Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

MÔ HÌNH CHÍNH QUYỀN đô THỊ ở một số nước TRÊN THẾ GIỚI và NHỮNG gợi mở CHO VIỆT NAM TIỂU LUẬN CAO HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.99 KB, 39 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài.
Ở bất kỳ thời điểm nào, quốc gia nào, thì vấn đề đô thị hóa và phát triển
đô thị luôn được xem là một trong những vấn đề quan trọng, ảnh hưởng đến sự
phát triển của cả một quốc gia. Các đô thị đều là những trung tâm chính trị - kinh
tế - xã hội của cả một quốc gia, một vùng, một địa phương. Vì vậy, phát triển đô
thị là một vấn đề thiết yếu để phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Đô thị của từng đơn vị hành chính lãnh thổ có những đặc thù riêng, vai
trò quản lý nhà nước riêng của nó. Đô thị hòan tòan khác với nông thôn. Đô
thị đòi hỏi phải có mô hình tổ chức chính quyền riêng biệt, khác với mô hình
tổ chức chính quyền ở nông thôn mới có thể quản lý, quy hoạch để phát triển
đô thị. Đặc biệt là những đô thị lớn, đô thị loại đặc biệt thì điều đó là vô cùng
cần thiết cho sự phát triển của đô thị.
Trong quá trình hội nhập với thế giới, trong xu thế tòan cầu hóa, quá
trình đô thị hóa ở Việt Nam đã và đang diễn ra nhanh chóng. Quá trình này đã
làm phát sinh rất nhiều vấn đề mới và đặt ra nhiều thách thức trong hoạt động
quản lý đô thị như: Quy hoạch đô thị, giao thông, dân cư, xây dựng, môi
trường..., đặc biệt là ở các đô thị lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh. Thực tiễn
đó đã đặt ra sự cần thiết phải đổi mới mô hình tổ chức chính quyền đô thị
nhằm giải quyết những vấn đề phát sinh, góp phần thúc đẩy kinh tế-xã hội
phát triển. Việc xây dựng mô hình chính quyền đô thị là vấn đề mới, lần đầu
đặt ra ở nước ta trong giai đoạn xây dựng và phát triển.
Trên thế giới hiện nay có nhiều đô thị lớn có tốc độ phát triển rất
nhanh. Chính phủ nhiều nước đã lựa chọn đúng đắn mô hình tổ chức chính
quyền đô thị với hòan cảnh, tình hình kinh tế xã hội của đô thị, quốc gia đó.
Chính nhờ lựa chọn đúng mô hình tổ chức chính quyền đô thị mà chính phủ
các nước đã khai thác được những thế mạnh của đô thị đó, đưa ra được những
chính sách, những phương án quy hoạch đô thị hợp lý, góp phần thức đẩy sự


1


phát triển của đô thị đó nói riêng cũng như sự phát triển của vùng, quốc gia đó
nói chung.
Trong điều kiện kinh nghiệm xây dựng chính quyền đô thị ở nước ta
còn hạn chế thì việc nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm của các nước về xây
dựng mô hình chính quyền đô thị là rất cần thiết. Chính vì vậy, em đã chọn đề
tài “Mô hình chính quyền đô thị ở một số nước trên thế giới và những gợi
mở cho Việt Nam” để nghiên cứu.
Với vốn kiến thức còn hạn chế, chưa có kinh nghiệm thực tế, và lượng
thông tin thu thập được còn hạn chế trong khi đề tài lại mang tính chuyên
môn cao nên trong việc nghiên cứu đề tài không tránh được những sai lầm,
thiếu sót. Em rất mong nhận được các ý kiến góp ý của thầy cô để đề tài được
hoàn thiện hơn.
2.

Mục tiêu nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu về các mô hình tổ chức chính quyền
đô thị ở một số nước trên thế giới. Từ đó có thể đưa ra một số gợi mở cho Việt
Nam trong quá trình xây dựng chính quyền đô thị hiện nay, khi mà vấn đề này
còn rất nan giải, chưa giải quyết được hiệu quả. Đặc biệt là đối với các đô thị
lớn hiện nay như thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

3.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là mô hình chính quyền đô thị ở các nước.
Phạm vi nghiên cứu: một số nước trên thế giới.

Phương pháp nghiên cứu.
Ngoài những phương pháp lý luận chung khi nghiên cứu một vấn đề
phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện chứng thì em còn sử dụng thêm
một số phương pháp:

-

Phương pháp thu thập, nghiên cứu tài liệu từ các nguồn khác nhau.
Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, mô tả….

2


5.

Cấu trúc đề tài.
Đề tài “Mô hình chính quyền đô thị ở một số nước trên thế giới
và những gợi mở cho Việt Nam” có phần mở đầu, kết luận và 3 chương,
bao gồm:
Chương 1: Lý luận chung về đô thị.
Chương 2: Mô hình chính quyền đô thị ở một số nước trên thế giới.
Chương 3: Những gợi mở cho Việt Nam trong quá trình xây dựng mô
hình chính quyền đô thị.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÔ THỊ
1.

a.

