Tải bản đầy đủ (.doc) (176 trang)

Vai trò của nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.61 KB, 176 trang )

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nguyễn Thị Khơng
Vai trò của nhà nớc trong việc kết hợp
giữa tăng trởng kinh tế với bảo vệ môI trờng
sinh tháI ở nớc ta hiện nay


luận án tiến sĩ triết học
PGS,TS Trần thành
2. PGS,Ts nguyễn minh hoàn
Hà nội - 2014

Tụi xin cam oan õy l cụng trỡnh nghiờn cu ca riờng
tụi. Cỏc s liu trong lun ỏn l trung thc. Nhng kt lun
nêu trong luận án chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình
khoa học nào khác.

 !"#$%#&'"
((
Trang
)*
1
#&'"+,-. ../0 6
1.1. Các công trình nghiên cứu về kết hợp tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái 6
1.2. Các công trình nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong tăng trưởng
kinh tế và vai trò của nhà nước trong bảo vệ môi trường sinh thái 20
#&'"
%1  .23  4  56)  1  7    8  9
56..:;/*<=3.5>
?@A5B<.A675=


%1.23C
28
2.1. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái -
yêu cầu của sự phát triển bền vững 28
2.2. Vai trò của Nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo
vệ môi trường sinh thái 49
#&'"D
E?F5G78H5B
<.A675%1.23456)
%.178956..)
8.8;
70
3.1. Mâu thuẫn của việc đòi hỏi cần phải có tính đồng bộ về chính
sách, chiến lược, pháp luật trong kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo
vệ môi trường sinh thái, với tình trạng còn thiếu, chưa đồng bộ 70
3.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện, kiểm
tra, giám sát việc kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
sinh thái, với hiệu quả thực tế còn bất cập, nhiều hạn chế 84
3.3. Mâu thuẫn của việc đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa
nhà nước cùng các tổ chức, các lực lượng xã hội trong kết hợp
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái, với tình
trạng phối hợp còn lỏng lẻo, chưa chặt chẽ
97
Chương 4:
MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT
HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG SINH THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
113
4.1. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng hệ thống chính

sách, chiến lược, pháp luật của nhà nước trong kết hợp tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái 113
4.2. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý,
điều hành của bộ máy nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh
tế với bảo vệ môi trường sinh thái 126
4.3. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò của nhà nước trong việc tạo ra
sự đồng thuận của toàn xã hội nhằm thực hiện tốt việc kết hợp
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái 136
%1
149
.(95-.%..I<
151
.(A8.%.
153
3.((
165
.(.@1J5
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CN : Công nghệ
CT - XH : Chính trị - xã hội
ĐT : Đào tạo
GD : Giáo dục
KH : Khoa học
KT - XH : Kinh tế - xã hội
MT : Môi trường
MTST : Môi trường sinh thái
Nxb : Nhà xuất bản
PTBV : Phát triển bền vững
TN - MT : Tài nguyên - môi trường
TNTN : Tài nguyên thiên nhiên

TTKT : Tăng trưởng kinh tế
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
)*
KLMN#O"PQRST
Loài người chúng ta đã bước vào thiên nhiên kỷ thứ ba và đang đứng
trước những thách thức có tính toàn cầu. Biến đổi khí hậu cùng với suy thoái
TNTN, ô nhiễm MTST là mối quan tâm lớn nhất của thế giới đương đại. Tình
trạng ô nhiễm MTST đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn diện, sâu sắc các hệ
sinh thái tự nhiên, ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng của nền kinh tế cũng
như toàn bộ đời sống xã hội, đe dọa nghiêm trọng tới an ninh MT, năng
lượng, lương thực trên phạm vi toàn cầu.
Biến đổi khí hậu, ô nhiễm MTST trên thế giới bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân: sự chưa hoàn thiện của kỹ thuật, công nghệ khai thác, chế biến
TNTN; sự hiểu biết chưa đầy đủ của con người về MTST. Đặc biệt là do
trong các chính sách phát triển, các quốc gia thường chỉ chú trọng, ưu tiên cho
mục tiêu TTKT mà ít quan tâm tới mục tiêu bảo vệ MTST. Để bảo vệ MTST,
chống biến đổi khí hậu, việc làm có ý nghĩa tiên quyết mà các quốc gia cần
phải tiến hành là thiết lập hài hoà mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST.
Đây cùng là đòi hỏi tất yếu của công cuộc phát triển bền vững mà các quốc
gia đang theo đuổi trong thế kỷ XXI.
Cũng giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, do tác
động của việc duy trì khá lâu mô hình phát triển theo chiều rộng, dựa chủ yếu
vào khai thác TNTN và các yếu tố MT, nên chất lượng MTST ở Việt Nam thời
gian qua suy giảm nhanh. Các hệ sinh thái tự nhiên bị thu hẹp diện tích, xuống
cấp về chất lượng, nhiều nguồn TNTN bị suy kiệt, dẫn tới nguy cơ không đảm
bảo nguồn cung… Tình trạng đó đã tác động tiêu cực lên các mặt đời sống KT -
XH, ảnh hưởng không nhỏ tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, đe dọa an
ninh lương thực, an ninh MT và sức khỏe cộng đồng, đe dọa nghiêm trọng tới
tiến trình PTBV ở Việt Nam.
Nhằm khắc phục những tiêu cực đó, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh

