Tải bản đầy đủ (.doc) (148 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế CHÍNH TRỊ đề CƯƠNG ôn tập môn KINH tế xã hội CHỦ NGHĨA TRONG THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.47 KB, 148 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP KINH TẾ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Vấn đề thứ nhất
Câu 1: Nội dung xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam
- Khái niệm quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất (QHSX) là quan hệ
giữa người với người trong sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật
chất. QHSX là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối quan hệ giữa người
với người trên ba mặt cơ bản: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức
quản lý sản xuất, quan hệ phân phối kết quả sản xuất.
Các mặt của QHSX: 1. QH sở hữu tư liệu sản xuất 2. QH về tổ chức
quản lý sản xuất 3. QH phân phối kết quả sản xuất
- Quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX:
* Trình độ của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
LLSX bao gồm TLSX và người lao động, trình độ của LLSX thể hiện ở
trình độ và tính chất của các yếu tố cấu thành nó và cách thức kết hợp các yếu
tố đó trong quá trình sản xuất. Trình độ phát triển và sự hoàn thiện của công
cụ lao động gây ra những biến đổi sâu sắc trong LLSX và dẫn tới những cải
biến trong xã hội, những sự thay đổi trong QHSX, các hình thái kinh tế - xã
hội. Công cụ lao động ngày càng tiên tiến, hiện đại đòi hỏi người lao động
phải không ngừng nâng cao trình độ để sử dụng được các tư liệu lao động
hiện đại đó.
LLSX ở trình độ càng cao thì phân công lao động chuyên môn hóa
càng sâu, quy mô sản xuất ngày càng mở rộng, ứng dụng tiến kỹ thuật công
nghệ vào sản xuất ngày càng phổ biến. Khi trình độ người lao động càng cao,
sử dụng tốt kỹ thuật công nghệ hiện đại trong sản xuất, nhiều người tham gia
vào dây chuyền sản xuất thì LLSX mang tính chất xã hội.
Trình độ của LLSX quyết định QHSX ở chỗ:
Sự phát triển của LLSX là do mâu thuẫn bên trong nó quyết định đó là
biện chứng giữa sản xuất và nhu cầu; từ đó đặt ra yêu cầu con người cải tiến
công cụ lao động hiện đại để chinh phục tự nhiên đến một giai đoạn nhất định


LLSX chuyển sang trình độ và tính chất xã hội hoá ở mức cao hơn sẽ mâu
thuẫn gay gắt với QHSX hiện thời. Từ đó, đòi hỏi phải phá bỏ quan hệ sản
xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ đã phát triển của
LLSX, thúc đẩy sản xuất phát triển.
LLSX có tính kế thừa, nhờ đó con người luôn luôn sáng tạo ra những tư
liệu lao động mới, do đó LLSX là yếu tố động không ngừng biến đổi, vì vậy
LLSX như thế nào thì QHSX như thế ấy. Con người không thể tuỳ ý lựa chọn
QHSX hoặc tuỳ tiện tạo lập một QHSX theo ý muốn chủ quan cho dù điều đó


rất tốt đẹp về đạo lý và là nguyện vọng của con người luôn hướng tới. Con
người cũng không thể duy trì QHSX quá lạc hậu để bảo vệ lợi ích của số ít
người trong xã hội. C.Mác đã nhận xét: “Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã
hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản
công nghiệp.” [C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, 1995, tr.187].
* Tính độc lập tương đối của QHSX và tác động trở lại đối với LLSX.
QHSX có tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với LLSX theo
2 chiều hướng: thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của LLSX hay còn gọi là
QHSX phù hợp hoặc không phù hợp với trình độ LLSX.
Khi QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX sẽ thúc đẩy
LLSX phát triển, biểu hiện: Một là, cả ba mặt của QHSX phải thích ứng với
trình độ của LLSX. Hai là, tạo điều kiện sử dụng và kết hợp tốt giữa TLSX với
sức lao động để tái sản xuất mở rộng có hiệu quả. Ba là, mở ra điều kiện kích
thích vật chất, động viên tinh thần người lao động.
Khi QHSX không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX sẽ kìm hãm
sự phát triển của LLSX trong các trường hợp: QHSX đã lỗi thời lạc hậu; QHSX
phát triển không đồng bộ; QHSX mới tiến bộ được xây dựng một cách chủ quan
khi cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm cho QHSX mới đó chưa xuất hiện.
- Nội dung xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp ở VN hiện
nay

* Về xây dựng quan hệ sở hữu và phát triển các thành phần kinh tế
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay phải thực hiện đa dạng các loại hình sở hữu là sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể và sở hữu tư nhân. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình
thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển.
Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu
sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi
tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp
thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh
tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
* Về quan hệ tổ chức quản lý
Xây dựng hệ thống quản lý mới phù hợp với yêu cầu phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy
luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp


với từng giai đoạn phát triển của đất nước; yêu cầu của nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN,
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng tạo lập đồng bộ các
yếu tố và các loại thị trường; phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị
trường, triệt để xoá bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường năng lực và hiệu
quả quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các

hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu gây phiền hà.
Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh
tế. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Tích cực đổi mới và hoàn thiện hệ thống
chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, động viên hợp lý và phân phối có hiệu
quả mọi nguồn lực nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Bảo
đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của thị trường tài chính - tiền tệ trong
toàn bộ nền kinh tế.
* Về quan hệ phân phối
Mục tiêu hàng đầu của phân phối là phải tạo ra cơ chế kích thích, động viên
triệt để tính tích cực, tính sáng tạo của từng người lao động, từng tập thể và toàn
bộ doanh nghiệp để tăng hiệu suất tối đa. Bình đẳng là mục tiêu lâu dài, bởi nó
không tách rời với trình độ phát triển cao của LLSX. Muốn kích thích nâng cao
hiệu suất, tăng năng suất lao động, phát triển LLSX thì lại phải chấp nhận chênh
lệch về thu nhập kinh tế. Để hoàn thiện chế độ phân phối cần nắm vững và vận
dụng các nguyên tắc: Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Phân
phối theo vốn, tài sản và trí tuệ. Phân phối theo phúc lợi xã hội và an sinh xã hội.
Chủ trương thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu vừa khuyến khích lao động, vừa
đảm bảo phúc lợi cơ bản, có tác dụng chi phối các hình thức phân phối khác.
Đối với các thành phần kinh tế cụ thể cần thực hiện tốt các nội dung:
Trong các doanh nghiệp nhà nước: Chế độ phân phối phải khuyến
khích người giỏi, động viên mọi người vươn lên giỏi. Do đó, Nhà nước chỉ
nên quy định thang lương cho cấp bậc lao động nghề nghiệp, cấp bậc quản lý,
còn mức lương và các khoản theo lương được hưởng cụ thể tuỳ thuộc vào kết
quả kinh doanh của từng bộ phận hoặc toàn bộ doanh nghiệp. Việc phân phối
cho người lao động phải kết hợp chặt chẽ giữa trách nhiệm, quyền hạn, lợi
ích, kích thích cạnh tranh, có thưởng có phạt, kích thích vật chất với tinh thần,
đề cao văn hóa doanh nghiệp. Hoàn thiện phân phối trong doanh nghiệp phải xác
định đúng đắn tiêu chuẩn, căn cứ và nguyên tắc, tránh tình trạng lấy quyền lực của