Một số khái niệm công cụ.
Khái niệm đô thị và đô thị hóa.
Đô thị: Hiện nay khái niệm đô thị có nhiều khác nhau, tuy nhiên dù
khác nhau về mặt câu chữ thì khái niệm đô thị có thể hiểu là tên gọi chung
của các thành phố, thị xã, thị trấn. Nó được bắt nguồn từ ba yếu tố : “thành”,
“đô” và “thị”. Có thể hiểu đô thị là nơi tập trung đông dân cư, là trung tâm
của một vùng lãnh thổ với hoạt động kinh tế chủ yếu là công nghiệp và dịch
vụ, là trung tâm giao lưu về kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự, xã hội. [3, 2]
Theo Thông tư: Quy định chi tiết một số nội dung của Nghị định
42/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 của Chính phủ về việc Phân loại đô thị: Đô
thị: là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động
trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính,
kinh tế, văn hóa hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tếxã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội
thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn.[19]
Có cách hiểu khác cho rằng: Đô thị là hình thức tồn tại của xã hội loài
người trong phạm vi không gian – xã hội mang tính cụ thể về mặt lịch sử, là
hình thức tổ chức cư trú của con người, được đặc trưng bởi các tiêu chí sau:

-

Tập trung dân cư với mật độ cao.
Chủ yếu là lao động phi nông nghiệp.
Có hạ tầng cơ sở thích hợp
Là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành.
Có vai trò thúc đẩy sự nghiệp kinh tế xã hội của cả nước, của một miền lãnh
thổ, của một tỉnh, của một huỵện hoặc của một vùng.
Khái niệm đô thị hóa cũng rất đa dạng.
Đô thị hóa là quá trình phát triển đô thị ở một quốc gia.


4


Đô thị hóa là quá trình biến đổi và phân phối lại lực lượng sản xuất
trong nền kinh tế quốc dân, bố trí lại dân cư, hình thành, phát triển các hình
thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị hiện có theo
chiều sâu trên cơ sở hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng quy mô và mật
độ dân số. [2, 4]
Đô thị hóa là một quá trình phát triển về dân số đô thị, số lượng và quy
mô đô thị cũng như về các điều kiện sống ở đô thị hoặc theo kiểu đô thị. [5]
Đặc điểm của đô thị hóa là:
b.

Đô thị hóa mang tính lịch sử và xã hội
Đô thị hóa gắn liền với sự biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội.
Khái niệm chính quyền đô thị và quản lý đô thị.
Khái niệm chính quyền đô thị: Theo như TS Võ Trí Hảo (Khoa Luật
kinh tế, Đại học Kinh tế TP.HCM), thì chính quyền đô thị là thuật ngữ để chỉ
một mô hình chính quyền địa phương thành lập ở các đô thị, dùng để phân
biệt với mô hình chính quyền nông thôn. Chính quyền đô thị thường có hai
đặc điểm khác biệt so với chính quyền nông thôn. Thứ nhất, được tổ chức rút
gọn một số cấp chính quyền, nhưng vẫn bảo đảm khoảng cách "nhân dân chính quyền” không quá xa về mặt không gian. Thứ hai, người đứng đầu
chính quyền đô thị do dân bầu trực tiếp, hay nói cách khác bộ máy chính
quyền được tổ chức theo mô hình thị trưởng, đòi hỏi người đứng đầu chính
quyền chịu trách nhiệm trước dân cao hơn, cũng có thể bị phế truất trực tiếp
bởi lá phiếu của người dân. [17]
Khái niệm quản lý đô thị: có nhiều khái niệm về quản lý đô thị.
Quản lý đô thị là quá trình tác động bằng các cơ chế, chính sách, của
chủ thể quản lý đô thị vào các hoạt động đô thị nhằm thay đổi hoặc duy trì

hoạt động của đô thị theo hướng tích cực. [2,7].
Quản lý đô thị là các hoạt động nhằm huy động mọi nguồn lực vào
công tác quy hoạch, hoạch định các chương trình phát triển và duy trì các hoạt
động đó để đạt được các mục tiêu phát triển của chính quyền đô thị.[3,44].

5


Thực chất là sự can thiệp của Nhà nước bằng quyền lực công vào các
hoạt động ở đô thị thông qua chính quyền của từng đô thị.
2.
a.
-

Đặc điểm của đô thị.
Đặc điểm của đô thị.
Đô thị như một cơ thể sống.
Các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội luôn luôn vận động,
biến đổi trên cơ sở hạ tầng đô thị. Bất kỳ một biến động, “trục trặc” nào xảy
ra trong hệ thống cấu trúc trong lòng đô thị cũng sẽ gây ảnh hưởng, rối loạn
hoạt động đô thị. Do vậy, để phát triển đi lên thì đô thị cần có sự cân bằng, ổn
định và bền vững nội tại.