CNH, HĐH, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành đổi mới mô hình phát
1
triển. Theo đó, mô hình “phát triển toàn diện” mà nội dung quan trọng là “phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội và bảo vệ mội trường” [53, tr.162] đã ra đời. Nhờ thực hiện
mô hình này, nền kinh tế thị trường định hướng XHCH ở nước ta được hình
thành và có những bước đi khá vững chắc. Việt Nam được đánh giá là quốc gia
có nền kinh tế tăng trưởng cao trong khu vực.
Đặc biệt, những thành tựu mà TTKT đem lại đã giúp nước ta có được sự
tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Các vấn
đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa… từng
bước được giải quyết. Tuy nhiên, không phải là không có những hạn chế trong
việc thực hiện mô hình phát triển mới. Trong hàng loạt các hạn chế, yếu kém thì
việc “quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao, còn
lãng phí” [55, tr.166], “môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp, một số nơi
đã đến mức báo động” [55, tr.169] đã được Đảng và Nhà nước ta đánh giá là
một trong những hạn chế lớn nhất. Hạn chế này do nhiều nguyên nhân gây
ra, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Tư duy coi trọng tăng
trưởng kinh tế, xem nhẹ bảo vệ môi trường vẫn còn phổ biến; phát triển
kinh tế vẫn còn theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào khai thác TNTN; nhiều
ngành, lĩnh vực sản xuất còn sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm MT
nghiêm trọng; gia tăng dân số, đô thị hóa nhanh đang gây áp lực lớn lên
MT. Trong khi đó, thể chế, chính sách về bảo vệ MT và PTBV vẫn chưa
theo kịp với yêu cầu phát triển KT - XH của đất nước. Hệ thống tổ chức
quản lý nhà nước vẫn còn nhiều bất cập, thiếu nhân lực, nhất là ở các địa
phương. Đầu tư của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân cho bảo vệ môi
trường chưa đáp ứng được yêu cầu. Khâu tổ chức thực hiện còn nhiều yếu
kém, còn thiếu cương quyết và chưa xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm
pháp luật bảo vệ môi trường.
Đảng và Nhà nước ta khẳng định, hạn chế nêu trên, nếu không được giải

quyết một cách thỏa đáng, sẽ không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực
2
hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, mà còn đe dọa nghiêm trọng tới sự tăng trưởng
của nền kinh tế, gây ra nhiều hiểm họa khôn lường cho đời sống của nhân dân.
Phát triển nhanh, bền vững là yêu cầu cấp thiết trong chiến lược phát
triển KT - XH của đất nước. Gắn TTKT với bảo vệ MTST trong thời gian tới
có ý nghĩa sống còn, là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp. Đòi hỏi Nhà
nước ta phải đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, phải tiếp tục củng cố chính
sách, công cụ pháp luật, đảm bảo thực hiện tốt công tác tổ chức, thực hiện
thanh tra, kiểm tra, giám sát quá trình quản lý kinh tế và quản lý TN - MT,
đầu tư tài chính cho công tác bảo vệ TN - MT, nâng cao nhận thức cho quần
chúng nhân dân về ý nghĩa của kết hợp TTKT với bảo vệ MTST…
Từ những phân tích trên đây cho thấy, việc nghiên cứu vai trò của nhà
nước đối với vấn đề bảo vệ MTST trong TTKT là rất cần thiết. Xuất phát từ
những lý do đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề 
 !"#$%&'" () !*+,
'!-làm đề tài luận án tiến sỹ triết học của mình.
UNPVN#W"#TXYZU"#T["N\N]^_`"a"
./0/1234
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản về vai trò của nhà nước trong kết
hợp TTKT với bảo vệ MTST, luận án phân tích những vấn đề đặt ra đối với việc
nâng cao vai trò của Nhà nước ta trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST, qua đó,
đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của Nhà nước trong
kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
././!* 14
- Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa TTKT với bảo vệ MTST và
những nội dung cơ bản thể hiện vai trò của nhà nước trong kết hợp TTKT với
bảo vệ MTST.
- Phân tích, đánh giá những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò
của Nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.

3
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của Nhà nước
trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.
DbTR&c"ZSd#eYZT"#T["N\N]^_`"a"
5/0/6#4
Luận án tập trung nghiên cứu, tìm hiểu vai trò của nhà nước trong kết
hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.
./5/78* 4
Luận án làm rõ việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST dưới góc độ triết
học. Thông qua chức năng xã hội của nhà nước với tư cách là nhân tố quan
trọng trong kiến trúc thượng tầng; luận án đề xuất những nội dung cơ bản thể
hiện vai trò của Nhà nước ta trong việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH từ năm 1996 đến nay ở Việt Nam.
f'gh_K_`"ZSd#&'"d#ad"#T["N\N]^_`"a"
9/0/:';<;=
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh cùng các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta về phát triển KT - XH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong
khi thực hiện, luận án còn kế thừa một số thành tựu của các công trình khoa
học có liên quan.
9/./7:$,$4
Luận án dựa trên cơ sở những nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với
các phương pháp khác như: lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, quy nạp -
diễn dịch, điều tra, thu thập thông tin, khảo sát, tra cứu, đối chiếu so sánh
i"idYjTN]^_`"a"
- Luận án làm rõ được những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò
của Nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
4

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước
ta trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
k"#l^N]^_`"a"
- Luận án góp phần vào việc đưa ra những luận cứ khoa học để Đảng và
Nhà nước ta đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn,
nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST.
- Những vấn đề luận án đề cập và giải quyết sẽ góp phần nâng cao vai
trò của Nhà nước ta trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai việc kết hợp TTKT với
bảo vệ MTST.
- Luận án còn có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên
cứu, giảng dạy và những người quan tâm đến lĩnh vực kết hợp TTKT với bảo
vệ MTST.
m%nRNoN]^_`"a"
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
5
#&'"
+,-. ../0
95-../0?%1.23456)
%.178956..
aN"#T["N\ZQRp"Rq&h"rT"#Rn
Tăng trưởng kinh tế là chủ đề được bàn luận khá nhiều trong thời gian
qua dưới các góc độ kinh tế, xã hội, môi trường…
Trên khía cạnh kinh tế học, khái niệm TTKT thường được hiểu theo
nhiều khía cạnh khác nhau: TTKT là mức tăng sản lượng thực tế (sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ) của một quốc gia theo một thời gian nhất định [58]; TTKT
là mở rộng quy mô sản xuất sản xuất quốc gia, tiềm năng của một nước, tiềm
năng hiện thực: việc mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất [146]; TTKT là sự
tăng lên của sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong một nước do sự tăng lên của
thu nhập quốc dân và sản phẩm bình quân đầu người [132]; TTKT là một khái

niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền
kinh tế trong một thời gian nhất định. Các chỉ tiêu để đánh giá TTKT thường
được sử dụng là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân
(GNP), GDP và GNP bình quân đầu người cùng một số chỉ tiêu kinh tế tổng
hợp khác [127], [144].
Đi sâu hơn nữa về TTKT, nhiều công trình đã có những luận chứng sâu
sắc về quá trình TTKT ở Việt Nam, qua đó đề ra các giải pháp giúp nâng cao
tốc độ tăng trưởng cho nền kinh tế ở nước ta, tiêu biểu như các công trình sau:
Trong công trình “Các mô hình tăng trưởng kinh tế” của tác giả Trần
Thọ Đạt [57] và “Mô hình tăng trưởng kinh tế” của tác giả Trần Văn Tùng
[147] đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về các mô hình TTKT trên thế giới như:
Mô hình tăng trưởng trường phái Keynes, Harrod Domar, tăng trưởng tân cổ
điển mở rộng, tăng trưởng nội sinh. Các nghiên cứu này còn chỉ rõ những nội
dung cơ bản của các lý thuyết TTKT, lý thuyết TTKT dưới dạng các mô hình
6
toán học và tập trung phân tích quá trình tăng trưởng ở các khu vực, các quốc
gia trên thế giới và ở nước ta hiện nay. Về mô hình TTKT ở nước ta hiện nay,
các nghiên cứu đều khẳng định cho đến nay mô hình TTKT trong nước vẫn
tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào tăng quy mô tài sản cố định và
khai thác TNTN là chính. Mô hình này, ở phương diện tích cực đã đem lại
nhiều lợi thế để kinh tế đất nước tăng trưởng với tốc độ nhanh, song, mô hình
kinh tế đó còn để lại nhiều hạn chế, trong đó có hạn chế lớn nhất là làm cho
kinh tế tăng trưởng chưa thật sự bền vững.
Bài viết “Về chất lượng phát triển của Việt Nam thời kỳ 2000 - 2010”,
được biên soạn theo tài liệu của các cơ quan Trung ương, Tạp chí Lý luận
chính trị [148] đã khẳng định, “trong thời kỳ chiến lược 2001 - 2010, nước ta
đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định, ước tính tăng trưởng GDP
đạt khoảng 7,2%/năm. Việt Nam tiếp tục giữ vị trí là một trong những nước
có sự tăng trưởng nhanh so với các nước trong khu vực và trên thế giới” [148,
tr.48], “tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh có ý nghĩa rất quan trọng giúp nước ta

thoát khỏi tình trạng kém phát triển và bước vào thời kỳ mới, gia nhập nhóm
nước đang phát triển có thu nhập trung bình” [148, tr.48]. Tuy nhiên, bài báo
cũng khẳng định, nền kinh tế trong nước vẫn kéo dài tình trạng tăng trưởng chủ
yếu vào các yếu tố phát triển theo theo chiều rộng. TTKT trong những năm qua
nghiêng nhiều về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động. Bên cạnh đó, mức tiêu hao
năng lượng ở nước ta còn khá cao, năng lực cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế
thấp; đặc biệt những hạn chế về lĩnh vực xã hội còn nhiều: chẳng hạn thành tựu
xóa đói, giảm nghèo chưa vững chắc, bất bình đẳng có xu hướng gia tăng giữa
các vùng và các tầng lớp dân cư, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, việc “quản
lý, bảo vệ tài nguyên còn buông lỏng; một số tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là
những tài nguyên không có khả năng tái tạo đang bị khai thác với công nghệ lạc
hậu, gây lãng phí và đứng trước nguy cơ cạn kiệt” [148, tr.54].
Tác giả Nguyễn Thị Doan trong bài viết “Một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta” [44] cho rằng, trong
7
những năm đổi mới, “so với các quốc gia, nước ta đứng vào hàng các quốc
gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục. Cùng với tăng trưởng kinh tế
cao, chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng đang được cải thiện” [44, tr.61]. Tuy
nhiên, tác giả cũng nhấn mạnh, “tăng trưởng kinh tế của nước ta chủ yếu vẫn
theo bề rộng, dựa vào tăng quy mô tài sản cố định, tài nguyên thô và số lượng
lao động; cơ cấu kinh tế kém hiệu quả, năng suất lao động, chất lượng và sức
cạnh tranh thấp; các cân đối vĩ mô của nền kinh tế chưa thật vững chắc” [44,
tr.61]. Do đó, Việt Nam cần phải thay đổi mô hình TTKT từ tăng trưởng theo
bề rộng là chủ yếu sang tăng trưởng bền vững theo chiều sâu, TTKT phải dựa
trên nền tảng coi trọng chất lượng. Về lâu dài, cần triệt để chuyển từ tăng
trưởng nhờ tăng quy mô vốn đầu tư, khai thác TNTN và sức lao động sang
tăng trưởng dựa vào tri thức và công nghệ, giảm các ngành tiêu hao nhiều
năng lượng, TNTN, tăng các ngành sử dụng năng lượng sinh học, năng lượng
gió. Bên cạnh đó, cần có các giải pháp chiến lược như đẩy nhanh tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa lớn; GD, ĐT nguồn

nhân lực chất lượng cao; phát triển KH và CN để KH, CN trở thành động lực
phát triển đất nước, cần mạnh dạn đổi mới tư duy trong quản lý, điều hành,
điều tiết nền kinh tế của Nhà nước; tăng cường giám sát, kiểm tra việc sử
dụng vốn của Nhà nước và xử lý dứt điểm các kết luận sau thanh tra, kiểm tra.
Nghiên cứu dưới góc độ tăng trưởng bền vững, các tác giả Hoàng Đức
Thân, Đinh Quang Ty trong cuốn sách “Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công
bằng xã hội ở Việt Nam” [127]; tác giả Nguyễn Phú Trọng trong cuốn “Về
các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta” [144] đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa
TTKT với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như mối quan hệ giữa
TTKT với tiến bộ, công bằng xã hội, mối quan hệ giữa TTKT với phát triển
văn hoá, mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN, mối quan
hệ giữa TTKT với bảo vệ MT Các tác giả cho rằng, đó là những mối quan
hệ cơ bản, phức tạp, có liên quan đến sự tồn vong của quốc gia dân tộc, đòi
8
hỏi Nhà nước ta phải có những biện pháp để giải quyết thỏa đáng. Trong nội
dung về mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MT, các tác giả khẳng định, ở
nước ta, kể từ khi đổi mới, kinh tế có sự tăng trưởng khá, song vấn đề MT lại
ngày một xuống cấp. Nhà nước cần phải có những chính sách, chiến lược hợp
lý để giải quyết dứt điểm tình trạng này.
Các tác giả Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt trong nghiên cứu “Tốc độ
và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” [102] đã hệ thống hóa những
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tốc độ, chất lượng TTKT ở Việt
Nam. Qua việc phân tích thực trạng, chất lượng TTKT ở nước ta giai đoạn
cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, các tác giả cho rằng, những yếu tố thể
hiện chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta là: tổng giá trị sản xuất,
tổng sản phẩm quốc nội, tổng thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu
người và một số các tiêu chí định tính khác như: xóa đói giảm nghèo, phúc lợi
xã hội, công bằng xã hội, môi trường môi sinh. Cũng trong cuốn sách này, các
tác giả đã chỉ ra và phân tích những giải pháp cơ bản để thúc đẩy kinh tế Việt

