Tải bản đầy đủ (.doc) (189 trang)

quan hệ biện chứng giữa tính cách mạng và tính khoa học trong công tác tư tưởng của đảng ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.63 KB, 189 trang )

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn coi CTTT có tầm
quan trọng hàng đầu. Trong những nguyên nhân thành công của cách mạng
nớc ta, có sự góp phần đáng kể của CTTT. Hiện nay, vai trò CTTT không
những không giảm nhẹ, trái lại, cần đợc đổi mới, tăng cờng về nhiều mặt để
nâng cao hiệu quả.
Tính cách mạng và tính khoa học trong CTTT là hai mặt của cùng
bản chất, có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó, sự
thống nhất, kết hợp giữa tính cách mạng và tính khoa học tỷ lệ thuận với
hiệu quả CTTT và thắng lợi của cách mạng.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, CTTT đã kết hợp khá
nhuần nhuyễn tính cách mạng và tính khoa học, nên đã động viên, thuyết
phục, lôi cuốn đợc đông đảo quần chúng nhân dân vào dòng thác cách
mạng giải phóng dân tộc. Bối cảnh cách mạng khi ấy, với mục tiêu độc lập
dân tộc trên hết, cũng có những thuận lợi nhất định cho việc kết hợp tính
cách mạng và tính khoa học trong CTTT.
Thời kỳ cả nớc quá độ lên CNXH, đặc biệt trong công cuộc đổi mới
đất nớc từ sau Đại hội VI của Đảng, điều kiện cách mạng có nhiều thay đổi,
CTTT nhìn chung cũng đã có những đổi mới nhiều mặt để đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ mới và đạt đợc nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, đây là vấn đề
rất khó khăn, phức tạp nên vẫn còn những lệch lạc, yếu kém, nhất là việc
kết hợp tính cách mạng và tính khoa học trong CTTT ở điều kiện mới cha
thật nhuần nhuyễn. Nhiều vấn đề lớn đặt ra đối với nội dung, hình thức, ph-
ơng pháp, phơng tiện CTTT hiện nay đòi hỏi phải đổi mới theo tinh thần kết
hợp chặt chẽ hơn nữa tính cách mạng và tính khoa học nh:
1
- Làm thế nào để bảo vệ và phát triển học thuyết Mác - Lênin trớc
sự khủng hoảng của CNXH và sự tấn công của kẻ thù, làm cho các tầng lớp
nhân dân nhận thức đợc những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin
và t tởng Hồ Chí Minh, hiểu và vận dụng sáng tạo đờng lối đổi mới đúng


đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Làm CTTT nh thế nào trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành trong cơ chế thị trờng cùng với việc mở cửa, đẩy
mạnh giao lu quốc tế, để vừa kế thừa đợc những thành tựu phát triển kinh tế
của CNTB, những giá trị nhân văn, tiến bộ của thế giới mà vẫn giữ vững và
phát huy những giá trị của dân tộc và của cách mạng.
- Bằng cách nào giúp quần chúng có định hớng đúng đắn trong bối
cảnh thông tin đa dạng, phức tạp, có khả năng "miễn dịch" với luận điệu
phản tuyên truyền tinh vi, nguy hiểm của các thế lực thù địch, phòng chống
hữu hiệu âm mu "diễn biến hòa bình" của địch.
- Làm CTTT thế nào để việc tham gia sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nớc nhằm thực hiện mục tiêu "dân giàu, nớc mạnh, xã hội
công bằng, văn minh", vững bớc tiến lên CNXH trở thành hành động tự
giác của mỗi ngời dân Việt Nam v.v
Đối với chủ thể CTTT, có thể nói, nhận thức về tính cách mạng và
tính khoa học cũng nh quan hệ biện chứng giữa chúng trong CTTT cha thật
đầy đủ và sâu sắc, cha bắt kịp tình hình mới. Nội dung các khái niệm cũng
nh bản chất mối quan hệ đó trong hoàn cảnh cụ thể hiện nay không phải ai
cũng nhận thức và vận dụng đúng. Đây là một trong những nguyên nhân
dẫn đến tình trạng CTTT nhiều khi kém sức thuyết phục.
Tất cả những điều trên cho thấy, CTTT phải đợc nâng cao cả tính
cách mạng và tính khoa học, kết hợp ngày càng nhuần nhuyễn hai mặt ấy.
Có nh vậy, CTTT mới góp phần thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới. Trên
cơ sở tổng kết thực tiễn, cần tìm ra những biện pháp tốt nhất để kết hợp tính
2
cách mạng và tính khoa học của CTTT trong tình hình hiện nay. Đó là lý do
tác giả chọn đề tài "Quan hệ biện chứng giữa tính cách mạng và tính
khoa học trong công tác t tởng của Đảng ta hiện nay".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
ở Việt Nam, đã có một số cuốn sách, một số công trình khoa học và

nhiều bài viết về CTTT từ những góc độ tiếp cận khác nhau.
Về những vấn đề chung của CTTT có nhiều tác phẩm, công trình
khoa học có giá trị của các nhà lãnh đạo CTTT, các cơ quan chuyên nghiên
cứu và giảng dạy về CTTT nh: cuốn Một số vấn đề về công tác t tởng của
Đào Duy Tùng; cuốn Mấy vấn đề về công tác chính trị và t tởng trong
chặng đờng hiện nay của Hoàng Tùng; cuốn Góp phần đổi mới công tác
lý luận - t tởng của Trần Trọng Tân; cuốn Một số vấn đề lý luận và nghiệp
vụ công tác t tởng của Ban T tởng - văn hóa Trung ơng; cuốn Nguyên lý
công tác t tởng của khoa Tuyên truyền, phân viện Báo chí và Tuyên
truyền ; các báo cáo tổng kết của Ban T tởng - Văn hóa Trung ơng tại Hội
nghị Công tác t tởng - văn hóa toàn quốc tháng 3/1997, tháng 3/1998 và
tháng 3/1999 ; đề tài KHXH 05-02 Đổi mới và nâng cao chất lợng hiệu quả
công tác t tởng; nhiều bài viết của các tác giả Nguyễn Đức Bình, Nguyễn
Phú Trọng, Hữu Thọ v.v
Về sự lãnh đạo của Đảng đối với CTTT có một số luận án thạc sĩ
của các tác giả nh Đỗ Thị An với đề tài Vai trò công tác t tởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; Nguyễn Vũ Tiến với đề tài Sự
lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong giai đoạn hiện nay; Nguyễn Văn
Minh với đề tài Đổi mới công tác t tởng của tổ chức cơ sở Đảng nông thôn
ngoại thành Hà Nội
Về đội ngũ cán bộ làm CTTT có đề tài cấp Nhà nớc KX 10-09B Đổi
mới phơng thức đào tạo và bồi dỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên
cứu lý luận Mác - Lênin và t tởng Hồ Chí Minh; đề tài cấp Bộ
3
92-98-043 Vấn đề dạy và học các môn lý luận Mác - Lênin trong trờng đại
học, đề tài KX BĐ-05 của Ban TT-VH TW Thực trạng đội ngũ cán bộ tuyên
giáo cấp tỉnh, thành, quận, huyện. Ngoài ra, còn có nhiều bài viết của các
tác giả Tô Huy Rứa, Lơng Khắc Hiếu, Nguyễn Chí Mỳ, Vũ Đình Hòe đã
đề cập đến vấn đề này.
Vấn đề quan hệ biện chứng giữa tính cách mạng và tính khoa học