-

Đô thị luôn phát triển.
Đô thị được xem như là một cơ thể sống. Đô thị hình thành và phát
triển cùng với xã hội loài người. Xã hội loài người luôn vận động và phát
triển, kinh tế hàng hóa luôn phát triển, đô thị cũng luôn vận động và phát
triển. Sự hình thành, tồn tại và phát triển của đô thị cũng chịu sự tác động của

các quy luật của kinh tế - xã hội, trong đó đô thị chịu sự tác động mạnh mẽ
nhiều từ quy luật của nền kinh tế thị trường.

-

Sự vận động và phát triển đô thị có thể điều khiển được.
Con người là chủ thể của đô thị. Sự hình thành, tồn tại và phát triển của
đô thị đều được tạo nên bởi con người. Tiến hành các hoạt động trong đô thị
cũng là con người. Vì vậy, con người có thể điều khiển được sự vận động và
phát triển của đô thị. Tuy nhiên, con người chỉ có thể điều khiển đô thị theo
đúng quy luật khách quan của nó, chứ không thể điều khiển đô thị tồn tại,
hoạt động theo ý muốn chủ quan của mình.

b.

Đặc trưng của đô thị Việt Nam.
Ở mỗi khu vực, mỗi quốc gia khác nhau, đặc trưng của đô thị cũng khác
nhau. Đặc trưng đô thị ở mỗi nơi đều chịu sự ảnh hưởng của bối cảnh chính trị,
yếu tố văn hóa, tình hình kinh tế - xã hội của chính nơi mà đô thị hình thành, tồn
tại và phát triển. Đô thị của Việt Nam có các đặc trưng cơ bản sau:

6


-

Đô thị ở Việt Nam không phát triển bằng con đường tự nhiên, không phải
bằng hệ quả của sự phát triển tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp giống như
các nước phương Tây, mà do nhà nước sinh ra. Ở thời phong kiến, đô thị thực


-

hiện chứ năng hành chính là chủ yếu, do nhà nước trực tiếp quản lý.
Ở Việt Nam, đô thị trước hết là trung tâm chính trị, rồi sau đó mới đến là

-

trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội,…
Số lượng và quy mô đô thị so với nông thôn là không đáng kể. Đô thị phụ
thuộc vào nông thôn, thậm chí còn bị nông thôn hóa. Phố nằm xen kẽ làng, lối
sống tương tự như lối sống nông thôn, do bị văn hóa cộng đồng làng xã chi
phối và do tính tự trị cao.
*Phân loại đô thị ở Việt Nam hiện nay.
Theo điều 4 Nghị định số 42/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07
tháng 05 năm 2009 Về việc phân loại đô thị thì: Đô thị được phân thành 6 loại
như sau:
Loại đặc biệt, loại I, loại II, loại III, loại IV và loại V được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định công nhận.
1. Đô thị loại đặc biệt là thành phố trực thuộc Trung ương có các quận
nội thành, huyện ngoại thành và các đô thị trực thuộc.
2. Đô thị loại I, loại II là thành phố trực thuộc Trung ương có các quận
nội thành, huyện ngoại thành và có thể có các đô thị trực thuộc; đô thị loại I,
loại II là thành phố thuộc tỉnh có các phường nội thành và các xã ngoại thành.
3. Đô thị loại III là thành phố hoặc thị xã thuộc tỉnh có các phường nội
thành, nội thị và các xã ngoại thành, ngoại thị.
4. Đô thị loại IV là thị xã thuộc tỉnh có các phường nội thị và các xã
ngoại thị.
5. Đô thị loại IV, đô thị loại V là thị trấn thuộc huyện có các khu phố
xây dựng tập trung và có thể có các điểm dân cư nông thôn. [9]


7


3.
a.

Bộ máy quản lý nhà nước về đô thị ở Việt Nam.
Sơ đồ bộ máy quản lý đô thị ở Việt Nam.

8


9


b.

Sự phối hợp giữa bộ máy quản lý nhà nước và các Bộ, sở, Ban ngành.
TƯ (CP)

Bộ KH &ĐTTTa

Bộ TC

Tỉnh, TP

Sở KH &ĐT

Bộ
….


Quận, Huyện, TX

Sở Tc

Phòng KH

Sở QH

Phường, Thị trấn, Xã

Phòng TC

Phòng…

Ban KH

Ban TC

Ban…

Bộ máy nhà nước quản lý đô thị là một hệ thống cơ quan nhà nước từ
trung ương đến địa phương, tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc
thống nhất, có sự phối hợp thực hiện giữa các cơ quan theo chiều dọc từ trung
ương đến địa phương (và ngược lại), theo chiều ngang giữa các Bộ, Sở, Ban
ngành liên quan. Từ đó tạo thành một hệ thống đồng bộ, thống nhất để thực
hiện quản lý đô thị.
Bộ máy quản lý đô thị cũng là một bộ phận của bộ máy quản lý Nhà
nước.
c.


