này, một trong những giải pháp cơ bản, quan trọng mang
tính quy luật ở nước ta là “phát triển kinh tế biển, đảo gắn với củng cố,
đảm bảo quốc phòng - an ninh” hay nói cách khác đây chính là kết hợp
kinh tế biển đảo với quốc phòng - an ninh.


2

1. Đặc điểm biển đảo Việt Nam và vai trò của nó đối với phát triển


kinh tế và củng cố quốc phòng - an ninh.
Là một nước nằm trên bán đảo Đông Dương thuộc vùng Đông Nam
châu Á, lãnh thổ của Việt Nam bao gồm hơn 331 nghìn ki-lô-mét vuông trên
đất liền và cả một vùng biển rộng khoảng một triệu ki-lô-mét vuông. Vùng
biển của nước ta tiếp giáp với vùng biển nhiều nước. Phía bắc giáp với vùng
biển Trung Quốc; phía đông, nam và tây nam giáp với vùng biển các nước
Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Cam-pu-chia và Thái Lan.
Vùng biển Việt Nam có khoảng trên 2.800 hòn đảo. Trong đó, phần
lớn các đảo nằm ở khu vực ven bờ, hợp thành một hệ thống với tổng diện
tích là 1.638 ki-lô-mét vuông, có 82 đảo diện tích lớn hơn một ki-lô-mét
vuông, trong đó có 23 đảo diện tích lớn hơn 10 ki-lô-mét vuông và 3 đảo lớn
nhất là đảo Phú Quốc, đảo Cái Bầu và đảo Cát Bà. Do đặc điểm kiến tạo các
đảo này phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở hai khu vực: vịnh Bắc Bộ
và vùng biển phía Đông Nam Bộ, hình thành từng tuyến, gồm tuyến ở sát bờ
và gần bờ (cách bờ khoảng 30km, có các đảo ở vùng biển Đông Bắc; các
đảo Hòn Mê, Hòn Mắt, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Cù Lao Ré, Hòn Khoai, Hòn
Hương, Hòn Chuối, Hòn Tre…); tuyến đảo ở tương đối xa (cách bờ từ 30100km, có các đảo Bạch Long Vĩ, Thổ Chu, Côn Sơn, Nam Du, Phú Quốc)
và tuyến đảo xa (cách bờ khoảng 260-500km, có quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa). Các đảo và quần đảo này nối tiếp nhau, tạo thành
những bức thành lũy thiên nhiên vừa tạo thuận lợi cho việc bảo vệ chủ
quyền vùng biển, hải đảo của Tổ quốc từ xa, vừa là tuyến phòng thủ chiến
lược hướng Đông của đất nước.
Chạy dọc theo đất nước từ Mũi Ngọc (Quảng Ninh) đến Hà Tiên, bờ
biển nước ta dài hơn 3.260km với hàng trăm các con sông lớn, nhỏ từ đất


3

liền chảy ra biển. Từ xưa, sông biển nước ta đã hình thành một mạng lưới,
phần lớn thông với nhau, tạo thành hệ thống sông nước liên hoàn rất thuận

tiện cho việc giao thông đi lại giữa các địa phương trong nước. Đặc biệt, các
hải cản lớn như: Hải Phòng, Đà Nẵng, Cam Ranh, Sài Gòn là những cửa ngõ
thông thương bằng đường biển quan trọng giữa các vùng trong nước và giữa
nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Khu vực bờ biển, vùng
biển và hải đảo của Việt Nam là địa bàn hiểm yếu, không chỉ có vị chí chiến
lược quan trọng về quốc phòng – an ninh mà còn có vị trí chiến lược về
chính trị, kinh tế, đối ngoại. Sông biển Việt Nam cũng còn có vị trí hết sức
quan trọng trong quá trình phát triển của dân tộc. Từ xa xưa đến nay, các
triền sông, cửa biển là những địa bàn tập trung dân cư đông đúc làm ăn sinh
sống. Nghề sông biển sớm phát triển, nên kiến thức về sông biển của nhân
dân ta vô cùng phong phú. Nhờ vậy, ở những địa bàn này đã dần dần hình
thành các trung tâm quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa của đất nước.
Có thể nói, sông biển Việt Nam gắn liền với cuộc sống lao động cần cù, anh
dũng của nhân dân ta. Cũng chính vì thế, trong lịch sử dân tộc đã sớm hình
thành ý thức về chủ quyền quốc gia và nhu cầu bảo vệ hoạt động trên địa
bàn sông biển. Xây dựng quân thủy và giỏi thủy chiến đã trở thành nét nổi
bật trong lịch sử tổ chức quâ sự và nghệ thuật quân sự của dân tộc Việt Nam.
Cùng với những chiến công oanh liệt trên đất liền, dân tộc ta đã lập nên biết
bao chiến công oai hùng trên chiến trường sông biển, tiêu diệt cả những đạo
quân lớn của giặc lợi dụng đường sông, biển tiến vào xâm lược nước ta.
Đánh giá về truyền thống chiến đấu trên sông biển của dân tộc, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: “Do nước ta có vị trí quan trọng, có bờ biển
dài, nhiều sông lớn, nên từ xa xưa tới nay kẻ địch bên ngoài thường lợi
dụng biển và sông để xâm lược nước ta. Và ở trên biển, trên sông, trong
quá trình lịch sử, dân tộc Việt nam đã bao lần nêu cao truyền thống


