Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

DE TAI sử dụng sơ đồ tư duy để học và tự học môn Chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.49 MB, 47 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế, nguồn lực con người càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành
công của công cuộc phát triển đất nước.
Giáo dục có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người
Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, trong đó các trường cao đẳng,
đại học chính là nơi đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực cao cho xã hội và sinh viên
chính là lực lượng lao động tương lai quyết định sự phát triển và phồn vinh của đất nước.
Trước những yêu cầu ngày càng cao của xã hội, đòi hỏi các sinh viên khi tốt
nghiệp phải trang bị cho mình kiến thức chuyên môn vững chắc, kỹ năng thực hành nghề
nghiệp thành thạo, có khả năng lao động sáng tạo, có tư duy độc lập và năng lực giải
quyết vấn đề, có thể thích ứng tốt với những biến động của thị trường lao động.
Sự phát triển như vũ bão của các ngành khoa học nói chung và Y học nói riêng, đòi
hỏi sinh viên phải biết lựa chọn phương pháp học tập phù hợp, để có thể tiếp thu, lĩnh hội
một lượng kiến thức khổng lồ, nhưng vẫn phát huy được tính tích cực, trí tưởng tượng,
khả năng tư duy sáng tạo, đem lại kết quả cao trong học tập.
Sơ đồ tư duy (Mind Map) còn gọi là bản đồ tư duy, lược đồ tư duy... là một hình
thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng, tóm tắt
những ý chính của một nội dung, hệ thống hoá một chủ đề. Đây là một công cụ tư duy có
tính đột phá, một cách khai thác tiềm năng vô tận của bộ não đã được hơn 250 triệu người
ở các quốc gia trên thế giới sử dụng trong tất cả các lĩnh vực. [12]
Sử dụng sơ đồ tư duy trong học tập giúp sinh viên phát huy tích cực, khả năng tư
duy và hứng thú học tập, phát huy tối đa tiềm năng ghi nhớ của bộ não giúp học sinh tiếp
thu lĩnh hội kiến thức một cách hiệu quả, hệ thống hóa kiến thức một cách khoa học,
logic, mở rộng tư duy, tăng khả năng sáng tạo, từ đó góp phần nâng cao kết quả học tập
của sinh viên.
Xuất phát từ những lí do như trên, chúng tôi chọn đề tài “Hướng dẫn học sinh lớp
Điều dưỡng 12B sử dụng sơ đồ tư duy để học và tự học môn Chính trị, năm học 20111



2012” nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu và hướng dẫn học sinh lớp Điều dưỡng 12B sử dụng sơ đồ tư duy để
học và tự học môn Chính trị, năm học 2011-2012.
- Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh lớp Điều dưỡng 12B đối với môn
Chính trị.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận về quá trình học và tự học của học sinh.
- Nghiên cứu và hướng dẫn học sinh sử dụng Sơ đồ tư duy để học và tự học.
- Tiến hành thực nghiệm ở trường Cao đẳng Y Tế Sơn La.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
- Sơ đồ tư duy trong việc học môn Chính trị của học sinh lớp Điều dưỡng 12B.
3.2. Đối tượng nghiên cứu.
- Học sinh lớp Điều dưỡng 12B.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Sơ đồ tư duy và ứng dụng sơ đồ tư duy trong việc học và tự học môn Chính trị
của học sinh lớp Điều dưỡng 12B, năm học 2011-2012.
5. Giả thuyết khoa học
Vận dụng Sơ đồ tư duy trong việc học và tự học môn Chính trị của học sinh sẽ tích
cực hóa hoạt động nhận thức, tăng hứng thú học tập cho học sinh, từ đó góp phần nâng
cao kết quả học tập của học sinh lớp Điều dưỡng 12B, năm học 2011-2012.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: tổng quan các tài liệu trong nước và
ngoài nước về lý luận dạy học có liên quan đến đề tài. Sử dụng phối hợp các phương pháp
phân tích, đánh giá, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa . . . trong nghiên cứu các tài
liệu có liên quan tới việc ứng dụng sơ đồ tư duy vào dạy học.
2



- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra cơ bản thực trạng việc học và
sử dụng sơ đồ tư duy trong học tập của học sinh lớp Điều dưỡng 12B, năm học 20112012. Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng giả thuyết khoa học của đề tài.
- Phương pháp xử lý kết quả thực nghiệm, đưa ra những kết quả phân tích định
tính, định lượng từ đó rút ra kết luận cho đề tài.
7. Những đóng góp mới của đề tài
Xây dựng phương pháp học, tự học môn Chính trị của học sinh lớp Điều dưỡng
12B, năm học 2011 - 2012 bằng sơ đồ tư duy.
8. Cấu trúc của Đề tài khoa học
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của Đề tài khoa học gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong việc
học và tự học của học sinh.
Chương 2. Hướng dẫn học sinh lớp Điều dưỡng 12B trường cao đẳng Y Tế
Sơn La, năm học 2011 - 2012 sử dụng Sơ đồ tư duy để học và tự học môn Chính trị,
năm học 2011 - 2012.
Chương 3. Thực nghiệm

