Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Công tác tư tưởng của đảng trong việc đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị và đồng khởi ở miền nam giai đoạn 1954 1960 tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.65 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi Đảng ra đời đến nay, công tác tư tưởng-văn hóa luôn được coi là
công tác có vị trí quan trọng hàng đầu của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
công tác tư tưởng-văn hóa đã góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
chính trị trong các giai đoạn cách mạng: làm nên Cách mạng Tháng Tám,
giành chính quyền, xây dựng chế độ mới; tiến hành cuộc kháng chiến thần
thánh trường kỳ 30 năm bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, thống nhất giang
sơn về một mối; triển khai toàn diện công cuộc đổi mới, chấn hưng và phát
triển đất nước, vững vàng vượt qua thách thức khi nền kinh tế - xã hội lâm
vào khủng hoảng, chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, tiếp tục đứng vững và
phát triển, đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, đối ngoại,
quốc phòng, an ninh. Công tác tư tưởng đặc biệt phát huy vai trò trọng yếu
của mình trong những bước chuyển của cách mạng và chính lúc đó Đảng ta
rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.
Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch luôn coi Việt Nam là một
trọng điểm để chống phá, thực hiện chiến lược "Diễn biến hòa bình", đặc biệt
trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa, đây là cuộc chiến tranh không có khói súng
nhưng ác liệt không kém cuộc chiến tranh bằng bom đạn. Thế nên, dù trong
hoàn cảnh nào chúng ta cũng không thể mất cảnh giác mà phải luôn nghiên
cứu, đúc kết kinh nghiệm, rút ra những giá trị lịch sử trong công tác tư tưởngvăn hóa để đấu tranh có hiệu quả với chiến lược "Diễn biến hòa bình", góp
phần bảo vệ và phát triển đất nước; đặc biệt, đội ngũ làm công tác tư tưởngvăn hóa trong giai đoạn hiện nay phải luôn nắm chắc lịch sử, trau dồi về
truyền thống cách mạng hào hùng, phẩm chất chính trị vững vàng, năng lực
chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ chính
trị, trong đó không thể thiếu những kinh nghiệm và giá trị mà lịch sử đã để lại.

1


Nhằm góp phần ghi lại những mốc son lịch sử của cách mạng nói
chung, cùng những bước phát triển của công tác tư tưởng nói riêng, giúp đội


ngũ làm công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay ôn lại truyền thống vẻ
vang của cách mạng, của ngành tư tưởng-văn hóa, đồng thời bổ sung những
tri thức lịch sử, những giá trị mà công tác tư tưởng đã mang lại, góp phần
nâng cao nhận thức, hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng
sản cho cán bộ làm công tác tư tưởng; mặt khác, có thể nghiên cứu, vận dụng
kết hợp giữa khoa học, thực tiễn và những giá trị lịch sử nhằm giải quyết tốt
nhiệm vụ chính trị tư tưởng trong tình hình mới.
Vì những lý dó trên nên em chọn đề tài: Công tác tư tưởng của Đảng
trong việc đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị và đồng khởi ở miền Nam
giai đoạn 1954 - 1960 làm tiểu luận kết thúc môn học.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRONG GIAI ĐOẠN 1954-1960
VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG
1. Bối cảnh lịch sử trong giai đoạn 1954-1960
Hoàn cảnh lịch sử của đất nước ta giai đoạn này có nhiều thuận lợi
nhưng cũng rất nhiều khó khăn, thử thách:
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi,
cách mạng nước ta bước vào một thời kỳ mới giữa lúc ba dòng thác cách
mạng trên thế giới tiếp tục dâng cao. Sự lớn mạnh của Liên Xô, sự hình thành
hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới và thắng lợi mới của phong trào độc
lập dân tộc ở Inđônêxia, Ấn Độ, Ai Cập, Angiêri, Gana, Cuba... và xu thế hòa
bình, trung lập đã làm lung lay tận gốc chủ nghĩa thực dân cũ và bước đầu gây
khủng hoảng cho chủ nghĩa thực dân mới.
Đất nước ta bị chia cắt thành hai miền Nam, Bắc với hai chế độ chính
trị khác nhau. Đặc trưng chủ yếu của thời kỳ mới ở nước ta là chế độ thực dân
cũ của Pháp chấm dứt trên toàn bộ bán đảo Đông Dương, nhưng chế độ thực

dân mới của Mỹ lại thay Pháp thống trị miền Nam Việt Nam, uy hiếp
Campuchia và khống chế Lào; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng quá độ
lên chủ nghĩa xã hội trong khi miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của đế
quốc Mỹ.
Đặc biệt lúc này, nước ta gặp nhiều khó khăn trong việc xác định đường
lối đi lên của cách mạng, vì trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa xuất
hiện tư tưởng của chủ nghĩa xét lại hiện đại của Khơrútxốp ở Liên Xô, cho
rằng sự phát triển của khoa học kỹ thuật sẽ đủ làm lợi cho chủ nghĩa tư bản
nên chúng không cần xâm lược, bóc lột các dân tộc và các nước khác, từ đó
đề ra chủ trương "chung sống hòa bình, thi đua hòa bình và quá độ hòa bình",
cho rằng Việt Nam cũng nên thực hiện tạm hòa, không cần đấu tranh và chỉ
3