4

chống giặc ngoại xâm anh hùng, bất khuất… Kể từ khi Vua Hùng dựng

nước, dân tộc ta đã ghi biết bao sự tích anh hùng trên non sông nước ta
nói chung, trên sông, biển nước ta nói riêng”.
Xét về khía cạnh kinh tế, vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc đã tạo
điều kiện cho phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn như thủy sản, dầu
khí, giao thông hàng hải, đóng tàu, du lịch... Điều kiện tự nhiên của bờ biển
Việt Nam đã tạo ra tiềm năng vô cùng to lớn cho ngành giao thông hàng hải
Việt Nam. Dọc bờ biển có mười điểm có thể xây dựng cảng biển nước sâu
và nhiều điểm cảng trung bình với tổng sản lượng hàng hóa vận chuyển có
thể đạt 50 triệu tấn/năm. Đây còn là nguồn cung cấp nguồn lợi hải sản rất
quan trọng. Theo các điều tra về nguồn lợi thủy hải sản, tính đa dạng sinh
học, trong vùng biển nước ta đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật
cư trú, trong đó có 6.000 loài động vật đáy, 2.400 loài cá (trong đó có 130
loài cá kinh tế), 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù du, 537 loại thực
vật phù du, 225 loài tôm biển... Trữ lượng cá biển ước tính trong khoảng 3,1
- 4,1 triệu tấn, khả năng khai thác là 1,4 - 1,6 triệu tấn. Nguồn lợi hải sản
phong phú đã góp phần đưa ngành thủy sản trở thành một trong những
ngành kinh tế chủ đạo với giá trị xuất khẩu đứng thứ ba cả nước.
Nếu như Dầu khí hiện là nguồn tài nguyên mang tầm chiến lược quan
trọng của mọi quốc gia thì có thuận lợi Việt Nam khi nó là nguồn tài nguyên
lớn nhất ở thềm lục địa của đất nước. Đến nay, các nhà khoa học đã xác định
được nhiều bể trầm tích như các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn... đây là những
nơi được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất và có điều kiện khai thác
thuận lợi. Tổng trữ lượng dự báo địa chất của toàn thềm lục địa Việt Nam
xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ lượng khai thác 4-5 tỷ tấn. Trữ lượng khí dự
báo khoảng 1.000 tỷ m3.


5

Biển Việt Nam cũng đã cho thấy nhiều điều kiện để phát triển du lịch

– “ngành công nghiệp không khói”, hiện đang đóng góp không nhỏ vào
nền kinh tế của đất nước. Do đặc điểm kiến tạo khu vực, các dãy núi đá vôi
vươn ra sát biển đã tạo nhiều cảnh quan thiên nhiên sơn thủy rất đa dạng,
nhiều vũng, vịnh, bãi cát trắng, hang động, các bán đảo và các đảo lớn nhỏ
liên kết với nhau thành một quần thể du lịch hiếm có trên thế giới như di sản
thiên nhiên Hạ Long được UNESCO xếp hạng. Các thắng cảnh trên đất liền
nổi tiếng như Phong Nha, Bích Động, Non Nước..., các di tích lịch sử và văn
hóa như cố đô Huế, phố cổ Hội An, tháp Chàm, nhà thờ đá Phát Diệm... đều
được phân bố ở vùng ven biển. Tiềm năng du lịch kể trên rất phù hợp để Việt
Nam phát triển và đa dạng các loại hình du lịch hiện đại như nghỉ ngơi;
dưỡng bệnh; tắm biển; du lịch sinh thái; nghiên cứu khoa học vùng ven bờ,
hải đảo, đáy biển; du lịch thể thao: bơi, lặn sâu, lướt ván, nhảy sóng, đua
thuyền...; có thể tổ chức các giải thi đấu thể thao quốc gia và quốc tế quanh
năm; dịch vụ hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế.
Ngoài ra, vùng ven biển Việt Nam chứa đựng một tiềm năng to lớn về
quặng sa khoáng như titan, zircon, thiếc, vàng, sắt, mangan, thạch cao, đất
hiếm trong đó cát nặng, cát đen là nguồn tài nguyên quý giá, chúng được
biết đến với nhiều tên gọi khác nhau, sa khoáng titan, sa khoáng ilmenit, sa
khoáng cát đen.
Tóm lại, đề cập đến vai trò kinh tế của đại dương và biển, các chiến
lược gia đều thống nhất nhận định “Đại dương và biển là nơi dự trữ cuối
cùng của loài người về lương thực, thực phẩm và các nguồn nguyên
nhiên liệu ở thế kỷ 21 và tiếp tới”, đặc biệt khi thế giới đang lâm vào cuộc
khủng hoảng thiếu tài nguyên thiên nhiên trên đất liền. Thực tế lịch sử cũng
cho thấy những đột phá phát triển mang tầm thế giới hầu như đều bắt nguồn
từ những quốc gia biển và mỗi thời đại phát triển lớn đều gắn kết với đại