trong CTTT của Đảng ta đôi khi cũng đợc đề cập, song mới chỉ đi vào
những khía cạnh cụ thể (luận án phó tiến sĩ của Phùng Đăng Bách về Quan
hệ biện chứng giữa tính chân thật và tính đảng của báo chí cách mạng),
những suy nghĩ, những nhận xét khái quát hay các bài viết ngắn nh: một số
ý kiến của các tác giả Phạm Ngọc Quang, Trần Hữu Tiến, Trần Xuân Sầm
trong cuốn Sự thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học trong ph-
ơng pháp lãnh đạo [20]; bài viết Quán triệt tính cách mạng và tính khoa
học trong công tác t tởng của Đậu Thế Biểu trong cuốn Cách mạng và sáng
tạo [11, 12-17]; bài viết của Trần Hữu Tiến Kết hợp tính khoa học và tính
chính trị trong nghiên cứu lý luận [90]; bài viết của Lê Hữu Nghĩa Khoa
học và chính trị [74]
Trên thế giới cũng có một số sách, báo đề cập đến những vấn đề có
liên quan đến đề tài này nh: cuốn Hoạt động t tởng của Đảng Cộng sản
Liên Xô của tập thể tác giả Xô-viết do X.I Xu-rơ-ni-tren-cô chủ biên; cuốn
Tuyên truyền miệng của tập thể tác giả Liên Xô do M.M.Ra-khơ-man-cu-nốp
chủ biên; cuốn Phơng pháp học tập lý luận chính trị của tập thể tác giả
Liên Xô do A.S. Vi-sơ-nhia-cốp chủ biên; cuốn Tâm lý học tuyên truyền
của S.A.Na-đi-na-si-li Bài viết của các tác giả Trung Quốc nh: Về bản
lĩnh của công tác chính trị - t tởng của Đới Châu [13]; Về giáo dục chính
trị t tởng ở đặc khu Thâm Quyến của Lin Yuan Shang [82] Bài viết của tác
giả Boun Chom Vong Phet về Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với
báo chí ở Lào (Tạp chí Báo chí & tuyên truyền, Số 6/1998)
4
Có thể nhận xét rằng, trong nớc cũng nh trên thế giới cha có công
trình khoa học nào đề cập trực tiếp và toàn diện về đề tài "Quan hệ biện
chứng giữa tính cách mạng và tính khoa học trong công tác t tởng của
Đảng ta hiện nay".
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án chủ yếu đề cập đến quan hệ biện chứng giữa tính cách
mạng và tính khoa học trong CTTT của các chủ thể làm CTTT dới sự lãnh

đạo trực tiếp của Đảng Mác - Lênin. Luận án đi sâu nghiên cứu về quan hệ
biện chứng giữa tính cách mạng và tính khoa học trong CTTT do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, ở thời kỳ đổi mới từ Đại hội VI đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Luận án đợc chọn với mục đích nhận thức sâu sắc hơn nữa mối quan
hệ biện chứng giữa tính cách mạng và tính khoa học trong CTTT và sự thể
hiện của nó trong CTTT của Đảng ta (nhất là ở thời kỳ đổi mới). Từ đó, đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả CTTT theo hớng tăng cờng
mối quan hệ biện chứng giữa tính cách mạng và tính khoa học, để công tác
này góp phần thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH ở nớc ta hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận án có nhiệm vụ là:
- Đứng trên quan điểm mácxít, làm rõ nội hàm các khái niệm "t t-
ởng", "công tác t tởng", "tính cách mạng của CTTT", "tính khoa học của
CTTT", mối quan hệ giữa tính cách mạng và tính khoa học trong CTTT; chỉ
ra cấu trúc, vai trò, chức năng của các khái niệm đó.
- Làm rõ thực trạng mối quan hệ biện chứng (chủ yếu là sự thống
nhất biện chứng) giữa tính cách mạng và tính khoa học trong CTTT của
Đảng ta từ đổi mới đến nay; phân tích những nguyên nhân cơ bản của thực
trạng đó; rút ra bài học chính cho CTTT nhìn từ mối quan hệ này.
5
- Đề xuất phơng hớng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cờng
mối quan hệ biện chứng giữa tính cách mạng và tính khoa học trong CTTT
của Đảng ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu luận án
Luận án đợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, t
tởng Hồ Chí Minh, đờng lối và chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về
CTTT.
Luận án sử dụng tổng hợp các phơng pháp nghiên cứu nh phân
tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, điều tra xã hội học, thống kê số liệu, so
sánh, chứng minh, phân tích mâu thuẫn để rút ra những kết luận khoa học.

6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Trên quan niệm mácxít, làm sâu sắc hơn nội hàm của các khái
niệm cơ bản có liên quan đến đề tài nh t tởng, CTTT.
- Từ góc độ triết học, làm sáng tỏ hơn nữa bản chất và sự biểu hiện
của tính cách mạng, tính khoa học và mối quan hệ biện chứng giữa chúng
trong CTTT của Đảng Mác - Lênin.
- Làm sáng tỏ những biểu hiện đặc thù của mối quan hệ biện chứng
giữa tính cách mạng và tính khoa học của CTTT trong điều kiện đổi mới
hiện nay ở Việt Nam.
- Đề xuất phơng hớng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện sự kết hợp giữa tính cách mạng và tính khoa học trong CTTT để
công tác này góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới ở nớc ta hiện nay.
7. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Những luận điểm và kết luận của luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ
quan điểm của Đảng ta về CTTT.
6
Luận án cũng mong góp thêm kinh nghiệm cho cán bộ làm CTTT
nhằm nâng cao hiệu quả công tác của mình và cung cấp thêm t liệu tham
khảo cho các nhà nghiên cứu, giảng dạy bộ môn triết học và bộ môn
nguyên lý CTTT.
8. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án có 167 trang gồm 3 chơng, 6 mục.
7
chơng 1
Quan niệm mácxít về quan hệ biện chứng
giữa tính cách mạng và tính khoa học trong
công tác t tởng của Đảng Mác - Lênin
Bản chất, vai trò t tởng và CTTT trong sự nghiệp cách mạng do
Đảng Mác - Lênin lãnh đạo qui định mối quan hệ biện chứng giữa tính cách