cơ quan cấp trên ép cấp dưới, bất cần luận cứ.
Trong các hợp tác xã (nông nghiệp là chủ yếu): Quán triệt nguyên tắc


phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế và theo cổ phần đối với hợp
tác xã kiểu mới. Chuyển các quan hệ kinh tế giữa hợp tác xã và hộ sang quan
hệ hợp đồng, thoả thuận và công khai. Ngoài thuế nông nghiệp, các hộ xã
viên chỉ thanh toán cho hợp tác xã các chi phí về dịch vụ theo đơn giá thoả
thuận. Nhà nước có hướng dẫn cụ thể để dân cư nông thôn đóng góp các
khoản thực sự cần thiết tránh huy động dân cư đóng góp tuỳ tiện.
Trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Phải bảo đảm lợi ích
hợp lý của các chủ thể kinh tế có liên quan, tạo được động lực cho phát triển.
Trong thành phần kinh tế tư nhân: Thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động trong thành phần này, Nhà nước phải bảo hộ quyền lợi của người lao
động, đồng thời khuyến khích chủ doanh nghiệp mở rộng phúc lợi, cải thiện đời
sống vật chất tinh thần cho người lao động. Phân phối theo vốn và tài sản đòi hỏi
phải xác định đúng mức sự đóng góp của các loại hình doanh nghiệp vào ngân
sách, vừa bảo đảm nguồn thu ngân sách, vừa nuôi dưỡng nguồn thu, bảo đảm
quyền lợi hợp lý cho nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp. Nhà nước sử dụng chính
sách kinh tế tạo động lực cho đầu tư, hạn chế tiêu sài hoang phí. Nhà nước có sự
trợ giúp các chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư nâng cao năng lực kiến thức và ý thức
kinh doanh. /.
- Ý nghĩa của vấn đề:
Câu 2: Đặc điểm của quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ Bảy, khóa VII khẳng định:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động và
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao

động xã hội cao.
Như vậy CNH, HĐH ở nước ta có nhiều nét đặc thù cả về nội dung,
hình thức, qui mô, cách thức tiến hành và mục tiêu. Những nét đặc thù này
được thể hiện khái quát ở một số điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là quá trình rộng
lớn, phức tạp và toàn diện.
CNH, HĐH diễn ra một cách rộng lớn không chỉ riêng phạm vi nào,
không chỉ phát triển công nghiệp một cách thuần tuý để cung cấp các trang
thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, mà được tiến hành trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội, bao gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động dịch vụ và hoạt
động quản lý kinh tế - xã hội; không chỉ phát triển lực lượng sản xuất, mà
thay đổi cả về mặt kinh tế; thay đổi cả về phương tiện, phương pháp công
nghệ theo hướng hiện đại. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển lực lượng sản xuất


hiện đại với việc xác lập củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Quá trình CNH được thực hiện gắn với từng giai đoạn lịch sử nhất định, có mở
đầu và có kết thúc, và nó chỉ diễn ra ở các nước chưa có cơ sở vật chất kỹ
thuật; đồng thời còn phụ thuộc vào môi trường trong nước cũng như môi
trường quốc tế. Có sự kết hợp giữa bước đi tuần tự với bước đi nhảy vọt, kết
hợp giữa phát triển theo chiều rộng với phát triển theo chiều sâu, kết hợp giữa
biến đổi về lượng với biến đổi về chất của các tác nhân tham gia quá trình. Mục
tiêu của CNH, HĐH mang tính bao trùm rất cao, theo đó đến năm 2020 sớm
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
nhưng xa hơn là trở thành một nước với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Thứ hai, tiến hành đồng thời và đồng bộ công nghiệp hoá và hiện đại
hoá như một quá trình thống nhất.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ đang

diễn ra mạnh mẽ, nước ta không thể chờ thực hiện xong CNH rồi mới tiến
hành HĐH, mà phải tiến hành đồng thời. Có thể nhìn nhận quá trình này từ
hai mặt thống nhất với nhau: Một mặt, đó là quá trình xây dựng nền công
nghiệp hiện đại, tức là tạo nền tảng vật chất, kỹ thuật (lực lượng sản xuất)
của nền kinh tế; mặt khác, đó là quá trình cải cách thể chế và cơ chế kinh tế,
từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp, sang kinh tế thị
trường và mở cửa hội nhập. CNH gắn với HĐH là cách làm đẩy lùi nguy cơ
tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới,
nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực, hội nhập vào sự
phát triển chung của khu vực và trên thế giới.
Thứ ba, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cần và có thể
được “rút ngắn”.
Việc cần được “rút ngắn” ở đây là đòi hỏi khách quan để đất nước thoát
khỏi tình trạng tụt hậu, kém phát triển. Bên cạnh đó, điều kiện trong nước và
bối cảnh quốc tế tạo điều kiện cho phép nước ta có thể “rút ngắn” quá trình
CNH, HĐH. Về cơ bản, cách để nước ta có thể thực hiện CNH, HĐH “rút
ngắn” bao gồm hai mặt: Một mặt, chúng ta có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
hơn các nước đi trước liên tục trong một thời gian dài để rút ngắn khoảng
cách chênh lệch về trình độ so với các nước đó (thực chất là tăng tốc để đuổi
kịp); mặt khác, có điều kiện lựa chọn và áp dụng một phương thức CNH,
HĐH cho phép rút ngắn thời gian (bỏ qua một số bước đi vốn là bắt buộc theo
kiểu phát triển tuần tự), để đạt tới một nền kinh tế có trình độ phát triển cao
hơn (thực chất là lựa chọn con đường, bước đi và giải pháp CNH để đi nhanh
tới hiện đại). Hai mặt này không đối lập mà thống nhất với nhau và đang tiếp
tục được làm sáng tỏ hơn con đường đẩy nhanh CNH, HĐH ở nước ta.
Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri


thức.
Từ những thập kỷ cuối thế kỷ 20 cho tới nay khoa học và công nghệ đã

có những bước phát triển kỳ diệu, đặc biệt là đã xuất hiện cách mạng thông
tin, cách mạng tri thức và sự bùng nổ công nghệ cao. Thành tựu nổi bật nhất
là sự phát triển cực kỳ nhanh chóng của công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ nanô; đó là những công nghệ cao cơ bản, chúng đang hội tụ
với nhau để tạo thành nền tảng cho một hệ thống công nghệ mới của thế kỷ
21, công nghệ của nền kinh tế tri thức. Hệ thống công nghệ mới ấy đang làm
biến đổi sâu sắc các quá trình sản xuất, cách thức sản xuất kinh doanh và mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội loài người. Đây không chỉ là cách mạng trong kỹ
thuật, trong kinh tế mà còn là cách mạng trong các khái niệm, trong tư duy,
trong cách sống, cách làm việc, trong các quan hệ xã hội…Đi đôi với quá
trình biến đổi lực lượng sản xuất, từ kinh tế công nghiệp chuyển lên nền kinh
tế tri thức, là quá trình toàn cầu hóa; và trên thực tế đang hình thành nền kinh
tế tri thức toàn cầu. Đó là xu thế phát triển tất yếu khách quan, xu thế ấy lôi
cuốn tất cả các quốc gia, không loại trừ ai.
Thực tế đã cho thấy, xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển kinh tế
tri thức đang làm thay đổi mạnh mẽ nội dung và bước đi của quá trình CNH,
HĐH ở các nước đang phát triển và nó đòi hỏi CNH, HĐH ở những nước đi
sau (như Việt Nam) phải đồng thời thực hiện hai quá trình: Một là, xây dựng
nền công nghiệp theo hướng hiện đại. Hai là, phát triển kinh tế tri thức trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là hai nội dung của một quá trình diễn
ra đồng thời và phải được thực hiện đồng thời. Đảng ta đã xác định: CNH,
HĐH ở nước ta phải dựa vào tri thức, theo con đường đi tắt, rút ngắn. CNH,
HĐH phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chuyển từ nền kinh tế nông
nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ một nền kinh tế công nghiệp sang kinh
tế tri thức.
Rút ra ý nghĩa


Vấn đề thứ 2
Câu 1: Sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường trên thế giới

Khái niệm Kinh tế thị trường: KTTT là nền kinh tế mà trong
đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị
để xác định giác cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường
Sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường trên thế giới
* Các hệ thống kinh tế trong lịch sử
Vấn đề cốt lõi của bất cứ hệ thống kinh tế nào cũng là giải quyết
ba vấn đề cơ bản: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai hay
phân phối chúng ra sao? Căn cứ vào cách thức giải quyết ba vấn đề cơ bản
nêu trên, lịch sử tiến hóa của nhân loại có thể được chia thành ba hệ thống
kinh tế lớn: Hệ thống kinh tế tự nhiên; hệ thống kinh tế hàng hóa mà giai đoạn
cao là kinh tế thị trường; hệ thống kinh tế kế hoạch hóa - hệ thống kinh tế chỉ
huy.
- Kinh tế tự nhiên
Là hệ thống kinh tế sớm nhất và sơ khai, gắn với buổi bình minh
của xã hội loài người, nó phản ánh trình độ phát triển thấp của lực lượng sản
xuất cũng như quan hệ sản xuất, biểu hiện trên các mặt sau:
Một là, mục đích sản xuất và sản phẩm sản xuất ra là nhằm thỏa
mãn tiêu dùng tại chỗ hay tiêu dùng nội bộ, đáp ứng nhu cầu của chính bản
thân người sản xuất. Vì vậy, còn gọi kinh tế tự nhiên là kinh tế tự cấp, tự túc;
không có trao đổi và thị trường nên gọi là nền kinh tế hiện vật.
Hai là, tổ chức kinh tế và sản xuất mang tính khép kín trong mỗi
đơn vị kinh tế cơ sở (chủ yếu là hộ gia đình nhỏ). Sự tách rời, cô lập và phân
tán của đơn vị kinh tế nên không có sự phân công, hợp tác giữa các đơn vị sản
xuất.
Ba là, kỹ thuật của sản xuất chủ yếu là thủ công; phương pháp
sản xuất chủ yếu dựa theo kinh nghiệm và thói quen, mang tính bảo thủ và lạc
hậu. Vì vậy, kinh tế tự nhiên tồn tại hàng nghìn năm mà không đưa lại tiến bộ
gì đáng kể về mặt kỹ thuật sản xuất, năng suất lao động cũng như tổ chức sản
xuất (Kinh tế tự nhiên đồng nghĩa với giai đoạn kinh tế nông nghiệp).
- Kinh tế hàng hóa

Là hệ thống kinh tế kế tiếp và tiến bộ hơn so với kinh tế tự nhiên.
Kinh tế hàng hóa là hình thức tổ chức kinh tế - xã hội mà ở đó mục tiêu của
sản xuất là tạo ra sản phẩm để đem ra trao đổi, mua bán trên thị trường (sản


xuất đáp ứng nhu cầu của người khác). Trong nền kinh tế này, ba vấn đề cơ
bản sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? đều được giải
quyết thông qua thị trường.
Kinh tế thị trường không phải là giai đoạn độc lập, khác biệt so
với kinh tế hàng hóa, mà là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Chỉ
khi nào lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội đạt tới trình độ cao,
sản xuất hàng hóa phát triển mạnh, trao đổi trở lên phổ biến và thị trường mở
rộng, các loại thị trường được hoàn thiện bao gồm cơ cấu các quan hệ sở hữu,
quan hệ quản lý, quan hệ phân phối, các thể chế phù hợp, các loại thị trường
hình thành đồng bộ và vận hành thông suốt, nghĩa là hoạt động như một hệ
thống chỉnh thể, hữu cơ với sự chi phối của quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong
mọi khâu, mọi lĩnh vực và mọi yếu tố của đời sống kinh tế, xã hội.
Trong lịch sử, nền kinh tế thị trường đã ra đời, phát triển cùng
với sự xuất hiện của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa tư
bản cũng là chế độ xã hội đầu tiên đã biết sử dụng kinh tế thị trường phục vụ
cho mục tiêu tạo ra của cải, lợi nhuận và tăng tích lũy, nên nhiều người
thường đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, coi nó là sản phẩm
riêng có của chủ nghĩa tư bản; đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm.
* Các giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường
Hệ thống kinh tế thị trường ra đời gắn liền với sự hình thành phát
triển của chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản đã trải qua hai giai đoạn phát triển chủ
yếu là chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, chủ nghĩa tư bản độc quyền và
tương ứng với hai giai đoạn đó của kinh tế thị trường là kinh tế thị trường tự
do và kinh tế thị trường hiện đại.
- Giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do

