Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO đề CƯƠNG ôn THI tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về KINH tế SAU đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.41 KB, 14 trang )

C1. Quan điểm HCM về bản chất XHCN? Nhận thức và vận dụng của Đảng ta trong xác định đặc trưng
CNXH hiện nay?
Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CNMLN vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và qu báu
của Đảng và dân tộc ta, mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
HCM đã tiếp thu những quan điểm của MA, LN về bản chất và mục tiêu của CNXH khoa học.
Tuy nhiên, từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNMLN, HCM còn tiếp cận CNXH từ chủ nghĩa yêu nước và truyền
thống văn hoá dân tộc, nên cũng bổ sung những nét riêng của mình về bản chất và mục tiêu của CNXH.
- HCM tiếp cận CNXH từ lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc.
HCM viết: "chỉ có CNXH và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân
toàn thế giới". Như vậy, với HCM chỉ có CNXH mới cứu được nhân loại, mới thực sự đem lại độc lập, tự do, bình đẳng cho
các dân tộc.
- HCM tiếp cận CNXH từ phương diện đạo đức.
CNXH là một chế độ xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nó bảo đảm cho sự
phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội. Giai cấp công nhân chẳng những đấu tranh để tự giải phóng mà còn để giải phóng
cho cả loài người khỏi áp bức, bóc lột. Lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích của nhân dân là thống nhất. CNXH do đó
xa lạ và đối lập với chủ nghĩa cá nhân.
HCM viết: "chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng CNXH. Cho nên thắng lợi của CNXH không
thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân". Và khẳng định: "Không có chế độ nào tôn trọng con
người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa". Từ
đó, HCM cổ vũ: "có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây
dựng CNXH và giải phóng loài người".
Như vậy, đối với HCM, đạo đức cao cả nhất là đạo đức cách mạng, đạo đức giải phóng dân tộc, giải phóng loài
người. CNXH vì vậy cũng là giai đoạn phát triển mới của đạo đức.
- HCM tiếp cận CNXH từ truyền thống lịch sử, văn hoá và con người Việt Nam.
Việt Nam là một nước nông nghiệp; nông nghiệp lấy đất và nước làm nền tảng. Chế độ công điền và công cuộc trị
thuỷ sớm gắn kết con người Việt Nam lại với nhau. Đó là những nhân tố quan trọng hình thành nên tinh thần cố kết cộng
đồng của dân tộc Việt Nam - một nhân tố thuận lợi để đi vào CNXH.
Văn hoá Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, có truyền thống trọng dân, khoan dung, hoà mục để hoà đồng, văn hoá
Việt Nam là văn hoá trọng trí thức, hiền tài.


Con người Việt Nam có tâm hồn trong sáng, giàu lòng vị tha, yêu thương đồng loại, kết hợp được cái chung với cái
riêng, gia đình với Tổ quốc, dân tộc và nhân loại.
Tóm lại: Nếu Mác-Ăngghen-Lênin đã làm sáng tỏ bản chất của CNXH với tư cách là một học thuyết và tư cách là
một chế độ xã hội. Ngoài hai vấn đề đó, HCM còn nhìn nhận bản chất của CNXH từ phương diện đạo đức, văn hoá.
Tóm lại: Quan niệm của HCM về CNXH và con đường quá độ đi lên CNXH ở VN là sự thống nhất biện chứng
giữa các nhân tố KT, CT, VH, nhân văn...
Quan niệm của HCM về những đặc trưng bản chất của CNXH.
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Bản chất của CNXH với tư cách là một chế độ xã hội, giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản đã được các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác-Lênin luận giải qua một số đặc trưng cơ bản như sau:
- Xoá bỏ từng bước chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ sở hữu công cộng để giải phóng cho sức sản
xuất xã hội phát triển.
- Có một nền đại công nghiệp cơ khí với trình độ khoa học và công nghệ hiện đại có khả năng cải tạo nông nghiệp,
tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản.
- Thực hiện sản xuất có kế hoạch, tiến tới xoá bỏ sản xuất hàng hoá trao đổi tiền tệ (quan niệm này về sau đã được
điều chỉnh với Chính sách kinh tế mới của Lênin).
- Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, thể hiện sự công bằng và bình đẳng về lao động và hưởng thụ.
- Khắc phục dần sự khác biệt giữa các giai cấp, giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân
tay, tiến tới một xã hội tương đối thuần nhất về giai cấp.
- Giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, nâng cao trình độ tư tưởng và văn hoá cho nhân dân, tạo điều
kiện cho con người tận lực phát triển mọi khả năng sẵn có của mình.
- Sau khi đã đạt được những điều nói trên, khi giai cấp không còn nữa thì chức năng chính trị của Nhà nước tiêu
vong, v.v...
Những đặc trưng cơ bản nói trên của CNXH là những phán đoán khoa học đã được Mác và Ăngghen nêu lên trên
cơ sở phân tích những điều kiện KT, CT, XH ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu phát triển nhất vào cuối thế kỷ XIX.
Dù sao, các ông cũng mới chỉ vạch ra những phương hướng phát triển chủ yếu của CNXH nhằm khẳng định tính
ưu việt của nó so với chủ nghĩa tư bản.
Với sự vận động của lịch sử, với thành tựu khoa học-công nghệ của loài người, với kinh nghiệm của thực tiễn xây
dựng CNXH đã qua và hiện nay, trong những luận điểm đó, có điểm ngày nay đã được nhận thức lại cho phù hợp với thực
tế, đó cũng là điều bình thường.

Chính Mác và Ăngghen, để tránh cho những người đi sau không rơi vào dập khuôn, giáo điều, ngay trong Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản, trước khi nêu lên 10 biện pháp xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa có thể áp dụng khá phổ biến ở các nước
tiên tiến nhất, hai ông đã căn dặn: "Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều".
* Quan niệm của HCM về đặc trưng bản chất của CNXH :


Thống nhất với các nhà kinh điển vô sản. Nhưng trong thực tiễn chỉ đạo công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH ở
Miền bắc nước ta (1954-1969). Ở những thời điểm khác nhau Người đã nêu lên những quan niệm của mình về những đặc
trưng bản chất của CNXH.
- Trả lời câu hỏi CNXH là gì? Người diễn giải:
+ Nói một cách tóm tắt, mộc mạc CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho
mọi người có cơm ăn, áo mặc, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Theo người bản chất của CNXH là giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Cụ thể:
“ CNXH la lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng... làm của chung” (đó là công hữu tư liệu sản xuất chính của xã hội)
CNXH là “một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động
và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng”
- Muốn có CNXH thì phải làm gì?
“ Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện nay là phát triển sản xuất, để nâng cao đời sống vật chất tinh
thần và văn hoá cho nhân dân. Muốn có CNXH thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra để sản
xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta hiện nay ở Miền Bắc” ( Người nhấn mạnh nhân tố quyết định thắng lợi của
CNXH là ra sức phát triển sản xuất)
- CNXH phát triển trên cơ sở nào?
“Gắn liền với sự phát triển khoa học kỹ thuật, với sự phát triển văn hoá của nhân dân”
“Chỉ ở trong chế độ XHCN thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính
cách riêng và sở trường riêng của mình”
- Chế độ XHCN là gì?
“ chế độ XHCN và CSCN do quần chúng nhân dân lao động làm chủ”
“ Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng từ người quét
nhà, nấu ăn cho đến chủ tịch nước đều là nhân công làm đầy tớ cho dân”
- CNXH do ai xây dựng? (về động lực con người và vai trò lãnh đạo của Đảng)

+ “ CNXH là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng lên”
+ “ Đó là công trình tập thể của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng”
Kết luận: từ những lời phát biểu ngắn gọn, giản dị, mộc mạc của Bác chúng ta có thể hiểu khái quát những đặc
trưng, bản chất của CNXH về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và con người theo tư tưởng của Bác như sau:
- CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ. Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động
được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH.
- CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
- CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức, trong đó người với người là bè bạn, là đồng chí, là anh
em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để
phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
- CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được
hưởng; các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.
- CNXH là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
* Nhận thức và vận dụng của Đảng ta trong xác định đặc trưng CNXH hiện nay?
Cương lĩnh.... (Bổ sung, phát triển năm 2011)xác định:
- Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của ĐCSVN và Chủ tịch HCM, phù
hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
- Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
+ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
+ do nhân dân làm chủ;
+ có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
+ có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
+ con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có đk phát triển toàn diện;
+ các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;
+ có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
+ có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi
về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát
triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch HCM sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm
lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền
thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng
bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình
thành và phát triển kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển.
* Giải pháp:
- Giữ vững mục tiêu của CNXH.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nội lực để thực hiện
CNH - HĐH đất nước.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy Nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng,
quan liêu, lãng phí, thực hiện cần kiệm xây dựng CNXH.