mạng và tính khoa học trong CTTT. Để thấy rõ bản chất, vai trò đó, cần tìm
hiểu t tởng và CTTT.
1.1. T tởng và CTTT trong sự nghiệp cách mạng
1.1.1. Khái niệm t tởng
Thuật ngữ t tởng (idea - tiếng Anh) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp
idéa (hình tợng). Cho đến nay, đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau về
khái niệm này. Từ điển triết học định nghĩa: t tởng ''là phản ánh của hiện
thực trong ý thức, là biểu hiện của sự quan hệ của con ngời đối với thế giới
xung quanh'' [97, 734].
Từ điển Tiếng Việt (nhà xuất bản Đà Nẵng, 1997) định nghĩa: t tởng
là những quan điểm, ý nghĩ chung của con ngời đối với hiện thực khách
quan và đối với xã hội (nói tổng quát). Chẳng hạn, t tởng tiến bộ, t tởng
phong kiến
Mục "Tìm hiểu khái niệm" của Tạp chí Cộng sản (số 1/1993) cho
rằng: "T tởng là những suy nghĩ, những ý niệm về các sự vật, hiện tợng đợc
phản ánh trong ý thức, là biểu hiện các quan hệ của con ngời đối với thế
giới xung quanh. T tởng do chế độ xã hội, điều kiện sinh hoạt vật chất của con
ngời quyết định. Thực chất và nguồn gốc t tởng ở trong cơ sở kinh tế, trong
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, trong tồn tại xã hội.
8
T tởng biểu hiện lợi ích vật chất của các giai cấp trong xã hội. T t-
ởng mang tính lịch sử, " v.v
Chúng tôi cho rằng, khái niệm t tởng mà Tạp chí Cộng sản đa ra có
nhiều yếu tố hợp lý hơn cả.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, nhu cầu của đời sống xã hội có
hai mặt: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Hai lĩnh vực sản xuất đáp
ứng nhu cầu đó là: sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần. Lĩnh vực vật chất,
xét cho cùng, quyết định lĩnh vực tinh thần, nhng mặt khác, lĩnh vực tinh thần
có tính độc lập tơng đối và tác động trở lại lĩnh vực vật chất. Ph.ăng-ghen
viết: "Nhân tố lịch sử một khi đợc những nhân tố khác, xét đến cùng là

nguyên nhân kinh tế, làm nảy sinh ra thì nhân tố lịch sử đó cũng có thể tác
động trở lại đến môi trờng của nó, và thậm chí đến những nguyên nhân tạo
ra nó " [56, 778]. Vì vậy, t tởng - một bộ phận của lĩnh vực tinh thần - có
vai trò rất quan trọng trong đời sống con ngời, trong xã hội.
Trong lịch sử xã hội loài ngời, bắt đầu là sản xuất vật chất để đảm
bảo nhu cầu sinh tồn của con ngời, sau đó, và cùng với nó, xã hội thờng
xuyên diễn ra các quá trình sản xuất tinh thần. C.Mác viết: "Con ngời trớc
hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa
học, nghệ thuật, tôn giáo và v.v. đợc; " [54, 500]. Ph.Ăngghen đã chỉ ra ý
thức đầu tiên của con ngời đợc hình thành trên cơ sở bộ não - dạng vật chất
có tổ chức cao, dới "hai sức kích thích chủ yếu" là lao động và ngôn ngữ.
Sau đó, do nhu cầu không ngừng nhận thức để cải biến thế giới, phục vụ
con ngời và giao tiếp xã hội, sản xuất tinh thần ra đời và ngày càng phát
triển. ở xã hội nguyên thủy, đời sống tinh thần còn nghèo nàn. Lúc đó, tâm
lý xã hội (tình cảm, tâm trạng, mong muốn của con ngời) đợc hình thành
tự phát dới ảnh hởng trực tiếp của điều kiện sống. Có quan điểm cho rằng, ở
xã hội nguyên thủy đã có t tởng. Điều đó đúng, nếu hiểu khái niệm t tởng
theo nghĩa là ý thức con ngời phản ánh tồn tại của họ. Song, không phải
9
mọi ý thức của con ngời đều là t tởng theo đúng nghĩa của từ này. T tởng
chỉ sự suy nghĩ của con ngời ở trình độ ít nhiều khái quát về thế giới, về xã
hội, về bản thân con ngời. T tởng phải đợc thể hiện bằng "ngôn ngữ" để lu
truyền trong xã hội. C.Mác cho rằng, ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của t t-
ởng. Thực ra, xã hội nguyên thủy mới chỉ có "mầm mống t tởng", vì khi đó
quan hệ xã hội còn rất đơn giản, t duy và ngôn ngữ còn nhiều hạn chế. Đến
khi xã hội phát triển, bắt đầu có sự tách rời lao động trí óc và lao động chân
tay, ngôn ngữ phát triển, xuất hiện tầng lớp trí thức, thì mới có các "nhà t t-
ởng" bảo vệ lợi ích cho những ngời mà mình là đại diện, một cách có ý
thức. Nghiên cứu xã hội Hy Lạp cổ đại - quốc gia có chế độ chiếm hữu nô
lệ điển hình, ta thấy rõ sự xuất hiện t tởng từ "mầm mống t tởng" nh thế

nào. Giáo s Đỗ T cho biết: "Trên quan điểm khoa học, vào thế kỷ XI-IX tr-
ớc công nguyên, hình thái kinh tế - xã hội Hy Lạp về cơ bản vẫn còn là hình
thái kinh tế cộng đồng nguyên thủy và sự xuất hiện các nhân tố giai cấp và
nhà nớc cũng chỉ mới là bắt đầu. Tình hình kinh tế - xã hội của Hy Lạp
trong thời kỳ này đợc phản ánh trong hai tập sử thi nổi tiếng là Iliat và
Ôđixê mà theo truyền thuyết thì tác giả là Hôme" [48, 10]. Dù tác giả đó là
có thật hay không, nhng một điều chắc chắn phải có một hoặc một số ít ng-
ời có trình độ nhất định mới có thể sáng tác ra các bản trờng ca đó, với ý
thức bênh vực lợi ích của nô lệ, đầy tớ - những ngời phải lao động dới sự
thống trị khắc nghiệt và dã man của bọn chủ nô. Có thể coi ý thức đó là t t-
ởng dới dạng sơ khai. Vào thế kỷ thứ VIII-VI (trớc công nguyên), trong xã
hội Hy Lạp, khi giai cấp và nhà nớc chính thức ra đời thì các tập sử thi nói
trên, từ truyền miệng cũng đợc ghi lại bằng chữ Hy Lạp cổ ở thế kỷ thứ VI
(trớc công nguyên). Việc ghi chép đó, đơng nhiên, chỉ có các nhà trí thức
mới làm đợc, trên cơ sở kế thừa và phát triển những mầm mống t tởng xã
hội trớc đó. Giáo s Nguyễn Tài Th cho rằng: "Nói một cách chặt chẽ, thì t t-
ởng triết học Việt Nam chỉ xuất hiện khi xã hội Việt Nam đã phân hóa ra
10
thành các giai cấp khác nhau, đã xuất hiện ngôn ngữ văn tự. Nhng những
yếu tố tiền triết học thì trớc đó đã có" [88, 32]. Có thể nói, t tởng xuất hiện
sớm nhất là từ cuối xã hội nguyên thủy, đầu xã hội có giai cấp.
Khi xã hội có giai cấp, t tởng gắn liền với giai cấp, hay nói đúng
hơn, gắn với lợi ích giai cấp. Theo Mác, t tởng phải gắn với lợi ích, t tởng
mà không gắn với lợi ích là điều hết sức vô nghĩa. Chẳng hạn, khi nói về t t-
ởng của Lu-ít Na-pô-lê-ông (Louis Napoléon) mang danh đại diện cho giai
cấp nông dân Pháp giữa thế kỷ XIX, nhng hoàn toàn không gắn với lợi ích
thực sự của nông dân, Mác viết: "Những t tởng ấy chỉ là những ảo giác
trong cơn hấp hối, là những từ đã biến thành những câu nói suông, là những
thần linh đã biến thành những bóng ma" [52, 272]. Lênin cũng tán đồng
quan điểm t tởng phải gắn với lợi ích. Trong "Bút ký triết học", Ngời cũng l-