3


PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ
DUY TRONG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh đã được đặt ra trong ngành giáo
dục nước ta từ những năm 1960. Cũng ở thời điểm đó, trong các trường sư phạm đã có
khẩu hiệu: “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Trong cải cách giáo dục
lần hai, năm 1980, phát huy tính tích cực đã là một trong phương hướng cải cách, nhằm
đào tạo những con người lao động sáng tạo làm chủ đất nước.
Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi “phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,

sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học”.. Có thể nói
cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới học tập chủ động, sáng tạo, chống lại thói
quen học tập thụ động. [2].
Sử dụng SĐTD trong học tập là một hình thức học tập tích cực, giúp học sinh chủ
động linh hoạt, tiết kiệm thời gian, phát huy tối đa tính sáng tạo, khả năng tư duy, năng
kiếu hội họa, đem lại hứng thú và kết quả cao trong học tập. [8]
Tuy nhiên, hiện nay số lượng công trình nghiên cứu ứng dụng SĐTD trong dạy và
học chưa nhiều, một số đề tài liên quan chủ yếu áp dụng cho các đối tượng THCS, THPT,
số đề tài áp dụng cho đối tượng trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học còn rất ít.
1.2. Thực trạng việc học, tự học của học sinh, sinh viên ở các trường chuyên nghiệp
1.2.1. Thực trạng việc học của HS, SV ở các trường chuyên nghiệp
1.2.1.1. Hoạt động học
Học là quá trình người học tự giác, tích cực, độc lập tiếp thu tri thức, kinh nghiệm
từ môi trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và chân tay nhằm hình thành cấu trúc
tâm lý mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày càng hoàn thiện, và dù trong
tình huống nào thì trong bản thân sự học cũng hàm chứa sự tự học.
1.2.1.2. Thực trạng việc học của HS, SV ở các trường chuyên nghiệp
Đoàn khảo sát thực địa thuộc Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ năm 2006 có phần
nhận xét về phương pháp dạy và học ở các trường cao đẳng, đại học của Việt Nam như sau:
4


- Phương pháp giảng dạy không hiệu quả, quá phụ thuộc vào các bài thuyết trình
và ít sử dụng các kỹ năng học tích cực, kết quả là có ít sự tương tác giữa sinh viên và
giảng viên trong và ngoài lớp học.
- Quá nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu thuộc lòng mà không nhấn mạnh
vào việc học khái niệm hoặc học ở cấp độ cao (như phân tích và tổng hợp), dẫn đến hậu
quả là học hời hợt thay vì học chuyên sâu.
- Sinh viên học một cách thụ động (nghe diễn thuyết, ghi chép, nhớ lại những
thông tin đã học thuộc lòng khi làm bài thi).

- Sinh viên là những “thợ chép”: Thầy nói gì, viết gì trên bảng thì cứ việc cặm cụi
chép bằng hết vào cuốn vở trở thành cẩm nang duy nhất cho thi cử và thậm chí cả cho
việc hành nghề sau này. Dĩ nhiên học thụ động sẽ sản sinh ra những nhà “trí thức” thụ
động, chỉ đâu đánh đấy cũng chưa xong chứ nói gì đến nghiên cứu, sáng tạo.
Tình hình yếu kém nói trên của giáo dục đại học, cao đẳng vẫn tồn tại cho đến
ngày nay. [14]
Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân như thiếu trang thiết bị học tập, thương mại
hóa giáo dục, phương pháp giảng dạy của giảng viên, chú trọng lý thuyết nhiều hơn thực
tiễn,… Tuy nhiên một nguyên nhân rất quan trọng nhưng lại ít được nhắc đến đó là thái
độ của HS, SV trong việc học của mình.
Theo số liệu khảo sát của báo Tuổi trẻ thì chỉ 30% trong số những sinh viên được
hỏi có thái độ tích cực trong học tập, trong khi có đến 60% chọn giải pháp học đối phó.
Có nhiều lí do dẫn đến tình trạng trên:
Một là: HS, SV vội vàng tự mãn xem môi trường chuyên nghiệp là nơi xả hơi, nghỉ
ngơi, thư giãn sau 12 năm học vất vả bậc phổ thông.
Hai là: Do định hướng nghề nghiệp chưa tốt. Bản thân HS chưa hoặc không nhận
thức được đi học chuyên nghiệp để làm gì? Chuyên ngành mình chọn có phù hợp với mục
tiêu, sở thích, tính cách năng lực của bản thân hay không? Đa số HS lựa chọn ngành học
là theo ý muốn của gia đình, nhu cầu của xã hội, xu hướng cùng bạn bè,… Vì thế trong
quá trình học họ chưa thực sự yêu thích môi trường, ngành nghề, từ đó không có ý thức
vươn lên trong học tập và rèn luyện.
5


Ba là: sự thay đổi môi trường học tập (phương pháp dạy, phương pháp học) khác
hẳn so với bậc phổ thông, lượng kiến thức cần phải tiếp thu quá nhiều, học sinh chưa biết
lựa chọn phương pháp học phù hợp cũng như cân đối thời gian, dẫn đến chán nản, không
hứng thú với việc học tập.
1.2.2. Thực trạng việc tự học của HS, SV ở các trường chuyên nghiệp
1.2.2.1. Hoạt động tự học

Tự học là học với sự độc lập và tích cực, tự giác ở mức độ cao, tự học là quá trình
mà trong đó, chủ thể người học tự biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng
các thao tác trí tuệ hoặc chân tay nhờ cả ý chí, nghị lực và sự say mê học tập của cá nhân.
Tự học có thể diễn ra ở trên lớp hoặc ngoài giờ lên lớp, có thể diễn ra dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của giáo viên và ngay cả khi không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên. Tự
học được thực hiện qua nhiều bước khác nhau: tiếp nhận thông tin từ nhiều kênh thông
tin khác nhau, xử lý thông tin dựa vào vốn kinh nghiệm hiểu biết của mình, tự kiểm tra,
tự đánh giá những thông tin đã thu được, vận dụng thông tin để giải quyết vấn đề do
nhiệm vụ nhận thức và thực tiễn đặt ra…
Muốn nâng cao hiệu quả của hoạt động tự học của HS đòi hỏi người thầy giáo
ngoài chức năng tổ chức, hướng dẫn, truyền đạt... cần phải dạy cách thao tác với đối
tượng, cách chiếm lĩnh đối tượng cho HS, hay nói cách khác là hướng dẫn phương pháp
học, cách học cho HS.
1.2.2.2. Thực trạng việc tự học của HS, SV ở các trường chuyên nghiệp
Căn cứ kết quả điều tra của trường Đại học Khoa học Tự nhiên về việc tự học của
HS, SV cho thấy đa số HS, SV đều có nhận thức đúng về vai trò của hoạt động tự học. Cụ
thể: Có 79,7% SV cho rằng hoạt động tự học có vai trò rất quan trọng; 19,5% SV cho rằng
hoạt động tự học có vai trò quan trọng và chỉ có 0,8% SV là bình thường; 0% là không
quan trọng. Số đông SV đã có nhận thức một cách khá đầy đủ, sâu sắc về ý nghĩa của hoạt
động tự học (có 45,8% số đông SV cho rằng tự học là để người học tiếp thu tri thức;
33,9% có quan niệm cho rằng tự học giúp người học có thêm tri thức để hình thành và
phát triển nhân cách của bản thân). [13]
Tuy nhiên thực tế kết quả học tập lại chưa tương xứng với nhận thức đó. Một trong
6


những nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là do học sinh chưa có phương pháp học tập
thích ứng với yêu cầu của học tập hiện tại, chưa có được những kĩ năng tự học cần thiết để
hoàn thành các hoạt động học (80,5% học sinh chưa biết cách lập kế hoạch tự học, 78%
học sinh chưa biết cách đọc tài liệu, 75% học sinh chưa biết lập dàn ý hệ thống hoá kiến

thức...) do chưa có kĩ năng tự học cần thiết nên khi gặp những bài khó học sinh thường bỏ
qua, không tiếp tục suy nghĩ mà chỉ chờ thầy giải đáp. Do vậy phần nhiều học sinh, sinh
viên không nắm được cách hệ thống kiến thức cơ bản một cách vững chắc, hiệu quả và
chất lượng học tập chưa cao. Ngoài ra do giảng viên chưa thực sự quan tâm đến các biện
pháp tổ chức hoạt động tự học cho SV, chưa phát huy hết vai trò tích cực, độc lập sáng tạo
của SV trong quá trình dạy học. Chính vì vậy mà hoạt động tự học của SV chưa được đẩy
mạnh. [13].
1.3. Tính tích cực học tập của học sinh
1.3.1. Quan niệm về tính tích cực
1.3.1.1. Tính tích cực nhận thức
Tích cực là trạng thái hoạt động của chủ thể, nghĩa là của người hành động. Vậy
tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động của học sinh đặc trưng bởi khát vọng học
tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức. [3]
Theo các định nghĩa trên, trong hoạt động học tập, ta có thể hiểu: Tính tích cực học
tập là một phẩm chất nhân cách trong quá trình nhận thức của học sinh, làm cho quá trình
nhận thức luôn đạt kết quả cao, giúp con người có khả năng học tập không ngừng.
1.3.1.2. Những biểu hiện của tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập
- Đặc trưng bởi cường độ nhận thức, sự tham gia của người học trong quá trình
nhận thức và nắm vững kiến thức.
- Sự hướng đích của hoạt động nhận thức: Sự tích cực nhận thức ở đây được xem
như là mối quan hệ của cá nhân nhận thức với đối tượng, quá trình và mục đích nhận thức.
- Sự độc lập quyết định hành động trong những tình huống có vấn đề nêu ra, việc
tự lựa chọn con đường để đạt được mục đích và tính cá biệt của lời giải.
- Khả năng tổ chức thông tin nhận được theo một cách nhất định để xây dựng hệ
thống kiến thức.
7


1.3.2. Quan niệm về tính tích cực trong học tập
1.3.2.1. Các mức độ của tính tích cực

Có 3 mức độ tư duy khác nhau:
Tư duy tích cực (1), tư duy độc lập (2) và tư duy sáng tạo (3) mà mối qua hệ giữa chúng
có thể biểu diễn bằng 3 đường tròn lồng nhau. (hình bên)
* Một học sinh chăm chú nghe giáo viên giảng bài
(truyền đạt khái niệm mới hoặc chứng minh định lí), cố gắng
để hiểu được tài liệu. ở đây có thể nói đến tư duy tích cực.
* Nếu giáo viên thay việc giải thích bằng yêu cầu học
sinh tự xây dựng khái niệm, phân tích định lí, tự tìm hiểu cách chứng minh (dựa theo sách
giáo khoa, tài liệu học tập), thì trong trường hợp này nói đến tư duy độc lập (cũng là tư
duy tích cực).
* Có thể nối đến tư duy sáng tạo khi học sinh tự khám phá vấn đề, tự tìm ra cách
chứng minh mà học sinh đó chưa biết. Chỉ có tư duy sáng tạo khi học sinh có 3 mức độ tư
duy tích cực như vậy.
Do đó trong soạn giảng, giáo viên cần quan tâm đến cả 3 loại mức độ tư duy, theo
thứ tự từ thấp đến cao (1) --> (2) --> (3), chuẩn bị bài theo 3 mức độ đó, tuần tự nâng cao
hay hạ thấp yêu cầu một cách linh hoạt tuỳ thuộc vào đối tượng học sinh thực tể, tuỳ
thuộc vào diễn biến tình hình học tập trên lớp. [11].
1.3.2.2. Những biểu hiện của tính tích cực trong học tập
- Dấu hiệu về hoạt động nhận thức: Tính tích cực học tập của học sinh thể hiện ở
các thao tác tư duy, ngôn ngữ, sự quan sát, ghi nhớ, tư duy hình thành khái niệm, phương
thức hành động, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, các câu hỏi nhận thức của học sinh.
- Dấu hiệu về mặt chú ý nghe giảng: Tính tích cực học tập của học sinh thể hiện ở
chỗ học sinh chú ý nghe giảng, thực hiện đầy đủ các yêu cầu của giáo viên, hoà nhập
được vào không khí học tập của cả lớp, giải đáp các câu hỏi do giáo viên đưa ra một cách
nhanh chóng, chính xác và biết nhận rõ đúng sai, sau khi bạn đưa ra ý kiến.
- Dấu hiệu về tinh thần, tình cảm học tập: Tính tích cực học tập thể hiện qua sự say
mê, sự sốt sắng của học sinh khi thực hiện yêu cầu mà giáo viên đặt ra: Học sinh thích
8