6


dương và được định nghĩa bằng biển và đại đương. Về mặt lịch sử, biển gắn
bó mật thiết và có ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường của mọi miền đất nước ta. Các thế
hệ người Việt đã gắn bó với biển và có sinh kế phụ thuộc vào biển cả, đặc
biệt đối với người dân sống ở các huyện ven biển và hải đảo (chiếm 17%
tổng diện tích và khoảng trên 23% dân số cả nước). Nước ta có lợi thế “mặt
tiền hướng biển”, thuận lợi trong giao thương với thế giới bên ngoài nhưng
cũng “xung yếu” về mặt an ninh, quốc phòng. Cho nên, chủ trương gắn phát
triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng trên biển là hết sức đúng đắn,
mang tính nhất quán trong tư tưởng chỉ đạo của Đảng - Xây dựng đi đôi với
bảo vệ Tổ quốc, mang tính thực tiễn trong bối cảnh của một khu vực địa
chính trị cực kỳ phức tạp như biển Đông.
2. Những quyết sách lớn, quan trọng của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phát triển kinh tế biển, đảo gắn với bảo đảm quốc phòng - an
ninh.
Trước thềm thế kỷ XXI, nhân loại xác định, thế kỷ XXI là “Thế kỷ
của đại dương”. Và sự thật, trong sự phát triển toàn diện và mạnh mẽ của thế
giới, trước hết tại các quốc gia có biển và hướng ra biển, hơn một thập niên
vừa qua, đã chứng minh rất sinh động và đầy thuyết phục điều dự báo ấy.
Đối với Việt Nam, nếu nhìn gần nhất, ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX,
nghĩa là khoảng hơn hai mươi năm trước, Đảng ta đã hạ quyết tâm chính trị
chiến lược và tổ chức phát triển mạnh mẽ kinh tế vùng biển và kinh tế biển,
đảo.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6-1996), xác
định: “Vùng biển và ven biển là địa bàn chiến lược về kinh tế và an ninh,


7

quốc phòng, có nhiều lợi thế phát triển và là cửa mở lớn của cả nước để

đẩy mạnh giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Khai thác tối đa
tiềm năng và các lợi thế của vùng biển, ven biển, kết hợp với an ninh,
quốc phòng, tạo thế và lực để phát triển mạnh kinh tế – xã hội, bảo vệ và
làm chủ vùng biển của Tổ quốc”.
Tại Đại hội IX (tháng 4-2001), Đảng ta chủ trương: “Xây dựng chiến
lược phát triển kinh tế biển và hải đảo, phát huy thế mạnh đặc thù của
hơn 1 triệu ki-lô-mét vuông thềm lục địa. Tăng cường điều tra cơ bản làm
cơ sở cho các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế biển. Đẩy mạnh
nuôi, trồng, khai thác, chế biến hải sản; thăm dò, khai thác và chế biến
dầu khí; phát triển đóng tàu thuyền và vận tải biển; mở mang du lịch; bảo
vệ môi trường; tiến mạnh ra biển và làm chủ vùng biển. Phát triển tổng
hợp kinh tế biển và ven biển, khai thác lợi thế của các khu vực cửa biển,
hải cảng để tạo thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các vùng khác. Xây
dựng căn cứ hậu cần ở một số đảo để tiến ra biển khơi. Kết hợp chặt chẽ
phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh trên biển”.
Tới Đại hội X (tháng 4-2006), Đảng ta khẳng định: “Phát triển mạnh
kinh tế biển vừa toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm với những ngành
có lợi thế so sánh để đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển
gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Hoàn chỉnh quy
hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển và vận tải biển, khai
thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát triển du lịch
biển, đảo. Đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp đóng tàu và phát triển
các ngành công nghiệp, dịch vụ bổ trợ. Hình thành một số hành lang
kinh tế ven biển. Nhanh chóng phát triển kinh tế – xã hội ở các hải đảo
gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh”.


8

Đặc biệt, ngày 9-2-2007, Hội nghị Trung ương 4, khóa X, ra Nghị

quyết số 09-NQ/TW về “Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020”, trong
đó xác định: “Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển,
làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc
gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh. Xây dựng và phát triển toàn
diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học – công nghệ, tăng cường củng
cố quốc phòng, an ninh, làm cho đất nước giàu mạnh từ biển, bảo vệ môi
trường biển. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng
góp khoảng 53% – 55% tổng GDP của cả nước. Giải quyết tốt các vấn đề
xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven
biển. Phấn đấu thu nhập bình quân đầu người cao gấp hai lần so với thu
nhập bình quân chung của cả nước…”.
Tiếp tục chủ trương, đường lối phát triển kinh tế biển, đảo được xác
định trong các văn kiện trước đây của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội 10 năm (2011-2020), được Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011) thông
qua, nhấn mạnh: “Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và
tiềm năng biển của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc
phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển. Phát triển nhanh một số
khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển các ngành công
nghiệp năng lượng, đóng tàu, xi-măng, chế biến thủy sản chất lượng
cao… Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tạo thành các trung tâm kinh tế biển
mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ,
nhất là các ngành có giá trị gia tăng cao như dịch vụ xuất, nhập khẩu, du
lịch, dịch vụ nghề cá, dịch vụ dầu khí, vận tải… Phát triển cảng biển, dịch
vụ cảng và vận tải biển, sông – biển; phát triển các đội tàu, công nghiệp