Phân cấp, phân quyền trong bộ máy quản lý nhà nước về đô thị.
Theo pháp luật hiện hành, chính quyền thành phố trực thuộc trung ương
được tổ chức thành 3 cấp hành chính: Thành phố, quận, phường. Hiện nay có
các mô hình tổ chức chính quyền thành phố sau:

-

Mô hình ba cấp ra quyết định:
Ở mô hình này, thành phố được tổ chức thành ba cấp: Thành phố, quận,
phường. Ba cấp này có quyền ra quyết định ở các mức độ khác nhau trong

-

phạm vi quy định chức năng quyền hạn của mình theo như luật định.
Mô hình hai cấp ra quyết định:
Ở mô hình này, thành phố được tổ chức thành 2 cấp: Thành phố,
phường ( không có cấp quận trung gian). Hai cấp đều có quyền ra quyết định
ở các mức độ khác nhau trong phạm vi quy định chức năng quyền hạn của
mình theo như luật định.

10


-

Mô hình một cấp ra quyết định:
Ở mô hình này, mọi vấn đề của cơ sở đều do cấp thành phố quyết đinh.
Cấp quận, phường vãn tồn tại nhưng chỉ là những trung tâm thực hiện. Các
cấp dưới trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trên chỉ được quyền thỉnh thị báo

cáo và chờ đợi quyết định của thành phố.
Tóm lại, dù mô hình phân cấp, phân quyền nào cũng tồn tại những ưu
điểm và nhược điểm riêng. Khi lựa chọn mô hình tổ chức chính quyền cần
phải xem xét tới những yếu tố khách quan và chủ quan như: bối cảnh kinh tế,
thể chế chính trị, xu hướng phát triển chung , năng lực của cán bộ,…để lựa
chọn mô hình tổ chức chính quyền đô thị thích hợp. Có như vậy mới phát huy
được những ưu điểm, hạn chế nhược điểm của từng loại mô hình tổ chức
chính quyền. Lựa chọn được mô hình tổ chức chính quyền đô thị phù hợp sẽ
góp phần làm cho các hoạt động trên các lĩnh vực hiệu quả hơn, đô thị phát
triển ngày càng tốt hơn.
CHƯƠNG 2: MÔ HÌNH CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ Ở MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
Trên thế giới hiện nay, có rất nhiều thành phố lớn, phát triển mạnh mẽ.
Tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, văn hóa xã hội, tình hình phát triển, quan
điểm nhận thức của cơ quan chính quyền cấp quốc gia mà các thành phố có
các mô hình tổ chức chính quyền khác nhau. Hiện nay có rất nhiều mô hình tổ
chức chính quyền đô thị khác nhau ở trên thế giới.
Hầu hết, mỗi một thành phố đều là một đơn vị hành chính cơ sở, được
tổ chức gần giống như là các cấp chính quyền khác. Tuy nhiên, mỗi quốc gia
đều có cách thức tổ chức mô hình chính quyền riêng của mình, không có mô
hình nào là duy nhất thống nhất cho các quốc gia. Sau đây là một số mô hình
tổ chức chính quyền đô thị ở một số nước trên thế giới hiện nay:
1. Chính quyền đô thị ở Bắc Kinh – Trung Quốc.

11


Bắc Kinh là thủ đô của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, là trung
tâm kinh tế - chính trị, văn hóa – xã hội của Trung Quốc. Bắc Kinh là một
trong số các thành phố đông dân nhất thế giới với dân số là 20.693.000 người

vào năm 2012, là thành phố lớn thứ hai của Trung Quốc nếu xét theo dân số
đô thị, xếp sau Thượng Hải. Thành phố này là nơi đặt trụ sở của hầu hết các
công ty quốc hữu lớn nhất Trung Quốc, và là một đầu mối giao thông chính
của các hệ thống quốc lộ, đường cao tốc, đường sắt và đường sắt cao tốc tại
Trung Quốc.
Bắc Kinh hiện có 16 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có 14 khu
nội thị và ngoại ô cùng 2 huyện. [ 12]
Ở Bắc Kinh, Đại hội nhân dân thành phố là cơ quan quyền lực nhà
nước của thành phố Bắc Kinh, có nhiệm kỳ 5 năm. Đại hội nhân dân thành
phố được đại biểu Đại hội nhân dân quận, huyện, và các đơn vị vũ trang đóng
trên địa bàn bầu ra. Đại hội nhân dân ở Bắc Kinh có trách nhiệm giống như
Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương ở nước ta. Đại hội nhân
dân thành phố Bắc Kinh có cơ quan thường trực là Ủy ban thường trực đại hội
nhân dân. Đại hội nhân dân thành phố bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành
phố, các phó chủ tịch.
Ủy ban thường vụ của Đại hội nhân dân thành phố có nhiều ban, ngành
thực hiện chức năng ra quyết định và giám sát trên nhiều lĩnh vực.
Chính quyền thành phố Bắc Kinh là cơ quan chấp hành của Đại hội
nhân dân thành phố và là cơ quan hành chính của thành phố, chịu sự lãnh đạo
của hội đồng nhà nước – Quốc vụ viện. Chính quyền thành phố bao gồm: Thị
trưởng, các phó thị trưởng, tổng thư ký và giám đốc các Sở, ban, ngành. Các
thành viên của chính quyền thành phố được Đại hội nhân dân bầu, có nhiệm
kỳ 5 năm. Chính quyền thành phố có chức năng thực thi các quyết định của
Đại hội nhân dân, ban hành các quy tắc, quy định, lãnh đạo hoạt động của cấp
dưới, thực thi các kế hoạch kinh tế và ngân sách, quản lý các vấn đề liên quan

