Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Đề cương Ôn thi Tư tưởng Hồ Chí Minh Trung cấp lý luận chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.42 KB, 25 trang )

MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CHỦ ĐỀ 1: NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. KN: Tư tưởng HCM
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, là tài sản tinh thần
vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”
KN về tư tưởng Hồ Chí Minh như trên thể hiện bốn nội dung chủ yếu sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người Nội dung tư tưởng HCM bao
gồm mội hệ thống các quan điểm cơ bản về chính trị, các quan điểm vè kinh tế, văn hó
xây dựng con người XHCN vv và phương pháp cách mạng HCM.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt
hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Bối cảnh ra đời TT.HCM
TT HCM được hình thành dưới tác động của những điều kiện lịch sử - xã hội cụ
thể của dân tộc và nhân loại trong thời đại người sống và hoạt động.
* Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
_ Cuối thế kỷ XIX
1858: Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, sự xâm lược của thực dân Pháp đã gây
ra nhiều hậu quả cho xã hội Việt Nam.


Triều đình nhà Nguyễn đã từng bước khuất phục đầu hàng Pháp.
1884: Hòa ước Pa-to-not , triều đình nhà Nguyễn đã chính thức công nhận sự bảo
hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta nổ ra, dâng cao, lan
rộng trong cả nước và lần lượt bị thất bại.
- Đầu thế kỉ XX:
+ Công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp từ 1895 đã làm cho xã hội Việt Nam có
sự biến chuyển và phân hóa ( xã hội phong kiến chuyển sang xã hội thực dân nửa phong
kiến, xuất hiện nhiều giai cấp tầng lớp xã hội mới: công nhân, tư sản, tiểu tư sản. Công
cuộc khai thác thuộc địa là sự bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị và nô dịch về văn
hóa)
+ Ảnh hưởng của các “tân văn”, “tân thư” và ảnh hưởng của các trào lưu cải cách
ở Nhật Bản, Trung Quốc tràn vào Việt Nam.
=> Làm cho các phong trào yêu nước ở nước ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư
sản.
- Tất cả các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đều không tránh
khỏi hạn chế, đều không tránh khỏi sự đàn áp dã man và thất bại, đất nước lâm vào tình
trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước. Bối cảnh đó đặt ra một yêu cầu bức thiết về
việc phải tìm ra con đường cứu nước.
* Bối cảnh thời đại:
- CNTB chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và xác lập sự thống trị của
chúng trên phạm vi thế giới, trở thành kẻ thù chung của nhân dân các dân tộc thuộc địa,
khiến cho các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
- Ở các nước tư bản là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Ở
các nước thuộc địa, ngoài mâu thuẫn vốn có là giai cấp nông dân và đại chủ còn xuất hiện
mâu thuẫn mới: giữa nhân dân các thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc. Xã hội phân hóa: xuất
hiện giai cấp, tầng lớp xã hội mới: công nhân, tư sản.
- Các trào lưu cải cách ở Nhật Bản và Trung Quốc đang diễn ra mạnh mẽ.
- Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và thắng lợi có tác dụng thức tỉnh các dân
tộc châu Á.

- Quốc tế cộng sản 3 ra đời ( tháng 3 – 1919) đề cập tới vấn đề thuộc địa, bênh
vực các dân tộc thuộc địa, ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, giúp đỡ đào
tạo cách mạng, vạch ra con đường giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Bối cảnh trong nước đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm ra con đường cứu nước mới, bối
cảnh thời đại đã tạo ra con đường mà Việt Nam đang cần, tất nhiên nó không phải hoàn
toàn có sẵn.
Trước những đòi hỏi của dân tộc và nhân loại, HCM và TT HCM xuất hiện. Đó là
đòi hỏi khách quan của dân tộc và nhân loại. Sự ra đời của TT HCM là sự giải đáp, là sản
phẩm tất yếu của CMVN và thế giới trong điều kiện lịch sử mới, không phải là ya muốn
chủ quan hay một sự áp đặt nào.
3. Nguồn gốc hình thành tư tưởng HCM( Trọng tâm)
Tư tưởng HCM là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn
hóa, nhân nghĩa và thực tiễn CM Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại được nâng lên
tầm cao mới dưới ánh sáng CN Mác LêNin.
Một là: Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
- Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất tự lực tự cường trong đấu tranh dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường trong đấu tranh đã
được hình thành rất sớm trong lịch sử dân tộc, nó được kế thừa và phát huy qua nhiều thế
hệ trở thành truyền thống tốt đẹp, thiêng liêng nhất của dân tộc ta.
Truyền thống trên chính là cơ sở cho ý chí, hành động cứu nước và xây dựng đát
nước của người VN nói chung và của HCM nói riêng. Bởi chính từ lòng yêu nước đã thôi
thúc Bác ra đi tìm đường cứu nước và ý chí kiên cường đã giúp Người vượt qua mọi khó
khăn gian khổ để đạt được mục đích của mình.
HCM đã phát triển CN yêu nước trong thời đại mới. CN yêu nước VN đã có quá
trình lịch sử hàng ngàn năm với nội dung phong phú và sâu sắc. Thời phong kiến yêu
nước cô đọng trong tư tưởng trung quân ái quốc, bảo vệ tổ quốc chống giặc ngoại xâm.
Kế thừa truyên thống của dân tộc, Bác đã thể hiện lòng yêu quê hương đất nước nồng
nàn băng con đường hành động đi tìm đường cứu nước. Với Bác yêu nước gắn liền với
thương dân. Bác nói : “ lòng yêu thương nhân dân và nhân loại của tôi ko bao giờ thay
đổi “. Người có một ham muốn là làm sao cho nước ta được độc lập dân ta được tự do, ai

cũng có cơm ăn áo mặc dược học hành. Người đã nêu ra chuẩn mực “ trung với nước
hiếu với dân “.
HCM đã phát triển nội dung mới của CN yêu nước trên cơ sở quan điểm giai cấp.
Yêu nước được mở ra vô cùng rộng lớn đối với nhân dân lao động, người cùng khổ, g/c
công nhân và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới. Trên cơ sở g/c HCM đã nêu ra nội
dung mới : Ngày nay yêu nước phải gắn liền với yêu CNXH vì có tiến lên CNXH thì
nhân dân mới được ấm no thêm, tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm.
2
- Tinh thần nhân nghĩa đoàn kết tương thân tương ái. Từ xưa tới nay mỗi khi có
khó khăn hoạn nạn nhân dân cả nước ta cùng tương trợ, đùm bọc giúp đỡ nhau vượt qua.
Đây cũng được coi là truyền thống tốt đẹp của dân ta được hình thành qua thực tế đấu
tranh quyết liệt với thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm. HCM đã kế thừa truyền thống
trên như sau :
+ trong tư tưởng của Bác đoàn kết luôn được coi là sức mạnh, là nguyên nhân dẫn
đến thành công của cách mạng.
+ trong quá trình lãnh đạo CMVN Bác luôn nhắc nhở dân ta phải ghi nhớ chữ
đồng lòng, đồng sức, đồng tình, đồng minh. Đối với Bác ai làm điều lợi cho nhân dân cho
tổ quốc đều là bạn.
- Tinh thần cần cù, thông minh, sáng tạo của dân tộc. Với truyền thống hiếu học
nhân dân ta đã tiếp thu những nền văn hóa khác nhau rồi từ biến thành nét văn hóa của
dân tộc. HCM cũng kế thừa được truyền thống này trong quá trình tiếp thu tinh hoa văn
hóa của nhân loại.
- Dân tộc việt nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan yêu đời. Tinh thần lạc quan
yêu đời. Điều này giúp nhân dân ta tin vào sức mạnh của bản thân, tự tin vào sự tất thắng
của chân lý, chính nghĩa dù trước mắt còn nhiều khó khăn gian khổ phải vượt qua. Điều
này ảnh hưởng quan trọng đến tư tưởng HCM, Bác luôn tin vào sức mạnh của dân tộc, sự
thắng lợi của cách mạng VN cho dù con đường này còn nhiều chông gai.
=> Chính chủ nghĩa yêu nước nhân văn việt nam là cội nguồn, là giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp, là điểm xuất phát là động lực thúc đẩy Nguyễn Tất Thành đi tìm
đường cứu nước và là bước đệm để người tiếp thu tinh hoa văn hoa nhân loại.

Hai là: Tinh hoa văn hóa phương Đông và Phương Tây
Xuất thân trong một gia đình có truyền thống hiếu học lại thêm tư chất thông
minh tuyệt vời HCM đã được truyền thụ một trình độ Hán học vững vàng và tiếp đó tiếp
thu văn hóa phương Tây tại trường Quốc học Huế. Sau này khi bôn ba trên con đường
cứu nước HCM vừa hoạt động cách mạng vừa học học hỏi ko ngừng. Người đã làm giàu
cho mình bằng tinh hoa văn hóa nhân loại.
-Tư tưởng văn hóa phương Đông :
Nho giáo Trung hoa được du nhập vào VN rất sớm trong thời Bắc thuộc. Trong
Nho giáo có nhiều yếu tố duy tâm tiêu cực phản động như :tư tưởng phân biệt đẳng cấp
xã hội, tư tưởng coi thường người phụ nữ trong xã hội, tư tưởng coi thường lao động
chân tay. Tuy nhiên Nho giáo có nhiều yếu tố tích cực đó là : triết lí nhân sinh thể hiện ở
tư tưởng từ bậc thiên tử tới thứ dân phải lấy việc tu thân làm gốc, lí tưởng về một một xã
hội đại đồng có vua sáng tôi hiền, cha từ, con thảo, tư tưởng đề cao văn hóa, lễ nghĩa
truyền thống, coi trọng việc học hành. HCM đã lựa chọn những yếu tố tích cực của Nho
giáo đưa vào đó nội dung và ý nghĩa cho phù hợp với cách mạng VN trong giai đoạn
mới. HCM đã làm rất nhiều bài thơ bằng chữ hán, chuẩn mực đạo đức mới, lấy dân làm
gốc, quan tâm xây dựng nền giáo dục.
Phật giáo là tôn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ có ảnh hưởng lớn tới đời sống, tư
tưởng, suy nghĩ của người Việt. Phật giáo có một số hạn chế như: tư tưởng mê tín dị
đoan, tư tưởng an bài cho số phận cam chịu cuộc sống khổ hạnh để chờ 1 cuộc sống mới
tốt đẹp ở kiếp sau.Tuy vậy Phật giáo có nhiều yếu tố tích cực như : tư tưởng vị tha, từ bi,
cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân, sống hòa đồng với thiên nhiên.,nếp
sống có đạo đức trong sạch, giản dị, chăm làm điều thiện. tư tưởng đề cao lao động, hống
lại sự lười biếng trong xã hội.
Những tư tưởng của Phật giáo phù hợp với phong tục, tập quán, tín ngưỡng người
Việt cho nên được tiếp thu một cách tự nhiên và có ảnh hưởng khá rõ đến tư tưởng HCM.
Về tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn. HCM tiếp thu học thuyết về “ Dân tộc,độc lập
dân tôc, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc”.
-Tư tưởng và văn hóa phương Tây :
3