cần đợi Liên Hiệp Quốc buộc các nước tư bản chủ nghĩa trả lại tự do cho
thuộc địa, bên cạnh đó cũng xuất hiện tư tưởng của chủ nghĩa cơ hội của Mao
Trạch Đông ở Trung Quốc, coi lợi ích của dân tộc mình là cao nhất mà quên
nghĩa vụ quốc tế, khộng dám chống Mỹ mà chỉ hô hào các nước chống Mỹ để
mình yên ổn xây dựng đất nước.
Sự bất đồng về quan điểm giữa Liên Xô và Trung Quốc tạo nên sự mâu
thuẫn và khó khăn cho đường lối chung. Mỹ đã khai thác bất đồng này để tác
động vào tình hình thế giới và chọn Việt Nam là nơi thử sức các nước xã hội
chủ nghĩa, vì: Việt Nam là tiền đồn xã hội chủ nghĩa ở phí Nam nên Mỹ cho
rằng cần phải lập căn cứ quân sự để khi có cơ hội thì đánh lên các nước xã hội
chủ nghĩa phía Bắc, đồng thời ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản tràn qua các
nước Đông Nam Á; mặt khác, Mỹ cho rằng Việt Nam là ngọn cờ đầu trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nên đánh bại Việt Nam là đòn quyết định
đối với các nước xã hội chủ nghĩa khác. Có thể nói rằng, cuộc chiến tranh ở
Việt Nam chính là "cuộc đụng đầu tất yếu của thời đại".
Khó khăn trong thời kỳ mới còn xuất phát từ âm mưu bá chủ thế giới

của Mỹ bằng chiến lược ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và đánh
phá phong trào giải phóng dân tộc. Trong chiến lược đó, Việt Nam trở thành
đối tượng xâm lược trọng điểm của Mỹ.
Sau khi gạt Pháp ra khỏi guồng máy cai trị và độc chiếm miền Nam,
Mỹ thành lập chính phủ bù nhìn, tay sai do Ngô Đình Diệm cầm đầu, đồng
thời tập trung mũi nhọn đàn áp cách mạng. Chúng liên tiếp mở những cuộc
hành quân càn quét, các chiến dịch "tố cộng" với khẩu hiệu "đạp lên oán thù,
thà giết lầm còn hơn bỏ sót", "dĩ Đảng trị Đảng, dĩ dân trị dân". Luật 10-59
cho phép bọn ác ôn chặt đầu những người cộng sản và đồng bào yêu nước
không cần phải xét xử. Trong vòng dăm năm, từ năm 1954 đến năm 1959,
hàng triệu người đã bị bắt bớ, tù đày, hàng chục vạn người bị giết hại, hàng
trăm ngàn cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu nước bị giết hại.
4


Vấn đề đánh thắng chủ nghĩa thực dân mới là vấn đề mới đối với cách
mạng nước ta. Kẻ thù của nhân dân ta không còn là đế quốc pháp bại trận và
suy yếu, mà là đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế và quốc phòng mạnh hơn lực
lượng của các đế quốc khác cộng lại.
Ở miền Nam, lực lượng cách mạng tạm thời ở thế giữ gìn lực lượng.
Sau khi quân đội ta rút đi, các tổ chức Đảng, tổ chức cách mạng ở miền Nam
phải rút vào bí mật, hoạt động không hợp pháp.
Miền Bắc hoàn toàn giải phóng do nhân dân làm chủ, đi theo xu thế tất
yếu là quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng trước mắt, miền Bắc phải hàn
gắn xong những vết thương nặng nề của chiến tranh.
Cách mạng đã chuyển giai đoạn, nhưng Đảng lãnh đạo cách mạng chưa
kịp chuyển biến về nhận thức, về đường lối và tổ chức. Đường lối cách mạng
của nước ta lúc này như thế nào là một câu hỏi lớn và trách nhiệm lịch sử đặt
lên vai Đảng Lao động Việt Nam, đội tiên phong cách mạng của nhân dân
Việt nam.

2. Phương hướng tư tưởng của Đảng
Trong điều kiện đất nước đang đứng trước sự uy hiếp của chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa xét lại hiện đại và chủ nghĩa cơ hội, Đảng ta đã vững vàng,
sáng suốt, Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 (khóa II) của Đảng đã xác định:
- Cách mạng Việt Nam lúc này có hai nhiệm vụ: cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Miền Nam nhất định phải làm cách mạng, ngoài cách mạng ra không
còn con đường nào khác. Cách mạng ở miền Nam là bạo lực quần chúng để
giành chính quyền. Sau khi giành chính quyền sẽ thành lập chính phủ liên
hiệp, nếu không được sẽ tiếp tục cuộc chiến tranh, dù có lâu dài, phức tạp, ta
nhất định thắng lợi. Phải độc lập tự chủ để giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước.

5


- Nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Trước hết, phải bảo vệ những nguyên lý trong sáng của chủ nghĩa
Mác-Lênin, quán triệt sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân, đồng thời phải khéo léo vượt lên trên quan điểm của chủ nghĩa xét lại
hiện đại và chủ nghĩa cơ hội để tranh thủ được sự ủng hộ của Liên Xô và
Trung Quốc.
Đảng đã tổng kết kinh nghiệm lịch sử của cách mạng Việt Nam cũng
như của các Đảng Cộng sản anh em và rút ra kết luận quan trọng, đó là: Trong
thời đại hiện nay, một dân tộc dù nhỏ yếu nhưng có sự đoàn kết đấu tranh, có
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì có thể đánh thắng bất cứ kẻ thù xâm lược
nào.
Đảng đánh giá tình hình thực tiễn của thế giới và Việt Nam trên phương
diện thế và lực và đưa ra nhận định:
- Lực lượng cách mạng mạnh hơn lực lượng phản cách mạng.

- Lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa đang quyết định chiều hướng
phát triển của xã hội loài người.
- Lực lượng cách mạng thế giới có ba dòng thác cách mạng chĩa vào đế
quốc (hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào
hòa bình dân chủ).
- Đảng nhận định, nhân dân ta có đủ khả năng đánh thắng kẻ thù.
- Đế quốc Mỹ tuy có tiềm lực kinh tế và quốc phòng lớn mạnh, nhưng
sức mạnh đó của Mỹ là có giới hạn.

6


CHƯƠNG II: CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC
ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ VÀ
ĐỒNG KHỞI Ở MIỀN NAM GIAI ĐOẠN 1954-1960
Có thể nói, trong giai đoạn 1954-1960, giai đoạn vô cùng khó khăn của
cách mạng, công tác tư tưởng của Đảng chủ yếu được tiến hành dưới những
hình thức tuyên truyền vận động, giáo dục trực tiếp kết hợp với hoạt động báo
chí bí mật, công khai và nữa công khai trong và ngoài nước, cùng với các hoạt
động mít tinh, biểu tình, dùng băng rôn, khẩu hiệu cổ động để vạch trần âm
mưu, thủ đoạn của Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, hướng dẫn hành động cách
mạng cho quần chúng nhân dân.
1. Công tác tư tưởng của Đảng trong việc đẩy mạnh phong trào đấu
tranh chính trị ở miền Nam
Tháng 10.1954, Xứ ủy Nam bộ, Liên Khu ủy V và Trị Thiên Huế tổ
chức nghiên cứu và thực hiện các nghị quyết của Trung ương Đảng và Bộ
Chính trị về tình hình mới và nhiệm vụ mới của các Đảng bộ miền Nam.
Trước mắt, nhiệm vụ của các Đảng bộ miền Nam là bảo vệ lực lượng
cách mạng, lãnh đạo nhân dân miền Nam giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh
chính trị, buộc Mỹ và tay sai phải thi hành Hiệp định Giơnevơ, chống âm

mưu và hành động phá hoại việc thi hành Hiệp định của chúng. Trong tình
hình mới, lãnh đạo đấu tranh phải quán triệt phương châm kết hợp hoạt động
bí mật với hoạt động công khai và nữa công khai; củng cố và phát triển cơ sở
ở nông thôn, mở rộng và đẩy mạnh công tác ở đô thị, phối hợp chặt chẽ giữa
công tác ở đô thị với công tác ở nông thôn.
Tình hình tư tưởng trong Đảng và quần chúng nhân dân lúc này có
những diễn biến phức tạp, vừa có tâm lý chủ quan, không thấy hết âm mưu
phá hoại của Mỹ và tay sai, vừa có tâm lý bi quan, lo lắng. Vì thế, công tác tư
tưởng cần được tiến hành đến từng chi bộ Đảng và trong nhân dân làm cho
7


cán bộ, đảng viên và quần chúng nhất trí với nhận định và chủ trương của
Trung ương Đảng. Vấn đề quan trọng lúc này là Đảng bộ và nhân dân miền
Nam phải hết sức tin tưởng ở sức mình và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự
nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng; đề phòng và khắc phục các tư
tưởng cầu an, dao động, thủ tiêu đấu tranh hoặc mất cảnh giác với âm mưu
của địch.
Để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, trong giai đoạn này, bộ
máy chỉ đạo của Đảng từ Xứ ủy, Liên Khu ủy đến các tỉnh, thành ủy, huyện,
thị ủy và Ban Tuyên huấn các cấp được sắp xếp lại. Phòng Việt Nam Thông
Tấn xã chi nhánh Nam bộ được bố trí gọn nhẹ, làm nhiệm vụ thu tin của Tổng
xã, của các địa phương và tin thế giới cung cấp cho lãnh đạo và làm bản tin
miền Nam cung cấp cho công tác tuyên truyền trong nước và đối ngoại. Tổ
chức Đảng và các tổ chức cách mạng đều rút vào bí mật. Cán bộ, đảng viên
được bồi dưỡng về kinh nghiệm hoạt động bí mật và "năm bước công tác" để
vận dụng trong hoàn cảnh mới. Các tổ chức quần chúng hoạt động công khai
được hình thành và phát triển. Một số cán bộ, đảng viên với danh nghĩa ký
giả, văn nghệ sỹ...được bố trí ở lại các thành phố lớn để hoạt động công khai,
hợp pháp.

Ở Sài Gòn, sau khi Hiệp định đình chiến được ký kết, thành ủy chỉ đạo
tổ chức các hoạt động quần chúng "hoan hô đình chiến, ủng hộ hòa bình".
Cán bộ và cơ sở cách mạng vận động các báo tiến bộ đăng toàn văn Hiệp
định, chỗ dựa pháp lý để đấu tranh; phản ánh các cuộc mít tinh, hội họp của
các tầng lớp nhân dân bày tỏ ý chí ủng hộ hòa bình; đưa tin, ảnh tố cáo hành
động đàn áp của chính quyền Sài Gòn đối với nguyện vọng hòa bình của nhân
dân.
Sự lãnh đạo của Đảng chú trọng kết hợp đấu tranh chính trị với đấu
tranh đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ, như gắn với phong trào đấu tranh của
công nhân đòi việc làm, chống sa thải...Ở Sài Gòn, cán bộ và cơ sở cách mạng
8