Nam tăng trưởng đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Như vậy, qua nghiên cứu một số công trình khoa học về TTKT, cho
thấy, nhìn chung, các nghiên cứu đều tập trung làm rõ nội hàm của khái niệm
TTKT, chỉ ra các mô hình TTKT khác nhau trên thế giới và mô hình kinh tế mà
Việt Nam đang theo đuổi. Các nghiên cứu còn làm rõ các nhân tố ảnh hưởng
đến quy mô TTKT trên thế giới và ở Việt Nam, vạch ra các giải pháp cơ bản
nhằm thúc đẩy quá trình TTKT ở nước ta giai đoạn CNH, HĐH đất nước.
aN"#T["N\ ZQ YsTRq&t"gT"#R#aTW ZQuvMZXYsT
Rq&t"gT"#R#aT
Môi trường sinh thái là một trong những vấn đề được đề cập đến khá
nhiều trong thời gian qua ở nước ta trên các bình diện khác nhau.
Dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc bảo
vệ MTST. Nhằm bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng, đảm bảo quyền con người
9
được sống trong MT trong, sạch, đẹp, phục vụ sự nghiệp PTBV đất nước,
Đảng và Nhà nước đã ra nhiều văn bản luật, dưới luật, các chỉ thị, nghị quyết
về MTST và bảo vệ MTST. Trong một loạt các văn bản quy phạm pháp luật
như “Luật Bảo vệ môi trường và văn bản hướng dẫn thi hành”; “ Luật Bảo
vệ môi trường năm 2005”; “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia”… Đảng
và Nhà nước ta đã khẳng định nhiều nội dung quan trọng về MTST cũng như
bảo vệ MTST. Theo đó, bảo vệ MTST được quan niệm là bảo vệ các yếu tố tự
nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống,
sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và các giống loài động thực vật.
Thực chất của bảo vệ MTST là bảo vệ MT nước, MT không khí, bảo vệ
TNTN, bảo tồn đa dạng sinh học… [20], [27], [31], [33], [111], [113], [105].
Tác giả Nguyễn Minh Hằng trong bài viết “Môi trường sinh thái - vấn
đề của mọi người” [62] khẳng định, MTST là một mạng lưới chỉnh thể có
mối liên quan chặt chẽ với nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống
trong phạm vi toàn cầu. Trong quá trình sinh sống vì nhiều lý do khác nhau,

con người đã làm suy thoái MTST, thể hiện rõ nhất ở sự suy thoái tầng ôzon,
gây “hiệu ứng nhà kính”, ô nhiễm nguồn nước sạch. Các giải pháp cơ bản mà
tác giả nêu ra nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm MTST là: xây dựng ý thức
sinh thái, kết hợp giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái trong quá trình
sản xuất…
Tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm trong bài viết “Khía cạnh triết học - xã
hội của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam” [138] cho rằng, MTST hay
MT sống vốn là MT tự nhiên, là đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên,
trực tiếp là của sinh thái học - sinh học. Nói đến MTST là nói đến môi trường
tự nhiên - xã hội hay môi trường sinh thái - nhân văn và thực chất vấn đề
MTST là vấn đề về mối quan hệ giữa con người - xã hội - tự nhiên. Theo tác
giả, cùng với sự phát triển của xã hội, dưới tác động của con người, MTST
đang ngày càng biến đổi theo chiều hướng xấu. Do vậy, để bảo vệ MTST, cần
phải có sự thay đổi cơ bản trong quan niệm về sự phát triển, thay đổi quan
10
niệm về tự nhiên, về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên; đồng thời kết
hợp với việc ngăn chặn, loại bỏ các tệ nạn trong xã hội; đưa vấn đề giáo dục
MT trở thành một nội dung quan trọng trong GD và ĐT.
Tác giả Nguyễn Văn Kim trong bài viết “Mối quan hệ giữa phát triển
và bảo vệ môi trường - kinh nghiệm của Nhật Bản” [80] lại khẳng định, chính
con người là tác nhân chủ yếu gây ra tình trạng ô nhiễm MT, làm mất cân
bằng sinh thái. Phân tích sự phát triển kinh tế của Nhật Bản trong những năm
đầu thế kỷ XX có ảnh hưởng tới MTST, tác giả cho rằng, sự tập trung quá
mức các ngành sản xuất và dân cư vào những khu vực địa lý nhất định đã dẫn
đến tình trạng mất cân bằng sinh thái và ô nhiễm MT sống. Từ đây, tác giả
đưa ra một số kinh nghiệm của Nhật Bản trong bảo vệ MT và phát triển kinh
tế như luật hóa các chính sách về MT, động viên nhân dân tham gia bảo vệ
MT, có lối sống hòa hợp với nhiên nhiên. Cũng trong bài viết này, tác giả còn
khẳng định, Việt Nam nên coi kinh nghiệm của Nhật Bản như một bài học để
phát triển kinh tế và bảo vệ MT bền vững.