Trong 30 năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, HCM chủ yếu sống ở châu Âu
nên Bác chịu ảnh hưởng rất sâu rộng nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây.
Tư tưởng dân chủ bình đẳng, kiểm soát nhà nước của nhân dân thể hiện trong tuyên ngôn
năm 1776 của Mỹ. Người đã học tập được ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập cho quyền
sống của con người. HCM đã tiếp thu giá trị tư tưởng nhân quyền với nội dung là quyền
tự do cá nhân thiêng liêng trong bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ. Sau này HCM đã
phát triển quyền đó là quyền sống, quyền độc lập, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc
của tất cả các dân tộc. Điều này thể hiện trong tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Người.
Tư tưởng tự do dân chủ bác ái trong tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của pháp năm
1789. Đầu năm 1913, Bác sang Anh và đã đi những bước đầu tiên trong cuộc đời hoạt
động chính trị của mình. Cuối năm 1917, HCM từ Anh về Pháp, tại đây Bác được tiếp
xúc trực tiếp với nhũng tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng, những lí luận gia của
cách mạng Pháp năm 1789. Ngoài ra HCM còn tiếp thu tư tưởng dân chủ và nhiều hiểu
biết khác trong quá trình hoạt động cách mạng.
=> HCM tiếp thu văn hóa nhân loại một cách có khoa hoạc không thành kiến với bất kỳ
tôn giáo hay học thuyết nào. TT HCM là tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa văn hóa
đông – tây.
Ba là: Chủ nghĩa Mác- Lênin :
CN Mác – Lê Nin là sự kết hợp của ba yếu tố: Triết học Mác Lê Nin, Kinh tế
chính trị học và chủ nghĩa XHKH. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận khoa học
nên NAQ đã tiếp thu và chuyển hóa tinh văn hóa dân tộc và nhân loại thành tư tưởng
cách mạng của chính mình.
CN Mác Lê Nin giải quyết khủng hoảng đường lối, là hệ tư tưởng tiên tiến của giai
cấp công nhân . Là chủ nghĩa chân chính , cách mạng và triệt để nhất. Quá trình tiếp thu
CN MLN:
Khi ra đi tìm đường cứu nước ở tuổi 20, Người đã có những phân tích tổng kết
các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ 19 đến đầu 20. Tháng 7/1920 bắt gặp bản “ Sơ
tháo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê Nin. Trong 10 năm
(1911- 1920 ) Người đã hoàn thiện cho mình vốn văn hóa, chính trị, vốn sống thực tiễn
phong phú tạo thành một bản lĩnh của nhà chính trị trẻ tuổi. Tiếp nhận chủ nghĩa Mác Lê

Nin, HCM từ một nhà yêu nước trở thành người cộng sản, trở thành người tham gia sáng
lập đảng cộng sản pháp.
Khi lần đầu tiếp xúc với CN Mác- Lênin, Bác đã khẳng định đây chính là con
đường cứu nước. Nhưng với khả năng độc lập tự chủ sáng tạo của mình, HCM đã biết
tiếp thu và vận dụng 1 cách khoa học những nguyên lí của CN Mác-lê phù hợp với hoàn
cảnh và đặc điểm cụ thể với hoàn cảnh của VN lúc đấy, chứ ko rơi vào sao chép, giáo
điều, dập khuôn.
HCM đến với CN M-L là tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng
dân tộc tức là nhu cầu thực tiễn của CMVN.
NAQ tiếp thu lí luận M-L theo phương pháp nhận thức mácxit đồng thời nắm lấy
cái cốt, cái tinh thần, cái bản chất chứ ko tự trói buộc trong cái vỏ ngôn từ.
Vai trò của CN MLN đối với TT HCM:
- CN MLN trang bị thế giới quan , phương pháp luận khoa học
- Tạo 1 phương pháp đúng đắn để tiếp cận truyền thống văn hóa dân tộc cũng như tinh
hoa văn hóa nhân loại.
- Giúp người phân tích tổng kết các học thuyết tư tưởng đương thời và kinh nghiệm của
CMTG.
- Tạo lập tâm lý quan điểm vững vàng
HCM tiếp thu CN mác LN với những đặc trưng riêng:
- Từ tư duy cụ thể hóa thành hành động
- Tính độc lập, tự chủ, sáng tạo
4
- Vận dụng linh hoạt vào CM VN
=> Có thể nói, CN M-L là một trong những nguồn gốc lý luận quan trọng, là cơ sở lý
luận chủ yếu nhất quyết định HCM từ người yêu nước trở thành chiến sĩ cộng sản, góp
phần to lớn trong việc hình thành và hoàn thiện tư tưởng HCM. Như vậy, các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc VN đã được nâng lên tầm v thế giới với việc thâu nhận
tinh hoa văn hóa của nhân loại và chủ nghĩa Mác lê Nin, hình thành và tạo ra bước phát
triển phù hợp với tiến trình phát triển của nhân loại trong thời đại tư tưởng HCM.
Bốn là: Trí tuệ và hoạt động thực tiễn của HCM.

Trí tuệ và phẩm chất cá nhân của HCM: HCM là người yêu nước thương dân
sâu sắc, có ý tưởng hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, có đạo đức cách mang. Nổi bật là
ý chí quyết tâm của một người yêu nước, một chiến sĩ cộng sản với tấm lòng yêu nước
thương dân và đồng loại khổ đau, sẵn sàng hiến dâng cuộc đời cho độc lập dân tộc , cho
tự do, hạnh phúc của con người VN.
Khả năng tư duy và trí tuệ: HCM là người đặc biệt thông minh, trí tuệ uyên bác
ham học hỏi nhạy bén với cái mới. Biểu hiện trước hết là sự kiên trì học tập, ham học hỏi,
tiếp thu vốn tri thức của dân tộc và nhân loại. Là tư duy độc lập , tự chủ trong tiếp thu,
phê phán chon lọc các giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại, trí tuệ thời đại trên cơ sở đó
chắt lọc và phát triển thành những giá trị tư tưởng mới vì mục tiêu độc lập dân tộc và giải
phóng triệt để con người.
Bằng hoạt động thực tiễn. Trong quá trình tìm đường cứu nc đi nhiều nơi, làm
nhiều công việc, phụ trách nhiều cương vị, trong những điều kiện và hoàn cảnh khác
nhau. HCM đã khám phá ra quy luật vận đông xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh
của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lý luận, và đem lý luận vào
thực tiễn.
Trong những nguồn gốc đó thì CN Mac-Lênin đóng vai trò quan trọng nhất, vì:
CN Mac-Lenin là một hệ thống mang tính tiên phong hướng dẫn các cuộc cách mạng
trong thời đại mới dành chiến thắng. Khi tiếp cận CN MLN thì HCM đã nhận ra chân lý
ấy, do đó Người đã tin và theo CN Mác Lênin. Từ đó quan niệm của HCM về cách mạng
đều dựa trên cơ sở CN Mác Lênin . CN Mác Lênin có ảnh hưởng trực tiếp về sự hình
thành tư tưởng HCM
Tóm lại: TT HCM có cội nguồn và được hình thành từ các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa mác Lênin thông qua
hoạt động trí tuệ và thực tiễn của người.
*Liên hệ:Tấm gương chiến đấu và học tập theo TTHCM(Trọng tâm) các đc tự làm
Ở địa phương tôi là Xã……….…luôn nêu cao tinh thần học tập và làm theo Tấm
gương chiến đấu và học tập theo TTHCM và năm 2014 vừa qua đã đạt đc 1 số thành tích
đáng kể như:
- Tấm gương chiến đấu theo TTHCM như các đc:………………