C2. Quan điểm Hồ Chí Minh về lựa chọn con đường XHCN ở nước ta? Sự nhận thức và vận dụng của Đảng
ta trong kiên định mục tiêu, con đường phát triển đất nước?
Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CNMLN vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và qu báu của
Đảng và dân tộc ta, mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Tiến lên CNXH là qui luật nhất định trong sự phát triển xã hội.
- Từ lý luận hình thái KT-XH Mác đã nghiên cứu và rút ra kết luận: CNTB nhất định diệt vong nhường chỗ cho
CNXH. CNXH ra đời là một tất yếu, XH loài người tuần tự qua 5 HTKTXH.
+ Mác là người phác thảo ra mô hình CNCS là xã hội không có áp bức bất công, con người hoàn toàn tự do phát
triển toàn diện. ( Đây có thể coi là đặc trưng, bản chất của CNCS).
+ Mác khẳng định GCCN là lực lượng duy nhất có sứ mệnh lịch sử xoá bỏ CNTB và xây dựng thành công CNXH,
CNCS.
+ Mác chỉ ra con đường quá độ lên CNXH là phải trải qua một quá trình phát triển liên tục, phải liên minh chặt
chẽ với nhân dân lao động, dùng bạo lực CM thiết lập chuyên chính vô sản do ĐCS lãnh đạo.
+ Đó là quá trình kết hợp chặt chẽ giữa mục tiêu GPDT, GP giai cấp, giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài,

giữa cách mạng trong nước và cách mạng thế giới.
- Kế tục và phát triển những quan điểm của Mác trong thời đại mới Lênin tìm ra:
+ Quy luật phát triển không đều của CNTB.
+ Mắt xích yếu nhất trong sợi dây chuyền của CNTB.
+ Đặc biệt ông phát triển tư tưởng cách mạng không ngừng của Mác trong thời đại mới ( Thời đại CMGPDT
nằm trong phạm trù của CMVS ).
- Lênin cho rằng: Các nước kể cả những nước có nền kinh tế chậm phát triển sau khi hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của ĐCS và được sự giúp đỡ của các nước XHCN có thể bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN mà tiến thẳng lên CNXH.
Sau nhiều năm buôn ba, tìm đường cứu nước, HCM là nhà yêu nước Việt nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác - Lênin
qua Lênin và cách mạng Tháng Mười Nga. Từ đó người đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình.
(1) Người chỉ rõ: ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác là con đường cách
mạng vô sản''. (Sđd, T9, Tr.314) và khẳng định: ''chỉ có chủ nghĩa cộng sản, mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc, nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bắc ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và
vì mọi người, niềm vui, hoà bình hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hoà thế giới chân chính''(T1,Tr.461).
(2) HCM khẳng định: ''con đường tiến tới CNXH của các dân tộc là con đường chung của thời đại, của lịch sử,
không ai ngăn cản nổi'' . (T8,Tr.449). Và đó là con đường phát triển tất yếu của lịch sử.
HCM lập luận:
+ Từ xưa đến nay chế độ công cộng nguyên thuỷ sụp đổ là do chế độ nô lệ thay thế. Chế độ nô lệ sụp đổ là do
chế độ phong kiến thay thế đó là qui luật nhất định trong sự phát triển của xã hội.
+ Lịch sử loài người là do người lao động sáng tạo ra, người lao động sáng tạo ra của cải, luôn luôn nâng cao
sức sản xuất. Sản xuất phát triển tức là xã hội phát triển. Chế độ nào hợp với sức sản xuất thì đứng vững. Nếu không hợp
thì giai cấp đại biểu cho sức sản xuất mới sẽ nổi lên cách mạng lật đổ chế độ cũ.
+ Hiện nay chủ nghĩa tư bản có mâu thuẫn to, nó không giải quyết được. Một là, nhà tư bản sản xuất hàng hoá
quá nhiều, quá mau, nhưng không bán được; hai là, tính chất sản xuất là công cộng mà tư liệu sản xuất thì nằm trong tay
một số ít người chỉ có chế độ cộng sản mới giải quyết được mâu thuẫn ấy''. (T7,Tr.246).
+ Trên thế giới cách mạng vô đã nổ ra và giành thắng lợi. Người viết: ''Cách mạng Nga thành công, mặt trận đế
quốc và tư bản thế giới đã tan vỡ một phần sáu trên quả đất, đồng thời đã lập thành một chế độ xã hội chủ nghĩa vững chắc.
Tiếp đến cách mạng các nước dân chủ nhân dân Trung, Đông Âu thành công, xây dựng và phát triển nền dân chủ mới. Do
vậy cách mạng Việt Nam phải làm cách mạng dân chủ mới''. (T7, Tr. 210). Như vậy, Việt Nam làm cách mạng dân chủ mới

(tức cách mạng dân chủ gắn với CNXH) là phù hợp với xu thế của thời đại.
(3) Trong khi khẳng định, tiến tới chế độ cộng sản là mục đích chung của tất cả những người lao động trên toàn thế
giới, thì HCM còn chỉ ra việc thực hiện mục đích ấy của mỗi nước phải tuỳ điều kiện cụ thể của mình mà tiến dần.
Cụ thể đối với nước ta, Người chỉ rõ: ''Tính chất thuộc địa và phong kiến của xã hội Việt Nam khiến cách mạng
Việt Nam phải chia làm hai bước. Bước thứ nhất là đánh đế quốc, đánh phong kiến thực hiện người cày có ruộng, bước thứ
hai là tiến lên CNXH tức giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản''. (T7, Tr. 209).
Như vậy cách mạng Việt nam sẽ trải qua hai giai đoạn, tức là sau khi làm xong cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân thì cách mạng Việt Nam sẽ tiến thẳng lên CNXH không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Tóm lại: quan điểm nhất quán xuyên suốt trong tư tưởng HCM về sự lựa chọn con đường của cách mạng Việt Nam
là con đường xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Quan điểm đó đã được thể hiện một cách
sinh động và sáng tạo trong suốt quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ và đã được thực tiễn kiểm
nghiệm. Và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là con đường quá độ đi lên CNXH không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
* Về bước đi và phương thức, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Về bước đi trong con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Do vấn đề còn quá mới, HCM chưa có điều kiện làm rõ nó sẽ gồm mấy chặng đường với những nội dung cho từng
chặng, nhưng qua thực tế một số năm Người đã chỉ rõ: "Ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó
khăn còn nhiều và lâu dài", "phải làm dần dần", "không thể một sớm một chiều" ai nói dễ là chủ quan và thất bại.
Thấm nhuần những chỉ dẫn của Lênin "phải kiên nhẫn bắc những nhịp cầu nhỏ, vừa tầm, lựa chọn những giải pháp trung
gian, quá độ". Tư tưởng chỉ đạo của HCM về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước, "bước ngắn, bước


dài, tuỳ theo hoàn cảnh", nhưng "chớ ham làm mau, ham rầm rộ...Đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần".
Về bước đi trong cải tạo nông nghiệp, HCM nói: "lúc đầu là cải cách ruộng đất, sau tiến lên một bước là tổ chức tổ
đổi công sao cho tốt, cho khắp, lại tiến lên hình thức hợp tác xã dễ dàng, rồi tiến lên hợp tác xã cao hơn".
Về bước đi trong phát triển công nghiệp, HCM sớm đề phòng bệnh duy ý chí: mấy năm kháng chiến ta chỉ có nông
thôn, bây giờ mới có thành thị... nếu muốn công nghiệp hoá gấp là chủ quan... Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên,
rồi đến tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng... làm trái với Liên Xô cũng là macxít ".
- Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, HCM luôn luôn nhắc
nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, phải suy nghĩ,
tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Cụ thể:

+ Trong bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phải thể hiện được sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam: "xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam".
+ Khi giặc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Ta có khẩu hiệu: " vừa sản xuất, vừa chiến đấu", "vừa chống Mỹ,
cứu nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội", được thế giới coi là một sáng tạo của Việt Nam.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá...phải kết hợp cải tạo với xây
dựng trên tất cả các lĩnh vực, mà xây dựng là chủ chốt và lâu dài.
+ HCM quan niệm chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, vì vậy cách làm là "đem tài dân, sức
dân,của dân để làm lợi cho dân" đó là "chủ nghĩa xã hội nhân dân "không phải là "chủ nghĩa xã hội nhà nước" được ban
phát từ trên xuống.
+ HCM đặc biệt nhấn mạnh vai trò quyết định của biện pháp tổ chức thực hiện, Người nhắc nhở: chỉ tiêu một, biện
pháp mười, quyết tâm hai ba mươi...có như thế kế hoạch mới hoàn thành tốt được.
* Sự vận dụng của Đảng ta.
Những tư tưỏng của HCM về CNXH, về quá độ lên CNXH, bước đi và phương thức tiến hành CNXH ở Việt Nam
đang được Đảng ta kế thừa, vận dụng và phát triển trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Để tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới tiến lên giành những thành tựu mới
Đảng ta đang kiên trì vận dụng tư tưởng HCM nhằm giải quyết tốt các vấn đề sau đây:
1. Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin và Tư tưởng HCM.
- Độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu bất biến mà nhân dân ta đã kiên trì phấn đấu, hy sinh, theo đuổi suốt gần
80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu thì sau khi giành được độc lập dân tộc, chúng
ta không có con đường nào khác là phải tiến lên CNXH. Chỉ có CNXH mới thực hiện được "ham muốn tột bậc" của Bác
Hồ và cũng là mong muốn nghìn đời của nhân dân ta.
- Ngày nay, Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh" cũng chính là để hoàn thành mục tiêu, lý tưởng của Chủ tịch HCM và của nhân dân ta
trong một hoàn cảnh mới.
- Nhưng cũng cần phải nhận thấy rằng: xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự biến đổi về chất
trên tất cả các lĩnh vực, là một sự nghiệp khó khăn, phức tạp. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể sử dụng các hình thức,
các phương tiện của chủ nghĩa tư bản nhằm phục vụ đắc lực cho CNXH mà không đi chệch sang chủ nghĩa tư bản, vẫn giữ
được định hướng xã hội chủ nghĩa; làm sao cho tăng trưởng kinh tế luôn luôn đi đôi với công bằng xã hội, với sự lành
mạnh về đạo đức, tinh thần?
- Câu trả lời không có sẵn trong tư tưởng HCM, nhưng Người đã chỉ cho chúng ta phương hướng và phương pháp