Tác giả Đỗ Huy trong bài viết “Giáo dục đạo đức sinh thái và xây
dựng môi trường văn hoá trong lịch trình thế kỷ XXI” [74] đã làm rõ vai trò
vô cùng quan trọng của MTST trong quá trình phát triển kinh tế. Theo tác giả,
do nhu cầu tăng năng suất lao động người ta đã từng coi việc khai thác vô hạn
độ MT là hành động tích cực. Kết quả là có nhà máy, công trường, có thêm
việc làm cho người lao động, song, các giá trị văn hoá bị xuống cấp, sức khoẻ
con người giảm sút thì lại không được chú ý thích đáng. Theo tác giả bài viết thì
giá trị của hệ sinh thái có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống con người, các giá trị này
tuy “im lặng” nhưng nếu con người lạm dụng quyền lực của mình, tác động thô
bạo vào chúng thì cái giá phải trả là rất lớn. Do đó, tác giả khẳng định, việc giáo
dục đạo đức sinh thái là rất cần thiết để MT và con người phát triển một cách
hài hoà.
Đi sâu nghiên cứu về đạo đức sinh thái, tác giả Phan Thị Hồng Duyên
trong bài viết “Giáo dục đạo đức sinh thái vì sự phát triển bền vững cho con
11
người và giới tự nhiên” [46] lại thể hiện sự bức xúc về vấn đề MT và bảo vệ
MT hiện nay ở nước ta. Theo tác giả, Việt Nam cần thiết phải PTBV, nghĩa là
phải tạo ra sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ MT. Tác giả cũng
cho rằng việc bảo vệ MT để nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển KT -
XH không thể chỉ bằng những văn bản, chỉ thị mà giáo dục đạo đức sinh thái
cũng là một trong những biện pháp có tác dụng lâu dài và quan trọng. Giáo
dục đạo đức sinh thái phải được tiến hành từ tuổi ấu thơ tới tuổi trưởng thành,
với mọi đối tượng từ những người dân, đến những người làm công tác lãnh
đạo, quản lý, hoạch định đường lối, chiến lược phát triển KT - XH của đất
nước. Quan niệm này hoàn toàn đúng và có ý nghĩa quan trọng đối với sự
phát triển của đất nước ta trong cả hiện nay lẫn mai sau.
Tác giả Vũ Trọng Dung trong cuốn sách “Đạo đức sinh thái và giáo
dục đạo đức sinh thái” [45] quan niệm “môi trường sinh thái là tất cả những
điều kiện xung quanh có liên quan đến sự sống của sinh thể, của con người”
[45, tr.153]. Theo tác giả thì các nguyên nhân cơ bản gây ra tình trạng ô

nhiễm MTST là các vấn đề về công nghiệp hóa, kỹ thuật hóa, sự phát triển
dân số… Không chỉ nhấn mạnh một phương diện quan trọng trong việc giải
quyết vấn đề ô nhiễm MTST đó là giáo dục đạo đức sinh thái, tức là giáo dục
thái độ, ý thức, hành vi tôn trọng và yêu quý thiên nhiên, giữ gìn và bảo vệ
MTST cho mọi chủ thể, tác giả còn khẳng định sự thống nhất giữa nghĩa vụ
đạo đức với nghĩa vụ pháp lý trong việc giữ gìn và bảo vệ MTST là đòi hỏi
cấp bách đối với mỗi người và đó cũng là giải pháp cơ bản để giải quyết vấn
đề ô nhiễm MTST ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả Nguyễn Danh Sơn trong bài viết “Một số vấn đề về bảo vệ tài
nguyên và môi trường trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở nước ta” [71] nhấn
mạnh, tài nguyên và MT là một yếu tố nền tảng của PTBV. Nguy cơ suy
giảm, cạn kiệt tài nguyên, suy thoái MT đang hiện hữu và đe dọa đến tiến
trình PTBV của nước ta. Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của
biến đổi khí hậu mà một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do
12
nạn cạn kiệt TNTN. Do đó, các quyết định phát triển và quản lý phát triển
trong thời gian tới ở nước ta cần phải tính đến tác động của biến đổi khí hậu.
Để thực hiện việc này, cần thiết phải bảo vệ TN - MT, cần hướng quá trình
phát triển vào việc tăng trưởng xanh, phát triển xanh.
Như vậy, thông qua nghiên cứu các công trình khoa học trên, có thể
thấy, MTST là tổng hợp các yếu tố vật chất tự nhiên và các loại TNTN, chúng
giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Do vậy, việc bảo vệ
MTST là hết sức quan trọng. Bảo vệ MTST là bảo vệ các yếu tố tự nhiên và
các loại TNTN. Bảo vệ MTST không những tạo điều kiện cho kinh tế tăng
trưởng ngày một bền vững hơn, mà còn giúp cho con người ngày một tiếp cận
với cuộc sống văn minh hơn, tốt đẹp hơn.
0/0/5/,4 >"#$%&'" () !
*+,
Ở Việt Nam, trong những năm qua, vấn đề về phòng chống ô nhiễm
MTST, khai thác bền vững nguồn TNTN, gắn TTKT với bảo vệ MTST cùng

nhiều vấn đề liên quan đã trở thành nội dung quan trọng trong các chiến lược,
các hội nghị, hội thảo về phát triển, các công trình nghiên cứu khoa học của
nhiều cấp bộ, ngành từ trung ương đến địa phương.
Trong các Chiến lược quan trọng ban hành từ năm 2010 đến nay như:
“Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020” [20]; “Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020”
[27]; “Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” [30];
“Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu” [31]; “Chiến lược Bảo vệ môi
trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” [33]; “Chiến lược
phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020” [34]; “Chiến lược quốc
gia về tăng trưởng xanh” [35]… Chính phủ Việt Nam đã nhấn mạnh tới PTBV
như là sự gắn kết chặt chẽ giữa TTKT với bảo vệ MTST. Tất cả các Chiến lược
đã có đều khẳng định PTBV trên khía cạnh gắn TTKT với bảo vệ MTST là nội
dung hết sức quan trọng trong quá trình phát triển KT - XH ở nước ta thời kỳ
13
đẩy mạnh CNH, HĐH. Nội dung này phải được coi là sự nghiệp của toàn
Đảng, toàn dân; toàn thể các bộ, ngành, các cấp chính quyền từ trung ương đến
địa phương cũng như mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức xã hội.
Những năm gần đây, còn có khá nhiều hội nghị, hội thảo khoa học
quốc tế và trong nước bàn luận khá sôi nổi về vấn đề gắn TTKT với bảo vệ
MTST, về PTBV như: “Hội nghị quốc tế Động thái dân số, biến đổi khí hậu
và phát triển bền vững” [15]; Hội thảo “Toàn cầu hoá và ảnh hưởng đối với
khu vực châu Á - Thái Bình Dương: khía cạnh kinh tế, xã hội và văn hoá”
[65]; “Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 23” [66]; Hội thảo “Xây dựng và
phát triển bền vững” [72], Hội thảo “Phát triển năng lượng bền vững”
[149] Các hội nghị, hội thảo này đã đề cập tới nhiều vấn đề quan trọng của
PTBV và gắn TTKT với bảo vệ MTST ở các nước trên thế giới cũng như ở
Việt Nam. Các vấn đề như: tình hình, thách thức đang đặt ra hiện nay cho tiến
trình PTBV chung của thế giới trong đó có Việt Nam; nỗ lực và tăng cường ý
nguyện chính trị của cộng đồng quốc tế để cùng nhau xây dựng cương lĩnh hành