Giai đoạn này kéo dài ở các nước phương Tây từ cuối thế kỷ
XVII đến đầu thế kỷ thứ XX. Trong giai đoạn này các chủ thể kinh tế tư nhân
được xác lập. Nền kinh tế được xây dựng chủ yếu trên hệ thống các doanh
nghiệp tư nhân - hệ thống tư bản cá biệt và là nền tảng của chế độ tư bản chủ
nghĩa. Cơ chế thị trường trở thành cơ chế vận hành chủ yếu của nền kinh tế
(Lý thuyết bàn tay vô hình của A.Smith). Các doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ
trong sản xuất kinh doanh, tự do cạnh tranh, không bị tác động do sự can
thiệp của Nhà nước. Nhà nước chủ yếu cung cấp dịch vụ công - quan trọng
nhất là quốc phòng, an ninh.
- Giai đoạn kinh tế thị trường có sự can thiệp của nhà nước.
Giai đoạn này bắt đầu từ nửa đầu thế kỷ XX và kéo dài cho đến
ngày nay. Giai đoạn này do sự thống trị của độc quyền dã làm cho nền kinh
tế của các quốc gia tư bản chủ nghĩa đứng trước những đòi hỏi lớn về kinh
tế, chính trị, đối nội, đối ngoại mà bản thân các tổ chức độc quyền không
còn đủ khả năng tự giải quyết, đòi hỏi phải nhà nước phải trực tiếp can thiệp,


điều tiết nền kinh tế thị trường. Ở hầu hết các nước tư bản chủ nghĩa trong
giai đoạn này cơ chế thị trường tự do được thay bằng cơ chế thị trường có sự
can thiệp, điều tiết của nhà nước, nhà nước trở thành một thành tố hữu cơ
không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên,
việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường ở các nước tư bản
khác nhau cũng không giống nhau.
* Các con đường phát triển kinh tế thị trường trên thế giới
- Phát triển kinh tế thị trường theo con đường tuần tự cổ điển
Con đường này được thực hiện ở các nước Tây Âu và Mỹ, đi tiên
phong trong quá trình công nghiệp và xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ
của chính mình. Thực tiễn các nước tây Âu và Mỹ cho thấy kinh tế thị trường
phát triển tuần tự, lần lượt trải qua tất cả các giai đoạn nên thời gian phát triển
kéo dài 400, 500 năm. Có thể khái quát thành các giai đoạn chủ yếu:

Một là, giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị
trường.
Bước chuyển này trùng với sự quá độ từ chế độ phong kiến sang
chủ nghĩa tư bản, diễn ra trong các thế kỷ thứ XV, XVII ở nước Anh và các
nước Châu Âu khác. Tạo lập kinh tế thị trường với các nội dung là:
Thực hiện các cải cách tư sản trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm
phá vỡ kết cấu kinh tế phong kiến và tạo ra các tiền đề kinh tế - xã hội cần
thiết cho nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như: thực hiện cách mạng
trong nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và lao động trong nông
nghiệp, hình thành phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa trong nông
nghiệp.
Mở rộng cơ sở xã hội của kinh tế thị trường bao gồm những tầng
lớp lao động làm thuê và giới chủ trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ. Đó là những nhân vật trung tâm quyết định thời đại kinh tế thị
trường.
Phát triển ngoại thương và thực hiện chính sách thực dân xâm
chiếm thuộc địa. Đây là yếu tố đặc thù có tính chất bổ trợ quan trọng và
không thể thiếu đối với những nước đi tiên phong trong mô hình phát triển
kinh tế thị trường cổ điển.
Hai là, giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do dựa trên cơ
sở riêng.
Giai đoạn này kéo dài ở các nước phương Tây từ cuối thế kỷ
XVII đến đầu thế kỷ XX, gắn với sự ra đời của nền kinh tế thị trường dân tộc
theo chủ nghĩa tự do và tiếp đó là phát triển kinh tế thị trường hiện đại kéo dài
từ đầu thế kỷ XX cho đến nay, gắn với sự phát triển của tư bản độc quyền,
lũng đoạn, nền kinh tế hỗn hợp và toàn cầu hoá kinh tế. Nội dung phát triển
kinh tế thị trường giai đoạn này như sau:


Phát triển lực lượng sản xuất và cơ sở vật chất, công nghệ, phân công

lao động xã hội, cải biến cơ cấu kinh tế quốc dân và phát triển kinh tế thị trường dân
tộc.
Củng cố chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa như là cơ sở nền tảng
của kinh tế thị trường. Việc chuyển từ chế độ tư hữu nhỏ sang chế độ tư hữu
lớn tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở kết hợp tư liệu sản xuất của tư bản với sức
lao động của công nhân làm thuê có ý nghĩa quyết định để chuyển kinh tế hàng
hóa nhỏ, giản đơn sang kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa theo phương thức tích
lũy và tăng trưởng.
Phát triển mở rộng kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa xét trên khía
cạnh dung lượng, cơ cấu và hạ tầng kỹ thuật của thị trường. Về dung lượng:
hàng hóa ngày càng nhiều hơn; cơ cấu thị trường ngày càng phức tạp gắn bó hữu
cơ với các bộ phận cấu thành; hạ tầng kỹ thuật ngày càng hiện đại và hoàn thiện
đáp ứng yêu cầu giao dịch và thông tin thị trường ngày càng thuận lợi hơn.
- Phát triển kinh tế thị trường theo con đường rút ngắn
Phát triển kinh tế thị trường theo con đường rút ngắn có hai cách
là:
Con đường rút ngắn cổ điển
Theo cách này, Nhật bản là một điển hình. Cho tới đầu thế kỷ thứ
XIX Nhật vẫn là quốc gia phong kiến lạc hậu, dựa trên cơ sở kinh tế nông
nghiệp. Nhưng với cuộc cách mạng Minh Trị duy tân, Nhật đã bước vào thời
đại phát triển kinh tế thị trường phương Tây, chỉ trong vòng 50 năm từ 1868
đến 1911 Nhật đã thành công trong chuyển sang kinh tế thị trường. Những
năm 1960, 1970 của thế kỷ XX, Nhật đã trở thành cường quốc kinh tế chỉ
đứng sau Mỹ. Bí quyết thành công của Nhật là:
Biết tận dụng lợi thế của nước đi sau để rút ngắn thời gian tăng
tốc đuổi kịp các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Phát huy tối đa nội lực để
tranh thủ ngoại lực, với câu nói nổi tiếng “Kỹ thuật phương Tây + tinh thần
Nhật Bản”.
Trong xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, Nhật Bản đã biết
vận dụng một cách sáng tạo không sao chép nguyên mẫu mà có chọn lọc, tức