- Tấm gương học tập theo TTHCM như các đc:………………….
- Tấm gương lao động theo TTHCM như các đc:………………
Bản thân tôi luôn nêu cao tinh thần học tập và làm theo Tấm gương chiến đấu và học
tập theo TTHCM
-Ưu điểm:
+Bản thân tôi luôn nêu cao tinh thần học tập theo TTHCM đó là học suốt đời ,học không
ngừng nghỉ.Học ở trường,học bạn bè đồng nghiệp,học trong thực tiễn…. và tự học là
chính.Tôi ko ngừng trau dồi và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.Ngoài ra tôi còn
theo học các lớp bồi dưỡng chính trị …….Thời gian rảnh dỗi tôi còn học ngoại ngữ qua
mạng………
+Bản thân tôi luôn nêu cao tinh thần lao động theo TTHCM . Tôi xác định rõ lao động là
5
vinh quang. Lao động llà nghĩa vụ để nuôi sống bản thân và gia đình đồng thời góp phần
xây dựng và phát triển đất nước.Lao động còn là trách nhiệm đối với bản thân,gia đình
và xã hội .Tôi đã lao động và cống hiến cho cơ quan,đơn vị như……………………
+Bản thân tôi luôn nêu cao tinh thần sản xuất theo TTHCM : tôi và gia đình tôi tăng gia
sản xuất,phát triển kinh tế hộ gia đình như nuôi gà đồi,trồng vải thiều…………….
+Bản thân tôi luôn nêu cao tinh thần chiến đấu theo TTHCM : chúng ta đang sống trong
thời bình nhưng tinh thần chiến đấu đc thể hiện ở lòng yêu nước,tình yêu biển đảo quê
hương……………………………………………………
-Nhược điểm:tự làm
-Khắc phục:tự làm
CHỦ ĐỀ 2: TT HCM ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI.
1. KN: Tư tưởng HCM
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, là tài sản tinh thần
vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách

mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”
KN về tư tưởng Hồ Chí Minh như trên thể hiện bốn nội dung chủ yếu sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người Nội dung tư tưởng HCM bao
gồm mội hệ thống các quan điểm cơ bản về chính trị, các quan điểm vè kinh tế, văn hó
xây dựng con người XHCN vv và phương pháp cách mạng HCM.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt
hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Quan niệm của HCM về độc lập dân tộc (phân tích)
a, Độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thật sự.
Theo HCM một dân tộc độc lập thật sự, tức là các quyền dân tộc cơ bản phải được
đảm bảo. Độc lập dân tộc phải gắn với quyền tự quyết của dân tộc trên tất cả các lĩnh
vực đối nội và đối ngoại. HCM khẳng định VN độc lập phải trên nguyên tắc nước Vn của
người VN.
b, ĐLDT là quyền thiêng liêng của dân tộc.
HCM khẳng định, mỗi dân tộc trên thế giới đều có quyền hưởng độc lập, tự do,
Mỗi công dân của một nước độc lập có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ quyền thiêng
liêng của dân tộc. Cả đời HCM phấn đấu hi sinh cho quyền thiêng liêng độc lập hoàn
toàn cho dân tộc.
c, ĐLDT phải gắn liền với hòa bình
6
Theo HCM chỉ có ĐLDT thật sự mới có nền hòa bình chân chính; và chỉ có hòa

bình chân chính mới có độc lập hoàn toàn. Không thể có ĐLDT thật sự khi đất nước còn
có sự lệ thuộc hoặc có sự hiện diện của quân đội nước ngoài.
d, ĐLDT phải đi tới tự do hạnh phúc của nhân dân
Theo HCM. nếu đất nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì
độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Theo người, dân chỉ biết giá trị của tự do, độc lập khi
mà dân được ăn no, mặc đủ. Bởi vậy khi nước VN giành được độc lập từ tay đế quốc,
HCM đòi hỏi chính phủ cách mạng phải đi đến làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở,
được học hành. Người cho rằng phải thực hiện được bốn điều đó, để dân nước ta xứng
đáng với tự do, độc lập và giúp sức cho tự do độc lập.
3. Quan niệm của HCM về CNXH (phân tích)
CNXH là 1 chế độ do nhân dân lao động làm chủ; 1 xã hội dân giàu nước mạnh,
văn minh, hạnh phúc; nhà máy xe lửa ngân hàng thuộc về của công; 1 XH dân chủ công
bằng; các dân tộc trong nước đều bình đẳng, đoàn kết tương trợ lẫn nhau; đoàn kết hữu
nghị và bình đẳng với các dân tộc trên thế giới.
a, Đặc trưng, bản chất của CNXH
Một là: CNXH là chế độ xh có lực lượng sản xuất phát triển cao, dựa trên LLSX
hiện đại và chế độ công hữu về TLSX chủ yếu nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Hai là CNXH có chế độ do nd lao động làm chủ, nhà nước phải phát huy quyền làm chủ
của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Ba là Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người
với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc
lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết
mọi khả năng sẵn có của mình.
Bốn là:Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm
ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng; các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được
giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi. Hòa bình hữu nghi với các dân tộc trên thế giới.
=> Chủ nghĩa xã hội theo TTHCM thể hiện 1 hệ thống chính trị về độc lập, tự do, hạnh
phúc, dân chủ hòa bình. Phản ánh khát vọng tha thiết của loài người

b, Mục tiêu của CNXH
- Về chế độ chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, chế độ chính trị phải là do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước là của dân, do
dân và vì dân. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình chủ yếu bằng nhà nước dưới
sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhà nước có hai chức năng: dân chủ với nhân dân,
chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó không tách rời nhau, mà luôn
luôn đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải phát triển quyền dân chủ và
sinh hoạt chính trị của nhân dân; mặt khác, lại yêu cầu phải chuyên chính với thiểu số
phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường và biện
pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ
chức chính trị - xã hội của quần chúng; củng cố các hình thức dân chủ gián tiếp, tăng
cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, xử
lý và phân định rõ chức năng của chúng.
- Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội chỉ được
bảo đảm và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế mà chúng ta
xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ
thuật tiên tiến, được tạo lập trên cơ sở sở hữu công cộng về TLSX.
7
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển toàn diện các ngành mà
những ngành chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó "công nghiệp
và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà".
Kết hợp các loại lợi ích kinh tế là vấn đề rất được Hồ Chí Minh quan tâm. Người đặc biệt
nhấn mạnh chế độ khoán là một trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích kinh tế.
- Mục tiêu văn hóa - xã hội: Theo Hồ Chí Minh, phát triển văn hóa là một mục tiêu quan
trọng của CNXH, thậm chí cần đi trước để dọn đường cho cách mạng công nghiệp. Bởi
vậy cán bộ phải có văn hóa làm gốc, công nhân và nông dân phải biết về văn hóa. Văn
hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội, đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng,
phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hiện
nếp sống mới, thực hành vệ sinh phòng bệnh, giải trí lành mạnh, bài trừ mê tín dị đoan,

khắc phục phong tục tập quán lạc hậu
Về bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Người khẳng định: "phải
xã hội chủ nghĩa về nội dung"; để có một nền văn hóa như thế ta phải phát huy vốn văn
hóa truyền thống quý báu của dân tộc, đồng thời học tập và tiếp thu có chọn lọc văn hóa
tiên tiến của thế giới. Phương châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại
chúng. Hồ Chí Minh nhắc nhở phải làm cho phong trào văn hóa có bề rộng, đồng thời
phải có bề sâu. Trong khi đáp ứng mặt giải trí thì không được xem nhẹ việc nâng cao tri
thức của quần chúng, đồng thời Người luôn luôn nhắc nhở phải làm cho văn hóa gắn liền
với lao động sản xuất
- Về quan hề xã hội: Theo HCM phải xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với
người. HCM căn dặn: “muốn xây dựng CNXH , trước hết cần có những con người
XHCN”. Thực hiện công bằng XH tạo ra động lực cho chủ nghĩa Xh. Và để tạo động lực
cho CNXH còn cần phải sử dụng vai trò điều chỉnh của các nhân tố về chính trị, văn hóa,
đạo đức, pháp luật.
Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào
tạo con người. Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội chính là con người. Trong lý luận xây dựng con người xã hội chủ nghĩa,
Hồ Chí Minh quan tâm trước hết đến mặt tư tưởng. Người cho rằng: Muốn có con người
xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở mỗi
con người là kết quả của việc học tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, nâng
cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đến trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng;
đồng thời Người cũng rất quan tâm đến mặt tài năng, luôn tạo điều kiện để mỗi người rèn
luyện tài năng, đem tài năng cống hiến cho xã hội. Tuy vậy, Hồ Chí Minh luôn gắn tài
năng với đạo đức. Theo Người, "có tài mà không có đức là hỏng"; dĩ nhiên đức phải đi
đôi với tài, nếu không có tài thì không thể làm việc được. Cũng như vậy, Người luôn gắn
phẩm chất chính trị với trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ trong đó "chính trị là
tinh thần, chuyên môn là thể xác". Hai mặt đó gắn bó thống nhất trong một con người.
Do vậy, tất cả mọi người đều phải luôn luôn trau dồi đạo đức và tài năng.
c, CNXH tạo cơ sở củng cố, giữ vững độc lập dân tộc.

CNXH xóa bỏ nguyên nhân kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do
chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về TLSX sinh ra. CNXH sẽ triệt để giải
phóng con người, phát triển LLSX, tạo bước phát triển cho dân tộc.
CNXH tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cao, văn hóa phát triển của CNXH. Kết quả
này là một cơ sở, một nhân tố cơ bản để thực hiện củng cố, giữ vững độc lập và phát triển
dân tộc.
TT HCM cho thấy, bản chất của CNXH là xây dựng 1 XH dân chủ XHCN. chế
độ do nhân dân lao động là chủ và làm chủ. Đó là cơ sở để củng cố và giữ vững độc lập
dân tộc.
d, Những điều kiện đảm bảo cho ĐLDT gắn liền với CNXH ở Việt Nam.
8
*Phải xác lập, củng cố, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng.
Theo HCM, “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách
mệnh”. Để giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của ĐCS với sự nghiệp cách mạng của
dân tộc, HCM luôn chú ý và đòi hỏi Đảng phải đưa ra được đường lối đúng, thường
xuyên hoàn chỉnh đường lối của mình, phải xây dựng đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ,
đảng viên thực sự trong sạch vững mạnh.
Đảng lãnh đạo giành lấy chính quyền về tay nhân dân, đưa đảng thành đảng cầm
quyền, xây dựng đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh, đi liền với lãnh đạo xây dựng
nhà nước cách mạng thật sự của dân, do dân và vì dân để tổ chức quản lý toàn dân tộc
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược là XD thành công CNXH và bảo vệ vững chắc tổ
quốc.
*Xây dựng khối liên minh công nông trí thức vững chắc làm nền tảng XD
khối ĐĐK dân tộc.
Thực chất quan điểm này là XD được lực lượng cách mang lớn nhất, rộng nhất,
mạnh nhất cho suốt quá trình thực hiện ĐLDT gắn liền với CNXH.
Liên minh công nông trí thức là gốc, là nền tảng của cách mạng VN. Khi lãnh đạo
và đấu tranh giành độc lập dân tộc, người khẳng định, liên minh đoàn kết công nông là
gốc của cách mạng. Khi thực hành cách mạng XHCN người lại chỉ rõ, có liên minh công
nông còn phải đoàn kết với lao động trí óc để tạo ra nền tảng của khối đại đoàn kết dân