vận động các báo tiến bộ đưa tin, bình luận, hô hào lập "Quỹ đình công", ủng
hộ phong trào đấu tranh của công nhân, phong trào "Lá lành đùm lá rách",
vận động lập "Ủy ban bảo vệ sinh mạng và tài sản đồng bào". Nhờ đó, các
phong trào đã lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động, học
sinh, sinh viên, trí thức tham gia, hưởng ứng, vừa ủng hộ tiền của, lương thực,
vừa giăng biểu ngữ lên án ngụy quyền. Nhiều người trong giới tư sản dân tộc
cũng tham gia biểu tình chống chính sách kinh tế theo đuôi Mỹ và chế độ độc
tài gia đình trị của Ngô Đình Diệm.
Ở nông thôn, cán bộ cách mạng tuyên truyền vận động và tổ chức
phong trào nông dân đấu tranh bảo vệ các quyền lợi đã được hưởng từ trong
kháng chiến, chống chế độ ngụy xáo cấp công điền, cướp đất của những gia
đình có người đi tập kết, chống "cải cách điền địa" giả hiệu, chống tăng tô,
tiêu biểu là phong trào ở nhiều tỉnh Khu V (Bình Định, Quãng Ngãi...) và ở
Trị Thiên. Ở Tây Nguyên, cán bộ cách mạng vận động và tổ chức đồng bào
các dân tộc đấu tranh chống âm mưu mua chuộc, chia rẽ của địch, chống dồn
dân lập "khu đinh điền"..., đòi hòa bình, thống nhất, đồng thời củng cố đoàn
kết, bảo vệ cán bộ, giữ gìn lực lượng cách mạng, xây dựng khu căn cứ.

Tháng 7.1955, các Đảng bộ miền Nam mở đợt tuyên truyền phát động
phong trào đòi địch phải thực hiện hiệp thương, tổng tuyển cử như Hiệp định
Giơnevơ đã quy định. Hàng triệu lượt đồng bào ở thành thị và nông thôn miền
Nam, có cả một số công chức và binh sỹ ngụy tham gia, sôi nổi hưởng ứng
các cuộc mít tinh, biểu tình, bãi công, bãi thị, bãi khóa, lấy chữ ký, đưa kiến
nghị đòi chính quyền ngụy phải hiệp thương, tổng tuyển cử, hoà bình thống
nhất đất nước. Nhìn chung, phong trào đấu tranh ủng hộ hòa bình, đòi hiệp
thương, tổng tuyển cử cùng với các phong trào khác chống Mỹ-Diệm đã gây
hoang mang trong bọn phản động đang ngóc đầu dậy ở nông thôn và cả nhiều
người trong chính quyền Diệm.

9


Để tiếp tục giữ vững và đẩy mạnh phong trào quần chúng, tháng
9.1955, Xứ ủy Nam bộ tổ chức sinh hoạt chính trị trong đảng viên và đoàn
viên thanh niên về chủ trương đấu tranh đòi hiệp thương, tổng tuyển cử nhằm
nâng cao ý chí chiến đấu, phát huy thành tựu, khắc phục tư tưởng cầu an, thủ
tiêu đấu tranh hoặc đấu tranh ồ ạt, hình thức. Bên cạnh đó, để đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, Xứ ủy Nam bộ ra báo Hòa bình thống nhất và tờ Tin tức phát
hành đến tận xã và mỗi tỉnh ra một tờ báo với danh nghĩa cơ quan của Mặt
trận, lấy tên là Đấu tranh cho hòa bình, thống nhất.
Ngày 30.9.1955, Thường vụ Xứ ủy Nam bộ ra chỉ thị yêu cầu các cấp
ủy Đảng phải: Nhận thức rõ vị trí quan trọng của công tác tuyên huấn giúp
cấp ủy phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng; lãnh đạo tư tưởng của cán
bộ, đảng viên và nhân dân trong đấu tranh chống địch; tổ chức lực lượng
Đảng, đoàn thể, quân đội...làm công tác tư tưởng. Cần bám sát chủ trương
công tác từng thời gian do Tuyên huấn Xứ ủy hướng dẫn. Chỉ đạo điểm để rút
kinh nghiệm, chỉ đạo sát công tác tuyên huấn ở cơ sở. Kiện toàn bộ máy, bổ
sung cán bộ đủ đảm nhiệm công tác. Mỗi xã lập một Ban Tuyên huấn do một

đồng chí chi ủy viên phụ trách, có một trưởng ban và một số đảng viên, đoàn
viên thanh niên. Mỗi tỉnh, huyện có một máy in Stencil, mỗi xã có một
phương tiện in bột.
Trong suốt hai năm 1955-1956, để đàn áp phong trào cách mạng của
nhân dân, Mỹ-Diệm thực hiện chính sách "tố cộng, diệt cộng", coi đây là một
quốc sách nhằm tách nhân dân ra khỏi Đảng. Do đó, các Đảng bộ đã xác định
bám dân, bám cơ sở là vấn đề sống còn của Đảng, giáo dục cán bộ, đảng viên
thực hiện "ba bám": bám dân, bám đất, bám cơ sở để lãnh đạo quần chúng
đấu tranh chống địch, coi "ba bám" như là một tiêu chuẩn hàng đầu của người
cán bộ, đảng viên, khắc phục tư tưởng hoang mang, chạy dài, bi quan, thiếu
tin tưởng, đồng thời đề phòng và khắc phục tư tưởng chủ quan kém cảnh giác.
Thực hiện Chỉ thị ngày 1.12.1955 của Trung ương Đảng, các Đảng bộ miền