động, thực hiện các cam kết, giải quyết những vấn đề cấp thiết của các nước
đang phát triển nhằm thúc đẩy toàn diện tiến trình PTBV của thế giới; xem xét,
giải quyết các hoạt động xây dựng trong sự PTBV về kinh tế, xã hội, môi
trường; đánh giá tổng quát về tình hình năng lượng tại Việt Nam, chỉ ra những
thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt như: khai thác đa dạng và hiệu quả
các nguồn tự nhiên trong nước, phát triển các dự án mới, phát triển năng lượng
đi kèm với bảo vệ MT, thành lập thị trường công nghệ cạnh tranh, thúc đẩy
chương trình năng lượng nông thôn được bàn luận khá sôi nổi tại các hội thảo
này.
Phát triển bền vững, gắn TTKT với bảo vệ MTST còn là chủ đề của
nhiều bài viết và công trình nghiên cứu khoa học theo các hướng khác nhau
của các tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm, Nguyễn Văn Kim, Chu Thái Thành,
Trương Mạnh Tiến, Bùi Văn Dũng…
Trong rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí như:“Sự kết hợp giữa các
14
mục tiêu kinh tế và sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
[136]; “Khía cạnh triết học - xã hội của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt
Nam” [138]; “Về cách tiếp cận triết học - xã hội đối với hiện trạng môi trường
sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên nhân và giải pháp” [139];
“Xây dựng đạo đức sinh thái - một trách nhiệm của con người đối với tự nhiên”
[142]… tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm đã đề cập tới nhiều phương diện khác
nhau của vấn đề bảo vệ MTST. Theo tác giả, nói đến MTST là nói đến môi
trường tự nhiên - xã hội hay môi trường sinh thái - nhân văn; thực chất của vấn
đề MTST là vấn đề về mối quan hệ giữa con người - xã hội - tự nhiên. Khi
nghiên cứu về mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái, tác giả khẳng định, mục
tiêu sinh thái là sự khai thác hợp lý các nguồn TNTN, bảo vệ và không ngừng
cải thiện chất lượng môi trường sống. Trên cơ sở luận giải về sự tác động qua lại
giữa con người và tự nhiên, tác giả đề cập một cách sâu sắc tới sự tác động của
quá trình TTKT đối với MTST, qua đó khẳng định rằng, để gắn kết TTKT với
bảo vệ MTST, cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau như sử dụng

cơ chế lợi ích, xây dựng các chính sách xã hội về bảo vệ môi trường, đổi mới
công nghệ để khai thác, sử dụng hợp lý TNTN, bảo vệ MTST…
Tác giả Nguyễn Đình Hòa trong bài viết “Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay: khía cạnh môi trường sống”
[67] khẳng định, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận, một nội
dung quan trọng của tiến trình hiện đại hóa ở các nước đang phát triển. Ở
nước ta các vấn đề về MT sống nảy sinh trong quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn hiện nay đang trở nên phức tạp cả về quy mô và tính chất.
Nguy cơ cạn kiệt một số nguồn TNTN do các hoạt động sản xuất và dân sinh,
vấn đề ô nhiễm MT do tác động của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn; nguy cơ suy giảm đa dạng sinh học chủ yếu do các hoạt động sản xuất
và dân sinh… phải được coi là những vấn đề cấp bách và phải có những biện
pháp khắc phục. Các biện pháp được tác giả đưa ra nhằm PTBV khu vực
nông nghiệp, nông thôn trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay là:
15
Phát triển, ứng dụng KH và CN cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn; phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao; quán triệt mục tiêu bảo vệ MT trong xây
dựng, triển khai thực hiện các chính sách, dự án phát triển kinh tế.
Tác giả Trần Đắc Hiến trong bài viết“Ô nhiễm môi trường ở nước ta
hiện nay - Thực trạng và một số giải pháp khắc phục” [64] cho rằng, một
trong những vấn đề gây bức xúc dư luận trong thời gian qua là ô nhiễm MT.
Nguyên nhân của tình trạng này được khẳng định là do các hoạt động sản xuất
và sinh hoạt của con người như nước, chất thải của các khu công nghiệp, các
làng nghề, các khu đô thị đổ trực tiếp ra MT. Trên cơ sở đó, tác giả kết luận:
các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cần phải có
những điều chỉnh kịp thời theo hướng chú trọng công tác bảo vệ MT; công tác
tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân dân bảo vệ MT và thực hiện điều chỉnh
quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, làng nghề… phải được coi là các
giải pháp chủ đạo để giải quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường ở nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.