tộc.
* Thường xuyên gắn bó cách mạng VN với CMTG
CMVN là một bộ phận của CMTG, CMVN phải biết tranh thủ sức mạnh của
CMTG, biết tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ về mọi mặt của các lực lượng CM
trên TG, làm tăng sức mạnh của mình để vượt qua khó khăn, chiến thắng kẻ thù, đưa
cách mạng đến thành công.
=> HCM khẳng định. Ba điều kiện đảm bảo cho ĐLDT gắn liền với CNXH trên. Đó là 3
bài học lớn của CMVN mà mỗi Cán bộ đảng viên phải nắm vững và luôn thực hiện tốt.
e, MQH giữa ĐLDT với CNXH
*ĐLDT là mục tiêu trực tiếp, trước hết.
ĐLDT là mục tiêu cao cả là giá trị tinh thần quý nhất của người VN, là sự thể hiện
tập trung của chủ nghĩa yêu nước và ý chí tự lực tự cường của người VN.
ĐLDT là nguồn sức mạnh vô tận của CMVN.
HCM đã chỉ ra rằng, CMVN phải trải qua 2 giai đoạn, CM dân tộc dân chủ va
CM XHCN. Giai đoạn CM dân tộc dân chủ là tất yếu, phải được thực hiện trước hết, giải
quyết mâu thuẫn giữa toàn thể quốc dân việt nam với bon đế quốc và tay sai. Để giải
quyết mâu thuẫn trên, HCM chủ trương đoàn kết toàn dân tộc nhằm “Đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”; “làm cho nước nam hoàn toàn độc lập”; Như vậy,
ngay trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930) HCM đã chỉ rõ ĐLDT là mục tiêu trực
tiếp, trước hết.
*ĐLDT là tiền đề đi lên CNXH
ĐLDT là mục tiêu trực tiếp, trước hết trong cách mạng dân tộc dân chủ, nó cũng
là khởi điểm của con đường CMVN. Bởi vậy ĐLDT không phải là mục tiêu cuối cùng
của CMVN mà thực hiện ĐLDT còn là quá trình tạo tiền đề đi lên CNXH, cụ thể:
Trước hết về chính trị: Xác lập và phát triển các thành tố của hệ thống chính trị do
ĐCS VN lãnh đạo; thành lập mặt trận dân tộc thống nhất và thực hiện đại đoàn kết toàn
dân trong mặt trận; giành chính quyền và xây dựng 1 nhà nước cách mạng thực sự của
dân, do dân và vì dân.
Hai là về kinh tế: Bước đầu hình thành đường lối kinh tế, từng bước xây dựng các
cơ sở kinh tế có tính chất XHCN. Mục đích là từng bước cải thiện đời sống nhân dân, bồi

bổ các lực lượng cách mạng.
9
Ba là về văn hóa XH: Xây dựng nền văn hóa mới, nền văn hóa cách mạng, và giải
quyết những vấn đề xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa Mác Leenin.
* CNXH là bước phát triển tất yếu của ĐLDT
HCM khẳng định: “ Trong thời đại ngày nay, Cách mạng giải phóng dân tộc là
một bộ phận của cách mạng vô snar trong phạm vi toàn thế giới; Cách mạng giải phóng
dân tộc phải phát triển thành CM XHCN thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”.
Chỉ có chủ nghĩa XH mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức, bất công, bất
bình đẳng, đói nghèo ngu dốt, giải phóng những người lao động trên thế giới thoát khỏi
ách nô lệ.
Thực hiện ĐLDT mới giải phóng cho nhân dân khỏi thân phận nô lệ.
Để nhân dân được giải phóng triệt để, thực sự có cuộc sống ấm no, hạnh phúc thì
phải tiến hành cách mạng XHCN.
g. Vận dụng TT HCM về ĐLDT gắn liền với CNXH trong tình hình hiện nay.
* Kiên định mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH trong sự nghiệp đổi mới.
Xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ
chặt chẽ với nhau.
Phải kiên định mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH trên nền tảng CN mác lê nin
và tư tưởng HCM.
Phải nắm vững bối cảnh TG có nhiều yếu tố tác động tới quá trình thực hiện mục
tiêu này.
Kiên định đường lối chủ trương ĐL DT gắn liền CNXH có ý nghĩa hết sức quan trọng.
* Điều kiện mới của ĐL DT gắn liền với CNXH hiện nay
Một là: Muốn Xây dựng đất nước dân giàu nước mạnh dân chủ công bằng văn
minh và bảo vệ vững chắc ĐL DT trước hết phải phát huy mọi tiềm năng, sức mạnh của
nguồn nội lực bên ngoài, tận dụng thời cơ, điều kiện quốc tế thuận lợi, làm gia tăng sức
mạnh dân tộc.
Hai là: Xác định rõ bước đi và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, lợi ích dân tộc lên trên hết. ĐL DT không có nghĩa là

tự cô lập mình, mà phải tích cực hội nhập quốc tế, làm tăng sức mạnh của đất nước và
làm giàu bản sắc dân tộc.
Ba là: ĐL DT gắn bó chặt chẽ với CNXH, phải được thể hiện xuyên suốt quá
trình đổi mới, trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Bốn là: Giữ vững định hướng CNXH trong suốt quá trình đổi mới. Đây là con
đường đúng đắn trên cả lý luận và thực tiễn, phù hợp với thời đại.
=> ĐL DT gắn liền với CNXH là tư tưởng xuyên suốt đối với cách mạng VN. Là con
đường duy nhất đúng đắn của CMVN, là tư tưởng chỉ đạo cho sự nghiệp xây dựng
XHCN bảo vệ tổ quốc và đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.
************************************************************************
VẤN ĐỀ 3: TT HCM VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
1. Quan niệm của HCM về đại đoàn kết.
Theo quan niệm của HCM, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân
đông đảo, mà không phải là công việc của một số người, của riêng Đảng Cộng sản. Đảng
lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng xã hội mới. Sự
nghiệp ấy chỉ có thể thực hiện được bằng sức mạnh của cả dân tộc, bằng đại đoàn kết dân
tộc. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của HCM
là một cống hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn hết sức quan trọng.
Tư tưởng Đại đoàn kết của HCM là một hệ thống các luận điểm về vị trí, vai trò, nội
dung, nguyên tắc, phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng, nhằm phát huy
10
đến mức cao nhât sức mạnh của dân tộc, của quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh cho độc
lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
2. Quan niệm của HCM về vị trí, vai trò của DĐK trong cách mạng Việt Nam.
a- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của
cách mạng VN
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta.
Người cho rằng: Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự
mình cứu lấy mình bằng cách mạng vô sản.

Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính
sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau,
nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người coi là vấn đề sống còn của cách mạng.
Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất
quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Đoàn kết quyết định thành công cách mạng. Vì đoàn kết tạo nên sức mạnh, là then
chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực lượng đủ mạnh,
muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất. Giữa đoàn kết và
thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui mô của đoàn kết quyết định quy mô,mức độ của
thành công.
Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.
b- Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng cách mạng
Hồ Chí Minh cho rằng:“ Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu
của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Bởi vì, đại đoàn kết
dân tộc chính là nhiệm vụ của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ
mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu
tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng (đại đoàn kết là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả đường lối, chủ trương của
Đảng). HCM khẳng định, mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể tóm gọn trong 8
chữ “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Điều đó đòi hỏi Đảng phải xây dựng được
một đường lối chiến lược khoa học, phù hợp với nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số
dân chúng để thu hút và phát huy triệt để sức mạnh của quần chúng vào sự nghiệp đấu
tranh cách mạng. Đại đoàn kết dân tộc là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì
quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi
khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực, có tổ
chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân
dân, hạnh phúc cho con người.
3. Nội dung đại đoàn kết trong tư tưởng HCM
Thứ nhất: Đại đoàn kết dân tộc

* Lực lượng Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng cháu tiên,
không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không
phân biệt già trẻ , gái, trai, giàu, nghèo. Nói dến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải
tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nói
rõ: “ ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để
xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân
dân thì ta đoàn kết với họ”.
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước- nhân
nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Xác
định khối đại đoàn kết là liên minh công nông, trí thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn
đấu vì quyền lợi của dân. Người cho rằng: liên minh công nông- lao động trí óc làm nền
tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn
11
kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối
đại đoàn kết dân tộc.
* Hình thức tổ chức đại đoàn kết dân tộc
Hình thức tổ chức Đại đoàn kết dân tộctheo HCM là đoàn kết trong Mặt trận dân
tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Về xây dựng mặt trận thống nhất HCM yêu cầu:
Một là: mặt trận phải lấy liên minh công nông trí thức làm nền tảng. Liên minh
công nông trí có vững thì mặt trận mới bền vững lâu dài được.Mặt trận phải đoàn kết các
tầng lớp yêu nước khác để mở rộng tổ chức, mở rộng khối đại đoàn kết,
Hai là: Mặt trận do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng lãnh đạo mặt trận
bằng việc đề ra chính sách mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn
của cuộc cách mạng bằng phương pháp tuyên truyền giáo dục thuyết phục thông qua tổ
chức cơ sở đảng. HCM nêu rõ “Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng.
Công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”.
Đảng phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân
thành để đối xử, cảm hóa, khêu gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan

liêu, mệnh lệnh, không thể và không được lấy quyền uy của mình để buộc các thành viên
khác trong Mặt trận phải tuân theo. HCM đã căn dặn cán bộ, đảng viên về công tác Mặt
trận “Phải thành thực lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng. Cán bộ và đảng viên không
được tự cao tự đại, tự cho mình là tài giỏi hơn mọi người; trái lại phải học hỏi điều hay
điều tốt của mọi người cán bộ đảng viên có quyết tâm làm như thế thì công tác Mặt trận
nhất định sẽ tiến bộ nhiều”. Muốn lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết
toàn dân, Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở vững chắc
để xây dựng sự đoàn kết của toàn dân. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự
đoàn kết của dân tộc càng được tăng cường; sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân
đã tạo nên sức mạnh bên trong của cách mạng Việt Nam để vượt qua mọi khó khăn,
chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất lợi
ích của tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.
* Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc
Thứ nhất, đại đoàn kết toàn dân tộc phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất
giữa lợi ích quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các tầng lớp trong xã hội.
Thứ hai, tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân. Nguyên
tắc này vừa là sự kế thừa tư duy chính trị truyền thống của dân tộc “dân là gốc của nước”
vừa là quán triệt quan điểm của chủ nghĩa mác leenin “cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng”.
Thứ ba. Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức , có lãnh đạo, đoàn kết lâu dài
chặt chẽ.
Thứ tư, đại đoàn kết phải chân thành, thẳng thắn, thân ái đoàn kết phải gắn với tự
phê bình và phê bình.
* Phương pháp đại đoàn kết dân tộc
- Phương pháp tuyên truyền vận động giáo dục thuyết phục.
Tuyên truyền vận động giáo dục thuyết phục nhằm thức tỉnh mọi người để họ tự
nguyện, tự giác tham gia vào một số tổ chức đoàn thể trong mặt trận.
- Phương pháp tổ chức.
Muốn xây dựng củng cố đại đoàn kết, theo HCm cần phải có phương pháp tổ

chức khoa học. Đó là phương pháp xây dựng củng cố và phát triển hệ thống chính trị bao
gồm: Đảng, nhà nước, mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Là hạt nhân khối dđk, HCM yêu cầu đảng phải đề ra đường lối đại đoàn kết đúng
đắn; đảng phải đoàn kết, thống nhất về tư tưởng và hành động.
- Phương pháp xử lý và giải quyết các mối quan hệ
12
PP đại đoàn kết HCM chính là phương pháp xử lý khoa học mối tương quan ba
chiều giữa cách mạng – trung gian – phản cách mạng, nhằm mở rộng cao nhất trận tuyến
cách mạng và thu hẹp đến mức thấp nhất trận tuyến thù địch.
Thứ hai: Đại đoàn kết quốc tế
Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu nước chân chính
phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai câp công nhân.
HCM luôn luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới,
cách mạng Việt Nam chỉ có thể giành được thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong
trào cách mạng thế giới. Tư tưởng đó tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện đầy đủ hơn trong
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Khi nói về sự cần thiết phải có tổ chức Đảng
Cộng sản, HCM nêu rõ “phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”; thực hiện sự
liên kết chặt chẽ với phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và các nước tư bản, với phong trào đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
Trong quá trình cách mạng, tư tưởng cuả Người về vấn đề đoàn kết với cách mạng thế
giới càng được làm sáng tỏ hơn và đầy đủ hơn: Đó là vấn đề cách mạng trong nước phải
gắnvới phong trào và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cụ thể hơn là với nhân
dân Pháp, Mỹ, nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, với
phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
Tưtưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành 3 tầng Mặt trận: Mặt trận đại
đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt-Miên-Lào và Mặt trận nhân dân thế giới đoàn
kết vớ iViệt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Đây là sự phát triển rực rỡ và là thắng lợi to lớn của tư tưởng Hồ Chí minh về đại đoàn

kết. Như vậy đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở và phải đi đến việc thực hiện đoàn
kếtquốc tế, nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là yếu tố hết sức quan trọng giúp cho
cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn và đưa cách mạng Việt
Nam lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa
Như vậy, những luận điểm trên đây tạo thành nội dung của tư tưởng HCM về đại đoàn
kết dân tộc. Những luận điểm ấy đã được hình thành, từng bước được hoàn chỉnh trong
tiến trình cách mạng Việt Nam và đã được thực tiễn cách mạng kiểm nghiệm. Trong suốt
quá trình hoạt động cách mạng của mình, HCM đã dày công xây dựng, vun đắp cho sự
lớn mạnh và phát triển của Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sự ảnh hưởng của
Mặt trận đối với cách mạng Việt Nam.
* Liên hệ xây dựng khối DĐK trong giai đoạn hiện nay ở địa phương
**************************************
VẤN ĐỀ 4: VẤN DỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
1. TT HCM về vị trí vai trò của cán bộ.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng cán bộ. Theo người cán bộ là một
vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp. Vấn đề cán bộ quyết định moi Người cho rằng: Cán bộ
là cái gốc của mọi công việc. Cho nên muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ
tốt hay kém.
Cán bộ được hiểu là cái dây chuyền của bộ máy. nếu dây chuyền không tốt không
chạy thì động cơ dù có tốt thì toàn bộ máy vẫn tê liệt. Cán bộ là cái “dây chuyền”, “ cầu
nối” giữa đảng, chính phủ với nhân dân. Người cán bộ trở thành cầu nối phải là người có
phẩm chất đạo đức, trí tuệ bản lĩnh, phương pháp và phong cách thì mới giải thích cho
dân chúng hiểu rõ chính sách của Đảng và chính phủ, góp phần giáo dục, động viên tập
hợp quần chúng nahan dân tham gia tích cực vào phong trào cách mạng. Cán bộ là người
đem chính sách, đường lối của đảng, chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
13
hành, đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho chính phủ hiểu rõ để
đặt chính sách cho đúng.
Người nhấn mạnh: cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn mới làm ra lãi, không

có cán bộ tốt thì hỏng việc tức là lỗ vốn. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt
thì thành công.
HCM đặt vị trí của cán bộ bên cạnh công việc và công tác kiểm tra sua khi đã có
chính sách đúng. Người viết “Khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hay thất bại
của chính sách là do nơi, cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra”.
Người cho rằng: “Cán bộ quyết định mọi việc”. Công việc thành hay bại một phần lớn là
do tư tưởng đạo đức, thái độ làm việc của cán bộ. Chính vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc ươm trồng con
người mới xã hội chủ nghĩa, việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là công việc
trọng đại của đất nước, của dân tộc, của Đảng. Theo Người thì đầu tư cho sự nghiệp trồng
người, đầu tư cho công tác cán bộ là sự đầu tư sáng suốt nhất, có lãi nhất.
Theo Hồ Chí Minh, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, đây là
nhiệm vụ rất vẻ vang nhưng cũng rất nặng nề, là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ,
phức tạp. Để hoàn thành nhiệm vụ đó đòi hỏi Đảng phải xây dựng được một đội ngũ cán
bộ có đủ đức, đủ tài, trong đó đức là quan trọng hàng đầu. Người chỉ rõ, đạo đức là
“gốc”, nền tảng của người cách mạng. Người nhấn mạnh: “Cũng như sông thì phải có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân
2. Yêu cầu của HCM về đức và tài của người cán bộ (Trọng tâm)
*Quan điểm về vai trò của đạo đức cách mạng:
Theo Hồ Chí Minh, muốn thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa - cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất, toàn diện nhất, chúng ta phải đem hết
tinh thần và lực lượng ra phấn đấu; phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên.Hồ Chí Minh xem xét đạo đức trên cả hai phương diện lý
luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, Người để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu
sắc và toàn diện về đạo đức. Về thực tiễn, Người luôn coi thực hành đạo đức là một mặt
không thể thiếu của cán bộ, đảng viên.
Khi đánh giá vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền

tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối.
Người viết: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho
dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức,
không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì"
Người so sánh: "Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp
rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp,
lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang".
Đạo đức là gốc, là nền tảng vì liên quan tới Đảng cầm quyền. Hồ Chí Minh trăn
trở với nguy cơ của Đảng cầm quyền, đó là sự sai lầm về đường lối và suy thoái về đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo
Nhà nước, nếu cán bộ, đảng viên của Đảng không tu dưỡng về đạo đức cách mạng thì
mặt trái của quyền lực có thể làm thái hóa con người. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng
phải "là đạo đức, là văn minh". Người thường nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải
tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Người nói, cán bộ, đảng
14
viên muốn cho dân tin, dân yêu, dân phục thì không phải "viết lên trán chữ cộng sản là
được quần chúng yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức".
Vai trò của đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chỗ đó là thước đo lòng cao thượng
của con người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, mỗi người có công việc, tài năng, vị trí
khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng
đều là người cao thượng.
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức không phải một chiều phụ thuộc vào tồn
tại xã hội, vào những điều kiện vật chất kinh tế. Nó có khả năng tác động tích cực trở lại,
cải biến tồn tại xã hội. Giá trị đạo đức tinh thần một khi được con người tiếp nhận sẽ biến
thành một sức mạnh vật chất.
Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không lùi