u ý rằng: ""ý niệm" luôn luôn bị mất tín nhiệm một khi nó tách rời khỏi
"lợi ích"" [42, 19]. Các nhà t tởng của các giai cấp thống trị thờng bảo vệ
lợi ích giai cấp dới hình thức lý tởng hóa nó, tức là gắn cho giai cấp mình sứ
mệnh đại diện chân chính cho toàn xã hội, và do đó, cho rằng lợi ích đợc
bảo vệ cũng chính là lợi ích chung, phổ biến trong xã hội. Trong "Hệ t tởng
Đức", Mác - Ăngghen viết: "Mỗi giai cấp mới thay thế cho giai cấp thống
trị trớc mình, muốn thực hiện đợc mục đích của mình, đều nhất thiết phải
biểu hiện lợi ích của bản thân mình thành lợi ích chung của mọi thành viên
trong xã hội hay nói một cách trừu tợng: phải gắn cho những t tởng của bản
thân mình một hình thức phổ biến, phải biểu hiện những t tởng đó thành
những t tởng duy nhất hợp lý, duy nhất có giá trị phổ biến" [50, 68]. Lấy
giai cấp t sản trong chế độ t bản làm ví dụ, Mác viết: "Trong chế độ này,
mỗi lợi ích, mỗi thiết chế xã hội đều biến thành một t tởng chung, và đợc
luận giải nh là một t tởng, " [52, 201]. Hồ Chí Minh cho rằng, trong xã hội
có giai cấp thì mỗi ngời đều đứng ở một giai cấp nhất định. Họ không
những bị chi phối bởi t tởng của giai cấp mình, mà còn đem t tởng giai cấp
11
mình chi phối các giai cấp khác. Ngời viết: "Từ khi có chế độ của riêng thì
xã hội chia thành giai cấp, giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, do đó có
mâu thuẫn xã hội, có đấu tranh giữa các giai cấp và từ đó, ngời nào cũng
thuộc vào hoặc giai cấp này hoặc giai cấp khác, không ai có thể đứng ngoài
giai cấp. Đồng thời, mỗi ngời đại biểu cho t tởng của giai cấp mình" [64,
282-283]. Chỉ có t tởng khoa học của giai cấp vô sản mới thực sự bảo vệ lợi
ích chung, phổ biến trong toàn xã hội, vì lợi ích của giai cấp vô sản phù hợp
với lợi ích của đại đa số nhân dân.
Bất cứ t tởng nào cũng đều do chế độ xã hội, điều kiện sinh hoạt vật
chất của con ngời quyết định. Khi phân tích mối quan hệ giữa các nhà t t-
ởng tiểu t sản với giai cấp tiểu t sản, Mác chỉ ra, sở dĩ họ là đại biểu của giai
cấp tiểu t sản, chính là vì t tởng của họ bị quy định bởi lợi ích vật chất và
địa vị xã hội của ngời tiểu t sản. Từ đó, Mác đi tới kết luận: "Nói chung,

mối quan hệ giữa những đại biểu chính trị và văn học của một giai cấp với
giai cấp mà họ đại diện là nh thế đó" [52, 183-184].
T tởng là sản phẩm của sự phản ánh hiện thực, và thờng là thông
qua lăng kính của nhà t tởng. Chẳng hạn, ngời ta vẫn có thể dễ dàng nhận
biết, trong những dự báo mới đây về tơng lai, ở cấp độ toàn cầu, của nhà t-
ơng lai học nổi tiếng ngời Mỹ - An-vin Tốp-phơ-lơ (Alvin Toffler), lập trờng
của giai cấp t sản, ở việc tuyệt đối hóa vai trò kỹ thuật trong xã hội hiện đại.
Qua đó, tuyệt đối hóa sự thống trị của giai cấp chiếm hữu kỹ thuật, đó là
giai cấp t sản.
Lẽ dĩ nhiên, trong xã hội có giai cấp, t tởng bao giờ cũng mang tính
giai cấp. Trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", C.Mác và Ph.Ăngghen
viết: "Lịch sử t tởng chứng minh cái gì, nếu không phải là chứng minh rằng
sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất? Những t tởng thống
trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những t tởng của giai cấp thống trị"
[51, 625]. Trong xã hội có giai cấp, luôn có sự đấu tranh giữa các giai cấp
12
về mặt t tởng để truyền bá, thu phục lòng ngời, lôi kéo quần chúng nhân
dân theo quan điểm t tởng của giai cấp, nhằm biến t tởng thành sức mạnh
hành động để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giai cấp. Thực chất, đấu tranh
t tởng là biểu hiện của cuộc đấu tranh giai cấp. Ph.Ăngghen viết: "Tất cả mọi
cuộc đấu tranh trong lịch sử, - không kể nó diễn ra trên địa hạt chính trị, tôn
giáo, triết học, hay trên bất cứ một địa hạt t tởng nào khác - thực ra chỉ là
biểu hiện ít nhiều rõ rệt của cuộc đấu tranh của các giai cấp trong xã hội, "
[55, 373-374]. Trong đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, đấu tranh t t-
ởng đã góp phần quan trọng vào việc giành chính quyền. Sau khi có chính
quyền, cuộc đấu tranh t tởng của giai cấp vô sản vẫn tiếp tục để chống các tàn
d t tởng và các t tởng thù địch, phản động.
Qua đó, có thể hiểu: t tởng là ý niệm, quan điểm phản ánh tơng đối
khái quát hiện thực trong ý thức, biểu thị những lợi ích ít nhiều có tính phổ
biến của con ngời(nhóm ngời, cộng đồng ngời, giai cấp, xã hội).

Tơng ứng với các hình thái ý thức xã hội có t tởng chính trị, t tởng triết
học, t tởng văn học - nghệ thuật, t tởng khoa học Trong đó, t tởng chính trị
chi phối mạnh mẽ các t tởng khác vì nó phản ánh trực tiếp và tập trung nhất cơ
sở kinh tế của xã hội. T tởng mang tính lịch sử, vì nó phản ánh tồn tại xã hội
trong một điều kiện lịch sử nhất định. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng:
"Trong mỗi thời đại lịch sử, phơng thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao
đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phơng thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở
cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ của thời
đại, " [55, 523]. Tồn tại xã hội biến đổi cùng với sự biến đổi không ngừng
của phơng thức sản xuất. Do đó, không có t tởng tồn tại vĩnh viễn, bất biến và
chung cho mọi thời đại. Hồ Chí Minh viết: "Cách sản xuất và sức sản xuất
phát triển và biến đổi mãi, do đó mà t tởng của ngời, chế độ xã hội, v.v., cũng
phát triển và biến đổi" [64, 282]. Lênin khẳng định, không có t tởng bất biến
13
mà t tởng cũng có quá trình lịch sử phát triển của nó: "Lịch sử t tởng theo
quan điểm phát triển" [42, 186].
Trong lịch sử, các giai cấp đại biểu cho một hình thái kinh tế - xã
hội nhất định (giai cấp chủ nô, giai cấp phong kiến, giai cấp t sản, giai cấp
vô sản) đã hệ thống hóa, khái quát hóa t tởng giai cấp mình thành hệ t tởng,
dùng làm vũ khí lý luận trong đấu tranh giai cấp. Hệ t tởng là sản phẩm của
nhà t tởng trên cơ sở bảo vệ, phát triển, hệ thống hóa các quan điểm t tởng
phản ánh lợi ích giai cấp mà họ là đại diện. Ph.Ăngghen viết: "Hệ t tởng là
một quá trình do con ngời mệnh danh là nhà t tởng đã hoàn thành một cách
có ý thức, " [56, 776]. Hệ t tởng mang tính khái quát hóa, trừu tợng hóa
cao và có tính ổn định tơng đối cho nên nó thuộc cấp độ ý thức lý luận
trong ý thức xã hội. Hệ t tởng mang bản chất giai cấp, do đó, quá trình hình
thành, phát triển và truyền bá hệ t tởng trong toàn xã hội luôn bị chi phối
bởi quan điểm và lợi ích của giai cấp là chủ thể của hệ t tởng.
T tởng và hệ t tởng trong xã hội có giai cấp là sự phản ánh lợi ích
của các giai cấp thông qua lăng kính của các nhà t tởng. Họ có thể không