Tác giả Chu Thái Thành trong bài viết “Mấy vấn đề về phát triển bền
vững” [124], xuất phát từ khía cạnh PTBV trên cơ sở kết hợp giữa TTKT với
bảo vệ MTST, tác giả đã coi phát triển kinh tế, dân số, TNTN và bảo vệ
MTST là bốn trụ cột của một căn nhà. Tác giả khẳng định phát triển kinh tế
phải gắn với bảo vệ MTST, đó là đòi hỏi tất yếu khách quan của PTBV và sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước. Một số giải pháp cho vấn đề PTBV được tác giả
đề cập tới trong bài viết này là: thực hiện chiến lược quốc gia về tài nguyên
MT; thực hiện các dự án về cải tạo, bảo vệ TN - MT, giữ gìn đa dạng sinh
học; chấm dứt tình trạng làm suy thoái tài nguyên, quy hoạch cơ cấu sản xuất
để đảm bảo gắn TTKT với bảo vệ MTST.
Ngoài các bài viết dưới dạng tạp chí, còn có nhiều công trình nghiên
cứu chuyên sâu về mối quan hệ giữa TTKT với bảo vệ MTST. Dưới đây là
một trong số các công trình đó.
Luận án tiến sỹ khoa học kinh tế với tiêu đề “Sự phát triển của thương
16
mại tự do trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay với vấn đề
bảo vệ môi trường sinh thái” của tác giả Trương Mạnh Tiến [131]. Các vấn
đề được tác giả đề cập trong luận án là:
Xuất phát từ mục đích, đối tượng và phù hợp với chuyên ngành kinh tế
học, tác giả đã luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về tự do thương mại và
bảo vệ MTST ở nước ta. Thông qua nghiên cứu về nền kinh tế thị trường và
quá trình tự do hoá thương mại, tác giả phân tích liên kết xã hội - kinh tế -
môi trường sinh thái và chỉ ra rằng quá trình TTKT chỉ có thể đạt được khi có
sự bền vững về MTST. Theo tác giả, con đường khả thi duy nhất để TTKT
lâu bền là cân bằng các nguồn lực kinh tế, sinh thái, con người.
Trên cơ sở đánh giá những hậu quả về mặt MT của các chính sách kinh
tế như tự do hoá thương mại gây ra. Tác giả Trương Mạnh Tiến cho rằng, quy
mô hoạt động thương mại tăng, sẽ dẫn đến việc sử dụng các nguồn TNTN và
ô nhiễm MTST cũng tăng theo. Trong khi khẳng định bảo vệ MTST “được
hiểu là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện

môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả
xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng
hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên” [131, tr. 40], tác giả đồng thời
nhấn mạnh tự do hoá thương mại và bảo vệ MTST phải được thừa nhận như
một tất yếu khách quan nhằm đảm bảo thúc đẩy kinh tế tăng trưởng qua hoạt
động tự do hoá thương mại và bảo vệ nguồn vốn đầu vào cho quá trình tăng
trưởng đó.
Nghiên cứu của tác giả Trương Mạnh Tiến cũng chỉ ra những ảnh
hưởng của quá trình phát triển tự do thương mại tới MTST trong thời kỳ
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta. Sau khi phân tích thực trạng
nền kinh tế và hoạt động thương mại, cùng với thực trạng MTST ở nước ta,
tác giả đã rút ra kết luận, sự phát triển tự do thương mại trong điều kiện kinh
tế thị trường ở nước ta có ảnh hưởng rõ rệt tới MTST. Các hoạt động tự do
hoá thương mại như nhập rác thải công nghiệp, xuất khẩu gỗ, thuỷ hải sản…
17
đã để lại nhiều hậu quả về MTST. Nhu cầu sử dụng chất đốt, năng lượng,
nguyên liệu cho các ngành công nghiệp gia tăng đều là nguyên nhân chính
làm cho MTST bị ô nhiễm, TNTN bị khai thác triệt để.
Từ các nội dung trên, tác giả Trương Mạnh Tiến đã chỉ ra các mục tiêu,
chiến lược phát triển thương mại đến năm 2010, nêu lên các giải pháp cơ bản
để bảo vệ MTST trong điều kiện tự do hoá thương mại ở nước ta như: Hoàn
thiện cơ chế quản lý và chính sách nhà nước ở tầm vĩ mô; hoàn thiện cơ chế
quản lý, chính sách và biện pháp về MT và thương mại; thành lập hội đồng
doanh nghiệp vì sự PTBV; củng cố bộ máy tổ chức bảo vệ MT ở trung ương và
địa phương; đẩy mạnh công tác GD, ĐT, bảo vệ môi trường…
Luận án tiến sỹ triết học “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo
vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền” [47], tác giả Bùi Văn Dũng đã luận
giải sâu sắc các vấn đề sau:
Ở nội dung nghiên cứu thứ nhất: “Tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường sinh thái” [47, tr.11], tác giả Bùi Văn Dũng đã nêu ra và so sánh hai

khái niệm TTKT, phát triển kinh tế. Từ đó, đi tới kết luận, các nhân tố quyết
định tới sự TTKT là: số lượng, chất lượng nguồn nhân lực; số lượng, chất
lượng nguồn tài nguyên; mức độ tích luỹ vốn và sự đổi mới công nghệ.
Nội dung nghiên cứu thứ hai của tác giả Bùi Văn Dũng là: “phát triển
lâu bền: sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường” [47,
tr.48], tác giả đã chứng minh phát triển lâu bền là sự thống nhất giữa TTKT
với bảo vệ môi trường. Qua việc làm rõ mâu thuẫn giữa TTKT và bảo vệ MT,
tác giả khẳng định hệ thống “tự nhiên - con người - xã hội” vốn có sự gắn bó
mật thiết với nhau trong một chỉnh thể, song lại có sự khác nhau qua từng giai
đoạn. Ở thời kỳ đầu trong sự phát triển của nền văn minh loài người, các lực
lượng tự nhiên gần như thống trị con người, sau đó, do sự phát triển của công
cụ lao động con người đã học cách chế ngự tự nhiên, thiết lập “sự thống trị”
của mình đối với tự nhiên, làm xuất hiện mâu thuẫn giữa con người và tự
nhiên, biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn này trong nền sản xuất vật chất là mâu
18
thuẫn giữa TTKT với bảo vệ MT. Để giải quyết mâu thuẫn giữa TTKT với
bảo vệ MT cho sự phát triển lâu bền, tác giả đưa ra năm giải pháp cơ bản, đó
là: thay đổi thái độ và hành động của con người; duy trì tỷ lệ tăng dân số một
cách hợp lý; xoá bỏ nghèo nàn; mở rộng cách mạng KH và CN vào sản xuất;
hoà bình và hợp tác toàn cầu; xoá bỏ chế độ người áp bức bóc lột người.
Nội dung thứ ba mà tác giả Bùi Văn Dũng nghiên cứu là “Mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền” [47,
tr.107]. Trong nội dung này, tác giả đã vạch rõ những thuận lợi và khó khăn
cho sự phát triển lâu bền ở Việt Nam. Về thuận lợi, tác giả cho rằng đó là: sự
tăng trưởng nhanh của nền kinh tế từ khi đổi mới, nguồn nhân lực dồi dào…
Còn về khó khăn, thách thức, theo tác giả đó là điều kiện cạnh tranh gay gắt
trên thế giới, yêu cầu về thể chế kinh tế, về phát triển nhanh và bền vững…
Luận án còn đưa ra một số giải pháp có ý nghĩa quan trọng để nước ta có thể
kết hợp tốt TTKT với bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Các giải pháp đó là: thống nhất quan điểm về sự