được trả lời câu hỏi, học sinh làm bài tập một cách hồ hởi, một cách tự nguyện.
- Dấu hiệu về nhu cầu, hứng thú, niềm tin học tập: Tính tích cực học tập của học
sinh thể hiện ở năng lực định hướng, sự căng thẳng trí tuệ, sự hứng thú khi giải quyết một
tình huống học tập.
- Dấu hiệu về ý chí, quyết tâm học tập: Tính tích cực học tập của học sinh thể hiện
ở sự nỗ lực ý chí khi giải quyết nhiệm vụ học tập, kiên trì tìm tòi đến cùng và cao hơn nữa
là vạch được mục tiêu kế hoạch học tập.
- Dấu hiệu về mặt tâm lí, cử chỉ hành động: Tính tích cực học tập của học sinh thể
hiện ở hành vi cử chỉ biểu hiện ra bên ngoài: Nét mặt, nhịp điệu hoạt động, hành động học tập.
- Dấu hiệu về kết quả nhận thức: Tính tích cực học tập của học sinh biểu hiện ở kết
quả lĩnh hội kiến thức nhanh chóng, chính xác và tái hiện được khi cần vận dụng trong
những tình huống cụ thể.
1.3.2.3. Phân loại tính tích cực của học sinh
Tính tích cực học tập được phân làm 3 loại:
* Tính tích cực chấp nhận, bắt chước và tái hiện
Khi học sinh có sự tái hiện được các kiến thức đã học, thực hiện được các thao tác,
kỹ năng mà giáo viên nêu ra. Tính tích cực học tập ở đây xuất hiện do tác động bên ngoài
(yêu cầu bắt buộc của giáo viên), người học làm theo mẫu nhằm chuyển đối tượng từ bên
ngoài vào trong theo cơ chế nhập nội. Loại này thường chỉ phát triển mạnh ở học sinh có
năng lực nhận thức ở mức độ trung bình và dưới trung bình (yếu, kém).
* Tính tích cực tìm tòi, áp dụng
Đi liền với quá trình lĩnh hội khái niệm, định lí; Giải quyết tình huống học tập; Tìm
tòi các phương thức hành động...với sự tham gia của động cơ, nhu cầu, hứng thú và chú ý.
Tính tích cực ở đây là: học sinh không bị hạn chế hiểu biết bởi khuôn khổ những yêu cầu
của giáo viên trong giờ học. Loại này phát triển mạnh ở những học sinh có năng lực nhận
thức trung bình và đặc biệt là ở học sinh trên trung bình (khá, giỏi).
* Tính tích cực sáng tạo
Thể hiện ở chỗ học sinh tự mình cũng có thể tìm được kiến thức mới, phương thức
hành động mới, dễ dàng tìm được kết quả hay thực hiện tốt các yêu cầu hành động do
9



giáo viên đưa ra mà không cần có sự giúp đỡ của giáo viên. Loại này thường ở học sinh
có năng lực ở mức độ trên trung bình (khá, giỏi), học sinh có năng khiếu.
Cách phân loại trên là hết sức khái quát, muốn đánh giá đúng mức độ tích cực của
học sinh, giáo viên còn phải căn cứ vào kết quả học tập, sự chú ý, hứng thú học tập và
thời gian duy trì tính tích cực học tập trong giờ học, trong quá trình học tập...[11]
Căn cứ vào các dấu hiệu đã nêu trên và điều kiện tổ chức giờ học hiện nay, giáo
viên có thể dựa vào 3 mặt sau đây để đánh giá:
a) Trạng thái học tập của học sinh
Căn cứ vào mức độ biểu lộ xúc cảm, tình cảm học tập như: Niềm say mê lao động trí
tuệ, sự nỗ lực, ý chí thực hiện các công việc được giao...trong quá trình giải quyết các tình
huống học tập.
b) Hành động học tập của học sinh
Căn cứ vào thực hiên các thao tác tư duy: Quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, trìu
tượng hoá, khái quát hoá...để học sinh ghi nhớ, tái hiện kiến thức một cách nhanh chóng
và chính xác trong quá trình giải quyết các tình huống học tập.
c) Kết quả học tập của học sinh
Cần căn cứ vào kết quả kiểm tra sau mỗi giờ học, một quá trình học, số lượng bài
tập mà học sinh có thể làm được...
Trong 3 mặt trên thì các mặt a), b) là đánh giá về mặt định tính (dựa vào mức độ và
cường độ biểu hiện các dấu hiệu tích cực), còn mặt c) là đánh giá về mặt định lượng (Căn
cứ vào kết quả kiểm tra). Phối hợp giữa 3 mặt trên, chúng ta sẽ đánh giá được mức độ tích
cực học tập của học sinh.
1.4. Giới thiệu về Sơ đồ tư duy (SĐTD)
1.4.1. Cơ sở xây dựng SĐTD

Cấu tạo của bộ não
Bộ não người có khoảng 10 tỷ nơ-ron thần kinh. Mỗi nơ-ron có khả năng thực hiện
số lượng kết nối là một con số bao gồm số 1 và 28 số 0 phía sau, vậy khả năng của cả bộ

não người có thể thực hiện được số liên kết sẽ là số 1 đứng trước 10,8 triệu kilomet số 0.
Như vậy, khả năng của bộ não là vô tận và giới hạn của nó là vô hạn.
10


