Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.78 KB, 15 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Đi qua hai cuộc chiến tranh, Việt Nam ta phải gánh chịu những hậu quả hết
sức nặng nề khiến cho nền kinh tế vốn đã lạc hậu lại càng thêm kiệt quệ. Đến thời
bình, bắt đầu từ cơ sở kinh tế trì trệ đó, nước ta xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp, khiến cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng
kinh tế nghiêm trọng. Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường mà
CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế- xã hội, phát triển lực lượng sản
xuất, nâng cao năng suất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã hội đạt
được những thành quả về văn minh hành chính, văn minh công cộng; con người
nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự thách thức đua tranh phát triển. Trước
tình hình đó, trong Đại hội Đảng VI, Đảng ta kịp thời nhận ra sai lầm và tiến hành
sửa đổi, chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, kích
thích sản xuất, phát triển kinh tế nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công
bằng văn minh.
Chập chững bước vào nền kinh tế thị trường đầy gian khó, phức tạp, nền
kinh tế Việt Nam đòi hỏi sự học tập, tiếp thu kinh nghiệm của nhân loại trên cơ sở
cân nhắc, chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. Trong
quá trình học hỏi đó, triết học Mác- Lênin, đặc biệt là phạm trù triết học cái chung
và cái riêng có vai trò là kim chỉ nam cho mọi hoạt động nhận thức về kinh tế thị
trường.
Để góp thêm một tiếng nói ủng hộ đường lối phát triển kinh tế mà Đảng và
Nhà nước ta đang xây dựng, em chọn vấn đề "Mối quan hệ giữa cái riêng và cái
chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta" làm đề
tài tiểu luận của mình.
Hoàn thành tiểu luận này, em hi vọng có thể góp một phần nhỏ của mình trong
việc trình bày sơ lược cho mọi người về công cuộc đổi mới của nhà nước ta, và giúp
mọi người phần nào hiểu hơn với một nền kinh tế mới được áp dụng ở Việt Nam –
Nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện thế giới hiện nay.
Cảm ơn các thầy cô đã gợi mở cho em về đề tài này!

1




CHƯƠNG 1
CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG DƯỚI CÁI NHÌN
CỦA TRIẾT HỌC MÁC
1.1. Các khái niệm:
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan.
Ví dụ: Một hành tinh nào đấy hay một thực vật, động vật nào đấy là cái đơn
nhất trong giới tự nhiên. Cái riêng trong lịch sử xã hội là một sự kiện riêng lẻ nào
đó, như là cuộc cách mạng tháng Tám của Việt nam chẳng hạn. Một con người nào
đó: Huệ, Trang... cũng là cái riêng. Cái riêng còn có thể hiểu là một nhóm sự vật gia
nhập vào một nhóm các sự vật rộng hơn, phổ biến hơn. Sự tồn tại cá biệt đó của cái
riêng cho thấy nó chứa đựng trong bản thân những thuộc tính không lặp lại ở những
cấu trúc sự vật khác. Tính chất này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái
đơn nhất là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt chỉ có
ở một sự vật nhất định mà không lặp lại ở những sự vật khác. Mặt khác, giữa những
cái riêng có thể chuyển hóa qua lại với nhau, chứng tỏ giữa chúng có một số đặc
điểm chung nào đó. Những đặc điểm chung đó được triết học khái quát thành khái
niệm cái chung.
Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định ,mà còn được lặp lại trong
nhiều sự vật hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác, những mối liên hệ giống nhau,
hay lặp lại ở nhiều cái riêng.
Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự lặp lại. Ví dụ
như qui luật cung- cầu, qui luật giá trị thặng dư là những đặc điểm chung mà mọi
nền kinh tế thị trường bắt buộc phải tuân theo.