bước, chán nản ; khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ tinh thần khiêm tốn, "lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, v.v
Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, nhưng phải nhận thức đức và tài có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Có đức phải có tài, nếu không sẽ không mang lại lợi ích gì
mà còn có hại cho dân. Mặt khác, phải thấy trong đức có tài. Tài càng lớn thì đức phải
càng cao, vì đức - tài là nhằm phục vụ nhân dân và đưa cách mạng đến thắng lợi.
* Yêu cấu đạo đức với cán bộ
Một là: Trung với nước, hiếu với dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu.Từ chỗ trung với vua, hiếu với cha mẹ đến trung với nước, hiếu với
dân là một cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức. Theo quan điểm Hồ Chí Minh,
nước là nước của dân và dân là người chủ của nước. Vì vậy, "trung với nước, hiếu với
dân" là thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên
và phát triển của đất nước.
Trung với nước là:Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải
biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết. Là quyết
tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng. Là thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Hiếu với dân là: Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân, tin dân, học
dân, lắng nghe ý kiến của dân, gắn bó mật thiết với dân, tổ chức, vận động nhân dân thực
hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân.
Hai là: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Cần tức là siêng năng, chăm chỉ,
cố gắng, dẻo dai. Kiệm là tiết kiệm vật tư, tiền bạc, của cải, thời gian, không xa xỉ, không
hoang phí.Liêm là trong sạch, không tham lam tiền của, địa vị, danh tiếng. Chính là
không tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Các đức tính đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Cần mà không kiệm giống như một chiếc thùng không đáy. Kiệm mà không cần thì lấy gì
mà kiệm. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có
cành, lá, hoa, quả mới là hoàn chỉnh.
Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì, nếu cán

bộ, đảng viên mắc sai lầm, khuyết điểm thì sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung của cách
mạng, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Mặt khác, những người trong các công sở đều có
nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ
bại, biến thành sâu mọt của dân.
Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh
thần, sự văn minh tiến bộ của một dân tộc. Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời
sống mới, nền tảng của thi đua yêu nước; là cái cần để làm việc, làm người, làm cán bộ,
để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại.
15
Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào;
là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành chí công vô
tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách
mạng.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là chỉ muốn "mọi người vì mình" mà
không biết "mình vì mọi người". Nó là một thứ giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc
ngoại xâm. Nó là bạn đồng minh của chủ nghĩa đế quốc và thói quen truyền thống lạc
hậu. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm,
như quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi,
thích địa vị, quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc
đoán chuyên quyền Tóm lại, "chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong
mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu
dậy". Chủ nghĩa cá nhân là mối nguy hại cho cá nhân con người, cho một đảng và cả dân
tộc. Hồ Chí Minh viết: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ
đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu
mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"
Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì
vậy thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ
chủ nghĩa cá nhân.
Tuy nhiên, cần có nhận thức đúng đắn đâu là chủ nghĩa cá nhân, đâu là lợi ích cá
nhân. Hồ Chí Minh cho rằng: đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo

lên lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có cá tính riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của
bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của
tập thể thì không phải là xấu. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chỉ ở trong chế độ xã
hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống của riêng mình, phát
huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình.
Ba là: Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa. Tình thương yêu con
người ở Hồ Chí Minh không chung chung, trừu tượng kiểu tôn giáo, mà luôn luôn được
nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản, dành cho các dân tộc và con
người bị áp bức, đau khổ.
Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng
lớn, vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận con người. Hồ Chí Minh luôn sống
giữa cuộc đời và không có cái gì thuộc về con người đối với Hồ Chí Minh lại là xa lạ.
Người quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của từng người, việc ăn, việc mặc, ở,
học hành, giải trí của mỗi người dân, không quên, không sót một ai, từ những người bạn
thuở hàn vi, đến những người quen mới. Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh luôn
gắn liền với hành động cụ thể, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho con
người.
Bốn là: Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất, hòa quyện giữa chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đạo đức cộng sản
chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân và của xã hội xã hội
chủ nghĩa.
Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rộng lớn và sâu sắc. Đó
là sự tôn trọng và thương yêu tất cả các dân tộc, nhân dân các nước, chống sự hằn thù, bất
bình đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc. Người khẳng định: bốn phương vô sản đều
là anh em; giúp bạn là giúp mình; thắng lợi của mình cũng là thắng lợi của nhân dân thế
giới. Người đã góp phần to lớn, có hiệu quả xây đắp tình đoàn kết quốc tế, tạo ra một
kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, kiến tạo một nền văn hóa hòa bình
trên thế giới.

16
* Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong xã hội
và chính Người đã suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình, giáo dục, động viên cán bộ, đảng
viên, nhân dân cùng thực hiện. Đó là:
Một là:. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ mới thành. Người viết: "đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài
càng sáng, vàng càng luyện càng trong".
Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người dạy: "Một dân tộc, một đảng
và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay
và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa,
nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân".
Tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người thì ai
cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là
dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái
tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo
đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh
hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mình.
Hai là. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.Nói đi đôi với làm trước hết là
sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với
nhân viên là rất quan trọng. Người yêu cầu, cha mẹ làm gương cho các con, anh chị làm
gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu, lãnh đạo làm gương cho cán bộ, nhân
viên Đảng viên phải làm gương trước quần chúng. Người nói: "Trước mặt quần chúng,
không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ
quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm
mực thước cho người ta bắt chước" .
Ba là: Xây đi đôi với chống.

Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất
thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với những yêu cầu của
đạo đức mới, đó là "chủ nghĩa cá nhân". Xây đi đôi với chống là muốn xây phải chống,
chống nhằm mục đích xây. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải chống chủ nghĩa cá
nhân.
Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục, từ gia đình
đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể
hoá sát hợp với các tầng lớp, đối tượng. Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá các phẩm chất đạo
đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội. Trong giáo dục, vấn
đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh của mọi người, để mọi người
nhận thức được và tự giác thực hiện.
Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết phải chống chủ nghĩa cá
nhân, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần
chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc thi đua
"ba xây, ba chống", viết sách "Người tốt, việc tốt" để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức,
lối sống.
Qua đây chúng ta có thể khẳng định rằng: tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ là một hệ thống quan điểm sâu sắc, toàn diện, khoa học. Đồng
thời Người đã nêu ra và giải quyết những vấn đề cơ bản về cán bộ và công tác cán bộ một
cách khoa học, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam…/
17
*Yêu cầu của Hồ Chí Minh về tài của người cán bộ. Tài chính là năng lực của người
cán bộ
Trên nền tảng đạo đức là gốc, người cán bộ phải có năng lực lãnh đạo và tổ chức
thực hiện đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Chúnh phủ. Thực chất đó là
năng lựcc tổ chức và động viên quần chúng thực hiện chính sách của Đảng và Chính phủ.
Muốn động viên, tổ chức và giáo dục nhân dân, chiều sâu và gốc rễ của vấn đề là phải
nhận thức thật sự khoa học và cách mạng hai chữ “cán bộ” và “lãnh đạo” là gì? Hồ Chí
Minh giải thích: “ Làm cán bộ tức là suốt đời làm đầy tớ trung thành của nhân dân. Mấy

chữ a,b,c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được”.
Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và phải làm cho tốt. Người viêt : “Đảng ta là Đảng lãnh
đạo , nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến xã, bất kỳ ở cấp nào
và ngành nào- đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Như vậy, năng lực lãnh đọa của người cán bộ, xét đến cùng là năng lực phục vụ
nhân dân, đem lại lợi ích vật chất và tinh thần tốt nhất cho nhân dân. Muốn như vậy thì
người cán bộ phải có năng lực học dân chúng, hỏi dân chúng, hiểu dân chúng. Bởi vì
“Không học dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được
thầy học dân” Theo Hồ Chí Minh “dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn
giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không
ra”.
Trên nền tảng phẩm chất đạo đức, trí tuệ, trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ,
năng lực của cán bộ thể hiện ở bản lĩnh và phương pháp, phong cách lãnh đạo được biểu
hiện cụ thể ở thực hành.Năng lực lãnh đạo thể hiện ở lãnh đạo đúng.
Theo Hồ Chí Minh lãnh đạo đúng có nghĩa là :
-Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng . Mà muốn thế thì nhất định phải
so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái
kết quả của sự lãnh đạo của ta.
- Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy , không có dân chúng giúp sức
thì không xong
- Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần
chúng giúp mới được.
Hồ Chí Minh đem lại cho ta nhận thức mới mẻ, khoa học về năng lực lãnh đạo.
Người phê bình thói lãnh đạo quan liêu “Cái gì cũng dùng mệnh lệnh, ép dân chúng làm,
đóng cửa mà lại đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chũng, bắt dân
chúng theo”.
18
Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng, tin
vào dân chúng . Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết, chúng ta
tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo tập trung ý kiến của quần

chúng , hóa nó thành cái đường lối để lãnh đọa quần chúng.
* Liên hệ: Tình hình học tập theo tấm gương đạo đức HCM( trọng tâm
các đc làm thêm)
a.Thực trạng hiện nay cơ quan,xã tôi là xã………………….đã phát động các phong
trào học tập theo tấm gương đạo đức HCM như: Phong trào học tập và làm theo
lời Bác.Phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM….và cuộc thi: Nhật ký
vàng làm theo lời bác.Thi viết về Bác.Thi vẽ về Bác…….Thi tìm hiểu về thơ của Bác…
-Ưu điểm……….
+ Cơ quan ( đia phuong) tôi đã thực hiện tốt chỉ thị 03-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh do Ban Chấp hành Trung ương ban
hành và đc đông đảo CBCC và quần chúng hưởng ứng……….
+/ Khuyết điểm: Còn tình trạng một số phong trào chạy theo thành tích,số lượng,sao
chép,làm cho xong nên chất lượng và hiệu quả chua cao. Chưa phát huy đc tác dụng
tuyên truyền,giáo dục……
+/ Đề xuất một số giải pháp: Khi phát động phong trào nên tập trung cao vào nội dung
và chất lượng tránh phô trương,hình thức.Sau khi kết thúc phong trào cần có công tác
kiểm tra,đánh giá ,rút kinh nghiệm về nhũng việc đã làm đc,việc chưa làm đc của phong
trào. Khen thưởng những tập thể và cá nhân xuất sắc,phê bình những tập thể và cá nhân
làm qua loa,đại khái,hình thức…….
b.Liên hệ ưu nhược điểm của bản thân (theo 4 tiêu chuẩn)
- Ưu điểm:Bản thân tôi luôn học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM như:
+Trung với nước: bản thân tôi luôn có lập trường tư tưởng vững vàng ,kiên định mục
tiêu XHCN. Thực hiện tốt đường lối,chủ trương,chính sách của đảng và pháp luật của
nhà nước. Có tình yêu nước sâu nặng và đặc biệt là tình yêu với biển đảo quê huơng. Sẵn
sàng tham gia các hoạt động như: “ Tất cả vì Trường Sa thân yêu”, “ Góp đá xây dựng
Trường Sa” “Trường Sa trong trái tim tôi”…
+Hiếu với dân:Chủ tịch HCM đã từng nói:”Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó
vạn lần dân liệu cũng xong”. Bản thân tôi là một CBCC NN nên tôi đã nhận thức rõ tầm
quan trọng của nhân dân và luôn liên hệ chặt chẽ với nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân
lên trên hết,lắng nghe ý kiến của nhân dân,giải thích cho nhân dân …….