9

đóng mới và sửa chữa tàu biển… Phát triển kinh tế đảo phù hợp với vị trí,

tiềm năng và lợi thế của từng đảo”.
Tóm lại, nhận thức về biển đảo và vai trò của biển đảo đối với phát
triển kinh tế, xã hội và an ninh - quốc phòng có ý nghĩa hết sức quan trọng,
đặc biệt đối với các Đảng cầm quyền. Với Việt Nam trên cơ sở nhận thức
sâu sắc vai trò của biển đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
Đảng ta đã đề ra những quan điểm, quyết sách quan trọng. Những quan
điểm, quyết sách đó không chỉ mang tính định hướng chỉ đạo mà còn là cơ
sở để các cấp, ngành liên quan tổ chức tiến hành trên thực tiễn nhằm thực
hiện thắng lợi mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia “mạnh về biển” với
nghĩa không chỉ mạnh về kinh tế biển mà còn mạnh cả về quốc phòng – an
ninh biển đảo trong thế trận quốc phòng – an ninh chung của cả nước.
3. Thực trạng, yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả kết hợp
phát triển kinh tế biển, đảo gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh ơ
nước ta hiện nay.
Kết hợp phát triển kinh tế với an ninh quốc phòng, bảo vệ vững chắc
chủ quyền, quyền chủ quyền và an ninh trên biển được xem là một trong
những giải pháp để thực hiện thành công Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020. Hơn bất cứ địa bàn nào khác, việc xây dựng và phát triển kinh tế biển
phải gắn chặt với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh bảo vệ biển để xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trên biển.
Mục tiêu kết hợp kinh tế, xã hội với quốc phòng - an ninh nhằm khẳng
định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ vùng biển và hải đảo của Tổ quốc; khai
thác, sử dụng nguồn lợi biển của quốc gia có hiệu quả để thực hiện hai


10

nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoạt động kết hợp phải
được tiến hành trong từng cơ sở đánh bắt hải sản, khai thác tài nguyên, phát
triển du lịch, dịch vụ; nghiên cứu khoa học biển; kết hợp theo quy hoạch, kế

hoạch của từng địa phương, vùng biển, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp
của quốc phòng-an ninh để nâng cao năng lực quản lý, bảo vệ biển và hải
đảo của Tổ quốc. Phát huy lợi thế của vùng ven biển, tạo động lực lan tỏa hỗ
trợ phát triển kinh tế nội địa, làm “bàn đạp” cho phát triển một nền kinh tế
biển hiệu quả và vững chắc, gắn với bảo đảm chủ quyền vùng biển quốc gia
được xác định là một trong những hướng ưu tiên có tính đột phá chiến lược
để đưa nước ta trở thành “một quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ biển”.
Xây dựng tuyến ven biển gắn với một số tuyến đảo chính thành những điểm
kinh tế mạnh và căn cứ hậu cần kỹ thuật vững chắc cho các hoạt động biển
xa. Bảo đảm cung cấp nước ngọt, cơ sở hạ tầng và điều kiện sống cơ bản để
người dân yên tâm bám trụ, sản xuất trên các vùng biển, hải đảo tiền tiêu của
Tổ quốc.
Cụ thể hóa, thực hiện các quan điểm, quyết sách về phát triển kinh tế
biển đảo gắn với củng cố quốc phòng, an ninh của Đảng, năm 1990- 1992, ta
đã đề ra chương trình Biển Đông- Hải đảo; tiếp sau là các chủ trương của Bộ
Chính trị về phát triển kinh tế biển, đấu tranh bảo vệ chủ quyền và lợi ích
quốc gia trên biển, về chương trình Biển Đông - Hải đảo đã mở rộng phạm
vi đầu tư cho các ngành, các địa phương, các dự án trọng điểm nên đã đưa
nhanh công trình vào sử dụng, đáp ứng những nhu cầu quan trọng, cấp bách.
Chúng ta đã chủ động xây dựng và từng bước hoàn thiện thế trận quốc
phòng - an ninh trên biển. Thông qua nhiều biện pháp tổ chức giáo dục cho
toàn dân về giá trị của biển, đảo trong quá trình thực hiện 2 nhiệm vụ chiến
lược; thành lập “Ban chỉ đạo Nhà nước về Biển Đông và Hải đảo”; triển


11

khai chương trình Biển Đông- Hải đảo; ban hành 7 luật, 6 pháp lệnh, 2 bản
tuyên bố, 19 nghị định và 6 quyết định liên quan đến quản lý và bảo vệ vùng
biển, đảo Việt Nam.

Chúng ta cũng đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo thế đứng chân ổn
định, vững chắc, sẵn sàng đối phó với các tình huống phức tạp xảy ra trên
biển. Xây dựng hệ thống nhà ở, tường, kè chống xói lở trên các đảo thuộc
quần đảo; đã đầu tư hàng chục tỷ đồng cho xây dựng các công trình bảo đảm
đời sống cho bộ đội và nhân dân huyện đảo Trường Sa.
Các lực lượng chuyên trách được xây dựng để từng bước thực hiện
quản lý Nhà nước trên các vùng biển thông qua việc xây dựng các lực lượng
và phương tiện để chỉ huy điều hành cứu hộ, cứu nạn trên biển như: hệ thống
quan sát, trinh sát, cảnh giới từ xa, thông tin liên lạc hàng hải; thành lập đội
tàu tuần tra biên phòng, kiểm ngư, hải quan; tổ chức xây dựng và trang bị
cho lực lượng cảnh sát biển; xây dựng hệ thống đèn biển. Mới đây lại bổ
nhiệm chức Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện đảo Trường Sa.
Nhà nước đầu tư hỗ trợ phát triển nghề đánh cá xa bờ. Với hàng trăm
tỷ đồng của chương trình Biển Đông- Hải đảo và nguồn vốn phát triển của
ngân hàng Châu Á (ADB) đã đầu tư xây dựng hàng chục công trình cảng và
khu dịch vụ hậu cần nghề cá trên các đảo và một số điểm ven bờ, đóng mới
nhiều tàu dịch vụ hậu cần nghề cá. Đã hỗ trợ nhiều tỷ đồng đầu tư cho các
hoạt động tuyên truyền về chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc trên biển đảo;
đấu tranh quốc phòng-an ninh, ngoại giao; nghiên cứu và điều tra cơ bản. Đã
từng bước hoàn chỉnh bộ hồ sơ cơ bản về quản lý, bảo vệ chủ quyền quốc
gia đối với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển...