1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:
Trong lịch sử triết học, mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung được

quan niệm khác nhau. Phái duy thực đồng nhất thượng đế với cái chung và

2


cho rằng chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập khách quan và là nguônhiều sản
sinh ra cái riêng. Đối lập lại chủ nghĩa duy thực, các nhà triết học duy danh
như P. Abơla (1079- 1142), Đumxcot (1265- 1308) cho rằng chỉ những sự vật,
hiện tượng tồn tại riêng biệt với những chất lượng riêng của chúng mới là có
thực còn khái niệm cái chung chỉ là sản phẩm của tư duy của con người. Thấy
được và khắc phục hạn chế của hai quan niệm trên, triết học duy vật biện
chứng cho rằng cái chung và cái riêng có mối liên hệ biện chứng mật thiết với
nhau, và cả hai đều tồn tại một cách khách quan.
Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu
hiện sự tồn tại. Không có cái chung tồn tại độc lập bên ngoài cái riêng. Ví dụ
qui luật bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản là một cái chung, không thế thì
không phải là nhà tư bản, nhưng qui luật đó được thể hiện ra ngoài dưới
những biểu hiện của các nhà tư bản (cái riêng).
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có
cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập. Thí dụ: Mỗi con người là một cái riêng
nhưng mỗi con người không thể tồn tại ngoàI mối liên hệ với tự nhiên và xã
hội. Nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi quy luật cung-cầu, quy luật QHSX
phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX, đó là cái chung. Như vậy sự vật
hiện tượng nào cũng bao hàm cái chung.
Cái chung là bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng, còn cái riêng là
toàn bộ nhưng phong phú hơn cái chung. Cái riêng phong phú hơn cái chung
vì ngoài đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn
cái riêng vì cái riêng phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất
nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại .Do vậy cái chung là cái gắn liền với
bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái chung.

Có thể khái quát một công thức như sau:
Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất
Công thức trên có thể là không hoàn toàn đúng một cách tuyệt đối,
nhưng trong một chừng mực nào đó thì nó có thể nói được một cách chính
3


xác quan hệ bao trùm giữa cái chung và cái riêng. Cái chung chỉ giữ phần bản
chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật, còn cái riêng là cái toàn bộ vì nó là
một thực thể sống động. Trong mỗi cái riêng luôn tồn tại đồng thời cả cái
chung và cái đơn nhất. Nhờ thế, giữa những cái riêng vừa có sự tách biệt, vừa
có thể tác động qua lại với nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Sự "va chạm" giữa
những cái riêng vừa làm cho các sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, vừa
làm cho sự vật tách xa nhau bởi cái đơn nhất. Cũng nhờ sự tương tác này giữa
những cái riêng mà cái chung có thể được phát hiện. Về điểm này, Lênin nói:
"... Cái riêng chỉ có thể tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung".
Trong những hoàn cảnh khác nhau, cái chung có thể chuyển hoá thành
cái đơn nhất và ngược lại. Ví dụ: trước Đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường,
khoán sản phẩm chỉ là cái đơn nhất, còn cái chung là cơ chế bao cấp; nhưng
từ sau Đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường lại dần trở thành cái chung, còn
kinh tế tập trung bao cấp thành cái đơn nhất, chỉ còn tồn tại trong một số
ngành như an ninh quốc phòng...
Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính
tương đối. Có những đặc điểm xét ở trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất,
nhưng nếu xét ở trong nhóm sự vật khác lại là cái chung. Ví dụ như cây cối là
một đặc điểm chung khi xét tập hợp các cây như bạch đàn, phượng vĩ, bàng…
nhưng nếu xét trong phạm vi thực vật thì cây cối chỉ là một đặc điểm đơn nhất
chỉ các loại cây, mà ngoài ra thực vật còn có cỏ, bụi rậm, nấm... Xét một ví dụ
khác, qui luật cung- cầu là cái chung trong nền kinh tế thị trường, nhưng trong
toàn bộ các hình thức kinh tế trong lịch sử thì nó lại chỉ là cái đơn nhất, đặc