thuộc giai cấp mà họ tự nguyện đứng ra bảo vệ lợi ích, nhng chắc chắn t t-
ởng của họ bị quy định bởi lợi ích vật chất và địa vị xã hội của giai cấp ấy.
Nói cách khác, họ tự nguyện đứng vào hàng ngũ giai cấp đợc phản ánh
trong t tởng, và lợi ích của bản thân họ cũng gắn liền với lợi ích của giai cấp
đó. Chẳng hạn, C.Mác, Ph. ăngghen, V.I. Lênin đều xuất thân từ các giai
cấp khác, nhng các ông lại là những nhà t tởng vĩ đại của giai cấp vô sản.
Hình thức của t tởng và hệ t tởng đợc biểu hiện thông qua các hình thái ý
thức xã hội nh triết học, chính trị, tôn giáo, văn học - nghệ thuật, khoa
học
Sự ra đời và tồn tại của t tởng và hệ t tởng gắn liền với tồn tại xã hội,
với lợi ích của con ngời. Muốn xây dựng, truyền bá hay giải quyết các vấn
đề về t tởng có hiệu quả phải căn cứ tồn tại xã hội, quan tâm đến lợi ích
14
thiết thân, chính đáng của con ngời. Mặt khác, t tởng và hệ t tởng còn có
tính độc lập tơng đối so với tồn tại xã hội. Điều đó thể hiện ở chỗ t tởng và
hệ t tởng có khi tiên tiến, vợt trớc lại có khi lạc hậu so với tồn tại xã hội. Do
vậy, t tởng và hệ t tởng đòi hỏi không ngừng đợc bổ sung, hoàn thiện để
phản ánh đúng khuynh hớng không ngừng vận động, phát triển của tồn tại
xã hội.
T tởng và hệ t tởng tác động trở lại hiện thực thông qua vai trò chỉ
đạo của nó đối với hành động con ngời. Muốn có hành động thống nhất
trong toàn xã hội, trớc hết, cần phải tạo đợc sự thống nhất về t tởng. Chủ
nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
Để phát huy vai trò của con ngời, của quần chúng nhân dân, góp phần thúc
đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên phải làm cho t tởng và hệ t tởng vô sản
ngày càng hoàn thiện và thâm nhập vào quần chúng để trở thành "lực lợng
vật chất". Đó chính là lý do ra đời và tồn tại CTTT của các Đảng Mác -
Lênin, trong cách mạng XHCN.
1.1.2 Khái niệm công tác t tởng
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng t tởng, kim chỉ nam cho hành

động của giai cấp công nhân, của Đảng Mác - Lênin. CTTT là bộ phận quan
trọng hàng đầu của công tác cách mạng. Lênin trong bài báo "Những bài
học của cuộc khởi nghĩa Mát-xcơ-va" đã nhấn mạnh: "Nâng cao sự giác
ngộ của quần chúng, hiện nay cũng nh bất cứ lúc nào, vẫn là nền tảng và
nội dung chủ yếu của toàn bộ công tác của chúng ta" [39, 472]. Hồ Chí
Minh cũng đã từng đánh giá: "Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo t tởng"
[62, 466].
CTTT là khái niệm khá quen thuộc trong xã hội ta, song không phải
ai cũng hiểu nó một cách tờng tận, đầy đủ.
15
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để đi đến khái niệm về CTTT,
chẳng hạn:
- Cách tiếp cận CTTT theo quá trình hình thành, phát triển và truyền
bá hệ t tởng của các giai cấp giữ vị trí thống trị trong lịch sử: "Công tác t t-
ởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng nhằm hình
thành và phát triển hệ t tởng, truyền bá hệ t tởng trong quần chúng, thúc đẩy
quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ t tởng" [31, 11-12]. Một số tác
giả quan niệm CTTT nói chung: "Là việc sử dụng tổng hợp các thành quả
của khoa học, nghệ thuật và phơng pháp tác động vào ý thức, tình cảm,
hành động của con ngời và của xã hội để hình thành, củng cố hoặc làm
chuyển biến t tởng con ngời một cách có chủ định, đồng thời qua đó để
định hớng hoạt động của con ngời" [21, 38].
- Cách tiếp cận CTTT theo quá trình hình thành, phát triển và truyền
bá hệ t tởng chỉ của giai cấp vô sản: "Công tác t tởng là hoạt động đa dạng
và quan trọng vào bậc nhất của Đảng Mác - Lênin và Nhà nớc xã hội chủ
nghĩa nhằm xây dựng, xác lập, phát triển hệ t tởng xã hội chủ nghĩa, hình
thành niềm tin, định hớng giá trị đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới
quan khoa học cho con ngời, thúc đẩy con ngời hành động tích cực và sáng
tạo để thực hiện thắng lợi lý tởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội" [68,
23]. Một số các tác giả của Liên Xô (cũ) đa ra khái niệm: "Công tác t tởng

là vũ khí mạnh mẽ của Đảng trong cuộc đấu tranh nhằm xây dựng xã hội
mới. Nó hàm nghĩa rằng Đảng, các cơ quan Nhà nớc và các tổ chức xã hội
phải thờng xuyên tác động giáo dục - t tởng đến ý thức, tình cảm và hành vi
của con ngời, nhằm đoàn kết các tầng lớp hết sức rộng rãi trong nhân dân
lao động xung quanh Đảng, đảm bảo sự thống nhất các quan điểm và hành
động của họ" [99, 11]. Cũng với cách tiếp cận này, tác giả Thái Ninh đa ra
khái niệm: "Công tác t tởng là bộ phận quan trọng trong toàn bộ hoạt động
của Đảng Cộng sản, gắn liền với sự tồn tại của Đảng và sự lãnh đạo của
16
Đảng đối với xã hội. Công tác t tởng là hoạt động đa dạng, gồm nhiều bộ
phận tác động vào ý thức để hình thành trong con ngời hệ t tởng với thế giới
quan đúng đắn, phơng pháp luận khoa học, nâng cao năng lực trí tuệ, bảo
đảm cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả" [75]. Theo tác giả Đào Duy
Tùng: "Công tác t tởng là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong toàn
bộ hoạt động cách mạng của Đảng. Công tác t tởng cùng với công tác tổ
chức góp phần xây dựng Đảng thành đội tiên phong, bộ tham mu chiến đấu
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó có nhiệm vụ giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin, chủ trơng, đờng lối của Đảng cho cán bộ, đảng viên và
quần chúng, nhằm nâng cao tính tự giác, chủ động, sáng tạo của họ trong
việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng đề ra; đồng thời nó
cũng góp phần vào việc hình thành chủ trơng, đờng lối của Đảng góp
phần quan trọng vào việc xây dựng con ngời mới xã hội chủ nghĩa, vào việc
hình thành thợng tầng kiến trúc mới về mặt hình thái ý thức" [95, 7-8].
- Gắn liền với CTTT của Đảng Cộng sản Việt Nam, có một số khái
niệm sau: Tác giả Trần Trọng Tân quan niệm: "Công tác t tởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam chúng ta là nhằm xây dựng cho con ngời có t tởng đúng
để hành động đúng, thúc đẩy con ngời tiến bộ, xã hội phát triển và đấu
tranh chống lại những t tởng sai, dẫn đến những hành động sai, làm cản trở
hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội; làm cho con ngời lạc hậu, thoái hóa"
[84, 162]. Tác giả Hữu Thọ đa ra khái niệm: "Công tác t tởng-văn hóa là