12

Trình độ khoa học về biển, những vấn đề quân sự, quốc phòng - an
ninh trên biển, nhất là về sức chiến đấu và khả năng sẵn sàng chiến đấu bảo
vệ biển của các lực lượng vũ trang trên biển và ven bờ sẽ được nâng lên. Sự
hình thành hệ thống tổ chức Tiểu ban chuyên giải quyết những vấn đề liên
quan đến quốc phòng - an ninh theo Nghị định 119/CP, sẽ từng bước hoàn

thiện cơ chế bảo đảm quốc phòng - an ninh trên biển hoạt động có hiệu quả
hơn.
Đối với một quốc gia còn nghèo như Việt Nam, để bảo đảm sức mạnh
an ninh quốc phòng trên biển, càng cần kết hợp với phát triển kinh tế biển.
Nhưng quá trình triển khai vừa qua vẫn thiếu cụ thể, còn phân tán, thiếu đầu
tư tương xứng, hoặc đầu tư chưa hiệu quả để nhanh chóng xây dựng một nền
quốc phòng toàn dân trên biển chính quy, hiện đại thông qua một nền kinh tế
biển hiệu quả và bền vững. Đặc biệt còn thiếu các giải pháp cụ thể và mô
hình ra biển thử nghiệm mang tính liên hoàn trên cơ sở gắn phát triển kinh tế
biển với bảo đảm an ninh, quốc phòng trên biển và dải ven biển. Chúng ta
còn thiếu chính sách đặc biệt và kịp thời để khuyến khích mạnh mẽ người
dân ra định cư sinh sống ổn định trên hải đảo, làm ăn trên biển và bám biển
dài ngày. Đã đến lúc cần tiến hành xây dựng mô hình thí điểm các khu quốc
phòng-kinh tế, kinh tế - quốc phòng tại một số khu vực biển-đảo,... làm cơ
sở kết nối quân-dân, dân-quân trong việc thực hiện các hoạt động dịch vụ
kinh tế biển-đảo: hậu cần nghề cá, nuôi trồng hải sản xa bờ và dịch vụ du
lịch sinh thái biển... Các điểm triển khai khu kinh tế - quốc phòng phải gắn
với tuyến và khu vực phòng thủ biển, hải đảo.
Phát triển mạnh kinh tế biển và bảo đảm tốt an ninh, quốc phòng trên
vùng biển Tổ quốc cũng đòi hỏi phải huy động tối đa lực lượng lao động của
các ngành kinh tế biển mà bản chất của họ rất khác nhau. Trên thực tế, biển


13

chỉ là con đường đi qua của các thủy thủ, là nơi làm việc tập trung dài ngày
của công nhân giới hạn trên các dàn khoan dầu khí, là nơi vãng lai ngắn
ngày của du khách ở ven biển và một số đảo ven bờ, nhưng lại là không gian
sống của ngư dân. Phát triển một nền kinh tế biển mạnh theo đúng nghĩa của
nó đòi hỏi không chỉ giải quyết hoặc chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế

đơn thuần, mà điều không kém phần quan trọng là giải quyết cho được các
vấn đề xã hội bức xúc của người lao động biển nói chung và lao động nghề
cá nói riêng, cũng như bảo vệ môi trường-sinh thái và nguồn lợi biển. Khai
thác thủy sản đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm và cải thiện sinh kế
cho dân cư sống ở vùng ven biển và hải đảo.
Trong số các ngành kinh tế biển, vừa qua, thủy sản không chỉ giữ
vững là một ngành kinh tế biển truyền thống, mà còn phát triển thành một
ngành kinh tế sản xuất hàng hóa lớn và đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế,
khẳng định kinh tế thủy sản đan xen giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài
theo một ý nghĩa đầy đủ của nó. Thời gian tới, phát huy lợi thế của một
ngành kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên tái tạo, có lực lượng lao động và dự
trữ lao động dồi dào, có khả năng bám biển dài ngày và có mặt trên khắp
vùng biển (hàng ngày có khoảng 10.000 tàu hoạt động trên khắp vùng biển).
Ngư dân chính là lực lượng bổ sung cho các hoạt động kinh tế biển khác và
cũng là lực lượng không thể thay thế cho một thế trận quốc phòng toàn dân,
An ninh nhân dân và biên phòng toàn dân trên Biển Đông, góp phần “dân sự
hóa” các hoạt động của Việt Nam trên biển, gắn thủy sản với sự nghiệp bảo
vệ an ninh quốc phòng trên vùng biển của Tổ quốc. Tuy nhiên, ngư dân luôn
sống và làm việc trong môi trường khắc nghiệt và đầy rủi ro, luôn chịu tác
động của thiên tai, Nhà nước phải có trách nhiệm và chính sách bảo đảm an
sinh cho họ trước các rủi ro thiên tai. Vì thế, phát triển thủy sản, ngoài ý