10


Nam tích cực lãnh đạo đảng viên và quần chúng chống "tố cộng", coi đây là
nhiệm vụ trọng tâm trước mắt.
Công tác tư tưởng lúc này được tiến hành chủ yếu bằng các hoạt động
tuyên truyền trực tiếp của cán bộ, đảng viên và quần chúng trung kiên, làm
cho đồng bào thấy rõ âm mưu thâm độc của chính sách "tố cộng", nêu cao
chính nghĩa của Đảng và vai trò của Đảng đối với dân tộc và nhân dân, vạch
trần bộ mặt "quốc gia", "dân tộc" giả hiệu của Diệm, vận động quần chúng
đoàn kết đấu tranh chống địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ để bảo vệ quyền
lợi chính đáng của mình. Vạch rõ, khi kẻ địch điên cuồng khủng bố, tàn sát
những người yêu nước, chính là lúc chúng run sợ trước phong trào cách
mạng. Trong nội bộ Đảng, giáo dục cán bộ, đảng viên nêu cao khí tiết cộng
sản, tiến công địch, phá âm mưu thâm độc của chúng, bảo vệ tổ chức, bảo vệ
uy thế chính trị của Đảng.
Cùng với khí thế đấu tranh của đồng bào cả nước, nhiều văn nghệ sỹ

yêu nước đã can đảm dùng vũ khí thơ, văn ca ngợi tinh thần đấu tranh bất
khuất của dân tộc chống ngoại xâm. Mặc dù Dụ số 13 của Diệm ấn định "báo
nào đưa tin và bình luận có lợi cho cộng sản, bị phạt tiền từ 25.000 đồng đến
1 triệu đồng, phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm", nhưng các báo tiến bộ ở Sài Gòn
vẫn tích cực tham gia các cuộc vận động đồng bào đấu tranh chống "trưng cầu
dân ý" của Mỹ-Diệm, chống bầu cử Quốc hội bù nhìn. Đặc biệt, trong ngày
Lễ 1.5.1956 hàng trăm ngàn đồng bào dự mít tinh, biểu tình đòi tự do, cơm
áo, độc lập, hòa bình và thống nhất Tổ quốc, đòi hiệp thương, tổng tuyển cử
có sự giám sát quốc tế.
Trong hoàn cảnh Diệm ngày càng xiết chặt hoạt động của báo chí, các
báo tiến bộ chuyển sang hướng đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, ủng hộ phong
trào công nhân đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống xúc phạm nhân
phẩm nữ công nhân, chống bớt công chồng việc, đòi tiền thưởng tết, đòi
lương tháng 13; ủng hộ giới tư bản trong nước đấu tranh chống hàng ngoại,
11


khơi gợi tinh thần dân tộc, gây thành phong trào nhân dân bảo vệ hàng nội
hóa. Diệm lập "Nha Tổng phát hành thống nhất" để xiết chặt khâu phát hành,
nhưng làng báo không chịu bó tay. Báo Sài Gòn Mai và một số báo khác lập
chợ "báo cổ động" để tự phát hành, làm Diệm không sao ngăn cản được.
Trước hành động khủng bố ngày càng tàn bạo của địch, yêu cầu vũ
trang của cán bộ, đảng viên và quần chúng để chống khủng bố ngày càng cấp
bách. Nhiều nơi, quần chúng tìm lại vũ khí trước đây đã chôn giấu, cướp súng
địch hoặc dùng vũ khí thô sơ bí mật thủ tiêu những tên cảnh sát, chỉ điểm, tề
điệp ác ôn nguy hiểm nhất. Vận dụng kinh nghiệm trong cách mạng và kháng
chiến chống Pháp, một số địa phương đã thành lập các đội vũ trang tuyên
truyền để đột phá vào những nơi khó khăn, vừa tự bảo vệ để tiến hành công
tác tuyên truyền, vừa diệt ác ôn, trừ gian, gây uy thế cho cách mạng. Hội nghị
Xứ ủy Nam bộ tháng 12.1956 nhận định hoạt động vũ trang tuyên truyền và

vũ trang tự vệ: đã hạn chế sự lùng sục của bọn chỉ điểm và tác động của bọn
gây chiến tranh tâm lý, nội gián trong quần chúng. Nhiều nơi, bọn tề điệp ác
ôn co lại, quần chúng dễ thở hơn, bắt đầu nhóm họp, sinh hoạt trở lại, đấu
tranh chống địch và bảo vệ tốt hơn. Công tác tuyên truyền của Đảng cũng do
đó mà có điều kiện đến được quần chúng nhiều hơn.
Tháng 6.1956, Hội nghị Bộ Chính trị đã nhận định: Hình thức đấu tranh
toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải đấu tranh vũ trang. Nói
như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những
hoàn cảnh nhất định...Cần củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang
hiện có và xây dựng căn cứ làm chỗ dựa. Nghị quyết của Bộ Chính trị đã
khẳng định một hướng mới: đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang tự vệ.
Đây là một bổ sung quan trọng về đường lối, đáp ứng yêu cầu bức xúc trước
mắt của phong trào quần chúng ở miền Nam, mở ra hướng mới cho công tác
tư tưởng, đi đôi với hình thức chủ yếu tuyên truyền trực tiếp đến từng nhà,

12


từng người, hình thức vũ trang tuyên truyền phát triển mạnh ở nhiều nơi, góp
phần tích cực vào công tác phát động quần chúng.
Tuy vậy, trong giai đoạn này, "ta có sai lầm trong chỉ đạo chiến lược,
chậm chỉ đạo chuyển hướng đấu tranh, chỉ nhấn mạnh đấu tranh chính trị khi
địch đã dùng bạo lực phản cách mạng thẳng tay giết hại cán bộ, nhân dân".
Để đáp ứng yêu cầu cấp thiết vạch ra đường lối cách mạng miền Nam,
đồng chí Lê Duẩn, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách miền Nam, đã dự thảo bản
Đề cương cách mạng miền Nam, xác định phương hướng của cách mạng
miền Nam là dựa vào lực lượng cách mạng chính trị của quần chúng làm căn
bản, tổ chức quần chúng vùng dậy đánh đổ chính quyền Mỹ-Diệm. Bản Đề
cương cách mạng miền Nam có ý nghĩa lịch sử to lớn, đã góp phần chuẩn bị
cơ sở lý luận và cơ sở chính trị cho Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung

ương Đảng (1959) và Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng (1960). Thông qua thảo luận, góp ý kiến bản Đề cương, các đồng chí
lãnh đạo của các Đảng bộ miền Nam có ý thức chuẩn bị cuộc nổi dậy trong
khi chờ đợi chủ trương chính thức của Trung ương. Do đó, bản Đề cương đã
góp phần tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho cao trào
Đồng Khởi sau này.
2. Công tác tư tưởng của Đảng trong việc đẩy mạnh phong trào
Đồng Khởi ở miền Nam
Trong không khí sục sôi căm thù và đứng trước xu thế vùng dậy của
quần chúng, tháng 1.1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị
lần thứ 15 xác định Đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam. Nghị
quyết Trung ương đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là "Giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc
lập dân tộc và người cày có ruộng, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh". Để thực hiện nhiệm vụ đó, con
đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa
13


giành chính quyền về tay nhân dân. Hội nghị Trung ương dự đoán: "Đế quốc
Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện nào đó,
cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành
cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. Trong tình hình đó, cuộc đấu tranh sẽ
chuyển sang một cục diện mới: chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch và thắng
lợi cuối cùng nhất định về ta".
Nghị quyết Trung ương chỉ rõ những công tác chính cần nắm vững và
nhấn mạnh: Đặc biệt coi trọng công tác tư tưởng, nâng cao không ngừng trình
độ tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên, bảo đảm sự đoàn kết nhất trí
và sự trong sạch của hàng ngũ Đảng. Phải giáo dục, rèn luyện cho mỗi đảng
viên trở thành một chiến sỹ kiên cường, bất khuất, luôn luôn nắm vững và biết

chủ động vận dụng đường lối, chính sách của Đảng, luôn luôn anh dũng đấu
tranh chống kẻ thù và sẵn sàng hy sinh vì cách mạng, luôn luôn liên hệ mật
thiết với quần chúng, tin tưởng sắt đá vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
có ý nghĩa lịch sử to lớn, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên. Nghị
quyết đã đáp ứng nhu cầu bức thiết của cách mạng miền Nam lúc ấy, cứu lấy
phong trào cách mạng đang trong cơn nguy biến nhất, đáp ứng nguyện vọng
tha thiết và nóng bỏng của quần chúng vùng dậy phá tan xiềng xích nô lệ,
từng bước giành quyền làm chủ. Nghị quyết này chứng tỏ quan điểm độc lập,
tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong việc vận dụng học thuyết Mác-Lênin và
kinh nghiệm các nước anh em, kinh nghiệm Cách mạng Tháng Tám và kháng
chiến chống Pháp vào điều kiện cụ thể đất nước ta sau Hiệp định Giơnevơ.
Cuối năm 1959, Xứ ủy Nam bộ và Liên Khu ủy V họp hội nghị quán
triệt và thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng.
Trước khi có nghị quyết của Xứ ủy và Liên Khu ủy, tinh thần Nghị quyết 15
của Trung ương Đảng đã tỏa về các địa phương bằng nhiều con đường. Nghị
quyết về tới cơ sở, đi vào quần chúng đúng lúc quần chúng đang ở vào tình
14


thế muốn sống phải vùng dậy và đang khát khao mong đợi đường lối của
Đảng. Cán bộ và quần chúng ở cơ sở hiểu Nghị quyết với tinh thần "Đảng cho
đánh rồi" và họ đã sáng tạo ra nhiều cách đánh bằng những phương tiện có
trong tay. Nghị quyết của Đảng phù hợp với ý chí quật cường và lòng mong
đợi của nhân dân đã thổi bùng lên ngọn lửa "Đồng Khởi" nổi dậy và tiến
công địch khắp miền Nam trong những tháng cuối năm 1959 và cả năm 1960.
Để góp phần thúc đẩy "Đồng Khởi" lên thành cao trào, ngày 22.4.1960,
Thường vụ Xứ ủy Nam bộ ra "Chỉ thị số 18-TVA về tích cực đẩy mạnh công
tác tuyên truyền động viên quần chúng". Bản Chỉ thị nhận định, do toàn
Đảng bộ chấp hành có kết quả chủ trương "đẩy mạnh đấu tranh chính trị kết

hợp đúng mức với hoạt động vũ trang", tình hình chung ở Nam bộ bắt đầu có
những chuyển biến rất thuận lợi: Phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân,
nhất là ở nông thôn, phát triển mạnh mẽ, uy thế của ta lên cao nhanh chóng.
Quần chúng phấn khởi, tin tưởng trước tình hình mới... Tuy nhiên cũng có
những nhận thức lệch lạc, biểu hiện chủ yếu là chủ quan, mất cảnh giác, cho
là địch không có khả năng phản kháng, ỷ lại hoạt động của lực lượng vũ
trang, không nhân cơ hội thuận lợi đẩy mạnh đấu tranh chính trị dũng cảm và
rộng rãi hơn nữa; cũng có một số lệch lạc khác như: rụt rè, không đẩy mạnh
đấu tranh, sợ địch khủng bố trả thù mạnh hơn... Nhân dịp kỷ niệm ngày thành
lập Đảng, Đảng bộ đã tiến hành một đợt tuyên truyền về Đảng với quy mô
chưa từng thấy trong 6 năm qua, đề cao khí thế của phong trào quần chúng và
phổ biến đường lối, chính sách của Đảng được rộng rãi hơn...Các cấp ủy
Đảng đã áp dụng một cách sáng tạo nhiều hình thức tuyên truyền thích hợp
với tình hình mới. Báo chí, bản tin của các tỉnh ra đều đặn, nội dung tốt, hình
thức đẹp, có nhiều sáng tác văn nghệ thành công. Mặt yếu là so với sự phát
triển mau lẹ của tình hình, công tác tuyên truyền chưa theo kịp. Nhiều vấn đề
nảy ra trong nhận thức của quần chúng ta chưa kịp thời phát huy mặt tích cực,
uốn nắn những lệch lạc.