Bộ não người cấu tạo gồm hai phần: não trái và não
phải với các chức năng khác nhau. Não trái có tác dụng
nghi nhớ từ ngữ, ký tự, con số, đường nét,… trong khi đó
não phải có tác dụng ghi nhớ màu sắc, hình ảnh, âm
thanh, không gian, trí tưởng tượng,…
Trước nay, chúng ta mới chỉ sử dụng một nửa của
bộ não - não trái, mà chưa hề sử dụng kỹ năng nào bên
não phải, nơi giúp chúng ta xử lý các thông tin về nhịp
điệu, màu sắc, không gian, sự mơ mộng,… [12].
Với mục tiêu giúp chúng ta sử dụng tối đa khả năng của bộ não, Tony Buzan đã
đưa ra Sơ đồ tư duy để giúp mọi người thực hiện được mục tiêu này.
1.4.2. Sơ đồ tư duy là gì?
Trước nay, chúng ta ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường thẳng, con số. Với
cách ghi chép này, chúng ta mới chỉ sử dụng một nửa của bộ não - não trái, mà chưa hề
sử dụng kỹ năng nào bên não phải, nơi giúp chúng ta xử lý các thông tin về nhịp điệu,
màu sắc, không gian và sự mơ mộng. Hay nói cách khác, chúng ta vẫn thường đang chỉ sử
dụng 50% khả năng bộ não của chúng ta khi ghi nhận thông tin. Với mục tiêu giúp chúng
ta sử dụng tối đa khả năng của bộ não, Tony Buzan đã đưa ra Sơ đồ tư duy để giúp mọi
người thực hiện được mục tiêu này.
Sơ đồ tư duy hay bản đồ tư duy, lược đồ tư duy (Mind Map) là hình thức ghi chép
sử dụng màu sắc, hình ảnh nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý
chính của một nội dung, hệ thống hoá một chủ đề. [12].
Nghĩa của cụm từ SĐTD không hiểu theo nghĩa bản đồ thông thường như bản đồ
địa lí mà SĐTD được hiểu là một hình thức ghi chép theo mạch tư duy của mỗi người
bằng việc kết hợp nét vẽ, màu sắc và chữ viết. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, việc thiết kế

SĐTD theo mạch tư duy của mỗi người, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe như bản đồ
địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu
sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một nội dung nhưng mỗi người có thể

11


“thể hiện” nó dưới dạng SĐTD theo một cách riêng do đó việc lập SĐTD phát huy được
tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
Phương pháp tư duy của Tony Buzan được dạy và sử dụng ở khoảng 500 tập đoàn,
Công ty hàng đầu thế giới. Tạp chí Forbes từng bình luận: “Buzan chỉ ra cho các nhà lãnh
đạo doanh nghiệp cách thức giải phóng năng lực sáng tạo bản thân”. Hơn 250 triệu người
đang sử dụng phương pháp Mind Map của Tony Buzan. [6], [7], [8], [9], [12]
1.4.3. Cách xây dựng sơ đồ tư duy
Có thể thiết kế SĐTD trong bất kỳ điều kiện cơ sở vật chất nào của trường học như
trên giấy, bìa, bảng phụ với chì màu, bút, tẩy... hoặc thiết kế trên máy tính với các phần
mềm hỗ trợ. Khi thiết kế SĐTD đều tuân theo quy trình sau đây:
1. Viết tên chủ đề ở
trung tâm, hay vẽ một hình
ảnh phản ánh chủ đề.
2. Từ chủ đề trung
tâm, vẽ các nhánh chính.
Trên mỗi nhánh chính viết
một khái niệm, phản ánh
một nội dung lớn của chủ
đề, viết bằng CHỮ IN
HOA. Nhánh và chữ viết
trên đó được vẽ và viết cùng một màu. Nhánh chính đó được nối với chủ đề trung tâm.
Chỉ sử dụng các thuật ngữ quan trọng để viết trên các nhánh.
3. Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc

nhánh chính đó. Các chữ trên nhánh phụ được viết bằng chữ in thường.
4. Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
Các quy tắc SĐTD
1. Bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề

12


Tại sao lại phải dùng hình ảnh? Vì một hình ảnh có thể diễn đạt được cả ngàn từ và
giúp ta sử dụng trí tưởng tượng của mình. Một hình ảnh ở trung tâm sẽ giúp ta tập trung
được vào chủ đề và làm cho ta hưng phấn hơn.
2. Luôn sử dụng màu sắc. Bởi vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như
hình ảnh. Nên sử dụng ít nhất 3 màu ở hình ảnh trung tâm.
3. Nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp hai
đến các nhánh cấp một,… bằng các đường kẻ, đường cong với màu sắc khác nhau. Các
đường kẻ càng ở gần hình ảnh trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn.
4. Mỗi từ/ ảnh/ ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ hay đường cong.
5. Tạo ra một kiểu lược đồ
riêng cho mình (Kiểu đường kẻ,
màu sắc,…).
6. Nên dùng các đường
cong thay vì các đường thẳng vì các
đường cong được tổ chức rõ ràng sẽ
thu hút được sự chú ý của mắt hơn
rất nhiều so với đường thẳng.
7. Bố trí thông tin đều
quanh hình ảnh trung tâm.
Một số lưu ý khi lập SĐTD
1. Để cách một hay nhiều dòng giữa các ý trong SĐTD để có thể bổ sung thêm nội
dung vào chỗ khuyết khi cần.