suy nghĩ để tìm ra những giải pháp hữu hiệu mà không đi chệch bản chất và mục tiêu của CNXH như Người đã vạch ra.
2. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, cần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả
các nguồn lực, trước hết là nguồn lực nội sinh để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một yêu cầu có tính quy luật đối với các nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên
CNXH chưa qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, của điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế đang mở rộng để nhanh chóng biến nước ta thành một nước công
nghiệp hiện đại trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
- Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, cần phát huy tất cả các nguồn lực bên trong và bên ngoài, nhưng
chủ yếu phải lấy nguồn lực bên trong làm gốc, có phát huy mạnh mẽ nguồn lực trong nước mới sử dụng tốt, có hiệu quả
nguồn lực bên ngoài. Phải quán triệt sâu sắc quan điểm của HCM: CNXH là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân
tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng; phải "đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân".
- Tiềm lực của hơn 80 triệu dân ta với sức lực, của cải, trí tuệ, tài năng...thật là to lớn. Làm thế nào để khơi dậy
mạnh mẽ nguồn nội lực đó? Vận dụng tư tưởng HCM, ta phải phát huy cao độ quyền làm chủ của người dân, tạo nên
không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Muốn thế, phải nâng cao dân trí, bồi dưỡng văn hoá chính trị, trau dồi bản lĩnh
công dân, cung cấp thông tin đúng đắn cho người dân, phải thực hiện cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tạo
cho người dân có điều kiện tham gia giám sát công việc của Nhà nước.
- Đồng thời phải thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết của HCM, trên cơ sở lấy liên minh công- nông-trí
thức làm nòng cốt,tranh thủ sự đóng góp, ủng hộ của tất cả những ai tán thành đổi mới vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".
3. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Công cuộc đổi mới của nhân dân ta diễn ra vào lúc cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang
phát triển mạnh, xu thế toàn cầu hoá đang ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển và cuộc sống của các dân tộc.
- Chúng ta phải ra sức tranh thủ tối đa mọi cơ hội tốt do xu thế nói trên tạo ra, phát huy hiệu lực và nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế, phải có cơ chế, chính sách tốt để thu hút vốn đầu tư, điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm khai thác và sử
dụng tốt nhất các nguồn lực bên ngoài (vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại), thực hiện kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng HCM.


- Tuy nhiên, cũng phải thấy, nói chung không có viện trợ lớn nào hoàn toàn vô tư, không kèm theo những điều
kiện nhất định. Vì vậy, tranh thủ hợp tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc lập dân

tộc, kêu gọi toàn dân sẵn sàng đem nhân lực, vật lực, tài lực để tăng cường sức mạnh quốc gia.
- Giao lưu, hội nhập đồng thời phải không ngừng trau dồi bản lĩnh và bản sắc văn hoá dân tộc, đặc biệt cho thanh
niên. Chỉ có bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ mới tạo ra bộ lọc tốt để tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đồng
thời có sức đề kháng tốt để chống lại mọi yếu tố văn hoá độc hại từ bên ngoài tràn vào.
4. Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy Nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng CNXH.
- Để phát huy được quền làm chủ của người dân, trước hết cán bộ Đảng và Nhà nước, những người thừa hành
công vụ phải trong sạch, liêm khiết, phải thực sự là người đầy tớ trung thành và tận tuỵ của dân như Bác Hồ mong muốn.
Dù Đảng và Nhà nước có đường lối, chính sách đúng đắn, nhưng đội ngũ cán bộ thừa hành không tận tuỵ, mẫn cán, lại sách
nhiễu, tham nhũng, cửa quyền...thì chẳng những họ không làm cho đường lối, chính sách đó đi được vào người dân, mà có
khi còn trở thành nguyên nhân trực tiếp gây nên những điểm nóng, có thể dẫn tới những bùng nổ xã hội không thể xem
thường.
- Vì vậy, bài học vô giá mà Chủ tịch HCM dày công giáo dục, nhắc nhở chúng ta là phải không ngừng chăm lo
tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng vơi dân, muốn thế phải quyết tâm làm trong sạch bộ máy Nhà nước, loại trừ
những phần tử thoái hoá biến chất, làm cho Nhà nước ta thực sự là "của dân, do dân, vì dân". Chính tệ quan liêu,tham
nhũng, mất dân chủ, tác phong hách dịch, cửa quyền, lối sống xa hoa, lãng phí, thiếu đạo đức...của một bộ phận cán bộ có
chức, có quyền đã gây nên những vụ bất bình trong dân, làm đổ vỡ niềm tin của quần chúng vào tương lai của CNXH.
- Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá cũng đang kích thích lòng ham muốn vật chất và lối sống tiêu dùng trong
một bộ phận cán bộ và nhân dân. Hiện nay, nước ta còn rất nghèo, làm chưa đủ ăn, chưa đủ trả nợ, Bác Hồ nói: sản xuất mà
không tiết kiệm thì "như gió vào nhà trống, không lại hoàn không". Vì vậy, tiết kiệm không chỉ là một nếp sống đạo đức, nó
là một chính sách kinh tế. Những kẻ xa hoa, lãng phí đều dẫn đến xâm phạm tài sản của nhân dân, do đó nó còn là vấn đề
chính trị. Phải làm cho khẩu hiệu "cần kiệm xây dựng nước nhà" của Chủ tịch HCM đi vào đời sống, trở thành một nét đẹp
của văn hoá Việt Nam.


C3. Quan điểm HCM về nhiệm vụ phát triển LLSX thời kỳ quá độ lên CNXH? Vận dụng của Đảng ta?
Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CNMLN vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và qu báu của
Đảng và dân tộc ta, mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

a, Những quan điểm của HCM về vai trò của công nghiệp hóa, khoa học, kỹ thuật và công nghiệp hóa XHCN
* Thời kỳ trước cách mạng tháng tám 1945
- Đây là thời kỳ hình thành tư tưởng HCM về vai trò của CNH, khoa học, kỹ thuật và CNH xã hội chủ nghĩa.
- Từ thực tiễn CM tháng Mười Nga, Người hiểu được tính ưu việt của công nghiệp hóa XHCN ở Nga không chỉ
trên phương diện lý thuyết mà còn qua khảo sát thực tiễn. Thấy được những thành tựu của công nghiệp hóa XHCN ở Nga,
Người đã khẳng định: trên thế giới giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công đến nơi rồi, CM Việt nam muốn thành công
phải đi theo con đường CM tháng Mười Nga. Đầu năm 1930 trong nhật ký chìm tàu, Người viết: Nếu nước Nga chưa phải
là thiên đường cho tất cả mọi người thì đã là một thiên đường cho trẻ em…
* Thời kỳ mới giành được chính quyền và tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954)
- CM tháng Tám thành công, bên cạnh việc củng cố chính quyền CM non trẻ, HCM đã lãnh đạo Chính phủ bắt tay
vào việc chấn hưng đất nước giàu mạnh, Người đã kêu gọi trí thức Việt kiều trở về Tổ quốc cùng nhau chuẩn bị kháng
chiến, chủ động viết thư cho Bộ trưởng ngoại giao Hoa kỳ gửi khoảng 50 thanh niên VN sang học tập.
- Trong Kháng chiến chống Pháp với tinh thần tự lực cánh sinh là chính, quân và dân ta đã kịp thời tháo rỡ máy
móc đưa lên chiến khu xây dựng xưởng quân giới để SX, sửa chữa vũ khí, SX quân trang, quân dụng phục vụ quân đội và
nhân dân vùng tự do. Trong bài báo thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, Người trích lời của Lênin: “Nếu
không cứu vãn công nghệ nặng, không khôi phục công nghệ, thì không xây dựng được công nghệ nào hết. Mà không xây
dựng được công nghệ, thì không giữ được địa vị độc lập của nước mình”. Với nhận thưc đó, Bác đã xây dựng một kế hoạch
phát triển công nghiệp: “Đặt kế hoạch công nghệ cho đúng đắn và hợp lý - là một điều kiện chủ chốt trong việc tiêu dùng
tiền của”.
* Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
Thời kỳ này, tư tưởng HCM về CNH phát triển trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
- HCM khẳng định CNH xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính quy luật đối với mọi quốc gia trong TKQĐ lên CNXH.
Với nền kinh tế mới VN, Bác nói: “Một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật
tiên tiến”, có năng suất cao để không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; khắc phục nghèo nàn, lạc hậu của SX nhỏ, hậu
quả của chiến tranh.
- Về những nội dung chủ yếu của CNH xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Người nhấn mạnh đến vai trò và sự cần thiết
phát triển CN nặng, CN nhẹ, CN địa phương và tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và đẩy mạnh CNH
nông nghiệp, nông thôn.
- Về mối quan hệ giữa CNH và cách mạng khoa học kỹ thuật, Người luôn nhắc nhở mọi người phải cố gắng học
tập KH - KT bên cạnh việc học tập chính trị, văn hóa, cải tiến kỹ thuật, phát huy sáng kiến phục vụ SX và chiến đấu. Tại