12


đến kinh tế, giáo dục, tài chính, dân sự, tật tự an toàn xã hội, dân tộc và kế

hoạch hóa gia đình.
Chính quyền thành phố phối hợp với Hội nghị hiệp thương nhân dân
thành phố trong hoạt động quản lý thành phố. Có chính quyền thành phố và
chính quyền quận. [1,80]
Nhìn chung cơ cấu tổ chức chính quyền tại khu vực nội thành của các
thành phố Trung Quốc tồn tại hai loại hình thể chế là thể chế “Hai cấp chính
quyền, ba cấp quản lý” và thể chế “Một cấp chính quyền, hai cấp quản lý”.
Thể chế “Hai cấp chính quyền, ba cấp quản lý” tồn tại ở các đô thị lớn có lập
khu. Ở các đô thị này, cấp thành phố và cấp khu đều thiết lập một cấp chính
quyền hoàn chỉnh, gồm đủ Đại hội đại biểu nhân dân (thường gọi tắt là Nhân
đại) và hành chính địa phương, trong đó chính quyền cấp khu là chính quyền
cơ sở. Tại các khu phố thuộc khu không thiết lập cấp chính quyền mà chỉ bố
trí một số Phòng công tác khu phố với tư cách là cơ quan hành chính nhà
nước đại diện hành chính cấp khu, do hành chính cấp khu phân công đóng
trên địa bàn, thi hành một số quyền hạn do hành chính cấp khu trao.
Chính quyền tại khu vực ngoại thành của các thành phố Trung Quốc
tồn tại hai loại hình thể chế là thể chế “Ba cấp chính quyền”, tức chính quyền
thành phố - chính quyền huyện – chính quyền hương trấn ở các đô thị lớn có
quản lý huyện và thể chế “Hai cấp chính quyền”, tức chính quyền thành phố chính quyền hương, trấn ở các đô thị cấp huyện. [ 6]
2. Chính quyền đô thị ở Tokyo – Nhật Bản.
Tokyo là thủ đô và một trong 47 tỉnh của Nhật Bản, thủ đô Tokyo nằm
ở phía đông của đảo chính Honshu. Tokyo là trung tâm của Vùng thủ đô
Tokyo. Trung tâm hành chính của Tokyo đặt ở khu Shinjuku. Vùng đô thị
Tokyo là vùng đô thị đông dân nhất thế giới với dân số từ 35-39 triệu người
và GDP cao nhất thế giới với GDP 1.479 tỷ đô la Mỹ theo sức mua tương
đương vào năm 2008.

13



Tokyo là một trong 3 "trung tâm chỉ huy" của nền kinh tế thế giới, cùng
với Luân Đôn và Thành phố New York. Thành phố Tokyo là nơi đặt có cơ
quan đầu não của Chính phủ Nhật Bản, Hoàng cung Nhật Bản và là nơi cư
ngụ của Hoàng gia Nhật Bản. [ 14]
Thủ đô Tokyo của Nhật Bản gồm 23 phường đặc biệt, 26 quận, 7 thị
trấn và 8 xã. Chính quyền đô thị Tokyo có 2 cấp gồm chính quyền thành phố
và cấp quận hoặc phường đặc biệt.
Chính quyền thành phố Tokyo gồm 2 cơ quan: Hội đồng thành phố và
Thị trưởng.
Các thành viên Hội đồng thành phố do người dân trực tiếp bầu ra,
nhiệm kỳ 4 năm. Hội đồng thành phố quyết định các chính sách quản lý và
phát triển đô thị, giám sát hoạt động của cơ quan hành chính: yêu cầu Thị
trưởng báo cáo việc quản lý, thu chi ngân sách đô thị, việc thi hành nghị quyết
của Hội đồng.
Chức năng cơ bản của Hội đồng thành phố là chức năng đại diện. Cơ
quan này đại điện cho 12 triệu công dân của Thủ đô Tokyo, có quyền biểu
quyết bất tín nhiệm đối với Thị trưởng.
Thị trưởng do người dân trực tiếp bầu ra và có nhiệm kỳ 4 năm, chịu
trách nhiệm đối với toàn bộ hoạt động của chính quyền đô thị và có quyền đại
diện cho chính quyền đô thị trong quan hệ với bên ngoài.
Ngoài ra, thị trưởng còn có một số quyền quan trọng khác như quyền
ban hành quyết định, dự thảo ngân sách thành phố, đề xuất các dự luật, và bổ
nhiệm hay miễn nhiệm nhân viên hành chính; quyền từ chối thực hiện nghị
quyết đã được Hội đồng phê chuẩn và yêu cầu Hội đồng xem xét lại các nghị
quyết này.
Chính quyền quận cũng bao gồm 2 cơ quan: Hội đồng quận và Quận
trưởng, cùng do người dân trực tiếp bầu ra. Chính quyền quận là chính quyền
cơ sở nơi trực tiếp cung cấp các dịch vụ cho người dân. Mối quan hệ giữa
chính quyền thành phố và chính quyền quận không phải là mối quan hệ giữa
14



cấp trên với cấp dưới. Mỗi cấp chính quyền có nhiệm vụ, quyền hạn được xác
định bởi luật và hoạt động theo nguyên tắc tự quản. [11]