2. Sử dụng hình ảnh ở mọi nơi trong SĐTD, đặc biệt là các hình ảnh có tác dụng
với nhiều giác quan.
3. Chuẩn bị vật dụng đầy đủ, không gian làm việc và tinh thần thoải mái.
4. Tránh dùng nhóm từ hay trích nguyên văn cả câu dài vào SĐTD. [6], [7], [8],
[9], [12 ].
1.4.4. Ứng dụng của SĐTD
SĐTD có thể ứng dụng trong nhiều tình huống khác nhau như:
13


- Tóm tắt nội dung, ôn tập một chủ đề.
- Trình bày tổng quan một chủ đề.
- Chuẩn bị ý tưởng cho một báo cáo hay buổi nói chuyện, bài giảng.
- Thu thập, sắp xếp các ý tưởng.
- Ghi chép khi nghe bài giảng. [12]
1.4.5. Công dụng của SĐTD
Khi thông tin được được gợi ra, lược đồ tư duy giúp tổ chức thông tin theo một
hình thức mà dễ dàng được xuất hiện và ghi nhớ. Được sử dụng để ghi chú tất cả các loại
như sách vở, bài giảng, học tập, hội họp, phỏng vấn và đàm thoại.
* Gợi nhớ (hồi tưởng)
* Sáng tạo
* Giải quyết vấn đề
* Lập kế hoạch
* Thuyết trình (trình diễn) [12]
1.5. Một số phần mềm vẽ Sơ đồ tư duy
SĐTD số hóa có đặc điểm linh hoạt, dễ chia sẻ, có thể thay đổi, bổ sung hình ảnh,
nội dung, kết cấu, không bị giới hạn bởi khổ giấy, làm cho SĐTD trở nên sinh động và
thông minh hơn. Ứng dụng SĐTD số hóa hứa hẹn một tương lai rực rỡ giúp giải phóng
tối đa tiềm lực của cá nhân và tập thể trong thế giới đa chiều và hiện đại ngày nay.
Để thiết kế SĐTD số hóa, có thể sử dụng một số phần mềm sau đây:

Mindjet MindManager - Phần mềm này đã được sử dụng khá nhiều tại Việt Nam
với các phiên bản 6.0, 7.0, 8.0, 9.0... Mindjet MindManager chỉ chạy được trên hệ điều
hành Microsoft Windows.
iMindMap là một phần mềm giống như Mindjet MindManager dùng để hoạch
định ý tưởng và sắp xếp chúng dưới dạng sơ đồ tư duy. Tuy nhiên, iMindMap có nhiều ưu
điểm nổi bật hơn hẳn Mindjet MindManager về quy mô phần mềm, giao diện, hình ảnh,
với nhiều chức năng như vẽ nhanh hơn, “thực” hơn, giúp thể hiện sống động nhất, thật
nhất ý tưởng của người thiết kế. Điều đặc biệt iMindMap được đầu tư xây dựng và phát
14


triển bởi chính Tony Buzan - tác giả của phương pháp tư duy Mind Map, hiện tại được
đánh giá “là phần mềm tốt nhất trên thế giới về vẽ Mind Map”.
FreeMind - Phần mềm mã nguồn mở, chạy trên hệ điều hành Windows, Mac và
Linux. Hiện nay nhóm mã nguồn mở của HueCIT đã nghiên cứu và viết tài liệu hướng
dẫn sử dụng.
Một số phần mềm thiết kế SĐTD khác như: ConceptDraw MINDMAP, Visual Mind,
Axon Idea Processor, Inspiration,… [9], [12].
1.6. Tình hình ứng dụng SĐTD trong hoạt động dạy và học ở Việt Nam.
1.6.1. Tình hình ứng dụng sơ đồ tư duy trong hoạt động dạy và học ở Việt Nam.
Sử dụng SĐTD trong dạy học là một phương pháp dạy học tích cực giúp giáo viên
chủ động, linh hoạt, tiết kiệm thời gian trong việc thiết kế bài dạy, truyền đạt kiến thức
mới, củng cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, học phần..., hình thành cho
học sinh phương pháp tự học hiệu quả, phát huy tối đa tính sáng tạo, khả năng tư duy,
năng khiếu hội họa, đồng thời tạo tâm lý thoải mái, kích thích hứng thú học tập của HS.
Sử dụng SĐTD trong dạy học đã và đang được áp dụng ở nhiều nước có nền giáo
dục tiên tiến trên thế giới và mới đây đã được nghiên cứu và áp dụng ở Việt Nam. Bộ
GD&ĐT đã có kế hoạch, chương trình tập huấn về SĐTD cho cán bộ, giáo viên, thực hiện
áp dụng thí điểm tại 355 trường trên toàn quốc từ năm 2010. Năm học 2011- 2012,
phương pháp dạy học bằng SĐTD là 1 trong 5 chuyên đề dạy học tích cực được tập huấn

cho 4.000 giáo viên cốt cán bậc THCS trong cả nước và đang được triển khai ở bậc THPT.
Kết quả thu được khi vận dụng SĐTD trong dạy học đều cho thấy SĐTD hình
thành cho HS phương pháp tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách
nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học, xây dựng một môi trường học tập sôi nổi, tích
cực. Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi
mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng đào tạo.
Những kết quả thu được ở trên khẳng định SĐTD là một công cụ tư duy mang tính
đột phá của thế kỷ 21 cần được khai thác và nhân rộng, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục
và đào tạo.
15