trưng cho kinh tế thị trường mà không thể là đặc điểm chung cho mọi hình
thức khác như kinh tế tự cung tự cấp chẳng hạn.
Trong một số trường hợp ta đồng nhất cái riêng với cái chung, khẳng
định cái riêng là cái chung. Những trường hợp đó thể hiện mâu thuẫn giữa cái
riêng và cái chung. Quan hệ bao trùm của cái riêng đối với cái chung đã trở
thành quan hệ ngang bằng. Tuy nhiên những định nghĩa như trên chỉ nhằm
4


mục đích tách sự vật ra khỏi những phạm vi không thuộc sự vật ấy, chứ không
dùng để chỉ toàn bộ những đặc tính của sự vật.
Trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng,trong những điều kiện
nhất định “cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái
chung” có thể biến thành “cái đơn nhất” ,nên trong hoạt động thực tiễn có thể
và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở
thành”cái chung” và “cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”.
Trên cơ sở nguyên lý về mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung, ta
đã đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trường của Việt
nam một cách thích hợp, cố gắng theo kịp tốc độ tăng trưởng của các nước
phát triển trên thế giới, tăng cường cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.

5


CHƯƠNG 2:
CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG NHÌN DƯỚI VẤN ĐỀ
KINH TẾ VIỆT NAM VÀ KINH TẾ THẾ GIỚI
Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang
hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ

và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước
ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các
loại hàng hoá trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.
Thị trường trong nước gắn liền với thị trương thế giới . Nền Kinh tế Việt Nam
là một bộ phận của nền kinh tế thế giới. Chính điều này tạo nên một chỉnh thể
hoàn chỉnh của nền kinh tế thế giới
Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế
của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, sự cạnh
tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất, không còn là dân số đông, vũ
khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính
sách, của các quốc gia là tạo được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của
mình, là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất
nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức
mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức
mạnh của các đảng cầm quyền.
Như vậy với tư cách là một bộ phận của nền kinh tế thế giới thì việc
tiếp thu những đặc trưng cơ bản những nét chung trong tổng thể đó để hoàn
thiện nền kinh tế Việt Nam là tất yếu. Tuy nhiên ta không được phép chỉ tiếp
thu một cách hình thức phải tiếp thu có chọn lọc cho phù hợp với đièu kiện
đất nước .Phải giữ dược nhưng nét đặc trưng riêng tưc là phải bảo tồn cái đơn
nhất của kinh tế Việt Nam từ đó còn phải xây dựng một nền kinh tế thị trường
mới về chất, thể hiện sự phát triển, phủ định biện chứng đối với nền kinh tế
thị trường TBCN.

6


CHƯƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT
NAM TRÊN CƠ SỞ NGUYÊN LÝ VỀ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG

3.1. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan:
3.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường:
Trên góc độ vĩ mô, thị trường là một phạm trù kinh tế tồn tại một cách
khách quan cùng với sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hoá, và lưu
thông hàng hoá ở đâu và khi nào có sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy có
thị trường. Ta cũng có thể định nghĩa thị trường là nơi diễn ra hoạt động mua
bán hàng hóa, nơi cung gặp cầu.
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; dư thừa và phong phú hàng hoá; dịch
vụ được mở rộng và coi như hàng hoá thị trường; năng động, luôn luôn đổi
mới mặt hàng, công nghệ và thị trường. Đó là một nền kinh tế hoạt động theo
cơ chế thị trường, với những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng
hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả,
đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung – cầu.
3.1.2. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan
Xét về hoàn cảnh lịch sử, xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là kinh
tế phong kiến. Ngoài ra nước ta vừa mới trải qua hai cuộc chiến tranh giữ
nước khốc liệt, mà ở đó, cơ sở vật chất vốn đã ít ỏi còn bị tàn phá nặng nề.
Sau chiến tranh, ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hoá tập
trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về TLSX. Nền kinh tế kế hoạch
hoá trong thời kỳ này tỏ ra phù hợp, đã huy động ở mức cao nhất sức người
sức của cho tiền tuyến.
Giải phóng miền Nam, do sự không hài hoà giữa các nền kinh tế và
sự chủ quan cứng nhắc chúng ta đã không tạo ra được động lực thúc đẩy nền
kinh tế phát triển mà còn gây lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường... Lúc
7