Đại hội đại biểu lần thứ nhất, của Hội phổ biến KHKT Việt Nam, Người nhấn: “Chúng ta đều biết rằng trình độ khoa học
kỹ thuật của ta hiện nay còn thấp kém. Lề lối SX còn chưa cải tiến được nhiều. Cách thức làm việc còn nặng nhọc. Năng
suất lao động còn thấp kém. Phong tục tập quán lạc hậu còn nhiều. Nhiệm vụ của khoa học kỹ thuật là ra sức cải tiến những
cái đó. Khoa học là tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột và đấu tranh giữa con
người với thiên nhiên… khoa học phải từ SX mà ra và phải trở lại phục vụ SX, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng
suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm cho CNXH thắng lợi. Như vậy nhiệm vụ của khoa học
kỹ thuật cực kỳ quan trọng, cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham gia công tác khoa học, kỹ thuật”; “ Chủ nghĩa xã
hội cộng với khoa học, chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận ”. Nghĩa là hạnh phúc vô tận chỉ có thể đến với
nhân loại khi khoa học thuộc về cái thiện, không nằm trong tay kẻ xấu.
b. Quan điểm HCM về tính tất yếu của công nghiệp hóa XHCN nền kinh tế quốc dân ở nước ta
Trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về CNH, Trong thời gian đi tìm đường cứu nước, HCM đã từng chứng
kiến CNH tư bản chủ nghĩa ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa và CNH xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, HCM đã vận dụng, phát
triển lý luận CNH xã hội chủ nghĩa ở nước ta trên nhiều nội dung.
Trên cơ sở xác định: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội”, HCM khẳng định rằng: muốn xây dựng CNXH tất yếu phải CNH. Người viết: “Hiện nay, chúng ta lấy SX
nông nghiệp làm chính. Vì muốn mở mang công nghiệp thì phải có đủ lương thực, nguyên liệu. Nhưng công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thực sự cho nhân dân ta”.
Để làm rõ hơn vấn đề này, Người đã lý giải như sau:
Một là, “Nước ta vốn là nước nông nghiệp lạc hậu. Đó là chỗ bắt đầu đi của chúng ta.
Hai là, đời sống của nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất thuật rộng rãi.
Ba là, công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế… Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát
triển… Như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích”.
* Nội dung công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Phát triển công nghiệp nặng
Bác nhấn vai trò của công nghiệp nặng: “Để xây dựng thắng lợi CNXH, chúng ta phải quyết tâm phát triển tốt
công nghiệp nặng”. “Muốn bảo đảm đời sống sung sướng mãi mãi, phải công nghiệp hóa XHCN, phải xây dựng công


ngiệp nặng”; “Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu… Đó là
con đường phải đi của chúng ta, con đường công nghiệp hóa nước nhà”. “Công nghiệp nặng làm cho nền kinh tế độc lập”.

- Phát triển công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
Tại hội nghị ngành công nghiệp nhẹ ngày 16/1/1965, HCM nhấn mạnh vai trò của công nghiệp nhẹ: “Mọi chính
sách của Đảng và Chính phủ ta đều nhằm xây dựng CNXH và không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Ngành công nghiệp nhẹ quan hệ rất khăng khít với đời sống thường ngày của nhân dân. Vì vậy, nhiệm vụ của công
nghiệp nhẹ là rất quan trọng”. Trong thư gửi Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An 21/7/1969, Người căn dặn: “Công
nghiệp và thủ công nghiệp phải sản xuất nhiều công cụ làm đất, tưới tát, vận chuyển…v.v, phải cung cấp nhiều hàng tiêu
dùng tốt và rẻ cho nhân dân”.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
Xuất phát từ đặc điểm kinh tế đất nước, ngay từ đầu HCM đã xác định xây dựng một cơ cấu kinh tế công - nông
nghiệp hiện đại và đưa ra quan niệm độc đáo về vai trò của cơ cấu kinh tế công nông nghiệp và vai trò của thương nghiệp
trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa 1, Người đã
phác thảo mô hình kinh tế trong TKQĐ lên CNXH: “Nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa
học và kỹ thuật tiên tiến”
- Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.
HCM rất chú ý đến công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, nhất là vấn đề sử dụng máy móc trong nông nghiệp.
Với đặc điểm nước ta, việc cơ giới hóa trong nông nghiệp là cần thiết, nhưng phải chú ý những khó khăn, phức tạp không
thể nóng vội: “Muốn cơ giới hóa nông nghiệp cũng còn mất hàng 15, 20 năm chứ không làm ngay một lúc được”.
HCM đề cao vai trò của nông dân đối với phát triển KT-XH nước ta trong thời kỳ quá độ: “VN là một nước sống về
nông nghiệp. Nền kinh tế nước ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào
nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịch thì nước ta
thịnh”.,
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông thôn, HCM đặc biệt quan tâm đến phát triển nông
nghiệp. Người nói: “Người thì có hai chân. Kinh tế một nước thì có hai bộ phận chính: nông nghiệp và công nghiệp. Người
không thể thiếu một chân, thì nước không thể thiếu một bộ phận kinh tế”. Bác còn nhấn mạnh: “Nông nghiệp không phát
triển thì công nghiệp cũng không phát triển được”.
- Quan điểm HCM về phát triển toàn diện nông nghiệp, nông thôn
Để phát huy vai trò của nông nghiệp, HCM chỉ ra rằng phải phát triển một nền nông nghiệp toàn diện (Có ngành
trồng trọt phát triển toàn diện; Có ngành chăn nuôi phát triển toàn diện; Có ngành lâm nghiệp phát triển toàn diện; Có
ngành ngư nghiệp phát triển toàn diện; Có các ngành nghề phụ phát triển).
Để phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, HCM cũng chỉ ra phải quan tâm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã

hội nông thôn, trong đó đặc biệt là hệ thống thủy lợi, giao thông, giáo dục, y tế và xây dựng nhà ở cho người dân.
- Quan điểm HCM về chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn
HCM chỉ ra rằng, nhà nước phải có chính sách giá cả đúng đắn. Người nêu phương châm định giá: “Giá cả quy định là phải
chăng, vừa lợi cho nhân dân, vừa lợi cho Chính phủ”; “Mua bán phải theo giá cả thích đáng… Giá cả phải bảo đảm cho Nhà nước,
hợp tác xã và xã viên cùng có lợi để xây dựng nước nhà”
Cùng với chính sách giá cả, HCM cũng chỉ ra phải có chính sách thuế nông nghiệp phù hợp để khuyến khích sản
xuất, khuyến khích tăng năng suất lao động. Người nói: “Thuế phải khuyến khích sản xuất. Cho nên Nhà nước chỉ thu thuế
những cây trồng chính. Trồng xen kẽ được miễn thuế. Tăng vụ chưa quá ba năm, vỡ hoang chưa quá năm năm, đều chưa
phải nộp thuế”.
Ngoài ra, theo HCM, Nhà nước cần quan tâm thực hiện một số chính sách giúp đỡ, hỗ trợ khác đối với nông dân
như: hỗ trợ về vốn, giáo dục đào tạo, khoa học - kỹ thuật, thị trường v.v..
- Thực hiện một cuộc cách mạng kỹ thuật.
Để phát triển nền tảng cơ sở VCKT cho CNXH, người rất coi trọng nghiên cứu, ứng dụng, phổ biến KHKT vào
SX, coi trọng việc nâng cao trình độ văn hóa cho người lao động, coi trọng lao động trí óc: “Lao động trí óc có quý không?
Quý. Người LĐ trí óc mà không liên hệ với lao động chân tay thì mới chỉ là lao động trí thức một nửa. Còn người LĐ chân
tay mà văn hóa kém, không biết lao động trí óc thì cũng là người không hoàn toàn, cũng chỉ được một nửa”. Người căn dặn
cán bộ KHKT: “Phải ra sức đem hiểu biết khoa học, kỹ thuật của mình đem phổ biến rộng rãi trong nhân dân lao động, để
nhân dân đẩy mạnh thi đua SX nhiều, nhanh, tốt, rẻ”.
* Về các bước tiến hành CNH.
tại Hội nghị BCT về phương hướng khôi phục và phát triển KT sau hòa bình, có ý kiến muốn tập trung vào xây
dựng và phát triển CN nặng, ý kiến của HCM như sau: “Mấy năm kháng chiến ta chỉ có nông thôn, bây giờ mới có thành
thị… Nếu muốn công nghiệp hóa gấp thì là chủ quan… Cho nên, trong kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp. Làm trái với
Liên Xô cũng là mácxít. Trung quốc phát triển cả CN nặng, CN nhẹ, đồng thời phát triển cả nông nghiệp. Ta cho nông
nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng”. Như vậy thứ
tự ưu tiên CNH ở nước ta là:
+ Nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên.
+ Rồi đến thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ.
+ Sau cùng mới đến công nghiệp nặng.
“Phải có một nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới phát triển mạnh”. “Muốn phát triển công nghiệp, phát
triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính. Nếu không phát triển nông nghiệp thì

không có cơ sở để phát triển CN vì nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công nghiệp và tiêu thụ hàng hóa
của CN làm ra”. “Phát triển nông nghiệp là cực kỳ quan trọng”.
Một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH, cách mạng KHKT phải được triển khai lâu dài, Người gọi là: “Con
đường muôn dặm của cách mạng kỹ thuật”.