15


Sau khi nhấn mạnh công tác tư tưởng, trước hết phải góp phần làm
quán triệt hơn nữa phương hướng và phương châm đấu tranh mà Nghị quyết
15 của Trung ương và Nghị quyết tháng 11.1959 của Xứ ủy đã đề ra, bản Chỉ
thị nêu một số biện pháp cụ thể: đẩy mạnh công tác tuyên truyền miệng, đây
là hình thức chủ yếu; tăng cường báo chí, tập san, bản tin; phát triển các hoạt
động văn hóa, văn nghệ, các đội văn công nhỏ đi lưu động; tận dụng các khả
năng tuyên truyền công khai; cổ động đông đảo quần chúng nghe đài của ta.
Thành lập Ban Tuyên truyền cổ động ở các cấp xứ, thành, khu, tỉnh. Ban

Tuyên truyền cổ động là Ban chuyên môn của cấp ủy, nằm trong Ban Tuyên
huấn. Tùy theo điều kiện có thể thành lập Ban Tuyên truyền cổ động ở thị xã.
Ban Tuyên truyền cổ động chuyên phụ trách công tác tuyên truyền trong quần
chúng, công tác tuyên truyền của các ngành, các đoàn thể và lực lượng vũ
trang.
Ở Khu V, Nghị quyết tháng 6.1960 của Khu ủy, phần công tác tư tưởng,
nêu rõ nhiệm vụ thường xuyên của công tác tư tưởng là quán triệt phương
hướng, nhiệm vụ, phương châm đấu tranh ở mỗi vùng chiến lược; xây dựng
tư tưởng tiến công, tiến công liên tục, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược, thực hiện kỳ được ba bám, bốn cùng, năm bước công tác, năm khâu
phát động; chống tư tưởng hữu khuynh, rụt rẽ, sợ địch.
Từ năm 1959, sự chi viện về nhiều mặt của miền Bắc đối với cách
mạng miền Nam ngày càng lớn mạnh. Về công tác tư tưởng, thông tin về tình
hình miền Nam được tăng cường trên tất cả các phương tiện truyền thông ở
miền Bắc. Tuy vậy, do điều kiện khó khăn của miền Nam, nguồn tin còn hạn
chế và chậm, cần được chi viện về cán bộ và phương tiện liên lạc. Cuối năm
1959, đoàn cán bộ Việt Nam Thông tấn xã tăng cường cho Liên Khu V để
chuẩn bị xây dựng Thông tấn xã Giải phóng trước khi nó chính thức ra đời
năm 1960. Lực lượng phóng viên được đào tạo tại chỗ cùng với lực lượng
được chi viện từ miền Bắc, mạng lưới điện đài được tăng cường và từng bước

16


làm phong phú và kịp thời hơn lượng tin tức từ miền Nam cung cấp cho Tổng
xã và các cơ quan thông tin báo chí ở Trung ương, phản ánh cao trào Đồng
Khởi. Công tác tuyên truyền đối ngoại, trong đó các phương tiện truyền thông
là lực lượng quan trọng đã góp phần thông tin về cuộc đấu tranh của nhân dân
ta nói chung và của nhân dân miền Nam Việt Nam nói riêng, tố cáo tội ác của
Mỹ-Diệm, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ trên thế giới đối

với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Từ năm 1959, nhiều quốc gia
và tổ chức trên thế giới đã lên án chính sách phát xít của Ngô Đình Diệm và
lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam.
Ngày 20.7.1959, trong lúc phong trào Đồng Khởi đang diễn ra ở miền
Nam, thì Ngày Việt Nam được tổ chức ở 20 nước trên thế giới đòi Mỹ rút khỏi
miền Nam Việt Nam, đòi Diệm chấm dứt khủng bố, tàn sát và hủy bỏ luật lệ
phát xít. Trong lúc trên thế giới, không ít người có tâm lý sợ Mỹ, thì sự kiện
này cho thấy ảnh hưởng ngày càng tăng của cuộc đấu tranh chính nghĩa của
nhân dân ta đối với dư luận quốc tế và đánh dấu bước tiến mới của công tác
tuyên truyền đối ngoại của Đảng ta.
Thực hiện Chỉ thị 18-TVA, ngày 22.4.1960 của Xứ ủy Nam bộ, Ban
Tuyên huấn Xứ ủy tổ chức một bộ phận cán bộ chính trị và cán bộ kỹ thuật
tích cực chuẩn bị các điều kiện cho việc thành lập một cơ quan thông tin
chính thức của cách mạng miền Nam. Bằng những phương tiện cũ kỹ đã cất
giấu từ trước và một số máy móc thu được của địch, các cán bộ kỹ thuật đã
phát huy tinh thần sáng tạo, phục vụ kịp thời cho sự ra đời của Thông tấn xã
Giải phóng (gọi tắt là Giải phóng xã). Từ buổi phát tin đầu tiên vào 19 giờ
ngày 12.10.1960, Giải phóng xã đã thông báo với nhân dân trong nước và trên
thế giới về cuộc Đồng Khởi của nhân dân miền Nam chống Mỹ-Diệm, góp
phần động viện, cổ vũ cuộc đấu tranh chính nghĩa của đồng bào ta, vạch mặt
bọn xâm lược và bè lũ bán nước.