này, nước ta đồng thời cũng bị cắt giảm nguồn viện trợ từ các nước XHCN.
Tất cả những nguyên nhân đó đã khiến cho nền kinh tế nước ta trong những

năm cuối thập kỷ 80 lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân bị
giảm sút.
Đại hội VII Đảng ta xác định việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là
một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó, tức là chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng XHCN.Đảng ta còn chỉ rõ rằng nền kinh tế thị
trường có sự phù hợp với thực tế nước ta, phù hợp với các qui luật kinh tế và
với xu thế của thời đại:


Nếu không thay đổi cơ chế kinh tế, vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì

không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ
vốn để mở rộng sản xuất. Sản xuất không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của
xã hội, tích luỹ hầu như không có, đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của
nước ngoài.


Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc nên nó chỉ

có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác
dụng phát triển kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại
quá dài nên nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy
sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng
suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.


Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của kinh tế thị

trường. Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho

rằng thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Nhưng thực tế kinh tế thị
trường đã hình thành và phát triển đạt được những mức phát triển khác nhau ở
hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị trường trong nuớc đã
được thông suốt .Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn
thiếu hẳn thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can
thiệp của nhà nước còn rất thấp.
8




Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh

tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế chính là
tiềm lực kinh tế.
Như vậy việc chuyển sang kinh tế thị trường là điều kiện không thể thiếu
để phát triển kinh tế. Tuy nhiên ta không được phép chỉ tiếp thu hình thức
kinh tế thị trường từ chế độ TBCN (vốn được đẩy lên giai đoạn phát triển rất
cao so với những thời kỳ trước) mà từ đó còn phải xây dựng một nền kinh tế
thị trường mới về chất, thể hiện sự phát triển, phủ định biện chứng đối với nền
kinh tế thị trường TBCN.
3.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta:
3.2.1. Nền kinh tế nước ta mang bản chất của nền kinh tế thị trường
thế giới:
Trước hết, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường, nên nó tuân theo
mọi quy luật của kinh tế thị trường: quy luật cung- cầu, quy luật giá trị thặng
dư, quy luật lưu thông tiền tệ...
Các loại thị trường, các mối quan hệ thị trường được phát triển
phong phú, đa dạng, thể hiện trình độ cao trong việc phân công lao động
thành nhiều ngành nghề. Sự khác biệt về sở hữu tài sản đã được chấp nhận

(không còn chỉ chấp nhận hình thức sở hữu nhà nước, tập thể như trước) và
lợi nhuận trở thành động lực phát triển. Theo đó, đã hình thành một lớp người
mới năng động hơn, bám sát thị trường hơn và "biết làm kinh tế hơn". ở nước
ta hiện nay cũng hình thành và tồn tại cả những khuyết tật của kinh tế thị
trường: tâm lý quá coi trọng đồng tiền, chạy theo lợi nhuận, sự phân cực giàu
nghèo quá mức, kinh tế phát triển mất cân đối…. Kinh tế thị trường nước ta
cũng có sự quản lý của nhà nước để khống chế, giảm bớt những khuyết tật đó
cùng những tác hại của nó. Nhưng tuy nhiên, những khuyết tật đó vẫn còn tồn
tại âm ỉ trong xã hội và trong suy nghĩ của một số người.
Nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay cũng tuân theo xu hướng
chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể
9


tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, tiến tới hoà nhập thành một thị
trường chung trên toàn thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá trong
nước cũng ngày càng gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.
3.2.2. Những nét đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam:
Chúng ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu mà chỉ là một công cụ,
giải pháp, phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế phục
vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh. Cùng với việc sử dụng động lực của kinh tế thị
trường, ngay từ đầu, Đảng ta chủ trương phát triển lực lượng sản xuất phải đi
đôi với xây dựng quan hệ sản xuất, đặc biệt là những yếu kém về quản lý và
phân phối, xây dựng quan hệ con người với con người; tăng trưởng kinh tế phải
đi đôi với xoá đói giảm nghèo, làm cho thị trường mang tính nhân văn hơn.
Dưới CNTB, kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh theo kiểu cá lớn
nuốt cá bé, bất bình đẳng, bất công; nhưng nền kinh tế thị trường trong xã hội
XHCN vẫn mang tính cạnh tranh, sử dụng cạnh tranh làm động lực phát triển