phát triển, xây dựng đồng bộ hệ thống chính sách và pháp luật bảo vệ môi
trường; thực hiện tốt chính sách dân số; đổi mới công nghệ và giải pháp về
giáo dục, tuyên truyền ý thức bảo vệ môi trường cho quần chúng nhân dân.
Như vậy, qua khảo sát các công trình khoa học trên, có thể rút ra các
nội dung cơ bản đã được các nhà khoa học nghiên cứu, giải quyết là:
Các công trình nghiên cứu đã có các hiểu đồng nhất về khái niệm
MTST. Trong các công trình trên, khái niệm MTST còn được hiểu là môi
trường tự nhiên, môi trường sinh thái - nhân văn. Một số tác giả còn đồng
nhất MTST với khái niệm môi trường.
Các công trình nghiên cứu đều khẳng định hoạt động sản xuất vật chất,
sinh hoạt và các hoạt động nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng là nguyên nhân
cơ bản dẫn đến tình trạng ô nhiễm MTST và cạn kiệt các nguồn TNTN.
Các công trình nghiên cứu đã tập trung phân tích và đưa ra một số giải
pháp cơ bản để có thể kết hợp một cách tốt nhất TTKT với bảo vệ MTST.
19
Giải pháp mà các công trình nghiên cứu hướng vào là hoàn thiện cơ chế chính
sách, pháp luật về TTKT và về bảo vệ MTST; giải pháp về nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực; giải pháp về phát triển KH và CN; giải pháp về giáo
dục ý thức đạo đức sinh thái cho nhân dân, đặc biệt là các chủ doanh nghiệp.
Những vấn đề trên là những gợi mở quan trọng để luận án nghiên cứu về
các khái niệm TTKT, khái niệm MTST, bảo vệ MTST. Kết quả nghiên cứu của
các công trình trên còn là cơ sở để luận án đi sâu phân tích về mối quan hệ biện
chứng giữa TTKT với bảo vệ MTST dựa trên cách tiếp cận triết học.
95-../0?5B<.A67
5456)%.1A5B<.A675
8956..
aN"#T["N\ZQZ^TRqwN]^"#S"&jNPbTZjTRp"Rq&h"
rT"#Rn
Có thể khẳng định, nghiên cứu về vai trò của nhà nước đối với TTKT là
một trong những hướng nghiên cứu thu hút được sự quan tâm của khá nhiều

nhà khoa học trong những năm gần đây. Điều đó thể hiện ở số lượng ngày càng
nhiều bài viết đăng trên các tạp chí, các công trình nghiên cứu luận văn thạc sỹ,
luận án tiến sỹ, các loại sách tham khảo, chuyên khảo dưới góc độ nhiều
chuyên ngành khác nhau như triết học, kinh tế học, kinh tế chính trị học Cụ thể
là các công trình sau: “Về chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Hậu [63]; “Vai trò định hướng xã hội chủ
nghĩa của nhà nước đối với phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay” của tác
giả Lê Thị Hồng [69]; “Vai trò của Nhà nước đối với hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam” của tác giả Mai Lan Hương [76]; “Vai trò nhà nước đối với
việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay” của tác giả Trần Thị Thu Hường [78]; “Quản lý nhà
nước về kinh tế ở nước ta hiện nay” của tác giả Ngô Quang Minh [101]; “Thể
chế kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế ở Việt Nam” của hai tác giả Lương Xuân Quỳ và Đỗ Đức Bình [121]; “Vai
20
trò của nhân tố chủ quan trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển
nền kinh tế ở nước ta hiện nay” của tác giả Trần Thành [125]; “Về vai trò của
nhà nước trong nền kinh tế thị trường” của tác giả Lê Nguyễn Hương Trinh
[143]; “Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi
mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” của tác giả Nguyễn Phú Trọng [144]…
Nghiên cứu các các công trình này, tác giả luận án rút ra những kết luận sau:
Các khái niệm về TTKT, kinh tế thị trường, toàn cầu hoá kinh tế, hội
nhập kinh tế quốc tế… đã được nhiều công trình nghiên cứu đặt ra và giải
quyết một cách công phu, nghiêm túc. Mặc dù các công trình đã tiếp cận khái
niệm TTKT theo nhiều hướng khác nhau, song, nhìn chung đều thống nhất ở
nội dung: TTKT và phát triển kinh tế là hai khái niệm không đồng nhất với
nhau. TTKT và phát triển kinh tế luôn gắn liền với việc phát huy vai trò của
nhà nước nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế, thể chế kinh tế và nâng cao chất
lượng cuộc sống [63], [69], [78], [101], [121], [125], [143], [144]…
Các nghiên cứu đã tập trung làm rõ sự thay đổi vai trò của Nhà nước ta

từ khi đất nước thực hiện đổi mới mô hình phát triển kinh tế. Nền kinh tế thị
trường luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm xây dựng, hoàn thiện
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, vai trò, chức năng quản lý của nhà
nước ngày càng được điều chỉnh theo xu thế phát triển [63], [69], [76], [78]…
Tác giả Nguyễn Phú Trọng khẳng định, việc nhà nước quản lý nền kinh tế thị
trường, không những hướng tới mục đích hạn chế các khuyết tật của kinh tế thị
trường, mà còn duy trì sự ổn định để kinh tế thị trường hoạt động và phát triển.
Ngày nay, có nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau trên thế giới, mặc dù
mức độ và hình thức can thiệp của nhà nước vào các mô hình kinh tế có khác
nhau, nhưng đều là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước [144].
Các nghiên cứu còn khẳng định, nhà nước có tác động lớn tới TTKT.
Thông qua các thể chế kinh tế, nhà nước đã tạo ra một hành lang pháp lý, một
sân chơi ngày càng bình đẳng cho các chủ thể kinh tế tham gia thị trường,
thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khơi
21

×