nội địa hóa cho phù hợp với điều kiện, truyền thống dân tộc. Đặc biệt, Nhật
Bản triệt để sử dụng yếu tố văn hóa Khổng giáo và tinh thần võ đạo và lòng
trung thành với chủ, quan hệ thân tộc và chế độ lao động suốt đời trong xí
nghiệp tư bản chủ nghĩa, tính kỷ luật và tinh thần tập thể thay vì chủ nghĩa cá
nhân phương Tây. Các giá trị này được chuyển tải vào xã hội mới, giúp ích
cho việc xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu Nhật Bản.
Nhà nước Nhật chủ động xây dựng môi trường, thể chế thuận lợi,
kịp thời điều chỉnh, bổ sung và can thiệp khi nền kinh tế có những mất cân
đối, đề ra định hướng phát triển chiến lược kết hợp với vận dụng linh hoạt,


mền dẻo của hệ thống các chính sách, cơ chế và công cụ điều tiết.
Nhật Bản coi trọng sở hữu tư nhân, các quy luật kinh tế thị
trường và sáng kiến cá nhân, phối hợp tích cực với tư nhân nhằm khai thác,
phát huy tối đa các tiềm năng và nguồn lực cho tăng trưởng.
Thực hiện một nền kinh tế thị trường mở để tranh thủ các nguồn
ngoại lực vào phục vụ cho phát triển đất nước, đó là vốn, tri thức và khoa học
công nghệ của các nước tư bản chủ nghĩa hàng đầu.
Con đường phát triển rút ngắn hiện đại NICs châu Á
Phải khẳng định rằng, mô hình này là sản phẩm của thời đại
mới. Một mặt, nó hội tụ được ưu điểm của con đường rút ngắn cổ điển
nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế thị trường hiện đại với sự
điều tiết mạnh và thông minh của Nhà nước. Mặt khác, có sự khác biệt cơ
bản so với mô hình rút ngắn cổ điển ở mức độ sử dụng tư bản nước ngoài
và độ mở của nền kinh tế.
Nếu Nhật Bản đã tiến hành công nghiệp hoá từ lĩnh vực nông
nghiệp và xây dựng mô hình kinh tế thị trường theo kiểu phương Tây, trái lại
các nước và vùng lãnh thổ công nghiệp mới (NICs) tiến hành công nghiệp hóa
bằng cách ngay từ đầu thu hút đầu tư nước ngoài (chủ yếu là của Hoa Kỳ và
của Nhật Bản) và xây dựng mô hình kinh tế đặc thù hướng ngoại (hướng về

xuất khẩu), dựa trên các tiền đề sau: Lợi dụng xu hướng của thời đại là toàn
cầu hoá sản xuất và đầu tư thông qua vai trò của các công ty xuyên quốc gia;
phát huy vai trò tích cực của Nhà nước trong việc tạo ra những điều kiện bên
trong thuận lợi để tận dụng các cơ hội đầu tư bên ngoài; ngay từ đầu các nước
và vùng lãnh thổ NICs đã kết hợp tốt giữa “bàn tay vô hình” với “bàn tay hữu
hình” nhằm khắc phục khuyết tật của thị trường và hình thành đồng bộ thể
chế kinh tế thị trường hiện đại.
Sự thành công của các nước, vùng lãnh thổ NICs châu Á đã mở
ra con đường phát triển mới, độc đáo không giống con đường hiện đại hóa và
phát triển kinh tế thị trường phương Tây, có thể rút ra mấy vấn đề sau:
Một là, khả năng kết hợp giữa văn hóa phương Đông với văn minh
công nghiệp và kinh tế thị trường phương Tây để tạo ra một hình thái kinh tế
mới đầy sức sống.
Hai là, sự kết hợp hữu cơ giữa cơ may bên ngoài mà thời đại tạo ra với
năng lực bên trong có thể nắm bắt cơ may, nội sinh hóa các điều kiện kinh tế
và khoa học công nghệ bên ngoài. Cựu Thủ tướng Nhật Caiphu nói: “Sự suôn
sẻ cũng giống như vận may, chẳng phải tự dưng mà có, chúng giống như là
những lễ vật được tặng thưởng cho những dân tộc có mẫn cảm lịch sử xuất
sắc và chăm chỉ làm việc”1.
Ba là, vấn đề có ý nghĩa then chốt và căn bản là thiết lập được một cơ
1

Ngụy Kiệt, Hạ Diệu: Bí quyết cất cánh của bốn con rồng nhỏ, Nxb CTQG, HN, 1993, tr7, 9.


chế thị trường để vận hành kinh tế vừa chắc chắn vừa linh hoạt, phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh của đất nước.
Bốn là, kết hợp tốt hai cơ chế - cơ chế kết hợp điều tiết thị trường ở
mức cao nhất với sự can thiệp của Chính phủ ở mức thấp nhất và cơ chế kết
hợp “Chính phủ cứng” với “thị trường mềm”.