15


Sơ đồ chính quyền thành phố Tokyo

[Nguồn: Tuanvietnam.net]

16


Chính quyền đô thị Nhật Bản có hai nhánh cơ bản: lập pháp và hành
pháp. Nhánh lập pháp ban hành các quy định của thành phố, quyết định ngân
sách. Hội đồng thành phố thuộc nhánh này. Nhánh hành pháp thực thi các
chính sách do nhánh lập pháp quyết định. Thị trưởng thành phố và các ủy ban
UBND
Quận
Phường
Huyện

UBND
Tỉnh
TP
đặcTX
trực
khu thuộc TƯ

chính TP,
phủ

hành chính thuộc nhánh này.

Hội đồng đô thị là bộ phận hoạch định chính sách cho chính quyền đô
thị, có quyền bỏ phiếu đối với các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình.
Bên cạnh đó, Hội đồng còn có một số quyền khác như quyền bầu cử (các vị
trí thị trưởng, phó thị trưởng, thành viên ban bầu cử), quyền thanh tra (xem
xét các tài liệu của chính quyền và yêu cầu các báo cáo của thị trưởng về việc
thu chi, việc quản lý các hoạt động của chính quyền địa phương, việc thi hành
các nghị quyết) và quyền điều tra (các hoạt động của chính quyền thành phố
cũng như yêu cầu việc nộp các hồ sơ sổ sách hay việc trình diện và chứng
nhận của các cử tri và những người có liên quan khác).
Các ủy ban hành chính được thiết lập ra để hỗ trợ thị trưởng trong việc
thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt tùy thuộc vào chức năng quyền hạn của từng
ủy ban. [4]
3. Chính quyền đô thị ở Seoul – Hàn Quốc.
Seoul là thủ đô của Hàn Quốc. Seoul là một thành phố cổ, từng là kinh
đô của Bách Tế (18 TCN – 660) và Triều đại Triều Tiên (1392-1910). Thành
phố đã trở thành thủ đô của Hàn Quốc sau khi thành lập chính phủ Hàn Quốc
năm 1948. Seoul là một thành phố đặc biệt, trực thuộc trung ương. Với dân số
hơn 10 triệu, Seoul là thành phố lớn nhất Hàn Quốc và là một trong những
thành phố lớn nhất thế giới tính theo dân số, là một trong những thành phố lớn
có mật độ dân số cao nhất thế giới. Seoul còn là 1 trong 20 thành phố toàn
cầu. Vùng thủ đô Seoul bao gồm thành phố cảng lớn Incheon và tỉnh
Gyeonggi, có tổng cộng 25 triệu dân sinh sống, là vùng đô thị lớn thứ hai thế
giới sau. Thủ đô Seoul là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của Hàn Quốc.

17



Thành phố Seoul đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của
nước này. [13].
Về mặt đơn vị hành chính, thành phố Seoul được chia thành 25 quận
và hơn 522 phường (xã). Các Quận trở thành cấp chính quyền tự trị kể từ năm
1988 và tiến hành bầu cử Quận trưởng từ năm 1995. Chính quyền đô thị được
thành lập ở thành phố và cấp quận.
Chính quyền thành phố Seoul gồm Hội đồng thành phố (Metropolitan
Council) và Thị trưởng. Hội đồng được coi là cơ quan lập pháp của thành
phố, do người dân Seoul bầu, nhiệm kỳ 4 năm. Thị trưởng có văn phòng của
thị trưởng được bầu, và cơ quan hành pháp.
Chính quyền cấp quận cũng bao gồm Hội đồng quận và Quận trưởng
do người dân bầu ra. Dưới quận là phường (xã) nơi có các nhân viên hành
chính quận để cung cấp các dịch vụ công cho người dân. Mối quan hệ giữa
chính quyền thành phố Seoul và chính quyền các quận được xây dựng theo
nguyên tắc tự quản. [ 11]

18


Sơ đồ tổ chức chính quyền thành phố Seoul.