nhưng không cạnh tranh dã man; tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã
hội, khuyến khích làm giàu gắn với xoá đói giảm nghèo và khắc phục sự phân
cực giàu nghèo.
Quan hệ phân phối trong kinh tế thị trường TBCN là nhà tư bản nắm giữ
phân lớn sản phẩm.Ta chủ trương phân phối theo lao động, theo vốn trên cơ
sỏ khuyến khích mọi người tự do sản xuất kinh doanh công khai hợp pháp,
đồng thời thực hiện chính sách công bằng xã hội. Ta chủ trương chống bóc
lột, bất công, chăm lo sự nghiệp y tế, giáo dục, đấu tranh cho một nền đạo đức
mới, một lối sống lành mạnh.
Xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu,
trong đó nông nghiệp chiếm vai trò chủ chốt (chiếm 75% dân số). Không chỉ
có xuất phát điểm thấp mà còn phải trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt,
kéo dài. Ta không đủ khả năng về vốn, kỹ thuật để có thể bước ngay vào xây
10


dựng một nền kinh tế thị trường thực sự hiện đại, với các công nghệ có hàm
lượng kỹ thuật cao như nhiều nước tư bản vốn đã có tới ba thế kỷ tích luỹ.
Thị trường nước ta vẫn còn nhỏ hẹp, sơ khai, còn những rối loạn và
nhiều yếu tố tự phát nên chưa thể thực sự hoà nhập với thị trường thế giới.
Nước ta có truyền thống văn hoá lâu đời, nhân dân ta vốn có sự khéo léo cao
nên có thể phát triển nhiều thành phần kinh tế cần có độ tinh xảo, khéo léo
cao như trạm khắc, đan... Tuy nhiên, trong lịch sử nước ta có thể nói chỉ là
lịch sử của những cuộc chiến tranh chống xâm lược mà không có trang nào về
việc phát triển kinh tế, trong vốn từ truyền thông dường như rất xa lạ với thuật
ngữ "làm kinh tế". Trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập với kinh tế thị
trường thế giới, ta luôn chú ý tới việc đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế,
chính trị và đảm bảo độc lập, tự do cho dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc.
3.2.3. Một số giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế thị trường Việt Nam
những năm tới từ góc độ những đặc điểm riêng của Việt Nam

Nước ta đi lên từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất
nghèo nàn. Tính chất bao cấp đã ăn sâu vào tận trong ý nghĩ của nhiều người.
Xuất phát từ cơ sở vật chất lạc hậu cùng phương cách quản lý kém hiệu quả
đó, nền kinh tế thị trường nước ta có trình độ phát triển thấp, cơ cấu quản lý
còn non yếu. Kinh tế thị trường nước ta hiện nay được đánh giá là chậm so
với thế giới hàng thế kỷ. Muốn đuổi kịp tốc độ phát triển của các nước phát
triển trên thế giới ta không thể đi tuần tự từ kinh tế thị trường tự do sang kinh
tế thị trường hiện đại như là hướng phát triển kinh tế thị trường chung của
toàn thế giới mà phải chọn cách "đi tắt" sang kinh tế thị trường hiện đại.
Nền kinh tế có sự đa dạng về hình thức sở hữu, về thành phần kinh tế, về
hình thức phân phối nhưng trong đó kinh tế quốc doanh vẫn phải giữ vai trò
chủ đạo và là nhân tố đảm bảo cho sự định hướng XHCN nền kinh tế thị
trường. Do đó muốn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN thực sự thì
phải nâng cao hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước. Ta vẫn còn
chịu ảnh hưởng của cơ chế bao cấp ở tính chất thiếu năng động, ỷ lại vào nhà
11