Năm là, mở cửa thu hút vốn nước ngoài, tiếp thu khoa học công nghệ
và phát triển mậu dịch đối ngoại (thương mại quốc tế).
Nghiên cứu lịch sử cho thấy có các con đường phát triển kinh tế
thị trường khác nhau, như: Con đường phát triển tuần tự cổ điển; con đường
phát triển rút ngắn cổ điển và con đường phát triển rút ngắn hiện đại. Do
những đặc thù về điều kiện lịch sử cụ thể như thời gian ra đời, bối cảnh quốc
tế và đặc điểm về chính trị, kinh tế, xã hội mà các mô hình phát triển kinh tế
thị trường cũng khác nhau, sự ra đời kinh tế thị trường có những nội dung,
yêu cầu cụ thể và sắc thái riêng. Nhưng về nguyên tắc, thời đại ngày nay đã
tạo ra cơ hội cho phép không nhất thiết phải đi theo con đường phát triển kinh
tế thị trường tuần tự, cổ điển và dạng tiến hóa tự nhiên. Con đường phát triển
kinh tế thị trường cho các nước đi sau như Việt Nam hiện nay cần phải là con
đường rút ngắn hiện đại.
Rút ra ý nghĩa
Câu 2: Giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Theo Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) xác định: Thể chế kinh tế thị
trường ở Việt Nam là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, các qui định, qui tắc
chế định, điều tiết hành vi của mọi chủ thể, mọi quá trình diễn ra trong nền kinh
tế nhằm tạo điều kiện cho việc hình thành, vận hành thông suốt và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Lý luận và thực tiễn chỉ ra, hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam phải được cấu thành từ ba mảng (khối) thể chế sau:
Thứ nhất, bao gồm các thị trường và cơ chế vận hành thị trường
Thứ hai, bao gồm các chủ thể thị trường.
Thứ ba, bao gồm các quan hệ giữa các yếu tố chủ yếu tham gia vận hành cơ
chế thị trường là Nhà nước và thị trường (nhìn từ góc độ cơ chế) hay Nhà nước và
các doanh nghiệp (nhìn từ góc độ chủ thể tham gia vận hành cơ chế).
Một số thành tựu đạt được
Sau 30 năm đổi mới, những thành tựu cơ bản trên thực tế của quá trình

xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
được thể hiện trên các vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, hệ thống thị trường chức năng được hình thành từng bước và
ngày càng đồng bộ.


- Thị trường hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng từng bước được hình thành và phát
triển.
- Thị trường tài chính với ba phân hệ chính: thị trường tiền tệ - tín dụng,
thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đã có những bước tiến mạnh mẽ.
- Với thị trường chứng khoán, các thành tựu đáng ghi nhận
- Thị trường bảo hiểm, cũng có những tiến bộ. Việc xây dựng và hoàn
thiện thể chế thị trường bảo hiểm đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
- Về thị trường bất động sản, những tiến bộ đạt được đáng kể.
Luật đất đai năm 2003.
Về quản lý nhà nước, năm 2002, Bộ Tài nguyên và Môi trường chính thức
được thành lập
Bộ Xây dựng được giao là cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bất động
sản,
- Về thị trường sức lao động. thị trường sức lao động là vấn đề tiền lương,
tiền công; trình độ chuyên môn - kỹ thuật của người lao động; về quan hệ giữa các
bên tham gia thị trường; và hệ thống giao dịch trên thị trường này.
- Thị trường các loại dịch vụ công cơ bản như y tế, giáo dục, văn hóa,
thể thao cũng có nhiều tiến bộ.
Thứ hai: Thể chế về sở hữu, phân bổ nguồn lực và phân phối đã đạt được
nhiều thành tựu
Thứ ba: Tăng trưởng và phát triển kinh tế đã từng bước gắn với tiến bộ
và công bằng xã hội
Thứ tư: Bộ máy nhà nước về kinh tế từng bước được đổi mới chức năng,
nhiệm vụ, được sắp, tổ chức theo tư duy mới phù hợp hơn với cơ chế thị trường

Những tồn tại và hạn chế
Một là, quá trình xây dựng và thực hiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam diễn ra còn chậm và thiếu đồng bộ.
Hai là, tư duy đổi mới về chế độ sở hữu đã được Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định rõ trong các kỳ Đại hội, song vẫn chỉ được triển khai một cách
ngập ngừng, thiếu kiên quyết trong thực tiễn.
Ba là, quá trình phân bổ các nguồn lực của quốc gia vẫn còn mang
nhiều dấu ấn của cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp.
Bốn là, Các yếu tố của thị trường và các loại thị trường phát triển còn
chậm và thiếu đồng bộ.
Năm là, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
có nơi, có lúc vẫn còn bị phân biệt đối xử trên thực tế.
Sáu là, hệ thống pháp luật kinh tế còn thiếu toàn diện, tính đồng bộ, ổn
định lâu dài còn chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu Nhà nước quản lý mọi
hoạt động kinh tế chủ yếu bằng pháp luật.
Bẩy là, khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, các tầng lớp dân cư đang


có xu hướng gia tăng.
Tám là, hệ thống hành chính hoạt động chưa hiệu quả và chưa thật
thông suốt vẫn còn gây ra không ít những cản trở đối với sự phát triển năng
lực sản xuất và huy động các nguồn lực trong xã hội.
- Giải pháp hoàn thiện
+ Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
+ Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh.
+ Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát
triển đồng bộ các loại thị trường.
+ Hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã
hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường.

+ Hoàn thiện thể chế nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước về kinh tế, tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính
trị – xã hội nghề nghiệp và nhân dân vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội.
Rút ra ý nghĩa

Vấn đề thứ 3


Câu 1 : Các mô hình kinh tế thị trường trên thế giới và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam
Khái niệm Kinh tế thị trường: KTTT là nền kinh tế mà trong
đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị
để xác định giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường
* Các mô hình kinh tế thị trường trên thế giới
Lịch sử phát triển mấy trăm năm của kinh tế thị trường thế giới đã có
nhiều mô hình kinh tế thị trường, tạo lên tính đa dạng, phong phú của nó và
mỗi mô hình lại có những đặc trưng riêng; bao hàm cả những ưu điểm và
khuyết tật. Sau đây là một số mô hình chủ yếu:
Một là, mô hình kinh tế thị trường tự do Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là một quốc gia công nghiệp phát triển vào bậc nhất thế giới,
có thu nhập bình quân đầu người và tổng lượng sản phẩm cao hơn nhiều quốc
gia khác. Mô hình kinh tế thị trường Hoa Kỳ có đặc trưng là sở hữu tư nhân
chiếm ưu thế, cơ chế thị trường cạnh tranh và sự năng động của kinh doanh,
sự can thiệp thấp của Chính phủ và do đó chấp nhận sự phân hoá xã hội ở
mức cao. Một số đặc trưng cơ bản sau:
- Sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân là đặc trưng cơ bản của kinh
tế thị trường tự do Hoa Kỳ. Bao gồm các tập đoàn lớn và hàng trăm ngàn
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh sở hữu tư nhân nền kinh tế thị trường tự
do Hoa Kỳ còn một bộ phận không lớn kinh tế nhà nước.
- Chính phủ chỉ can thiệp khi cạnh tranh trên thị trường xuất hiện những