hoạt động quan trọng của Đảng và Nhà nớc XHCN nhằm xác lập, phát triển
hệ t tởng XHCN, hình thành niềm tin, định hớng giá trị đúng đắn, góp phần
xây dựng thế giới quan khoa học và t tởng, tình cảm, nhân cách, đạo đức,
lối sống, tri thức bảo đảm con ngời có hành động tích cực và chủ động,
sáng tạo để thực hiện thắng lợi lý tởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; trong giai đoạn này là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
17
hóa đất nớc vì mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh
theo định hớng XHCN [69, 1] v.v
Các cách tiếp cận CTTT từ nhiều góc độ khác nhau, đều có yếu tố
hợp lý nhất định. Về cơ bản, nội hàm của khái niệm CTTT đề cập đến chủ
thể, đối tợng CTTT; vị trí, vai trò CTTT đối với giai cấp, chính đảng; các
hình thái hoạt động của CTTT; các nhiệm vụ để đạt mục tiêu CTTT.
Các khái niệm về CTTT đề cập ở trên cho thấy, bản chất CTTT của
các Đảng Mác - Lênin là hoạt động có chủ đích do chính đảng của giai cấp
vô sản lãnh đạo nhằm làm cho t tởng và hệ t tởng của giai cấp đó chi phối
toàn bộ xã hội, góp phần vào sự thành công của cách mạng XHCN vì lợi
ích giai cấp vô sản và lợi ích dân tộc.
Kế thừa các yếu tố hợp lý trong các cách định nghĩa nêu trên, chúng
tôi cho rằng, CTTT ở nớc ta hiện nay là hoạt động chính trị quan trọng do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, có nhiệm vụ bảo vệ, phát triển và
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, đờng lối, chính sách
của Đảng và Nhà nớc; thông tin có định hớng của Đảng trên tất cả mọi
mặt của đời sống xã hội. CTTT nhằm xây dựng ý thức XHCN; định hớng giá
trị xã hội đúng đắn; góp phần xây dựng thế giới quan khoa học và nhân cách
con ngời phù hợp yêu cầu cách mạng hiện nay, thúc đẩy họ tự giác, tích cực
tham gia vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nớc tiến tới mục tiêu "dân giàu, nớc
mạnh, xã hội công bằng, văn minh" theo định hớng XHCN.
Có một số thuật ngữ khác nhau dùng để chỉ các hình thái CTTT của
các Đảng Mác - Lênin, song hầu hết các quan điểm đều nhất trí phân chúng

làm ba loại. Trong tác phẩm "Làm gì?", khi bàn về cuộc đấu tranh của
những ngời dân chủ - xã hội Đức chống thuế ngũ cốc, Lênin đề cập đến ba
loại hình hoạt động của những ngời làm CTTT: "Những nhà lý luận thảo
những bản nghiên cứu về chính sách thuế, trong đó họ "kêu gọi", chẳng
hạn, đấu tranh đòi ký các hiệp ớc buôn bán và đòi tự do buôn bán; ngời
18
tuyên truyền cũng viết nh thế trên các tạp chí, và ngời cổ động cũng nói nh
thế trong các cuộc diễn thuyết trớc công chúng" [36, 85]. Từ đó, các tác giả
Liên Xô (cũ) quan niệm có ba bộ phận cấu thành CTTT của Đảng Mác -
Lênin đó là: hoạt động lý luận, hoạt động tuyên truyền và hoạt động cổ
động [99, 12].
Trong cuốn "Nguyên lý công tác t tởng", các tác giả cho CTTT có
ba hình thái: công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động
[31, 28-50].
Theo cuốn "Một số vấn đề lý luận và nghiệp vụ công tác t tởng", các
tác giả Hà Học Hợi và Hồ Văn Chiểu quan niệm CTTT phân thành ba bộ
phận (trong đó giáo dục lý luận thuộc bộ phận tuyên truyền, giáo dục):
nghiên cứu lý luận; công tác tuyên truyền, giáo dục; công tác cổ động [68,
24-26].
Trong thực tế, có ngời hiểu công tác lý luận bao hàm cả nghiên cứu
lý luận và giáo dục lý luận; có ngời lại cho giáo dục lý luận thuộc công tác
tuyên truyền; có ngời lại coi tuyên truyền, cổ động là một. Thậm chí, có ng-
ời quan niệm quan niệm ba hình thái của CTTT là: hình thái công tác giáo
dục lý luận; hình thái công tác tuyên truyền, cổ động; hình thái công tác
văn hóa văn nghệ, khoa học giáo dục và lịch sử [69, 41] Chúng tôi cho
rằng, sự phân loại các hình thái CTTT chỉ có tính chất tơng đối và chủ yếu
căn cứ vào phơng thức tác động chính để đạt mục đích chủ yếu khi tiến
hành công tác (công tác nghiên cứu lý luận chủ yếu sử dụng t duy để tổng
kết thực tiễn nhằm hình thành và phát triển lý luận; công tác tuyên truyền,
giáo dục sử dụng ngôn ngữ là chính để tác động vào nhận thức nhằm truyền