14

nghĩa đóng góp cho nền kinh tế quốc dân, bảo đảm an ninh quốc phòng trên
biển, còn giải quyết các vấn đề xã hội cho ngư dân. Phát triển các mô hình
sản xuất thủy sản dựa vào người dân giúp họ thoát nghèo, khuyến khích và
tạo điều kiện cho họ tham gia quản lý nghề cá ở địa phương là một nhiệm vụ
chính trị quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đang tập trung chỉ đạo nhằm

thực hiện chiến lược xóa đói giảm nghèo toàn diện, cũng như tăng cường
phát triển kinh tế ở địa phương, kết hợp bảo đảm an sinh xã hội và an ninh
vùng biển. Theo cách tiếp cận trên, thời gian tới ngành thủy sản cần chú
trọng giải quyết đồng bộ cả ba vấn đề “tam ngư”: ngư nghiệp, ngư dân và
ngư trường trong quá trình phát triển kinh tế thủy sản gắn với bảo đảm an
ninh, quốc phòng.
Để bảo đảm phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm an ninh, quốc
phòng vùng biển trong thời hội nhập, còn phải tiến hành phân vùng biển dựa
trên hệ sinh thái và quy hoạch sử dụng biển và hải đảo nhằm xác định rõ
những khu vực dành riêng cho nhiệm vụ quốc phòng, những khu vực cho
phép và khuyến khích phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng
như những khu vực phát triển đa mục đích... Ngoài ra, sớm triển khai và
hoàn thành việc đặt tên tiếng Việt cho các đảo và vùng địa lý ở vùng biển
thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Đối với các hải đảo phải tiếp
tục nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức hành chính phù hợp, tăng cường
nâng cao năng lực quản lý về biển của chính quyền các huyện đảo, xã đảo
nhằm phát triển mạnh kinh tế, xã hội kết hợp bố trí dân cư và tổ chức lực
lượng bảo vệ chủ quyền biển, hải đảo.
Tóm lại, nước ta có bờ biển trải dài 3.260km dọc Bắc – Trung – Nam,
chủ quyền bao quát hơn một triệu ki-lô-mét vuông trên vùng Biển Đông
(gấp ba lần diện tích đất liền), trên biển có hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, với


15

trữ lượng hải sản lớn và phong phú, trữ lượng khoáng sản, nhất là dầu khí to
lớn, tiềm năng du lịch gắn với biển và trên biển dồi dào… Cùng với điểm
nổi bật là trong số mười tuyến đường biển lớn nhất hành tinh, có năm tuyến
đi qua Biển Đông – một hướng chính chúng ta đang đi ra thế giới, đã và tiếp
tục tạo động lực mạnh mẽ mở rộng thông thương, thắt chặt và tăng cường

các mối bang giao quốc tế, nhằm phát triển theo phương châm “tăng trưởng
xanh” một cách chiến lược và đáng ghi nhận. Dọc bờ biển và trên biển Việt
Nam có 29 tỉnh, thành phố, với 12 thành phố lớn, 125 huyện, thị xã ven biển,
100 cảng biển, khoảng 238.000 cụm công nghiệp và gần 1.000 bến cá…
Năm 2007, kinh tế biển và vùng ven biển đóng góp khoảng 49% GDP cả
nước, trong đó riêng kinh tế trên biển chiếm khoảng 22%; các ngành kinh tế
biển quan trọng như dầu khí, hàng hải, thủy sản, du lịch biển đều tăng
trưởng với nhịp độ cao… Quốc phòng, an ninh trên biển, đảo được bảo đảm;
các lực lượng bảo vệ biển đã thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý và bảo vệ chủ
quyền biển, đảo, tạo điều kiện hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế trên biển,
đảo; ý thức của nhân dân bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển được nâng
lên.
Tiềm năng và thực tế đó đã và đang tạo nền tảng và cơ hội cho Việt
Nam từng bước trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, trên cơ
sở phát triển và phát huy toàn diện các ngành nghề biển một cách phù hợp,
với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển theo hướng nhanh,
bền vững và hiệu quả. Tuy nhiên, những nỗ lực của chúng ta vừa qua chưa
thật sự ngang tầm với các tiềm năng, thế mạnh và lợi thế so sánh đó về biển,
đảo và kinh tế biển, đảo. Bên cạnh đó chúng ta còn đang phải đối mặt với
những khó khăn thách thức như: một số vùng biển nước ta thường xảy ra
thiên tai với cường độ lớn và tần suất cao làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời


16

sống của nhân dân vùng ven biển cũng như trong việc khai thác tiềm năng
kinh tế biển; Việc nhận thức về vị trí, vai trò của biển trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của các cấp, các ngành và nhân dân chưa đầy đủ;
Quy mô phát triển kinh tế biển còn nhỏ bé, manh mún, chưa tương xứng với
tiềm năng; thì cơ cấu ngành, nghề chưa hợp lý, mới chỉ phát triển trên một

diện hẹp; chưa chuẩn bị đủ các điều kiện cần thiết để đủ sức vươn ra vùng
biển quốc tế. Trong khai thác, đánh bắt, chế biến nguồn lợi kinh tế biển vẫn
đang chủ yếu là sản xuất nhỏ; với hệ thống hạ tầng còn thiếu thốn, yếu kém,
chưa đồng bộ; cùng với đang thiếu những cảng biển lớn với dịch vụ hậu cần
quy mô, hệ thống những cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ biển, các cơ
sở dự báo thiên tai từ biển đang bộc lộ những yếu kém, bất cập v.v… Bên
cạnh đó tình hình an ninh, quốc phòng ở một số khu vực biển, đảo của chúng
vẫn tiềm ẩn sự phức tạp, thậm chí có nơi, có lúc rất phức tạp, khó lường, ở
chừng mực nào đó, khiến cho lộ trình phát triển kinh tế biển, đảo của nước
ta chưa tương xứng với tiềm năng, chưa được như mong muốn.
Hiện nay, phát triển của kinh tế biển, đảo và những vấn đề liên quan
đến việc bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng biển, đảo của nước ta trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là một
trong những nhiệm vụ vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính chiến lược
lâu dài. Phải tiếp tục làm gì và làm như thế nào nhằm chủ động khai thác
tiềm năng biển, đảo để xứng đáng là một quốc gia mạnh về biển, giàu lên
nhờ biển, đảo…, thực sự vẫn là vấn đề nan giải, cáp bách cần lời giải đáp
một cách toàn diện, có tính hệ thống, phù hợp và đạt hiệu quả cao. Trả lời
câu hỏi này, trước mắt để phát triển kinh tế biển, đảo gắn với bảo đảm quốc
phòng, an ninh theo tình thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) và Nghị