17


Tính đến cuối năm 1960, cao trào Đồng Khởi của quân dân miền Nam
đã căn bản làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở của địch ở nông thôn. Nhân
dân đã giành quyền làm chủ, lập chính quyền tự quản ở 1.383 xã/2.627 xã
toàn miền Nam, đồng thời làm tê liệt chính quyền Mỹ-Diệm ở hầu hết các xã
khác. Phong trào Đồng Khởi ở nông thôn thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu

tranh ở đô thị. Trong năm 1960, ở miền Nam có 10 triệu lượt người tham gia
đấu tranh chính trị, tiêu biểu nhất là phong trào đấu tranh nhân dân ngày
20.7.1960 nổ ra trên khắp miền Nam với nhiều hình thức bãi công, bãi thị ở
thành phố, mít tinh, biểu tình ở nông thôn, từ nông thôn kéo vào thành thị,
chống chính sách khủng bố của Mỹ-ngụy, chống chính sách xâm lược và gây
chiến của đế quốc Mỹ, động viên nhân dân vùng lên lật đổ Diệm.
Phong trào Đồng Khởi đánh dấu bước chuyển mới của cách mạng miền
Nam. Đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng và nguyện vọng của nhân
dân, quán triệt và thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc chống Mỹ và tay
sai. Ngày 20.12.1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra
đời đúng lúc cách mạng miền Nam bước sang một giai đoạn mới. Cũng từ
đây, Giải phóng xã được coi là cơ quan phát ngôn chính thức của Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, tiếp đó là sự ra đời của Đài Phát
thanh Giải phóng, đã góp phần tăng cường lực lượng chiến đấu trên mặt trận
tư tưởng vì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

18


KẾT LUẬN

Có thể nói, công tác tư tưởng giai đoạn 1954-1960 có vai trò vô cùng to
lớn, thổi bùng ngọn lửa cách mạng trong toàn dân, tạo nên các phong trào
cách mạng nối tiếp nhau, lập nên những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, đánh bại
âm mưu, thủ đoạn, tư tưởng thù địch cùng chiến tranh tâm lý của kẻ thù; đã
động viên, hướng dẫn toàn Đảng, toàn dân đoàn kết, tin tưởng vào sức mình,
phát huy tiềm lực dân tộc đương đầu với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, đưa
cách mạng chuyển sang một giai đoạn mới. Công tác tư tưởng giai đoạn này
vừa đúc kết kinh nghiệm của những giai đoạn kháng chiến trước, vừa tiến
hành sáng tạo trong hoàn cảnh mới, và cũng có thể coi đây là sự tập dượt mới

về kỹ năng, nghiệp vụ, mở màng cho sự thành công của công tác tư tưởng
trong những giai đoạn cách mạng quyết định thắng lợi sau này.
Công tác tư tưởng giai đoạn này đã thể hiện được bản chất cách mạng
và khoa học, năng lực tư duy của Đảng, biểu hiện ở sự phát triển cả về số
lượng, nâng cao chất lượng về hình thức và phương tiện công tác tư tưởng, sát
với thực tiễn cách mạng, kết hợp phương tiện hiện đại với khai thác triệt để
các phương tiện truyền thống và được tiến hành rộng khắp trong cả nước và
quốc tế; gắn công tác tư tưởng với tổ chức và phong trào thi đua của quần
chúng; công tác tư tưởng của Đảng giai đoạn này đã góp phần xây dựng một
đội ngũ xung kích, nòng cốt làm công tác tư tưởng như: đội ngũ làm công tác
tuyên huấn, đội ngũ làm công tác giáo dục, đội ngũ làm công tác văn hóa, văn
nghệ, báo chí, xuất bản v.v..và toàn dân làm công tác tư tưởng.
Công tác tư tưởng giai đoạn này đã góp phần đấu tranh nội bộ, loại trừ
những tư tưởng tiêu cực, tư tưởng xét lại, cơ hội trong Đảng; đã chứng tỏ chủ
nghĩa Mác-Lênin là vũ khí vô địch của thời đại và tư tưởng Hồ Chí Minh đã
làm phong phú thêm kho tàng lý luận này, giúp Đảng đưa ra đường lối cách

19


mạng đúng đắn và đem lại những thắng lợi từng bước cho cách mạng miền
Nam nói riêng và cách mạng cả nước nói chung.
Trên cơ sở ý nghĩa và giá trị lịch sử của công tác tư tưởng giai đoạn
1954-1960 nêu trên, chúng ta có thể rút ra một bài học chung nhất hết sức
thiết thực, hiệu quả và có thể vận dụng thành công trong giai đoạn hiện nay,
giai đoạn mà các thế lực thù địch đang tăng cường chống phá cách mạng nước
ta một cách thâm độc nhất, đó là: Trong từng giai đoạn cách mạng, công tác
tư tưởng luôn phải biết bám sát quần chúng, biết tuyên truyền, giáo dục kịp
thời và tổ chức quần chúng hành động cách mạng.


20


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương, 70 năm công tác tư tưởng-văn
hóa của Đảng- Truyền thống vẻ vang, trách nhiệm to lớn, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000.
2. Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương, Sơ thảo lược sử công tác tư
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam 1930-2000 (Dự thảo), NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000.
3. TS. Đào Duy Quát, Một số vấn đề về công tác tư tưởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
4. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ
môn khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
5. TS. Đào Duy Quát, Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
6. Giáo trình: Lịch sử công tác tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam

21


MỤC LỤC

22




×