trục trặc, những khiếm khuyết; khi cơ chế giá cả không bảo đảm cung cấp những
thông tin chính xác, hoặc phản ứng với việc sản xuất, bán ra những hàng hoá độc
hại; khi tiến bộ khoa học công nghệ tạo nên những ngoại ứng của thị trường;
Chính Phủ cần bảo đảm trợ cấp thất nghiệp, các quỹ an sinh xã hội, bảo vệ
những người lâm vào tình trạng khó khăn mà không phải do lỗi của họ.
Hai là, mô hình kinh tế thị trường có điều khiển Nhật Bản
Mô hình kinh tế thị trường có điều khiển Nhật Bản có đặc trung cơ bản là:
- Sở hữu tư nhân được đề cao và khuyến khích phát triển, tạo ra được
các doanh nghiệp gia đình có quy mô khá lớn. Khai thác tốt nguồn lực con
người; tập trung cho chính sách xuất khẩu sản phẩm thuộc những ngành công
nghiệp Nhật có lợi thế cạnh tranh; các tổ chức công nghiệp giữ vai trò to lớn
trong nền kinh tế, sự liên minh công nghiệp trên quy mô lớn giữ vai trò thống
trị trong quan hệ thương mại giữa Nhật với nước ngoài. Chú trọng phát triển
ngành công nghiệp quy mô nhỏ; ngân hàng lớn đóng vai trò then chốt trong
việc thực hiện chính sách phát triển của Chính phủ.
- Chính phủ Nhật sử dụng các chính sách tài khoá và tiền tệ để kích
thích quá trình tăng trưởng kinh tế, nhất là công cụ thuế; tạo lập được mối
quan hệ thường xuyên gần gũi giữa Chính phủ và doanh nghiệp. Chính phủ


chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tiêu dùng xã hội nhưng lại chiếm phần lớn trong đầu
tư và giữ quyền kiểm soát chặt chẽ khu vực tư nhân thông qua các trung gian
của Chính phủ.
Ba là, mô hình kinh tế thị trường xã hội Cộng hòa liên bang Đức.
Mô hình này có đặc trưng nổi bật là sự phối hợp sức mạnh của cơ chế thị
trường với sự can thiệp của Nhà nước để đạt mục tiêu xã hội đề ra. Nhà nước
luôn đảm bảo duy trì sự tồn tại của hai bộ phận kinh tế là kinh tế tự do (tư
nhân) và kinh tế có điều tiết (Nhà nước). Cụ thể là:
- Nhà nước luôn đảm bảo sự tồn tại của cả hai bộ phận: kinh tế tư nhân
và kinh tế nhà nước. Chủ nghĩa tư bản ở Đức khác xa với chủ nghĩa tư bản ở

Mỹ: ở Mỹ, tự do kinh doanh và thị trường tạo ra của cải; còn ở Đức người ta
kết hợp sự kiểm soát của nhà nước với sự tự chủ của khu vực tư nhân để tạo ra
của cải. Hiện tượng bất bình đẳng về tài sản và thu nhập ở Mỹ sâu sắc và mạnh
mẽ hơn rất nhiều ở Đức.
- Các vấn đề xã hội như giáo dục hướng nghiệp, bảo đảm an sinh xã hội
luôn được nhà nước quan tâm và là đặc trưng nỏi bật của kinh tế thị trường xã
hội Cộng hòa liên bang Đức.
Bốn là, mô hình thị trường Nhà nước phúc lợi Thụy Điển.
Mô hình kinh tế Thuỵ Điển là mô hình tăng trưởng gắn với thực hiện
công bằng được xem như là “con đường trung gian” của cải cách và thay đổi
thể chế. Mô hình này có một số đặc trưng cơ bản sau:
- Chính phủ chi phối đến phân phối. Khu vực tư nhân chi phối lĩnh vực
sản xuất, nhưng trong phân phối sản phẩm, Nhà nước có vai trò chi phối
thông qua chi tiêu chính phủ. Các chương trình chính phủ tài trợ chủ yếu từ
các khoản thuế. Kinh tế thị trường Thuỵ Điển vẫn dựa trên sở hữu tư nhân
nhưng Nhà nước thực hiện vai trò như cơ quan tái phân phối thu nhập.
- Thuỵ Điển đề cao quan điểm về môi trường, dựa vào nhập khẩu
nguyên liệu, lực lượng lao động được giáo dục cao. Thuỵ Điển duy trì khung
cảnh của một nền dân chủ xã hội, trong đó có sự bổ sung và hợp tác thay cho
cạnh tranh xã hội. Thông tin thị trường được phân bổ để mang lại lợi ích cho
mọi người. Người lao động có thể tham gia vào quản lý doanh nghiệp thông
qua quỹ đầu tư của mình.
- Nhà nước có vai trò tích cực thông qua các công cụ, chính sách tài
khóa và tiền tệ bảo đảm phân phối thu nhập công bằng chủ yếu thông qua các
hình thức hưu trí, giáo dục, y tế và các khoản tương tự, cùng với cam kết về
việc làm đầy đủ... nhờ đó tạo ra môi trường xã hội ổn định cho sự phát triển.
Năm là, mô hình kinh tế thị trường các nước và vùng lãnh thổ công nghiệp
mới Châu Á.
Đặc trưng tổng quát của mô hình là kết hợp thị trường với sự điều tiết mạnh
và “thông minh”của Nhà nước. Có sự khác biệt căn bản so với mô hình phát triển