17

quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, chúng ta cần tập trung
giải quyết những vấn đề cấp bách, ưu tiên sau:
Thứ nhất, giải quyết vấn đề về tư duy và nhận thức.
Nhứng hạn chế trong phát triển kinh tế biển đảo gắn với bảo đảm quốc
phòng - an ninh trước hết do có những khiếm khuyết, hạn chế, thậm chí có
phần lệch lạc trong tư duy, trong nhận thức đối với kinh tế biển, đảo và việc

phát triển kinh tế biển, đảo gắn liền với an ninh, quốc phòng ở mức độ này
hay ở mức khác. Ví như không ít người vẫn đang suy nghĩ và cho rằng, phát
triển kinh tế biển là nhiệm vụ chỉ của các tỉnh, thành phố, huyện thị có biển
hoặc của riêng các ngành như tài nguyên và môi trường, thủy hải sản, công
thương, du lịch, dầu khí… Trong nhận thức có sự tách rời kinh tế biển, đảo
với kinh tế duyên hải, hoặc chỉ chú trọng mục tiêu phát triển kinh tế mà
buông lơi công tác an ninh, quốc phòng. Chính vì vậy, cần tiếp tục đổi mới
tư duy về biển, đảo và kinh tế biển, đảo, gắn kinh tế với quốc phòng qua đó
xác lập và thống nhất một tầm nhìn xa trông rộng, vững vàng tư tưởng vươn
ra biển lớn, gắn kết đất liền với đại dương, để xây dựng và phát triển văn hóa
biển, đảo – văn hóa hướng ra đại dương trong cả cộng đồng và mỗi con
người nhằm phát triển một cách bền vững và ổn định.
Thứ hai, giải quyết vấn đề về quy hoạch.
Muốn phát triển toàn diện, đồng thời có chiều sâu và hiệu quả, bền
vững, nhất thiết phải làm tốt công tác quy hoạch bảo đảm cho sự phát triển
một cách chủ động. Tuy nhiên thực tế vẫn còn tình trạng phân tán, thậm chí
khép kín, biệt lập giữa các ngành trong tỉnh, các địa phương, dù hầu như tỉnh
ven biển nào cũng định hướng, quy hoạch, phác thảo chương trình, mô hình


18

riêng của mình về xây dựng cảng nước sâu, về nhà máy lọc dầu, về khu công
nghiệp, về cầu cảng hàng không…, Chính vì vậy, Nhà nước phải trở thành
“nhạc trưởng” - một trung tâm điều phối chung một cách tổng thể về năng
lượng, về đất đai, về dân số, về môi trường, về đối phó với biến đổi khí hậu
và nước biển dâng… trên cơ sở tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quyền
làm chủ của nhân dân để phát huy cao nhất sức sáng tạo, phát huy năng lực,
lợi thế của mỗi ngành, mỗi địa phương… trong sức mạnh chung của cả nước
để kinh tế biển đảo không ngừng phát triển song hành với sức mạnh quốc

phòng – an ninh không ngừng được củng cố.
Thứ ba, giải quyết vấn đề về cơ chế phối hợp.
Cần tăng cường sự liên kết hợp tác giữa các tỉnh, thành phố có biển,
đảo trong cả nước bằng những chương trình hành động cụ thể dựa trên từng
lợi thế so sánh, trong tất cả các hướng chiến lược và kế hoạch của từng bước
đi là việc tất yếu, là sự sống còn. Khắc phục sự cục bộ, khép kín, mạnh ai
nấy làm, thậm chí chưa thật sự bắt tay nhau để cùng tiến ra biển lớn. Dỡ bỏ
những rào cản tâm lý địa phương và địa giới hành chính nhằm tăng cường sự
phối hợp thống nhất giữa các ngành, lĩnh vực từ Trung ương tới địa phương
và sự ủng hộ của mỗi cộng đồng, của từng người dân. Ở tầm vĩ mô, cần
nghiên cứu, ban hành, hoàn thiện các văn bản pháp lý liên quan đến biển
đảo, liên quan đến phát triển kinh tế biển đảo gắn với củng cố quốc phòng an
ninh.
Thứ tư, giải quyết vấn đề về cơ cấu, số lượng và chất lượng nguồn
nhân lực.


19

Nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quyết định sự thành công
của việc phát triển các ngành kinh tế biển, đảo. Thực tế triển khai Chiến lược
Biển Việt Nam đến năm 2020 cho thấy, chúng ta đang thiếu hụt trầm trọng
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn trong những
ngành mũi nhọn: công nghiệp, tàu thủy, khai thác dầu khí trên biển, công
nghệ lọc hóa dầu, kinh tế hải đảo, thông tin liên lạc biển, bảo vệ môi trường
sinh thái biển…, trong khi quy mô đào tạo, các ngành nghề liên quan tới
kinh tế biển còn rất hạn chế. Vì vậy, việc cấp bách trước mắt là tập trung rà
soát, dự báo dài hạn về nhu cầu nguồn nhân lực; tổ chức đào tạo những
ngành mới có nhu cầu cao trên cơ sở cân đối tỷ lệ đào tạo theo bậc và ngành
nghề; đa dạng hóa phương thức và quy mô đào tạo… Đây là công việc