1.6.2. Thực trạng ứng dụng SĐTD trong hoạt động dạy và học ở các trường cao
đẳng, đại học
Ứng dụng SĐTD trong hoạt động dạy và học ở các trường cao đẳng, đại học phù
hợp với đặc thù dạy và học trong đó giảng viên là người hướng dẫn, nêu vấn đề, còn sinh
viên là người chủ động nghiên cứu, tìm hiểu và chiếm lĩnh kiến thức.
Tuy nhiên, số công trình nghiên cứu ứng dụng SĐTD trong dạy và học bậc cao
đẳng, đại học còn rất ít, số giảng viên ứng dụng SĐTD trong các hoạt động dạy học chưa
nhiều, hiện nay chỉ một số các trường đại học lớn như đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học
Sư phạm Hà Nội đang triển khai một số đề tài ứng dụng SĐTD để nâng cao chất lượng
dạy và học, tuy nhiên số sinh viên biết và sử dụng thành thạo SĐTD còn ít, nhiều sinh
viên chưa lựa chọn được phương pháp học tập phù hợp nên kết quả học tập chưa cao.
1.6.3. Tình hình ứng dụng sơ đồ tư duy trong hoạt động dạy và học ở trường Cao
đẳng Y Tế Sơn La.
Ở tỉnh Sơn La nói chung, việc áp dụng SĐTD trong hoạt động dạy và học vẫn còn
là một vấn đề mới mẻ, khái niệm SĐTD còn chưa phổ biến với đa số giáo viên và học
sinh, sinh viên, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu hay đề cập đến việc ứng
dụng SĐTD trong dạy học để đổi mới PPDH và nâng cao chất lượng giáo dục ở tỉnh Sơn
La. Chỉ một số ít giáo viên, học sinh tự tìm hiểu và vận dụng SĐTD để giải quyết các vấn

đề mang tính chất cá nhân trong phạm vi hẹp. [9].
Tại trường CĐYT Sơn La, tính đến thời điểm hiện nay chưa có một đề tài hay công
trình nghiên cứu nào về SĐTD và ứng dụng SĐTD trong hoạt động dạy và học.
Điều đó cho thấy sự cần thiết phải giới thiệu, phổ biến SĐTD trên phạm vi rộng,
trong đó các thầy, cô giáo phải là người tiên phong trong việc áp dụng SĐTD vào công
tác giáo dục, nhằm đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng giáo dục, qua đó giúp học
sinh, sinh viên tiếp cận và sử dụng SĐTD hiệu quả trong học tập, công việc để đạt được
thành công trong học tập, công việc và cuộc sống.

16


Tiểu kết chương 1
Sau khi nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài, chúng tôi thấy rằng việc
nghiên cứu, hướng dẫn học sinh sử dụng SĐTD trong việc học và tự học là rất cần thiết
nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS từ đó góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo của trường CĐYT Sơn La.
Sử dụng SĐTD trong việc học và tự học sẽ hình thành cho học sinh phương pháp
học và tự học hiệu quả, phát huy tối đa tính sáng tạo, khả năng tư duy, năng khiếu hội
họa, đồng thời tạo tâm lý thoải mái, kích thích hứng thú học tập của sinh viên, hình thành
cho sinh viên các kỹ năng sống cần thiết như thuyết trình, làm việc theo nhóm, phát triển
cá nhân,… hiệu quả.
Tuy nhiên, thực tiễn sử dụng SĐTD còn nhiều khó khăn và bất cập, do đó rất cần
phổ biến, hướng dẫn, vận dụng ở nhiều đối tượng, nhiều cấp bậc, nhiều lĩnh vực.

17


CHƯƠNG 2. HƯỚNG DẪN HS LỚP ĐIỀU DƯỠNG 12B SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ
DUY ĐỂ HỌC VÀ TỰ HỌC MÔN CHÍNH TRỊ

2.1. Môn Chính trị ở các trường chuyên nghiệp
Việc giảng dạy và học tập các môn lý luận chính trị (LLCT) trong các trường
chuyên nghiệp có mục tiêu là bồi dưỡng lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, bồi dưỡng
thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, xây dựng và củng cố lòng tin vững
chắc cho học sinh, sinh viên vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tiền đồ tươi sáng của chủ
nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào việc đào tạo một đội ngũ trí thức mới xã hội chủ
nghĩa của nước ta. Các môn khoa học LLCT trên cơ sở của thế giới quan khoa học sẽ giúp
học sinh, sinh viên ra sức phấn đấu, hướng mọi suy nghĩ và hành động vào thực hiện các
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế của
nhà trường. Đây là những môn học có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực
hiện mục tiêu chiến lược đào tạo toàn diện của giáo dục - đào tạo trong nhà trường Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, việc giảng dạy và học tập các môn khoa học này vẫn còn những bất
cập, hạn chế. Trước tiên, cần nhận thấy rằng, đội ngũ cán bộ giảng dạy các môn LLCT
còn thiếu so với yêu cầu, dẫn đến tình trạng quá tải giờ dạy của giảng viên, thiếu thời gian
đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy tiến triển chậm,
hiệu quả chưa cao, hầu hết giảng viên sử dụng phương pháp truyền thống, diễn giảng,
thuyết trình, độc thoại là chủ yếu. Cách thức giảng dạy còn thiên về lý luận, chưa tìm ra
những phương thức hiệu quả giúp sinh viên chủ động hơn trong tiếp thu kiến thức và sử
dụng những kiến thức lĩnh hội được để luận giải các vấn đề của cuộc sống. Lý thuyết khô
khan, giáo điều, ít gắn với thực tiễn, chưa soi rọi vào những vấn đề phức tạp của cuộc
sống. Điều đó làm cho sinh viên ít quan tâm đến môn học và ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng giảng dạy.
Bên cạnh đó, một nguyên nhân quan trọng về phía người học đó là phần lớn người
học không đọc tài liệu tham khảo. Học chỉ “nói lại” những điều thầy đã nói, giáo trình
viết, học thuộc lòng, thi hết học phần, niên luận. Mục đích học tập của sinh viên mang
nặng tính thi cử, trả nợ môn học. Điều này dẫn đến hậu quả là chất lượng học tập của SV
18