- Về quan điểm CNH
+ CNH là sự nghiệp của toàn dân “Đó là công tác chung của tất cả mọi người”.
+ Công nghiệp hóa và nông nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau “Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát
triển - hai chân của nền kinh tế”.
* Quan niệm của HCM về con người và nhân tố con người trong phát triển kinh tế.
- Quan niệm của HCM về con người.
Với HCM, chữ “Người” vừa là một con người cá thể, vừa là một cộng đồng gia đình, giai cấp, XH, loài người nói
chung.
+ HCM coi nhân tố con người là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của mọi công việc. Trong TP “Sửa đổi
lối làm việc”, viết 1947 “Cán bộ tốt việc gì cũng song”; “cán bộ là gốc của mọi công việc”; “Vấn đề cán bộ quyết định mọi
việc”.
Nói chuyện với Lớp bồi dưỡng lãnh đạo cấp huyện ngày 18/1/1967:
“Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng song”.
+ Nhân tố con người không chỉ là vai trò tích cực, chủ động sáng tạo của mỗi cá nhân, cá thể mà còn là vai trò của
giai cấp, các tầng lớp người XH.
+ Đặc biệt đề cao vai trò của phẩm chất chính trị tinh thần, coi như điều kiện tiên quyết, được ưu tiên hơn so với các đặc
trưng cấu thành nhân cách con người.
* Biện pháp phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế.
- Xây dựng con người mới XHCN, với tiêu chí:
+ Có ý thức làm chủ Nhà nước, tinh thần tập thể XHCN và tư tưởng “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
+ Có quan điểm “Tất cả phục vụ sản xuất”.
+ Có ý thức cần kiệm xây dựng đất nước.
+ có tinh thần và ý chí “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”.

- Đẩy mạnh việc đào tạo, huấn luyện cán bộ và người lao động.
- Xây dựng tổ chức đảng và chính quyền trong sạch vững mạnh.
- Tổ chức các phong trào thi đua.
- Làm tốt công tác dân vận.
* Vận dụng của Đảng ta.
- Từ Đại hội Đảng lần thứ III, Đảng ta luôn coi công nghiệp hóa (CNH) là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá
độ tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đảng ta xác định thực chất của CNH xã hội chủ nghĩa là ''Quyết tâm thực hiện cách
mạng kỹ thuật, thực hiện phân công mới về lao động xã hội là quá trình tích lũy xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện
tái sản xuất mở rộng''. Quan điểm này tiếp tục được các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo củng cố và mở rộng.
- Tại Hội nghị lần thứ 7 BCHTW khóa VII, Đảng ta đã đưa ra quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nh ư
sau: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế - xă hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với
công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công
nghệ, tạo ra năng suất lao động xă hội cao”.
- Mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ. Trước mắt, từ nay đến 2020 đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, lần đầu tiên Đảng ta đã ghi vào văn kiện luận điểm quan trọng về phát
triển kinh tế tri thức (KTTT) với tư cách là một yếu tố mới cấu thành đường lối CNH,HĐH đất nước. Đến Đại hội XI,
Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển KTTT...” 1. Điều đó thể hiện sự nhất quán,
tầm nhìn xa và tính nhạy bén của Đảng ta về vấn đề này.
- Đại hội XI nêu phương hướng: “Đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển KTTT, bảo vệ tài nguyên,
môi trường”.
 Thể hiện sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo TT HCM về phát triển LLSX của Đảng ta.
* Giải pháp:
Một là, phải có sự ổn định về chính trị xã hội.
Hai là, tạo nguồn vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ba là, đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bốn là, xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ theo yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Năm là, điều tra cơ bản, nắm vững tài nguyên và tình hình kinh tế - xã hội.
Sáu là, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Bảy là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước


C4: Quan điểm HCM về quản lý kinh tế và sử dụng công cụ quản lý kinh tế trong thời kỳ quá độ?
Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CNMLN vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và qu báu của
Đảng và dân tộc ta, mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
1. Về cơ cấu kinh tế trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta
- Về cơ cấu của nền kinh tế quốc dân.
+ Xuất phát từ đặc điểm đất nước, ngay từ đầu, HCM đã xác định cơ cấu kinh tế nước ta là: cơ cấu công - nông
nghiệp hiện đại và đưa ra quan niệm độc đáo về cơ cấu công - nông nghiệp và vai trò của thương nghiệp trong phát triển
KT - XH ở TKQĐ.
Công nông nghiệp là hai ngành SX ra những SP đáp ứng những nhu cầu khác nhau của nền kinh tế và XH.
Hai ngành không tách rời nhau mà có mối quan hệ hữu cơ với nhau:
“Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế… Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát
triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều
thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích”.
Sau hòa bình lập lại, có ý kiến muốn tập trung lực lượng vào XD, phát triển CN nặng để nhanh chóng đưa nền
kinh tế tiến lên, HCM cho rằng: “Mấy năm kháng chiến ta chỉ có nông thôn, bây giờ mới có thành thị, nếu muốn CNH gấp
thì chủ quan…, cho nên trong kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp… Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến
thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng”.
+ Nhiệm vụ quan trọng trong suốt TKQĐ lên CNXH là CNH để biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu
thành một nước công nghiệp: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội”.
+ Sự tồn tại và khả năng tương tác giữa công nghiệp và nông nghiệp được thực hiện qua một mắt khâu trung gian
là thương nghiệp. Vì vậy, việc cải tạo và xây dựng nông nghiệp, công nghiệp không thể tách rời cải tạo và xây dựng ngành
thương nghiệp. Vì: “Trong nền kinh tế quốc dân có 3 mặt quan trọng nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt

công tác quan hệ mật thiết với nhau. Thương nghiệp là khâu giữa nông nghiệp và công nghiệp”.
- Về cơ cấu thành phần của nền kinh tế.
+ HCM là người đầu tiên chủ trương phát triển nền kinh tế với CCNTP trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta.
Về lý luận, Người kế thừa trực tiếp các luận điểm của Lênin về nền kinh tế nhiều thành phần trong NEP. Cách sắp
xếp thứ tự các TPKT của Lênin là làm rõ sự vận động của các chế độ sở hữu trong lịch sử theo hướng từ thấp đến cao, đồng
thời chỉ ra tính chất tiệm cận và mức độ gần gũi của các TPKT khác nhau với TPKT xã hội chủ nghĩa (Kinh tế nông dân gia
trưởng, có tính chất tự nhiên; SX hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước; CNXH).
Theo HCM, dưới chế độ dân chủ mới: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau: Kinh tế quốc
doanh (thuộc CNXH…); Các HTX (nó là nửa CNXH…); Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; Tư bản của tư
nhân; Tư bản nhà nước”.
Cách sắp xếp TPKT của HCM bề ngoài ngược với cách xếp của Lênin nhưng không tạo nên sự đối lập mà là sự
bổ sung hợp lý. HCM căn cứ vào vai trò thực tế của từng TPKT trong đời sống KTXH Việt Nam. Theo tiêu trí này, TPKT
XHCN ở vị trí cao nhất, bởi nó là nền tảng kinh tế của chế độ mới, là chỗ dựa của Nhà nước.
+ HCM cũng là người Việt Nam đầu tiên dành sự quan tâm đặc biệt đến sự phát triển kinh tế hợp tác. Trong tác
phẩm “Đường cách mệnh” HCM đã dành hẳn một chương viết về HTX.
+ Ngoài TPKT xã hội chủ nghĩa, HCM còn thừa nhận sự tồn tại khách quan, tất yếu, lâu dài của các TPKT khác
(Như đã trình bầy ở trên).
2. Về cơ chế quản lý kinh tế.
* Hệ thống bộ máy quản lý kinh tế quốc dân.
- Nhà nước:
+ Theo HCM hạnh phúc của ND từng bước được nhân lên, trước hết do thành quả lao động của chính họ; song để
đem lại hạnh phúc thực sự, lâu bền và toàn diện cho toàn XH thì vai trò của Nhà nước hết sức to lớn, có ý nghĩa quyết định,
vì nhà nước là của dân, do dân và vì dân.
+ Vai trò thể hiện ở chính sách cụ thể phát triển KT-XH trong từng giai đoạn, thời kỳ, theo mục tiêu chiến lược…
+ Thể hiện ở hệ thống pháp luật đầy đủ, toàn diện, chặt chẽ, bảo đảm cho mọi người trong xã hội thực hiện tốt
nghĩa vụ công dân, được hưởng những quyền lợi chung.
- Người lao động
Đặc điểm cơ bản trong tư duy quản lý kinh tế của HCM là tất cả mọi thao tác đều quy về nhân tố người lao động.
Tổ chức SX và QLKT cũng xuất phát từ nhân tố con người và nhằm mục đích phục vụ con người. Sử dụng đúng người,
đúng việc như dụng mộc. Sử dụng không đúng người đúng việc thì không có điều kiện để tăng năng suất LĐ, nâng cao chất

lượng. Tổ chức lao động hợp lý là vì việc xếp người, không vì người mà đặt việc.
+ Quản lý kinh tế, trước hết là phải quản lý người lao động. Quản lý chặt chẽ phải đi đôi với giáo dục; giáo dục hệ thống
luật, giáo dục tính tự giác cho người lao động “Ở xí nghiệp phải biết quản lý; có quản lý mới biết thu vào, tiêu ra, mới biết lỗ lãi,
mới biết ai làm tốt, ai làm xấu, ai làm vượt mức, ai không vượt múc, muốn làm được như thế phải biết quản lý”.