không chỉ riêng của chính quyền mà còn là công việc của các cấp, các tổ
chức xã hội, các trường đại học, cao đẳng, các doanh nghiệp, các tổ chức
nghề nghiệp… trong một cơ chế thống nhất, theo phương châm xã hội hóa
mạnh mẽ, phát huy tính chủ động ngay từ cơ sở. Mặt khác, cần đổi mới
chính sách liên kết, hợp tác vùng, địa phương trong việc bố trí cơ cấu ngành
nghề, phân công lao động… Đồng thời, lấy kinh tế biển làm động lực cho sự
phát triển của tất cả các địa phương có biển, đảo, tạo việc làm thu hút mạnh
lao động.
Thứ năm, giải quyết vấn đề về hiệu quả vấn đề an sinh xã hội.
An sinh xã hội cần được đặt ở vị trí ngang tầm vừa là nền tảng, vừa là
mục tiêu và động lực đối với lộ trình hướng ra biển lớn hiệu quả và gìn giữ
sự bình yên của đại dương theo hướng kết hợp hữu cơ kinh tế biển, đảo với
kinh tế duyên hải; phát triển kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng, an
ninh. Việc có thể làm ngay là, phát triển mạnh khai thác thủy hải sản với
hướng ưu tiên tập trung khai thác vùng biển khơi vừa phát triển kinh tế biển,


20

đảo vừa tham gia bảo vệ chủ quyền an ninh trên vùng biển, trong đó chú
trọng mở rộng năng lực đánh bắt xa bờ, hoàn thiện và mở rộng hệ thống kết
cấu hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá, tạo điều kiện cho ngư dân bám biển
dài ngày bằng các chính sách hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ năng lực sản xuất thiết
thực. Đổi mới chính sách đầu tư, trước hết là đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng, chính sách tín dụng, hỗ trợ giá cả một cách cụ thể, hiệu quả, để đồng
bào diêm dân khắc phục khó khăn, nỗ lực sản xuất. Tiếp tục xây dựng
chương trình phát triển du lịch – dịch vụ, nhất là du lịch ven biển, hải đảo,
tăng cường hợp tác liên doanh ở mọi cấp độ, mở rộng thị trường tiêu thụ nội
địa và xuất khẩu, thu hút nhiều lao động, tạo thêm nhiều việc làm. Chú trọng
phát triển công tác giáo dục - đào tạo, y tế cơ sở ở các vùng sâu, vùng xa,

vùng hải đảo. Tăng cường sự gắn bó giữa ngư dân, các tầng lớp cư dân vùng
biển với các lực lượng vũ trang, trực tiếp là Bộ đội Biên phòng để giúp nhau
sản xuất, nâng cao đời sống văn hóa, tạo dựng thế trận lòng dân vững chắc
bảo vệ vùng biển, đảo của Tổ quốc…
KẾT LUẬN
Phát triển kinh tế biển, đảo gắn chặt với bảo đảm quốc phòng, an ninh
là nhằm hướng tới mục tiêu kép vừa khai thác hiệu quả, bền vững nguồn lợi
từ biển, đảo góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước vừa
tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh. Thực hiện có hiệu quả sự kết hợp
này là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương
và của toàn dân. Quân đội nhân dân là lực lượng vũ trang tin cậy của Đảng
và Nhà nước, là chủ thể thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế biển đảo gắn
với củng cố quốc phòng an ninh. Chính vì vậy, Quân đội phải phát huy hơn
nữa vai trò chủ thể của mình, cụ thể là: Với chức năng là đội quân chiến đấu,
Quân đội phải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị bảo vệ vững chắc chủ


21

quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Quân đội từng bước và không
ngừng xây dựng, phát triển theo hướng cách mạng chính quy, tinh nhuệ để
không chỉ có sức mạnh răn đe các với mà còn đánh bại mọi thế lực kẻ thù
khi chúng có mưu đồ, hành vi vi phạm chủ quyền hay xâm lược bờ cõi đất
nước. Thực hiện tốt nhiệm vụ này là Quân đội đã góp phần bảo vệ vững
chắc môi trường hòa bình cho đất nước tập trung các nguồn lực cho phát
triển kinh tế trong đó có phát triển kinh tế biển đảo. Thực hiện chức năng đội
quân sản xuất, Quân đội phải không ngừng tham gia tích cực vào phát triển
kinh tế nói chung và phát triển kinh tế biển đảo nói riêng bằng những hành
động thiết thực như: nâng cao hiệu quả, năng suất của các doanh nghiệp
quân đội trong nền kinh tế thị trường; thực hiện tiết kiệm chống lãng phí

trong các hoạt động quân sự; tham phòng chống hiệu quả với thiên tai, bão
lũ…Cùng với hai chức năng trên, thực hiện chức năng đội quân công tác,
Quân đội phải tham mưu “trúng, đúng” cho Đảng, Nhà nước và chính
quyền các cấp về phát triển kinh tế biển gắn với củng cố, bảo đảm quốc
phòng – an ninh. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân để
không chỉ nâng cao nhận thức về vai trò ý nghĩa, tầm quan trọng của biển
đảo với sự nghiệp dựng nước và giữ nước mà còn phát huy truyền thống yêu
nước, phát huy sức mạnh toàn dân cho sự nghiệp phát triển kinh tế nói
chung và phát triển kinh tế biển đảo nói riêng trong sự gắn kết chặt chẽ với
củng cố quốc phòng - an ninh.


22



×