+Cần: Bản thân tôi luôn siêng năng, chăm chỉ,kiên trì và cố gắng không ngừng trong
học tập,lao động để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội……….
+Kiệm: Bản thân tôi luôn Tiết kiệm vật tư,của cải của nhà nước và nhân dân. Ngoài
ra tôi luôn tiết kiệm không xa xỉ, không hoang phí tiền bạc, của cải, thời gian của bản
thân và gia đình…………….
+Liêm:Bản thân tôi luôn sống trong sạch, không tham lam tiền của, địa vị, danh
tiếng………
+Chính:Bản thân tôi luôn sống thẳng thắn, đứng đắn………
+Chí công,vô tư :Bản thân tôi luôn vì Đảng, vì tập thể ,vì cơ quan và luôn đặt lợi ích
của tập thể,của cơ quan, của nhân dân lên trên hết, trước hết…….
+Thương yêu con người,sống có tình có nghĩa:Tôi luôn sẵn sàng chia sẻ,động viên
giúp đỡ bạn bè,đồng nghiệp và mọi người khi gặp khó khăn,hoạn nạn….Tham gia ủng hộ
tết vì người nghèo,Ủng hộ trẻ em chất độc màu da cam,ủng hộ nạn nhân động đất ở
Nepal….với tinh thần “Lá lành đùm lá rách” ,”Thương người như thể thương thân”…
19
+Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung: Bản thân tôi luôn có thái độ ân cần,cởi
mở khi gặp người nước ngoài ở VN và nhiệt tình giúp đỡ,chỉ đường cho họ …
-Khuyết điểm…………….(tự làm)
-Khắc phục:…… …………….(tự làm)
****************************************
3. Yêu cầu về phong cách của người cán bộ theo TTHCM( trọng tâm)
* Quan niệm của HCM về phong cách của người cán bộ
Phong cách của người cán bộ có quan hệ mật thiết với tư tưởng, đường lối và
phương pháp cách mạng. Tư tưởng đường lối soi sáng hoạt động của người cán bộ, có ý
nghĩa quyết định nhất. Nhưng phải có phương pháp đúng đắn và khoa học. Kết quả thực
hiện đường lối phụ thuộc vào hoạt động cụ thể với trình độ, bản lĩnh, khí chất và phong
cách của từng người.
Phong cách của người cán bộ có quan hệ chặt chẽ tới đạo đức. Các phẩm chất đạo
đức cách mạng như trung với nước, hiếu với dân, cần kiệm liêm chính… Đó là những
phẩm chất chung của con người Việt Nam trong thời đại mới, được biểu hiện một cách cụ

thể qua phong cách khác nhau của từng người.
Phong cách của người cán bộ là một chỉnh thể bắt đầu từ suy nghĩ (tư duy) đến hoạt động
thực tiễn. và cuối cùng là phong cách sinh hoạt đời thường.
* Người cán bộ tu dưỡng rèn luyện theo phong cách HCM (Yêu cầu về phong cách
của người cán bộ).
Một là: Rèn luyện phong cách tư duy
Tu dưỡng theo phong cách tư duy HCM là mỗi cán bộ đảng viên phải có tinh thần
độc lập tự chủ sáng tạo. Độc lập là không lệ thuộc, không bắt trước, không theo đuôi. Tự
chủ là làm chủ suy nghĩ của mình, làm chủ bản thân và công việc của mình. Sáng tạo là
sẵn sàng từ bỏ những cái cũ xấu xa, lạc hậu, lỗi thời. Tìm tòi những cái mới phù hợp với
quy luật khách quan và thực tiễn.
Tư duy phải xuất phát từ thực tế VN, địa phương mình, phù hợp với những điều
kiện lịch sử cụ thể. Phải mở rộng tư duy, nghiên cứu tư tưởng, học thuyết. Hiện nay cán
bộ đảng viên phải chú trọng hướng tầm nhìn ra thế giới, không ngừng học tập nâng cao
trình độ văn hóa, làm giàu trí tuệ của mình bằng những kiến thức phong phú và sâu rộng.
Tư duy độc lập tự chủ sáng tạo đồng nghĩa với 1 bản lĩnh vững vàng, một tinh thần dũng
cảm dám nghĩ đến những “nghịch lý táo bạo” trên cơ sở nhân cách và tài năng, tự quyết
định một cách độc lập thái độ, hành động, quan điểm của mình không vì áp lực bên ngoài
mà thay đổi chính kiến, với tinh thần giám nghĩ giám chịu trách nhiệm trước nhân dân, tổ
quốc và đảng. Tư duy đó tạo cho mỗi cán bộ có bản sắc riêng, chính kiến riêng.
Hai là: Rèn luyện phong cách làm việc.
- Rèn luyện tác phong quần chúng
Phong cách quần chúng của HCM xuất phát từ những giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc VN. HCM là người sớm đánh giá cao vị trí vai trò của quần chúng
nhân dân. Theo người trên bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không
gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Dễ mười lần dân cũng chịu, khó trăm lần
dân liệu cũng xong. Dân chúng đồng lòng việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng
hộ việc gì làm cũng không nên.
Cán bộ đảng viên tu dưỡng rèn luyện theo phong cách quần chúng của HCM là
phải theo đúng đường lối nhân dân với các nôi dung cụ thể sau:

Thứ nhất: Phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Việc gì có lợi cho dân dù nhỏ
đến mấy cũng hết sức làm; việc gì có hại cho dân dù nhỏ mấy cúng phải tránh.
20
Thứ hai: Liên hệ chặt chẽ với nhân dân. HCM là lãnh tụ rất gần gũi, sâu sát nhân
dân. Học tập HCM mỗi cán bộ đảng viên phải chịu khó đi về cơ sở để nắm vững dân tình,
dân tâm, dân ý. Phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Phải lắng nghe ý kiến của đảng
viên, của nhân dân, của những người “không quan trọng”, cả những ý kiến “nghịch”.
Thứ ba: Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ. Mỗi cán
bộ khi gặp công việc phải biết tìm đủ mọi cách giải thích cho dân hiểu, cả những việc
trực tiếp có lợi cho dân.
Thứ tư: Có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan
nghênh nhân dân phê bình mình.
Thư năm: Sẵn sàng học hỏi nhân dân. Người lãnh đạo không nên kiêu ngạo mà
nên hiểu thấu. Ngoài kinh nghiệm của mình người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm
của đảng viên, của dân chúng để thêm cho kinh nghiệm của mình. Nhân dân là những
người có trí tuệ, thông minh, tài giỏi. Dân chúng nhiều tai, nhiều mắt, việc gì họ cũng
nghe cũng thấy. Không học hỏi dân chúng thì không lãnh đạo được dân chúng.
Thứ sáu: Chống bệnh quan liêu. Thực hiện phong cách quần chúng đồng thời
chống cách quan liêu với những biểu hiện xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân,
không tin cậy nhân dân, không hiểu nhân dân, không thương yêu nhân dân.
- Tác phong tập thể dân chủ.
Phong cách dân chủ có nội dung dân chủ trong đảng và dân chủ với nhân dân.
Về thực hành dân chủ trong đảng, mỗi cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cần thực hiện những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Phát huy sức mạnh trí tuệ của tập thể. Phát huy sức mạnh tập thể, gắn
bó với tập thể, tôn trọng tập thể, đặt mình trong tập thể. Có dân chủ bàn bạc tập thể mới
thông suốt, nhất trí, mới cùng quyết tâm thực hiện được.
Thứ hai: Mở rộng dân chủ trong sinh hoạt đảng. Người lãnh đạo phải khuyên cán
bộ đảng viên phải mạnh bạo, cả gan nói, cả gan đề xuất ý kiến, phê bình và tự phê bình.
Tránh mất hết dân chủ trong đảng.