+ Muốn quản lý tốt phải có người quản lý giỏi, nhưng trước hết người quản lý phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, làm đến
nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn. HCM yêu cầu “Cán bộ tham gia lao động, công nhân tham gia quản lý”.
+ Tham gia quản lý, người lao động thực sự thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi công dân của mình; có điều kiện phát hiện
những hợp lý hay chưa hợp lý để đề xuất với người quản lý cách thức phát huy hoặc biện pháp khắc phục, giúp người QL điều
chỉnh phương pháp, biện pháp kịp thời, làm tốt nhiệm vụ quản lý.
+ HCM cho rằng công tác cải tiến quản lý, công tác cải tiến kỹ thuật và cải tiến tổ chức như kiềng ba chân. Ba cái
chân phải bằng nhau thì kiềng mới đứng vững được. Muốn làm tốt cả 3 việc phải thực hiện dân chủ; dân chủ là động lực
phát triển, mất dân chủ là mất đi thái độ thực sự cầu thị, lắng nghe ý kiến thẳng thắn, làm mất đi sự bàn bạc để đi tới khẳng
định sáng kiến, có khả năng thực hiện để đem lại nhiều lợi ích cho tập thể. Cái yếu kém nhất và cũng là cái xấu nhất của
người quản lý là bóc nghẹt dân chủ. Bác nhắc nhở: “Phải tìm cách tổ chức sắp đặt cho hợp lý, để 1 người có thể làm việc
như 2 người, 1 ngày có thể làm việc của 2 ngày, 1 đồng có thể dùng bằng 2 đồng”.
* Hệ thống các mục tiêu phát triển kinh tế và quản lý kinh tế.
- Về mục tiêu phát triển kinh tế
Năm 1945, HCM khẳng định: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập tự do rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do,
độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”, “Tất cả đường
lối, phương châm, chính sách… của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống nhân dân”.
Sau này khi bàn về CNXH, Bác cho rằng: “Làm cho dân giàu, nước mạnh” vì vậy, phải đẩy mạnh SX, phát triển
KT nhằm “Làm cho người nghèo thì đủ ăn; Người đủ ăn thì khá giàu; Người khá giàu thì giàu thêm”.
- Về mục tiêu quản lý.
Đây là lĩnh vực được HCM đặc biệt quan tâm và coi đó là “Cái chìa khóa” để phát triển kinh tế quốc dân. Muốn
phát triển LLSX, tăng W thì phải quản lý tốt. Quan điểm cơ bản của HCM về QLKT là quan điểm hạch toán, làm ăn phải
có HQKT: “Quản lý một nước cũng như quản lý một doanh nghiệp: phải có lãi. Cái gì ra, cái gì vào, việc gì phải làm ngay,
việc gì chờ, hoãn, món gì đáng tiền, người nào đáng dùng, tất cả mọi thứ đều phải tính toán cẩn thận. Về mặt này thì chúng
ta thiếu sót nhiều”.

- Công tác kế hoạch hóa.
Trước lúc đi xa, Người căn dặn Đảng ta: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa,
nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân”. Công tác KHH là một trong những phương thức tác động quan trọng đến
đối tượng quản lý.
Kế hoạch phải nhìn xa, thấy rộng: “Khi kế hoạch phải nhìn xa. Có nhìn xa mới quyết định đúng đắn thời kỳ nào phải làm
công việc gì là chính. Phải thấy rộng. Có thấy rộng mới sắp đặt các ngành hoạt động một cách cân đối. Khi đi vào thực hiện thì mỗi
ngành, mỗi nghề phải rất tỷ mỷ, chu đáo, thật sát với mỗi cơ sở. Đó là “một bộ ba” để hoàn thành tốt kế hoạch”.
Phải đảm bảo vấn đề dân chủ trong việc làm kế hoạch, phải từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên. “Phải thiết
thực, phải làm được. Chớ làm kế hoạch đẹp mắt, to tát, kể hàng triệu nhưng không thực hiện được”.
Có chỉ tiêu kế hoạch, biện pháp rồi, “Phải có tinh thần cố gắng rất cao để thực hiện bằng được kế hoạch đã đề ra.
Chỉ tiêu kế hoạch một phần, biện pháp phải hai phần, cố gắng phải ba phần”.
* Các công cụ quản lý kinh tế cụ thể.
Để kích thích SX phát triển, HCM đã sớm nhận thấy phải biết tác động vào nhu cầu và lợi ích thiết thân của người
lao động. Có cơ chế, chính sách phải làm sao kết hợp được lợi ích của nhà nước, của tập thể và của cá nhân người lao động.
Ngoài ra phải sử dụng các công cụ đòn bẩy trong quản lý kinh tế.
- Công cụ tiền lương: “Bây giờ anh em mong được lên lương có chính đáng không? Có. Nhưng lương tăng gấp
đôi mà hàng đắt, vẫn không ăn thua gì… Tiền và hàng phải đi đôi với nhau”.
- Công cụ khoán sản phẩm: Người đã đề cập đến vấn đề khoán trong nông nghiệp và trong công nghiệp. Khoán
sản phẩm là một công cụ quản lý có tính đòn bẩy đem lại lợi ích cho tập thể và người lao động. Là đòn bẩy kinh tế vì khoán
có tác dụng khuyến khích tăng WLĐ, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế. “Chế độ khoán là một điều kiện của CNXH,
nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng. Công
nhân SX ra nhiều vải, cố gắng nhiều, hưởng nhiều; làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay. Nếu
người công nhân nào thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu kỷ luật lao động thì làm cho mau nhưng không tốt, như vậy là
không đúng và làm khoán phải nâng cao số lượng nhưng luôn luôn phải giữ chất lượng”.
- Thực hành tiết kiệm: Bác mong mọi người hiểu nội dung, ý nghĩa sâu sắc của tiết kiệm. Tiết kiệm là để tích lũy
vốn, “Nó giúp chúng ta dành dụm từng đồng thành những số vốn lớn… Như vậy mới dồn được phần lớn vốn của nhà nước
vào việc CNH xã hội chủ nghĩa”.
Để thực hành tiết kiệm cũng như “xây” phải đi liền với “chống” lãng phí, xa hoa. Bác kêu gọi thực hành tiết kiệm
đi đôi với chống xa hoa lãng phí:
“Trăm năm trong cõi người ta,

Cần kiệm xây dựng nước nhà mới ngoan,
Mừng xuân, xuân cả thế gian,
Phải đâu lãng phí cỗ bàn mới xuân”.
Để thực hành tiết kiệm, ngăn chặn sự lãng phí, phải có biện pháp quản lý một cách hiệu quả. Theo Bác, tăng
cường quản lý ngân sách nhà nước là biện pháp quan trọng hàng đầu. “Đúng, chế độ chi tiêu của Nhà nước là một sự “ràng
buộc”, nhưng đó là một sự ràng buộc rất cần thiết và rất hay. Nó ràng buộc những kẻ lãng phí, những người thích phô
trương. Nó ràng buộc cả những người chỉ biết việc trước mắt mà không thấy việc lâu dài, chỉ biết việc của bộ phận mình
mà không thấy việc chung của cả nước. Nhưng chính nhờ đó mà nó lại chặt xiềng, chắp cánh cho kinh tế nước ta tiến lên
như ngựa thần trên con đường XHCN. Nó giúp chúng ta dành dụm từng đồng xu thành những số vốn lớn. Nó vít kín các lỗ
thủng, các khe hở, không để của cải dành dụm của chúng ta bị hao hụt, phân tán”.


Một cách thức khác nhằm thực hành tiết kiệm là mở rộng đầu tư. Đó là việc khuyến khích các tầng lớp
nhân dân gửi tiền tiết kiệm. Huy động vốn nhàn rỗi trong dân nhằm đưa vào SX, thì đồng vốn ấy mới sinh sôi nảy
nở càng thêm nhiều.
- Cải cách hành chính: cũng là một công cụ đòn bẩy quan trọng trong quản lý kinh tế. Bộ máy hành chính phình ra
bao nhiêu thì trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà nước bấy nhiêu. Lượng tiền bỏ ra chi trả lương cho khối hành chính
càng lớn, thì lượng tiền đưa vào SX càng hạn chế. Đó là chưa kể sự thất thoát đồng tiền qua việc mua sắm những thứ đắt
tiền không cần thiết, như xây dựng trụ sở làm việc quá lớn…
Về quản lý sản xuất, theo HCM phải toàn diện, theo phương châm “nhanh, nhiều, tốt rẻ”
Người viết “Nhiều, nhanh, tốt, rẻ là phương châm của chúng ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
C5: Quan điểm HCM về xây dựng QHSX trong thời kỳ quá độ? Nhận thức và vận dụng của Đảng ta?
1. Tư tưởng HCM về sở hữu
Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CNMLN vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và qu báu của
Đảng và dân tộc ta, mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
* Quan niệm của HCM về vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất.
Tư tưởng này được thể hiện chủ yếu qua ba tác phẩm: Đường cách mệnh, viết năm 1927; Thường thức chính trị, viết
năm 1953; Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi, tại kỳ họp thứ 1, Quốc hội khóa I, nước VN dân chủ cộng hòa. Thể hiện