bá lý luận; công tác cổ động thì dùng nhiều phơng tiện trực quan để tác
động vào tâm lý, tình cảm nhằm cổ vũ hành động). Cho nên, giáo dục lý
luận thuộc công tác tuyên truyền, giáo dục; công tác tuyên truyền, giáo dục
tách biệt với công tác cổ động thì hợp lý hơn. Chúng tôi tán thành cách gọi
19
là ba hình thái CTTT để chỉ ranh giới tơng đối giữa chúng, và chọn cách
phân chia là: công tác nghiên cứu lý luận; công tác tuyên truyền, giáo dục;
công tác cổ động.
Công tác nghiên cứu lý luận là hình thái của CTTT hớng vào việc
nghiên cứu lý luận nhằm xây dựng, bảo vệ và phát triển hệ t tởng của giai
cấp. Trên cơ sở đó, đề ra đờng lối chiến lợc và sách lợc của cuộc đấu tranh
giai cấp và xây dựng xã hội mới. Đối với các Đảng Mác - Lênin, đó là sự đi
sâu nghiên cứu để ngày càng nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn bản chất
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, để vận dụng sáng tạo
vào thực tiễn đất nớc, đề ra đờng lối lãnh đạo xã hội, làm cơ sở giáo dục hệ
t tởng và đờng lối đó trong nhân dân. Bởi vậy, công tác nghiên cứu lý luận
là cơ sở quan trọng của toàn bộ CTTT. Lênin viết, không có lý luận cách
mạng thì sẽ không có phong trào cách mạng, và theo Ngời, nếu không phát
triển đợc công tác lý luận " thì sẽ không tiến lên đợc một bớc nào cả trong
công tác tuyên truyền, cổ động, " [40, 359].
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn thấm
nhuần lời dạy của Hồ Chí Minh: "Đảng mà không có chủ nghĩa cũng nh ng-
ời không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam" [60, 268]. Đặc biệt, mỗi
khi con thuyền cách mạng Việt Nam trớc cơn sóng to, gió cả ngọn đuốc lý
luận lại càng có ý nghĩa to lớn biết bao. Trớc sự khủng hoảng, thoái trào của
CNXH hiện thực, trớc sự tấn công của các thế lực thù địch trên lĩnh vực t tởng
- lý luận, Đảng đã kịp thời ra Nghị quyết 01 (khóa VII) về công tác lý luận
trong tình hình mới. Nghị quyết khẳng định rằng: "Lý luận thật sự khoa học là
cơ sở để nâng cao vai trò tiên phong lãnh đạo của Đảng trong hoạt động
thực tiễn, là cơ sở để giáo dục lý tởng, nâng cao niềm tin" [25, 26].

Công tác nghiên cứu lý luận của Đảng Mác - Lênin phải thờng
xuyên đấu tranh nhằm khắc phục chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh
nghiệm, chủ nghĩa cơ hội và xét lại cũng nh sự tấn công, phá hoại của hệ
20
t tởng t sản. Chẳng hạn, ở Trung Quốc, đấu tranh lý luận diễn ra gay gắt
trong thời kỳ đầu của cải cách - mở cửa, đã có lúc để cho những t tởng,
quan điểm sai trái, phản động chiếm u thế, dẫn đến hậu quả là cuộc động
loạn ở Thiên An Môn tháng 6/1989. Bài học rút ra sau sự kiện này là: "Nếu
không giữ vững phơng hớng xã hội chủ nghĩa trong công tác nghiên cứu lý
luận, không dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, thì chẳng những không thể có
những sáng tạo khoa học mà còn dẫn đến những thảm họa cho dân tộc" [94,
100].
Công tác nghiên cứu lý luận ở Việt Nam hiện nay phải thờng xuyên
bám sát và tổng kết thực tiễn đất nớc nhằm không ngừng bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và mang lại nội dung lý
luận hợp với nớc ta hiện nay, làm "nền tảng t tởng và kim chỉ nam hành
động" để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Công tác tuyên truyền, giáo dục là một hình thái của CTTT nhằm
truyền bá cho quần chúng nhân dân lý luận Mác - Lênin và đờng lối của
Đảng, trang bị cho họ những tri thức về các quy luật phát triển của xã hội,
trên cơ sở đó, xây dựng niềm tin vào lý tởng cộng sản và nâng cao tính tích
cực, sáng tạo của quần chúng trong cuộc đấu tranh xây dựng xã hội mới.
Hồ Chí Minh nói một cách nôm na rằng: "Tuyên truyền là đem một việc gì
nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm" [61, 162].
Công tác tuyên truyền, giáo dục là hoạt động phổ biến nhất để lý
luận thâm nhập vào quần chúng, tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động,
làm nên sức mạnh của cách mạng. C.Mác đã chỉ ra: "Lý luận cũng sẽ trở
thành lực lợng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [49, 580].
Một trong những nguyên nhân quan trọng để xảy ra sự biến ở Liên
Xô và Đông Âu làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở các nớc này cũng

chính là bởi các Đảng Cộng sản ở đây đã coi nhẹ và buông lỏng tuyên
21
truyền hệ t tởng vô sản trong thời gian dài, để cho các luận điệu tuyên
truyền ý thức t sản và chống CNXH từng bớc chiếm u thế.
Tuyên truyền là phải đi sâu vào bản chất của vấn đề, đa ra đợc các
luận cứ về vấn đề cần tuyên truyền một cách lôgíc, chân thực mới có sức
thuyết phục. Niềm tin vững chắc chỉ có thể đợc xây dựng trên cơ sở tri thức
thực sự khoa học.
Nhìn chung, trong tuyên truyền, giáo dục, nhóm phơng pháp dùng
lời thờng chiếm u thế để giúp đối tợng hiểu đợc bản chất vấn đề cần tuyên
truyền, nhất là các vấn đề lý luận có tính trừu tợng, khái quát cao.
Công tác tuyên truyền, giáo dục của ta hiện nay chủ yếu là truyền
bá lý luận Mác - Lênin và t tởng Hồ Chí Minh; truyền bá quan điểm đờng
lối của Đảng, pháp luật của Nhà nớc; thông tin có định hớng các lĩnh vực
khoa học - công nghệ, kinh tế, các thành tựu của khoa học xã hội và nhân
văn, các thông tin chính trị, xã hội, văn hóa. Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng
sản Việt Nam lần thứ VIII (1996) đã vạch rõ: "Thờng xuyên bồi dỡng cho
cán bộ, đảng viên đờng lối, chủ trơng của Đảng, các vấn đề cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin và t tởng Hồ Chí Minh, những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, những kiến thức mới của thời đại, " [27, 140].
Công tác cổ động là một hình thái của CTTT nhằm tác động trực
tiếp vào tâm lý và tình cảm quần chúng bằng việc thông tin, giải thích cho
quần chúng hiểu biết kịp thời những sự kiện đang diễn ra trong đời sống, có
liên quan đến đờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nớc; động viên, cổ vũ
họ tham gia hành động cách mạng cụ thể. Nói cách khác, cổ động thờng
phản ánh tình hình, mục tiêu của phong trào cách mạng cụ thể; trên cơ sở
các quan điểm, đờng lối đợc vạch ra trong các nghị quyết của Đảng, kêu
gọi quần chúng tham gia những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng, trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định. Chẳng hạn, cổ động chính trị ở nớc ta hiện nay
là thực hiện dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