nước, không quan tâm nhiều đến hiệu quả kinh doanh của đơn vị. Điều này
đang dần dẫn tới việc các doanh nghiệp nhà nước trở thành gánh nặng cho nền
kinh tế, không thể giữ vai trò chủ đạo như trước. Trong những điều kiện mới, ta
buộc phải đặt ra vấn đề nâng cao năng suất làm việc của doanh nghiệp nhà
nước, khiến cho các cơ quan nhà nước phải trở nên năng động hơn, bám sát với
những biến động của thị trường hơn và quan tâm đến hiệu quả sản xuất hơn thì
mới có thể tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, định hướng như trước.
Hiện nay, sự quản lý bằng pháp luật của ta vẫn còn nhiều sơ hở, tạo điều
kiện cho tội phạm kinh tế phát triển. Do đó yêu cầu đặt ra là phải thiết lập luật
pháp chặt chẽ, dần đưa con người tới hành động tự giác tuân theo pháp luật,
sông văn minh, có văn hóa, và tạo một môi trường cạnh tranh công bằng, lạnh
mạnh, có trật tự cho các chủ thể kinh doanh.

Nền kinh tế có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và có sự quản lý của nhà
nước sao cho vừa đảm bảo phát triển kinh tế vừa đảm bảo phát triển xã hội và
con người, giảm thiểu những khuyết tật xã hội mà kinh tế thị trường mang lại.

12


KẾT LUẬN
Như đã nêu ở phần đầu tiểu luận, cái riêng là phạm trù triết học dùng để
chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới
khách quan. Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc
tính, những mặt, những mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng.
Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự lặp lại.
Ta có thể thấy rõ, giữa cái riêng và cái chung luôn có mối quan hệ gắn bó
chặt chẽ với nhau. Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng
để thể hiện sự tồn tại của mình; còn cái riêng tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến
cái chung. Cái chung, khi được áp dụng vào từng trường hợp cụ thể (cái
riêng) phải được vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo. Tránh tuyệt đối hóa
cái chung và cái riêng, đồng thời trong cuộc sống, ta phải biết tạo ra điều kiện
thuận lợi để cho cái đơn nhất tiến bộ nhanh biến thành cái chung, còn cái
chung lạc hậu nhanh chóng trở thành cái đơn nhất.
Từ những nghiên cứu trên, em rút ra kết luận: nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam với vai trò là một cái riêng, cũng tuân theo những
quy luật chung mang tính bản chất của Kinh tế thị trường, đồng thời cũng
chứa đựng những đặc điểm, bản sắc đặc trưng, vốn có, riêng của Việt Nam.
Có thể nói, chủ trương lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã thể hiện sự
sáng suốt trong đổi mới tuy nhiên vẫn còn nhiều thiếu xót nên chưa thể tận
dụng được hết các cơ hội cũng như khắc phục các thách thức mà nền Kinh tế
thị trường đem lại. Hi vọng rằng, sau bài tiểu luận này, sẽ có nhiều nghiên cứu
khác có thể vận dụng triệt để cặp phạm trù cái chung – cái riêng để có thể áp

dụng và tạo giải pháp cho nền kinh tế thị trường Việt Nam theo định hướng
XHCN, đưa đất nước ta ngày càng đi lên, phát triển giàu mạnh và vững vàng
hội nhập với các nước khác trên thế giới.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Sinh Cúc

Kinh tế thị trường định hướng XHCN
NXBTK
Giáo trình triết học Mác- Lênin
NXBCTQG
Lê Trần Hảo
Thống kê thương mại trong nền kinh tế thị trường NXBTK
Kinh tế thị trường và những vấn đề xã hội
Đặng Kim Nhung Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị
Đỗ Đức Thịnh

trường và vận dụng vào Việt nam
Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước đang

Vũ Huy Từ

phát triển ở châu Á
Doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường ở
Việt nam
Báo Điện tử Việt Nam


14


MỤC LỤC

15



×