trên các nội dung:
- Thứ nhất, HCM cho rằng: “Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản,
đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - nói chung thì loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy”. Sự phát triển tất yếu
đó là do quá trình sản xuất vật chất con người đã làm cho LLSX biến đổi không ngừng và do đó QHSX cũng không ngừng
biến đổi để phù hợp với tính chất và trình độ LLSX, Bác viết: “Lịch sử loài người là do người lao động sáng tạo ra. Người
lao động sáng tạo ra của cải, luôn luôn nâng cao sức sản xuất. Sản xuất phát triển tức là xã hội phát triển. Chế độ nào hợp
với sức sản xuất thì đứng vững. Nếu không hợp thì giai cấp đại biểu của sức sản xuất mới sẽ nổi lên cách mạng lật đổ chế
độ cũ”.
- Thứ hai, sở hữu là một mặt của QHSX. Nó phản ánh mối quan hệ giữa các tầng lớp, các giai cấp trong XH đối với
vấn đề chiếm hữu những TLSX. Khi xuất hiện chế độ tư hữu thì xã hội cũng phân thành giai cấp.
“Tất cả của cải vật chất trong XH, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông
dân, xã hội mới sống còn và phát triển. Song những người lao động thì suốt đời nghèo khó, mà có một số người không lao
động thì lại “ngồi mát ăn bát vàng”. Vì đâu có nỗi chẳng công bằng này? Vì số ít người đã chiếm làm tư hữu những tư liệu
sản xuất của xã hội”.
- Thứ ba, với tư cách là một mặt và là mặt quan trọng nhất của QHSX, quan hệ sở hữu chi phối hoàn toàn quan hệ
quản lý và quan hệ phân phối.
Trong XH phong kiến, HCM chỉ ra: “Địa chủ chiếm tư liệu sản xuất, tức là ruộng đất, nông cụ, vân vân, làm của
riêng nhưng họ không cầy cấy. Nông dân buộc phải mướn ruộng đất của địa chủ, phải nộp tô cho địa chủ, lại còn phải hầu
hạ và lễ lạt địa chủ, nông dân không khác gì nô lệ”.
- Thứ tư, muốn kinh tế phát triển thì QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. “Lao động tập thể, thì
các tư liệu sản xuất và những thứ sản xuất ra, phải là của chung mới đúng”.
Dưới chế độ PK và chế độ TBCN, lao động đã là tập thể (đã xã hội hóa), nhưng TLSX lại do những địa chủ và nhà
tư bản chiếm giữ. Đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng kinh tế lậc hậu, dẫn đến mâu thuẫn và bất công xã hội. Đó cũng là
nguyên nhân dẫn đến cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội là nhằm thiết lập một QHSX phù hợp với LLSX đã xã hội hóa.
* Tư tưởng HCM về các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất ở Việt Nam.
- Trong thời đại mới ngày nay, đi lên CNXH là sự phát triển tất yếu, nhưng đối với các nước chậm phát triển như
VN, HCM cho rằng:“Phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên CNXH”.
- Về kinh tế, đó là sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu trên thực tế. Theo HCM:
“Trong nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau:
- Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.

- Sở hữu của HTX tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
- Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
- Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”.
- Mục đích của nước ta là đi lên CNXH. Nền kinh tế của CNXH dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Với chế độ sở hữu, Người chỉ rõ: “Mục đích của chế độ ta là xóa bỏ hình thức sở hữu không XHCN làm cho nền kinh tế
gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể”.
- Để đạt mục đích trên, Nhà nước phải có cách xử lý khác nhau đối với các hình thức sở hữu hiện thời. Cụ thể:
“Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, nó lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và Nhà nước phải đảm bảo cho nó
phát triển, ưu tiên kinh tế HTX là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng
dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển”.
“Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về TLSX của họ, ra
sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tạo cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.
Đối với những nhà tư sản công thương, nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về TLSX và của cải khác của họ; mà
ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời
Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo CNXH bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo
khác”.


2. Tư tưởng HCM về các thành phần kinh tế
Tư tưởng HCM về các TPKT chủ yếu nằm trong 3 tác phẩm như đã đề cập ở sở hữu TLSX, ngoài ra còn được đề
cập trong báo cáo của Người trước Quốc hội nước VN dân chủ cộng hòa Khóa I, Khóa II, trong các kỳ Đại hội II, III, của
Đảng.
* Về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta (trong vùng tự do).
Trong nền kinh tế còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu tất yếu còn tồn tại nhiều TPKT. Mặt khác, nước ta bước vào
thời kỳ dân chủ mới (Thời kỳ chuyển tiếp từ chế độ thực dân lên CNXH) nên tất yếu còn tồn tại những TPKT của chế độ cũ
mà chúng ta chưa cải tạo được và những TPKT mới được xây dựng.
HCM khẳng định: “Hiện nay kinh tế nước ta có những TPKT như sau:
- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô.
- Kinh tế quốc doanh có tính chất chủ nghĩa xã hội.
Vì tài sản các xí nghiệp ấy là của chung của nhân dân, của Nhà nước, chứ không phải của riêng. Trong các xí ngiệp

quốc doanh thì xưởng trưởng, công trình sư và công nhân đều có quyền tham gia quản lý, đều là chủ nhân. Việc sản xuất thì
do sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ nhân dân.
- Các HTX tiêu thụ và HTX cung cấp, có tính chất nửa CNXH. Nhân dân góp nhau để mua những thứ mình cần
dùng, hoặc để bán những thứ mình sản xuất không phải kinh qua các người con buôn, không bị họ bóc lột.
Các hội đổi công ở nông thôn, cũng là một loại HTX.
- Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ, họ thường tự túc ít có gì bán và cũng ít khi mua gì. Đó là một
thứ kinh tế lạc hậu.
- kinh tế tư bản tư nhân. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh tế.
- Kinh tế tư bản quốc gia là nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do Nhà nước lãnh đạo. Trong loại này,
tư bản của tư nhân là CNTB. Tư bản của Nhà nước là CNXH”.
* Về chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các TPKT trong thời kỳ dân chủ mới.
- Đối với kinh tế địa chủ phong kiến và tư sản mại bản.
Bản chất của giai cấp địa chủ PK và tư sản mại bản là bóc lột và phản động. Do đó thái độ rứt khoát của Đảng và
Nhà nước ta là phải kiên quyết từng bước xóa bỏ TPKT này thông qua con đường cải tạo QHSX và cải cách ruộng đất.
Trong Chính cương vắn tắt của Đảng do HCM biên soạn năm 1930 đã thể hiện rõ chủ trương này. Cụ thể:
“a, Thủ tiêu hết các thứ quốc trái.
b, Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp giao cho
Chính phủ công nông binh quản lý.
c, Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân nghèo…”.
Trong báo cáo trước Quốc hội nước VN dân chủ cộng hòa, khóa I, Kỳ họp thứ 3 ngày 1/12/1953, HCM đã trình bày
rõ các vấn đề về cải cách ruộng đất như sau:
“Ý nghĩa của cải cách ruộng đất là:
Cách mạng ta là cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân chống đế quốc xâm lược và chống phong kiến, chỗ dựa của
đế quốc…
Nông dân ta chiến 90% dân số mà chỉ chiếm được 3 phần 10 ruộng đất, mà quanh năm khó nhọc, suốt đời nghèo
nàn.
Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5% dân số, mà chúng và thực dân chiếm 7 phần 10 ruộng đất, ngồi mát, ăn
bát vàng. Tình trạng ấy thật là không công bằng…
Chỉ có thực hiện cải cách ruộng đất, người cầy có ruộng, giải phóng sức SX ở nông thôn khỏi ách trói buộc của giai
cấp địa chủ phong kiến, mới có thể chấm dứt tình trạng bần cùng và lạc hậu của nông dân, mới có thể phát động mạnh mẽ

lực lượng to lớn của nông dân để phát triển SX và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Mục đích của cải cách ruộng đất là: tiêu diệt chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, thực hiện người cầy có ruộng,
giải phóng sức SX ở nông thôn, phát triển SX đẩy mạnh kháng chiến.
Phương châm của cải cách ruộng đất là: Phóng tay phát động quần chúng nhân dân, dựa vào quần chúng, đi đúng
đường lối quần chúng, tổ chức giáo dục và lãnh đạo quần chúng nông dân đấu tranh một cách có kế hoạch, làm từng bước,
có trật tự, có lãnh đạo chặt chẽ.
Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông dân, một cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn, rất rộng lớn, gay go
và phức tạp, cho nên chuẩn bị phải thật đầy đủ, kế hoạch phải thật rõ ràng, lãnh đạo phải thật chặt chẽ, địa điểm phải định
cẩn thận, thời hạn phải nắm chắc chắn” và “phải kiên quyết làm cho việc cải cách ruộng đất thành công”.
Tuy nhiên trong gần 4 năm thực hiện với nhiều đợt cải cách, trong quá trình thực hiện nhiều địa phương có tư tưởng
nóng vội và thái độ quan liêu đã vấp phải những sai lầm, thậm chí sai lầm nghiêm trọng. Chính phủ và HCM đã đau sót
thừa nhận và đã phải tiến hành sửa sai.
Năm 1957, cải cách ruộng đất ở các vùng tự do cả nước cơ bản đã hoàn thành. Thành phần kinh tế phong kiến đã bị
xóa bỏ. Nền kinh tế dân chủ mới chỉ còn 5 TPKT:
“A, Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân).
B, Các HTX (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH).
C, Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào HTX, tức là nửa CNXH).
D, Tư bản của tư nhân.
E, Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
Trong 5 loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng
CNXH chứ không theo CNTB”.
- Chính sách đối với các TPKT trong chế độ dân chủ.
HCM khẳng định 4 chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ như sau:


“1. Công tư đều có lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho
nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công,
khai gian lậu thuế, thì phải trừng trị.
Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết
cho công cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo

của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.
2, Chủ thợ đều lợi. Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột nhưng Chính phủ ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay.
Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của công nhân. Đồng thời vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi
hợp lý, không yêu cầu quá mức.
Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia SX lợi cả đội bên.
3, Công nông giúp nhau. Công nhân ra sức SX nông cụ và các thứ cần dùng khác, để cung cấp cho nông dân. Nông
dân thì ra sức tăng gia SX để cung cấp lương thực và các thứ nguyên liệu cho công nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên
minh giữa công nông.
4, Lưu thông trong ngoài. Ta ra sức khai lâm thổ sản để bán cho các nước bạn và để mua những thứ ta cần dùng. Các
nước bạn mua các thứ ta đưa ra và bán cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là những chính sách mậu dịch, giúp
đỡ lẫn nhau rất có lợi cho kinh tế ta.
Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế nước ta”.
Một điều rất đặc biệt là trong các bài viết, bài nói, HCM chưa bao giờ đề cập đến TPKT có vốn đầu tư nước ngoài.
Nhưng tuyệt nhiên người không có thái độ đối lập, kỳ thị với những người nước ngoài đang làm ăn sinh sống tại VN. Trong
lời kêu gọi nhân ngày Thủ đô giải phóng 10/10/1954: “Nhân dịp này tôi có vài lời cùng các bạn ngoại kiều. Các bạn người
buôn bán, kinh doanh, tiểu thương, tiểu chủ, công nhân và trí thức, đã chung sống với nhân dân Việt Nam, các bạn đã khai
cơ lập nghiệp ở Việt Nam… Vì vậy, tôi khuyên các bạn: Các bạn cứ yên lòng làm ăn như thường. Nhân dân và Chính phủ
Việt Nam sẽ giúp đỡ và bảo hộ các bạn”. Đó là tư duy rất cởi mở và tiến bộ.
c, Phát triển kinh tế hợp tác xã - nội dung trọng tâm trong tư tưởng HCM về thành phần kinh tế
a, Thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám
HCM đã nhận định chắc chắn rằng: Cách mạng sẽ thành công và sau cách mạng thành công phải xây dựng đời sống
mới. Do đó một phần nội dung trong tác phẩm “Đường cách mệnh” đã được HCM trình bày một cách hệ thống, toàn diện
và chặt chẽ những vấn đề lý luận về HTX. Trong tác phẩm được chia thành nhiều phần nội dung: Tư cách một người cách
mệnh; Cách mệnh là gì?; Lịch sử cách mệnh mỹ; Cách mệnh Pháp; Lịch sử cách mệnh Nga; Quốc tế và các tổ chức quốc
tế; Cách tổ chức công hội; tổ chức dân cày; Hợp tác xã.
* Về mục đích của HTX
“Tuy cách làm thì có khác nhau ít nhiều, nhưng mục đích thì nước nào cũng như nhau. Mục đích ấy thì trong Tuyên
ngôn của HTX Anh đã nói: “Cốt làm cho những người vô sản giai cấp hóa ra anh em. Anh em thì phải làm giùm nhau, nhờ
lẫn nhau. Bỏ hết thói cạnh tranh”; “HTX trước là có ích lợi cho dân, sau là bớt sức bóp nặn của tụi tư bản và đế quốc chủ
nghĩa”.

* Về lý luận hình thành HTX
“Tục ngữ An Nam có những câu: “Nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó” và “Một cây làm chẳng nên non,
nhiều cây nhóm lại thành hòn núi cao”. Lý luận HTX ở trong những điều ấy”.
* Về các hình thức HTX
“HTX có bốn cách: 1. HTX tiền bạc; 2. HTX mua; 3. HTX bán; 4. HTX sinh sản”.
* Về cách thức tổ chức HTX
“Không phải làng nào cũng lập mỗi làng một HTX. Cũng không phải mỗi làng phải lập cả mấy HTX. Cũng không
phải có HTX này thì không lập được HTX kia. Chẳng qua theo hoàn cảnh nơi nào lập được HTX nào và có khi hai HTX mua và bán - lập chung cũng được… HTX chỉ có hội viên mới được hưởng lợi, chỉ có hội viên mới có quyền, nhưng những
việc kỹ thuật như tính toán, xem hàng hóa, cầm máy, v.v, thì có phép mướn người ngoài.
Đã vào hội thì bất kỳ góp nhiều góp ít, vào trước vào sau, ai cũng bình đẳng như nhau”.
b, Trong thời gian cải tạo và xây dựng CNXH ở miền Bắc
Sau khi hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế (1955 - 1957), miền Bắc bước vào thời kỳ cải tạo và xây dựng
CNXH, mặc dù bận rất nhiều công việc nhưng HCM luôn quan tâm đến việc xây dựng và củng cố HTX. Trên giường bệnh
Bác vẫn cố gắng viết lời giới thiệu Điều lệ tóm tắt HTX sản xuất nông nghiệp.
* Về đường lối xây dựng HTX
HCM đã chỉ rõ: “Muốn phát triển nông nghiệp thì trước hết phải xây dựng tốt phong trào đổi công ở khắp mọi nơi
và trên cơ sở đó sẽ xây dựng HTX nông nghiệp từ thấp đến cao” và “Đường lối cải tạo XHCN của Đảng đối với nông
nghiệp là đưa nông dân làm ăn riêng lẻ đi dần từ tổ đổi công (có mần mống XHCN), tiến lên HTX cấp thấp (nửa XHCN),
rồi tiến lên HTX cấp cao (XHCN)”.
* Về mục đích của việc tổ chức HTX
“Là cải thiện đời sống của nông dân, làm cho nông dân được lo ấm, mạnh khỏe, được học tập, làm cho dân giàu,
nước mạnh. Dân có giàu thì nước mới mạnh. Đó là mục địch riêng và mục đích chung của việc xây dựng HTX”.
* Về nguyên tắc tổ chức và quản lý HTX
- Việc xây dựng các tổ đổi công và HTX phải làm từ nhỏ đến lớn và “phải theo nguyên tắc tự nguyện, tự giác, không
gò ép”.
- Việc quản lý phải dân chủ, tránh quan liêu mệnh lệnh.
- Việc phân phối “phải chú ý phân phối cho công bằng” và “Phải làm thế nào cho xã viên trong HTX thu nhập nhiều
hơn thu nhập của nông dân trong tổ đổi công và tổ viên trong tổ đổi công thu nhập cao hơn thu nhập của nông dân còn làm
ăn riêng lẻ”.
* Về nhiệm vụ của HTX



“Để tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, các HTX cần phải làm đúng 9 điều sau đây:
1. Mọi người phải nâng cao tinh thần đoàn kết, tinh thần làm chủ, thực hiện cần kiệm xây dựng HTX, chống lãng
phí, tham ô.
2. Sản xuất phải toàn diện, sản xuất thóc là chính, đồng thời phải rất coi trọng hoa màu, cây ăn quả, cây nông
nghiệp, chăn nuôi, thả cá và nghề phụ, phải coi trọng tăng vụ, vỡ hoang và tăng năng suất.
3. Phát triển SX chung của HTX là chính, nhưng cần chiếu cố đúng mức SX gia đình của xã viên.
4. Về quy mô HTX chỉ nên có từ 150 hộ đến 200 hộ, không nên quá nhiều, quá nhiều thì khó quản lý.
5. HTX bậc cao thì SX và thu nhập cũng phải cao mới xứng danh cao của nó.
7. Quản trị phải dân chủ, công bằng, minh bạch.
8. Cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên lao động và dân quân tự vệ cần phải xung phong gương mẫu trong mọi
công việc.
9. Phải chú ý phát triển công nghiệp địa phương nhằm phục vụ cho nông nghiệp”.
* Nhà nước đối với HTX
“Chính phủ phải cố gắng phục vụ lợi ích của HTX của nông dân và nhân dân nói chung. HTX nông dân phải bảo
đảm làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Làm như vậy thì ích nước lợi nhà, xã viên có lợi, HTX có lợi”.
* Sự lãnh đạo của Đảng đối với HTX
“Ngày nay Đảng lãnh đạo nông dân xây dựng HTX. Phong trào hợp tác hóa phát triển mạnh mẽ, mở đường cho
nông dân tiến tới no ấm. Đảng lại đề ra kế hoạch 5 năm phát triển nông nghiệp… Để hoàn thành kế hoạch đó, Đảng phải
tăng cường sự lãnh đạo của mình… cái gốc trong việc lãnh đạo HTX vẫn là chi bộ đảng ở cơ sở”.
* Vận dụng của Đảng
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận
hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những
động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và
đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ,
các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính

định hướng xã hội chủ nghĩa. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền
quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát
triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân
phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân
phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.



×