22
Phơng pháp cổ động cũng có thể là dùng lời (bài nói ngắn gọn súc
tích, lời kêu gọi); cũng có thể là dùng phơng tiện trực quan (cátxét, viđêô,
khẩu hiệu, thể thao, văn nghệ ); có thể dùng cả phơng pháp nêu gơng.
Nhìn chung, phơng pháp cổ động trực quan chiếm u thế hơn cả, vì nó tác
động đồng thời và trực tiếp vào các giác quan của đối tợng, gây sự phấn
chấn, hứng thú, để lại ấn tợng mạnh mẽ, thôi thúc, giục giã quần chúng h-
ởng ứng và hành động theo hớng ngời cổ động mong muốn. Hình thức, ph-
ơng tiện cổ động có thể là mít tinh, diễu hành, văn hóa - văn nghệ, tranh cổ
động, khẩu hiệu, hoặc tờ rơi và thờng là ở chỗ đông ngời qua lại.
Công tác cổ động có vai trò nh là "chất kích thích" trong việc biến
t tởng cách mạng thành hành động cách mạng cụ thể. Sở dĩ nh vậy vì nó có
nhiệm vụ thông tin có định hớng trực tiếp các tin tức, sự kiện, hiện tợng cụ
thể trong đời sống hàng ngày của quần chúng, đồng thời hiệu triệu, động
viên quần chúng, thúc đẩy họ tham gia tích cực vào những nhiệm vụ cách
mạng cụ thể, trớc mắt. Lênin đã từng đánh giá cao vị trí, vai trò công tác cổ
động trong giải quyết nhiệm vụ cụ thể của cách mạng, việc giải quyết các
nhiệm vụ khác nhau phụ thuộc vào việc quần chúng hiểu và nắm đợc chúng
đến mức độ nào. Vì vậy, mỗi cán bộ cổ động cần phải cố gắng "ảnh hởng
một cách tốt nhất đến một thính giả nhất định, làm cho một chân lý nào đó
đối với họ trở nên có sức thuyết phục mạnh nhất, dễ hiểu nhất, để lại những
ấn tợng rõ ràng nhất, sâu sắc nhất" [41, 28].
Công tác cổ động có quan hệ gần gũi, gắn bó với công tác tuyên
truyền nhng cũng có nét phân biệt nhau về nội dung, mục tiêu, phơng pháp.
Tuyên truyền là giải thích bản chất các sự kiện diễn ra trong đời sống, vạch
rõ các quy luật phát triển của nó để xây dựng cơ sở khoa học cho niềm tin
vững chắc và hành động tự giác, sáng tạo của mỗi ngời trong việc thực hiện
những mục tiêu cách mạng có tầm chiến lợc; có tính chất cơ bản, lâu dài.
Cổ động thì chủ yếu là tác động trực tiếp vào tâm lý, tình cảm để cổ vũ,
23

động viên hành động tích cực của mọi ngời nhằm giải quyết những nhiệm
vụ cụ thể, trớc mắt, có tính chất sách lợc. Về phơng pháp, nếu nh tuyên
truyền phải dùng nhiều lý lẽ để có thể trình bày một cách sâu sắc bản chất
và những nguyên nhân của một hiện tợng xã hội, thì ngời cổ động chỉ lấy
một ví dụ, một sự kiện nào nổi bật nhất của hiện tợng ấy nhằm chứng minh
cho một t tởng quan trọng để kích thích tình cảm cách mạng của quần chúng
và kêu gọi họ đi đến hành động cụ thể. Lênin đã dẫn ra ví dụ phân biệt sự khác
nhau giữa tuyên truyền và cổ động: "Ngời tuyên truyền, nếu bàn về vấn đề thất
nghiệp chẳng hạn thì phải giải thích bản chất t bản chủ nghĩa của các cuộc
khủng hoảng, vạch rõ cái gì làm cho các cuộc khủng hoảng là không thể tránh
khỏi trong xã hội hiện đại, vạch rõ sự cần thiết phải cải biến xã hội ấy thành xã
hội chủ nghĩa v.v Nói tóm lại, ngời tuyên truyền phải nói "nhiều ý" Cũng
nói một vấn đề ấy, ngời cổ động thì sẽ lấy một ví dụ nào nổi bật nhất và đợc
thính giả biết rõ nhất, - ví dụ nh một gia đình thất nghiệp bị chết đói, nạn ăn
mày tăng lên, v.v - rồi dựa vào sự việc mà tất cả mọi ngời đều biết ấy, ngời cổ
động sẽ đem hết sức ra làm cho "quần chúng" có một ý niệm duy nhất: ý niệm
về sự mâu thuẫn phi lý giữa sự tăng thêm của cải và sự tăng thêm nghèo khổ;
ngời cổ động sẽ ra sức khêu gợi sự bất bình, sự phẫn nộ của quần chúng đối
với sự bất công rõ rệt ấy " [36, 84-85].
Các cuộc cách mạng giành chính quyền về tay giai cấp vô sản do
các Đảng Mác - Lênin lãnh đạo, đều kết thúc thắng lợi nhờ tác dụng hiệu
triệu, động viên của công tác cổ động vào thời điểm cách mạng chín muồi,
hớng dẫn quần chúng nhất tề nổi dậy làm cách mạng.
Công tác cổ động ở Việt Nam hiện nay đang hớng vào những phong
trào cách mạng cụ thể nh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp
pháp; phong trào uống nớc nhớ nguồn; phong trào từ thiện, hỗ trợ tài năng
trẻ vì mục tiêu "dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh" góp
phần thực hiện mục tiêu lâu dài là đa nớc ta tiến lên XHCN.
24
Ba hình thái của CTTT tuy có khác nhau về mục tiêu và phơng thức

tiến hành, song có quan hệ gắn bó với nhau, cùng tác động đến nhận thức t
tởng, tâm lý, tình cảm quần chúng, tạo ra sự thống nhất ý chí và hành động
góp phần vào sự nghiệp cách mạng. Trong điều kiện trình độ dân trí ngày
càng cao, thông tin ngày càng phát triển, nhất là trong tình hình t tởng trong
nớc và trên thế giới đang diễn biến phức tạp hàng ngày, hàng giờ, ba hình
thái của CTTT chỉ thực sự có hiệu quả khi có sự hỗ trợ đắc lực của công tác
nghiên cứu DLXH đúng đắn. Nói cách khác, mỗi hình thái CTTT phải thờng
xuyên căn cứ vào kết quả nghiên cứu DLXH để có nội dung, hình thức, ph-
ơng pháp, phơng tiện phù hợp với đối tợng, trong từng thời điểm cụ thể, mới
nâng cao hiệu quả công tác này.
Các yếu tố cơ bản của hệ thống CTTT bao gồm chủ thể tiến hành
CTTT thông qua nội dung, hình thức, phơng pháp, phơng tiện ở ba hình
thái CTTT tác động đến đối tợng CTTT theo những nguyên tắc nhất định, để
đạt đợc hiệu quả nào đó, nhằm thực hiện mục đích CTTT. Trong đó, mục
đích CTTT do mục đích, nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng qui định; còn
hiệu quả chính là mức độ kết quả đạt đợc trong thực tế so với mục đích đã
đặt ra trong một điều kiện xã hội nhất định và một sự chi phí nào đó trong
CTTT. Hiệu quả CTTT góp phần vào sự nghiệp cách mạng; sự nghiệp cách
mạng phát triển lên một trình độ mới lại đặt ra những mục tiêu, nhiệm vụ
cho CTTT ở giai đoạn tiếp theo.
Chủ thể CTTT: CTTT mang tính giai cấp rõ rệt, do đó nói đến chủ
thể CTTT trớc hết phải nói đến Đảng Mác - Lênin. Đảng làm CTTT thông
qua hoạt động của Trung ơng Đảng, của các cấp ủy đảng, của các cơ quan
tham mu CTTT và của các đảng viên. Hồ Chí Minh viết: "Kinh qua đảng
viên và các tổ chức của Đảng, Đảng liên hệ chặt chẽ với quần chúng, tuyên
truyền, giáo dục và tổ chức quần chúng, lãnh đạo các đoàn thể cách mạng
của quần chúng" [62, 232-233]. Toàn Đảng tham gia làm CTTT, tuy nhiên,
25

×