Thứ ba: Nhận trách nhiệm cá nhân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và tuyệt
đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách.
Về phát huy quyền làm chủ nhân dân. Mỗi cán bộ đảng viên phải làm cho nhân dân có
năng lực làm chủ, biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, giám
nói, giám làm. Dân là chủ là nói đến địa vị , vị thế của người dân trong một nước dân
chue. Dân làm chủ là nói đến năng lực bổn phận của người dân. Phải coi trọng nâng cao
dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực của công
dân, khắc phục dân chủ hình thức.
- Tác phong khoa học
Mỗi cán bộ đảng viên phải khắc phục thói quen tự do, tùy tiện, thiếu kế hoạch,
thiếu điều tra nghiên cứu. Đồng thời phải xây dựng tác phong khoa học trong công tác
trong lãnh đạo.
Làm việc phải đi sâu đi sát, điều tra nghiên cứu nắm người nắm việc, nắm tình
hình cụ thể. Làm việc phải có mục đích rõ ràng, có chương trình kế hoạch. Cán bộ lãnh
đạo phải thường xuyên kiểm tra giám sat việc thực hiện của cấp dưới.
Phải thường xuyên chú ý rút kinh nghiệm. Kinh nghiệm lãnh đạo, tổ chức, kinh
nghiệm cá nhân, từng địa phương, ngành. Kinh nghiệm thành công và thất bại.
Ba là: Rèn luyện phong cách diễn đạt
Diễn đạt phải xác định rõ chủ đề đối tượng, mục đích của việc nói và viết, từ đó
tìm ra cách nói cách viết phù hợp với đối tượng, rõ chủ đề và mục đích đề ra.
Viết nói phải chân thực, không nên nói ẩu, nói bịa.
Viết ngắn gọn, phải có đầu có đuôi, thiết thực thấm thía chắc chắn. Phải cô đọng,
hàm súc, mỗi câu, mỗi chữ có mục đích ý nghĩa. Không nên máy móc, Chống nói rỗng
tuếch. Điều quan trọng là phải làm rõ được vấn đề, những điều mà quần chúng quan tâm.
21
Diễn đạt phải trong sáng, giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm. Tuyên truyền quần
chúng phải dùng cách nói của quần chúng, tránh lạm dụng chữ nước ngoài hay bệnh nói
chữ, ham dùng chữ.
Bốn là: Rèn luyện phong cách ứng xử.
Rèn luyện phong cách ứng xử của HCM. Mỗi cán bộ đảng viên phải chú ý đối xử

với các đối tượng khác nhau, trước hết là với các tầng lớp nhân dân. Đối với nhân dân,
bạn bè đồng chí anh em HCM có cách ứng xử rất tự nhiên, bình dị, cởi mở, chân tình vừa
chủ động, linh hoạt vừa ân cần tế nhị. Điều cần thiết là phải chân thực, luôn xem mình là
người bình thường. Đó chính là thái độ nhân văn, thương yêu quý trọng, quý mến con
người.
Học HCM trong cách ứng xử với nhân dân là phải có thái độ ân cần, niềm nở vừa
thân ái vừa nhiệt tình, thể hiện tấm lòng khoan dung. Đặc biệt tuyệt đối không được dùng
sức mạnh của quyền lực trong ứng xử với quần chúng nhân dân.
Trong ứng xử cần có thái độ khiêm nhường thực sự. ứng xử phải rất tế nhị, nhất là đối
với các nhân sĩ tri thức.
Năm là: Rèn luyện phong cách sinh hoạt
Phong cách sinh hoạt của HCM thể hiện triết lý nhân sinh lấy khiêm tốn giản dị làm
nền, lấy chừng mực điều độ làm chuẩn, lấy trong sạch thanh cao làm vui, lấy gắn bó con
người , với thiên nhiên làm niềm say mê vô tận.
Noi theo tấm gương HCM mỗi cán bộ đảng viên phải tu dưỡng rèn
luyện phong cách trong sinh hoạt từ cái ăn đến cái mặc, đến sử dụng trang thiết bị vật
dụng cho sinh hoạt hàng ngày , trong đi lại và phòng làm việc. Phải noi gương bác thực
hiện nếp sống chừng mực, điều độ, ngăn nắp, yêu lao động quý trọng thời gian, không có
ham muốn danh lợi cho riêng mình. Học bác rèn luyện một đời sống riêng thanh đạm,
thanh cao, gắn bó với tình yêu thiên nhiên, luôn luôn tin tưởng lạc quan yêu đời.
Trong sinh hoạt hàng ngày, mỗi cán bộ đảng viên phải đặt cho mình một kỷ luật chặt chẽ,
giữ nếp trật tự ngăn nắp gon gàng, chú ý rèn luyện sức khỏe, sắp xếp thời gian tiến hành
mọi việc thật hợp lý và có hiệu quả nhất.
* Liên hệ tình hình học tập theo phong cách đạo đức
HCM(trọng tâm các đc làm thêm)
a.Thực trạng ở địa phương( cơ quan)
- Ưu điểm: Cơ quan(địa phương) tôi là xã………… luôn nêu cao tinh thần học
tập và làm theo phong cách đạo đức HCM như:
+ Năm 2014 vừa qua cơ quan(địa phương) tôi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và
tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách….

+Cơ quan(địa phương) xã tôi đã thực hiện tác phong làm việc dân chủ,công khai… Mở
rộng dân chủ trong sinh hoạt đảng…….
+ Cơ quan(địa phương) xã tôi đã có biện pháp tiết kiệm thời gian ,tiền của của nhân dân
và nhà nước…
+Cơ quan(địa phương) xã tôi đã lập kế hoạch làm việc khoa học,cụ thể ,rõ ràng.Sắp xếp
thời gian tiến hành mọi việc thật hợp lý và có hiệu quả nhất……
+CBCC trong cơ quan (địa phương) tôi có cách ứng xử rất tự nhiên, bình dị, cởi mở,
chân tình vừa chủ động, linh hoạt vừa ân cần tế nhị đối với nhân dân, bạn bè đồng chí
,đồng nghiệp…
+Cơ quan (địa phương) tôi Đã từng bước coi trọng nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức
làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực của công dân, khắc phục dân chủ
hình thức.
+Cơ quan (địa phương) tôi Đã liên hệ chặt chẽ với nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân
lên trên hết… Không dùng sức mạnh của quyền lực trong ứng xử với quần chúng nhân
dân…
22
- Khuyết điểm
+Đôi khi còn có 1 số đc có thói quen làm việc tự do, tùy tiện, thiếu kế hoạch, …
+ Đôi khi còn có hiện tượng không đi sâu đi sát, không điều tra nghiên cứu nắm người
nắm việc, nắm tình hình cụ thể.
+Tinh thần phê và tự phê chưa cao,nể nang trong nhận xét ,đánh giá CBCC…
+ Đôi khi còn lãng phí tài sản công và lãng phí thời gian và tiền của của nhân dân….
+ Đôi khi còn quan liêu,thành tích…….
- Nguyên nhân
-Phương hướng khắc phục
Phải xây dựng tác phong khoa học trong công tác trong lãnh đạo.
Làm việc phải đi sâu đi sát, điều tra nghiên cứu nắm người nắm việc, nắm tình
hình cụ thể. Làm việc phải có mục đích rõ ràng, có chương trình kế hoạch. Cán bộ lãnh
đạo phải thường xuyên kiểm tra giám sat việc thực hiện của cấp dưới.
Phải thường xuyên chú ý rút kinh nghiệm. Kinh nghiệm lãnh đạo, tổ chức, kinh

nghiệm cá nhân, từng địa phương, ngành. Kinh nghiệm thành công và thất bại.
Người lãnh đạo phải khuyên cán bộ đảng viên phải mạnh bạo, cả gan nói, cả gan
đề xuất ý kiến, phê bình và tự phê bình. Tránh mất hết dân chủ trong đảng.
Người lãnh đạo không nên kiêu ngạo mà nên lắng nghe, thấu hiểu ……
Thực hiện phong cách quần chúng đồng thời chống cách quan liêu với những biểu
hiện xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân, không tin cậy nhân dân, không hiểu nhân
dân, không thương yêu nhân dân.
Phải phát huy sức mạnh trí tuệ của tập thể, gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, đặt
mình trong tập thể
b.Liên hệ bản thân:
- Ưu điểm: bản thân tôi đã không ngừng học tập và rèn luyện theo phong cách đạo
đức HCM như:
+Phong cách tư duy: Bản thân tôi đã độc lập ,tự chủ ,sáng tạo trong suy nghĩ. Dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm……….
Tác phong quần chúng: Bản thân tôi luôn đặt lợi ích của tập thể và nhân dân lên trên
hết. Việc gì có lợi cho dân dù nhỏ đến mấy cũng hết sức làm; việc gì có hại cho dân dù
nhỏ mấy cũng phải tránh….
+Tác phong làm việc khoa học: Bản thân tôi đã lập kế hoạch học tập,lao động cụ
thể,rõ ràng…
+Tác phong làm việc dân chủ : Bản thân tôi đã đã mạnh bạo, cả gan nói, cả gan đề
xuất ý kiến, phê bình và tự phê bình…
+Tác phong sinh hoạt: Bản thân tôi đã khiêm tốn,giản dị,tiết kiệm………Có nếp sống
chừng mực,điều độ,ngăn nắp,yêu lao động,quý trọng thời gian ……… Chú ý rèn luyện
sức khỏe,yêu thiên nhiên, luôn luôn tin tưởng lạc quan yêu đời….
+ Phong cách ứng xử:Bản thân tôi đã Có thái độ ân cần, niềm nở vừa thân ái vừa nhiệt
tình, thể hiện tấm lòng khoan dung với mọi người…Có thái độ khiêm nhường……Có
cách ứng xử rất tự nhiên, bình dị, cởi mở, chân tình vừa chủ động, linh hoạt vừa ân cần tế
nhị…
+ Phong cách diễn đạt:Bản thân tôi viết nói chân thực,hàm xúc.Diễn đạt trong sáng,
giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm.Không lạm dụng chữ nước ngoài hay bệnh nói chữ,

ham dùng chữ……
- Khuyết điểm:(mỗi người tự rút ra khuyết điểm của bản thân)
+ Đôi khi tinh thần phê và tự phê chưa cao,còn nể nang khi nhận xét ,đánh giá…
+ Đôi khi còn làm việc và sinh hoạt tự do, tùy tiện, thiếu kế hoạch…
+ Đôi khi còn chú ý quá nhiều đến lợi ích cá nhân …
23
+ Đôi khi còn lãng phí thời gian và tiền bạc của bản thân và gia đình….
- Nguyên nhân và phương hướng khắc phục:(mỗi người tự đề ra phương hướng
khắc phục khuyết điểm của bản thân)
+ Phải mạnh bạo, cả gan nói, cả gan đề xuất ý kiến, phê bình và tự phê bình….
+Lập kế hoạch làm việc khoa học,cụ thể ,rõ ràng.Sắp xếp thời gian tiến hành mọi việc
thật hợp lý và có hiệu quả nhất……
+ Phải gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, đặt mình trong tập thể,đặt lợi ích tập thể lên
trên lợi ích cá nhân …
+ Chú ý tiết kiệm cả thời gian và tiền bạc của bản thân và gia đình….
24
25

×