[Nguồn : Tuanvietnam.net]

19


4. Chính quyền đô thị ở Bangkok – Thái Lan.
Bangkok là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Thái Lan. Bangkok là

thành phố có tốc độ phát triển về kinh tế rất nhanh ở vùng Đông Nam Á. Đây
cũng là nơi thu hút nhiều khách du lịch.
Thủ đô Bangkok bao gồm 50 quận. Các quận lại được chia thành 169
phường.
Mọi dự án phát triển ở trong và xung quanh thành phố Bangkok đều
phải được phê chuẩn bởi Chính phủ. Hội đồng thành phố sẽ phê chuẩn
chương trình phát triển thành phố, tuy nhiên các chương trình phát triển này
phải đi đồng bộ với quy hoạch của thành phố Bangkok.
Kế hoạch của Bangkok do Ban Kinh tế và phát triển xã hội ở trung
ương, Bộ Nội vụ và Sở Công vụ và Kế hoạch của thị trấn, quận lập ra. Mỗi
quận có riêng bộ máy hành chính và có đại diện ở Hội đồng thành phố
Bangkok. Các quận ban hành kế hoạch và người đại diện quận sẽ trình kế
hoạch đó lên Hội đồng thành phố để xem xét theo Kế hoạch vùng và phê
chuẩn kế hoạch đó.
Thủ đô Bangkok là đơn vị duy nhất ở cấp địa phương chịu trách nhiệm
đối với người dân ở địa phương và được trợ giúp về tài chính từ chính quyền
trung ương. Chính quyền đô thị được thiết lập ở cấp thành phố và cấp quận.
Bộ máy chính quyền thành phố Bangkok bao gồm Hội đồng Thành phố và
Thị trưởng:
Hội đồng thành phố Bangkok: là cơ quan lập pháp ở địa phương. Hội
đồng thành phố được trao quyền lập pháp và quyền giám sát hoạt động của cơ
quan hành chính. Chủ tịch Hội đồng là người đứng đầu Hội đồng. Hội đồng
thành phố bao gồm 57 thành viên được bầu cử bởi 57 đơn vị bầu cử (một số
đơn vị bầu cử có thể bầu hơn 1 đại biểu) và theo nhiệm kỳ 4 năm.
Thị trưởng: là người đứng đầu cơ quan hành chính của thành phố và
được bầu bằng hình thức bầu cử trực tiếp phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 4

20



năm. Thị trưởng Bangkok có thẩm quyền tương tự như bất kỳ Tỉnh trưởng
hay thị trưởng của các địa phương khác.
Đối với chính quyền quận: Quận trưởng do Thị trưởng bổ nhiệm thực
hiện chức năng của cơ quan hành chính quận. Cơ quan đại điện quận là Hội
đồng quận do cư dân quận bầu ra với nhiệm kỳ 4 năm thực hiện chức năng là
cơ quan tư vấn cho quận trưởng.
Tổ chức bộ máy chính quyền địa phương của Thái Lan được thực hiện
theo nguyên tắc tản quyền kết hợp với tự quản địa phương. Điều này bảo đảm
cho chính quyền trung ương khả năng can thiệp của vào hoạt động của địa
phương thông qua tổ chức bộ máy của các cơ quan chuyên môn ở địa phương.
Mối quan hệ hành chính giữa Bộ với các Sở chuyên môn hay giữa Thị
trưởng với Quận trưởng thể hiện sự phụ thuộc của bộ máy hành chính. Tỉnh
trưởng (Thị trưởng) cùng với Bộ trưởng Bộ nội vụ có thẩm quyền phê duyệt
kế hoạch ngân sách và các quy định của địa phương, giải tán hội đồng và bãi
nhiệm các thành viên của hội đồng địa phương. [11]
Nhìn chung, bộ máy chính quyền đô thị Bangkok được tổ chức theo hệ
thống hành chính thứ bậc.

21


Sơ đồ tổ chức chính quyền ở Bangkok.

[nguồn: tuanvietnam.net]

22


5. Chính quyền đô thị ở Mỹ.
Ở Mỹ, các thành phố đều có Hiến chương thành phố, là văn bản pháp lý

quy định cơ cấu tổ chức, quyền hạn, chức năng và các thủ tục cần thiết của
chính quyền thành phố. Hiến chương cũng quy định kiểu chính quyền thành
phố, phổ biến 5 hình thức: hội đồng – quản lý, thị trưởng – hội đồng; ủy ban –
ban chấp hành, hội nghị thành phố và hội nghị đại biểu thành phố.
-