thấp, khả năng nắm bắt kiến thức bài học không sâu, từ đó dẫn đến những nhận thức
không đúng. Đặc biệt, tình trạng thờ ơ, chán học môn này rất phổ biến. Đa số SV chưa có
ý thức cao với môn học, cho rằng đây là môn học phụ, dẫn đến thái độ ỷ lại, thụ động,
thiếu tích cực. SV hầu như không có phương pháp và hình thức học tập sáng tạo.
2.2. Sử dụng SĐTD để học và tự học môn Chính trị
GV hướng dẫn HS thiết kế SĐTD cho môn Chính trị trước, trong và sau khi học
một bài hay một chủ đề, một chương, để giúp các em có cách sắp xếp kiến thức một cách
lôgic, khoa học, từ đó tìm ra phương pháp học phù hợp, đem lại kết quả học tập cao.
2.2.1. Sử dụng SĐTD để chuẩn bị bài trước khi lên lớp
Chuẩn bị bài trước khi đến lớp giúp người học định hình được kiến thức, nắm được
cấu trúc bài học, xác định được nội dung trọng tậm, chủ động trong việc tiếp thu bài từ đó
hiểu bài nhanh hơn, sâu hơn và nhớ lâu hơn.
Sử dụng SĐTD để chuẩn bị bài trước khi đến lớp giúp HS phát huy tính tích cực,
khả năng sáng tạo của bộ não, vì bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm
cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, tự vẽ ra theo ngôn ngữ của mình, đồng thời
còn phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi đó là “sản phẩm kiến thức hội họa” do
chính HS tự làm ra.
Chuẩn bị bài trước khi đến lớp tốt sẽ giúp HS chủ động trong việc tiếp thu bài
giảng của GV, đặc biệt sử dụng SĐTD giúp HS dễ theo dõi, bổ sung kiến thức, những
điểm cần lưu ý và có được cái nhìn tổng thể về nội dung bài học, thấy được mối liên hệ
giữa các nội dung trong bài, từ đó dễ nhớ, khắc sâu nôi dung bài học.
* Thiết kế SĐTD chuẩn bị bài trước khi lên lớp
HS có thể thiết kế SĐTD trên giấy với bút màu hoặc sử dụng các phần mềm máy
tính hỗ trợ thiết kế SĐTD.
Quy trình thiết kế SĐTD:
Bước 1: Xác định chủ đề chính của SĐTD
HS đọc lướt bài học để xác định chủ đề chính của SĐTD thường là tiêu đề của bài.
Bước 2: Xác định nhánh chính cấp 1, cấp 2, cấp 3
Dựa vào cấu trúc của bài, HS xác định nhánh chính cấp 1, cấp 2, cấp 3,…
19



Các bài trong giáo trình, tài liệu môn Chính trị thường gồm từ 3 đến 4 mục lớn,
được đánh số La Mã từ I., II., III., IV… đây chính là các nhánh chính cấp 1 của SĐTD,
trong các mục lớn thường có các mục nhỏ hơn như 1., 2., 3., trong các mục nhỏ là các ý a,
b, c hoặc gạch đầu dòng,… đây là các nhánh cấp 2, cấp 3, cấp 4…
Bước 3: Hoàn chỉnh SĐTD
HS bổ sung và hoàn chỉnh SĐTD bằng các ý chi tiết, thiết lập mối liên hệ giữa các
nhánh chính, những điểm cần lưu ý, những điểm khác biệt…
Ví dụ: Thiết kế SĐTD bài Con người, nhân cách, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
HS xác định chủ đề trung tâm chính là tiêu đề của bài: Con người, nhân cách, mối
quan hệ giữa các nhân và xã hội; các nhánh chính cấp 1 là các mục I. Bản chất con người,
II. Nhân cách, III. Quan hệ giữa các nhân với tập thể, cá nhân và xã hội.

Các nhánh cấp 2 là các mục 1, 2,… trong các mục I, II,… như nhánh chính cấp 2
trong phần I. Bản chất con người gồm các mục 1. Khái niệm về con người, 2. Bản chất
con người; trong phần II. Nhân cách gồm các mục 1. Khái niệm và cấu trúc của nhân
cách, 2. Những tiền đề và quá trình hình thành nhân cách con người mới XHCN Việt
Nam; trong phần III. Giữa các nhân với tập thể, cá nhân và xã hội gồm các mục 1. Quan
hệ giữa cá nhân với tập thể, 2. Quan hệ giữa cá nhân với xã hội.

20


Các nhánh cấp 3 là các mục a, b, c.

Các nhánh cấp 4 là các ý lớn, gạch đầu dòng,…

21



SĐTD bài Con người, nhân cách, mối quan hệ giữa các nhân và xã hội.

Ví dụ: Thiết kế SĐTD bài Chủ nghĩa duy vật khoa học
Xác định chủ đề và nhánh chính cấp 1

Nhánh cấp 2

22


Nhánh cấp 3, 4

Hoàn thiện SĐTD

23


SĐTD bài Cấu trúc xã hội

24


SĐTD bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc.

GV lưu ý học sinh khi thiết kế SĐTD nên chọn lọc các từ ngữ ngắn gọn, xúc tích
nhưng vẫn truyền đạt đủ nội dung cần thiết mà người đọc có thể hiểu được, tránh đưa
nguyên cả đoạn văn vào SĐTD, ghi chép quá nhiều ý vụn vặt không cần thiết, dành quá
nhiều thời gian để ghi chép. Nên tận dụng tối đa các hình ảnh liên quan, sử dụng màu sắc
để mô tả các ý cần diễn đạt vì hình ảnh, màu sắc có tác dụng liên tưởng, gợi nhớ lâu hơn

từ ngữ.
2.2.2. Sử dụng SĐTD để ghi chép bài trên lớp
So với cách ghi chép theo kiểu truyền
thống, tức là ghi chép thông tin bằng cách sử
dụng các kí tự và chữ số theo đường thẳng,
thì việc ghi chép bằng công cụ SĐTD hiệu
quả hơn nhiều. Kĩ thuật ghi chép này cho
phép HS nhanh chóng ghi lại các ý tưởng
bằng các từ khóa, sắp xếp một cách cơ bản
25


×