Mô hình hội đồng – quản lý.
Đây lại là mô hình được sử dụng nhiều nhất ở Mỹ. Đặc điểm chung của mô
hình này là hội đồng thành phố giám sát hoạt động quản lý chung, ban hành chính
sách và ấn định ngân sách; Hội đồng bổ nhiệm quản lý thành phố chuyên nghiệp
để thực hiện hoạt động quản lý hàng ngày. Thông thường, thị trưởng được lựa
chọn trong số các thành viên hội đồng trên cơ sở luân phiên. Mô hình áp dụng phổ
biến với các thành phố có dân số trên 10.000 người. Tiêu biểu cho mô hình này là
thành phố Phoenix – thành phố lớn thứ 6 của Mỹ.
Ở thành phố Phoenix mô hình chính quyền hội đồng – quản lý, bao gồm 3
chức danh chính – thị trưởng, thành viên hội đồng và quản lý thành phố.
Hội đồng thành phố Phoenix bao gồm thị trưởng và 8 ủy viên hội đồng,
hoạt động như một cơ quan lập quy và lập sách của chính quyền thành phố.
Mỗi ủy viên hội đồng được bầu bởi các thành viên trong nghị viện thành phố,
những người đại diện cho người dân của thành phố đó. Thị trưởng do dân bầu
trực tiếp. Thị trưởng chủ trì các hội nghị của hội đồng và được nhìn nhận là
người đứng đầu thành phố.
Quản lý thành phố phối hợp chặt chẽ với thị trưởng và ủy viên hội đồng
để hỗ trợ họ xây dựng chính sách và các chương trình hoạt động. Giám sát các
cán bộ nhân viên, quản lý có trách nhiệm đảm bảo hoạt động liên tục và có
hiệu quả của tất cả các dịch vụ thành phố do Hội đồng thành phố.

-

Mô hình thị trưởng – hội đồng

Trong mô hình này, chức danh thị trưởng được bầu riêng với hội đồng.
Theo đó, quyền hạn về quản lý và ngân sách rất lớn. Tùy theo hiến chương
23


thành phố, thị trưởng có thể có quyền lực yếu hoặc mạnh. Hội đồng được bầu
và nắm giữ các quyền hạn về lập quy. Đô thị tiêu biểu cho mô hình này là
thành phố New York.
Chính quyền thành phố New York được tổ chức theo Hiến chương
Thành phố, là một chế độ thị trưởng – hội đồng “mạnh”. Chính quyền New
York phụ trách giáo dục công, cơ quan cải huấn, thư viện, an ninh, giải trí, vệ
sinh, nguồn nước và các dịch vụ an sinh. Thị trưởng được bầu nhiệm kỳ 4
năm, là người đứng đầu cơ quan chấp hành của chính quyền. Văn phòng thị
trưởng quản lý tất cả các dịch vụ, tài sản công, cảnh sát và phòng cháy chữa
cháy, đa số các cơ quan công cộng và thi hành luật tiểu bang và thành phố
trong toàn bộ phạm vi New York.
Hội đồng thành phố New York là cơ quan lập quy đơn viện của thành
phố New York. Cơ quan này có 51 thành viên từ 51 nghị viện thành phố thuộc
cả 5 khu. Hội đồng giám sát hoạt động và hiệu quả của các cơ quan thành
phố, ban hành các quyết định về sử dụng đất và có toàn quyền phê duyệt ngân
sách thành phố. Cơ quan này cũng ban hành quy định về nhiều lĩnh vực khác
và mỗi thành viên được nắm giữ tối đa 3 nhiệm kỳ. Hội đồng bình đẳng với
Thị trưởng trong quản lý thành phố.
Người đứng đầu hội đồng thành phố được gọi là chủ tịch, có trách
nhiệm xây dựng chương trình nghị sự và chủ trì các phiên họp Hội đồng
thành phố. Các dự thảo luật được đệ trình lên thông qua Văn phòng Chủ tịch.
Chủ tịch hội đồng được các ủy viên Hội đồng bầu lên và có trách nhiệm tìm
kiếm sự đồng. [10]

24



CHƯƠNG 3: NHỮNG GỢI MỞ CHO VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG MÔ HÌNH CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ
1.

Yêu cầu cấp thiết cần phải xây dựng chính quyền đô thị ở Việt Nam.
Hiện nay, đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân đã trở thành yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn cuộc
sống, đặc biệt trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế ở nước ta.
Cải cách bộ máy nhà nước không những phải thực hiện ở các cơ quan
nhà nước Trung ương, mà còn phải đổi mới đồng bộ đối với chính quyền địa
phương các cấp, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của
hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương.
Nghị quyết số 17-NQ/TƯ – Hội nghị lần thứ 5, BCH Trung ương Đảng
– Khóa X kết luận: “Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản
lý bộ máy Nhà nước đã đề ra yêu cầu thực hiện thí điểm mô hình tổ chức
chính quyền đô thị, nhằm tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân biệt
rõ những khác biệt giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị, hải
đảo”.
Ngày 16/05/2012, Văn phòng Chính phủ đã ra thông báo kết luận
của Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại cuộc họp Ban Chỉ đạo Trung ương
xây dựng Đề án thí điểm mô hình tổ chức chính quyền đô thị. [8]
Trong xu thế tòan cầu hóa, hội nhập quốc tế, quá trình đô thị hóa ở
nước ta đã và đang diễn ra nhanh chóng. Điều này đã dẫn đến xuất hiện nhiều
khác biệt trong các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng
giữa đô thị và nông thôn.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, mô hình tổ chức chính quyền

địa phương ở nước ta tổ chức thành 3 cấp chính quyền: cấp tỉnh, cấp huyện,
cấp xã. Chính quyền ở địa bàn đô thị được tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ,
25


×