rút ngắn cổ điển ở mức độ sử dụng tư bản nước ngoài và độ mở của nền kinh tế.
Hay còn gọi là mô hình kinh tế thị trường đặc thù hướng ngoại (hướng về xuất
khẩu). Tuy mỗi quốc gia có những nét riêng biệt, nhưng mô hình kinh tế thị
trường các nước và vùng lãnh thổ NICs Châu Á có những đặc trưng chung là:
- Vai trò của doanh nhân dưới sự điều tiết của “bàn tay thị trường” được
đề cao trong phát triển kinh tế. Thực chất đặc trưng này là các NICs Châu Á
chú trọng phát triển kinh tế tư nhân, coi khu vực kinh tế tư nhân là hạt nhân,
là giường cột và động lực của nền kinh tế thị trường.
- Chính phủ các quốc gia và vùng lãnh thổ NICs Châu Á hạn chế sự
tham gia vào hoạt động kinh doanh. Chính phủ tập trung vào việc thực thi hệ
thống chính sách nhất quán để tạo môi trường cho khu vực kinh tế tư nhân
phát triển. Với tư cách đại diện cho lợi ích quốc gia, Chính phủ luôn đi đầu
trong những lĩnh vực khó khăn phức tạp và sau khi đã vượt qua giai đoạn khởi
đầu gian khó, khi doanh nghiệp đã hoạt động tốt, dần dần Chính phủ chuyển
giao lại cho tư nhân thông qua chương trình tư nhân hóa. Đồng thời chính phủ
các quốc gia và vùng lãnh thổ NICs Châu Á rất chú trọng việc xây dựng
Chính phủ mạnh và hiệu quả; đội ngũ công chức được đào tạo kỹ càng,
chuyên nghiệp hóa cao, để thực thi nhiệm vụ; đề xuất và thực thi tốt những
chính sách thông minh, sáng suốt. Chính phủ các NICs Châu Á khi nâng đỡ
cũng như khi trừng phạt, tất cả đều thực hiện một cách nhất quán, minh bạch
trong khuôn khổ luật pháp quốc gia và công ước quốc tế.
- Khuyến khích “hướng ngoại” mạnh mẽ. NICs Châu Á tuy có thực
hiện sản xuất thay thế nhập khẩu, nhưng chỉ trong thời gian ngắn, không đáng
kể. Vì vậy, có thể nói rằng chiến lược “hướng ngoại“, hướng về xuất khẩu là
chiến lược chủ yếu trong đường hướng phát triển của mô hình NICs Châu Á.
- Coi trọng phát triển các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, triển khai
tiến bộ khoa học - công nghệ. Chính phủ NICs Châu Á rất chú trọng đầu tư
cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học - công nghệ (thường từ

1,5 - 2% GNP) để gia tăng nhanh chóng năng lực khoa học - công nghệ quốc
gia. Trong phát triển khoa học - công nghệ, bước đi của NICs Châu Á là, lúc
đầu chủ yếu thực hiện sao chép, bắt chước và khi đã làm chủ được một số
công nghệ phức tạp thì Chính phủ tăng đầu tư cho các phòng thí nghiệm và
nghiên cứu; đẩy nhanh việc phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng
khoa học, chất xám cao; nhờ đó tăng nhanh tỷ lệ giá trị gia tăng, tăng năng lực
cạnh tranh của sản phẩm và của toàn bộ nền kinh tế.
- Đẩy mạnh sự hình thành và phát triển các loại thị trường gắn với củng
cố, kiện toàn và hiện đại hóa hệ thống tài chính, ngân hàng.
Mô hình NICs Châu Á quan tâm phát triển các loại thị trường, đặc biệt là
thị trường tài chính - tiền tệ và thị trường sức lao động. Mục tiêu phát triển thị
trường tài chính - tiền tệ gắn với củng cố, kiện toàn và hiện đại hóa hệ thống tài


chính, ngân hàng nhằm thu hút nhiều vốn đầu tư của tư bản nước ngoài. Hầu
hết những dự án tài chính lớn do hệ thống ngân hàng xuyên quốc gia điều
khiển. Hệ thống đó tiếp nhận và phân phối lại tiến bộ trên qui mô thế giới. Hoạt
động của nó ngày càng ít phụ thuộc vào Chính phủ quốc gia. Bởi thế, các ngân
hàng xuyên quốc gia buộc Chính phủ phải tuân thủ những qui tắc tài chính - tiền tệ
do họ định ra.
Sáu là, mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc
Các đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường XHCN Trung Quốc như
sau:
- Xây dựng chế độ kinh tế đa sở hữu, trong đó lấy công hữu làm chủ
thể, kinh tế nhiều chế độ sở hữu cùng phát triển. Trung Quốc xác định đây là
chế độ kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường XHCN đặc sắc Trung Quốc.
Kinh tế công hữu bao gồm cả kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể và còn có cả
thành phần kinh tế quốc hữu và tập thể tham gia trong kinh doanh sở hữu hỗn
hợp. Kinh tế quốc hữu chiến ưu thế trong tổng tài sản vốn xã hội; khống chế
huyết mạch của nền kinh tế quốc dân; có vai trò then chốt đối với việc phát

huy tính ưu việt của chế độ XHCN, tăng cường thực lực kinh tế, sức mạnh
quốc phòng và gắn bó các dân tộc Trung Quốc. Kinh tế tập thể là một bộ phận
hợp thành quan trọng của kinh tế quốc hữu. Kinh tế phi công hữu được Trung
Quốc xác định là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
XHCN và khẳng định: Không có chế độ công hữu thì không có CNXH;
không có chế độ phi công hữu thì không thể xây dựng thành công kinh tế thị
trường XHCN đặc sắc Trung Quốc.
- Xây dựng và hoàn thiện phương thức phân phối XHCN, lấy phân phối
theo lao động làm chủ thể, cho phép một bộ phận người và khu vực giàu có
trước, lôi kéo giúp đỡ những người, khu vực khác giàu có sau, từng bước tiến
tới cùng giàu có. Phân phối theo lao động làm chủ thể, các hình thức phân
phối song song cùng tồn tại, kết hợp phân phối theo lao động với phân phối
theo yếu tố sản xuất. Thực hiện chính sách ưu tiên năng suất, hiệu quả, chú
trọng công bằng. Cho phép một bộ phận người giàu lên trước bằng lao động
và kinh doanh trung thực; đề xướng người giàu trước giúp người giàu sau,
cuối cùng thực hiện xã hội cùng giàu có. Xây dựng bảo hiểm xã hội nhiều
tầng bậc, hoàn thiện chế độ cứu tế xã hội, xã hội hoá việc cung cấp bảo hiểm
cơ bản nhất.
- Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN với sự điều
hành vĩ mô của Nhà nước. Trung Quốc đề ra và thực hiện các nguyên tắc sau:
xử lý tốt mối quan hệ giữa điều hành vĩ mô của Nhà nước với vai trò điều tiết
của cơ chế thị trường; cần giữ cân bằng tổng lượng kinh tế, thúc đẩy kết cấu
kinh tế tối ưu hoá, thực hiện kinh tế tăng trưởng ổn định; vận dụng các biện
pháp kinh tế, biện pháp pháp luật cùng với biện pháp hành chính cần thiết phụ


trợ để thực hiện điều hành vĩ mô.
- Mở cửa kinh tế đối ngoại, tích cực tham gia hợp tác và cạnh tranh
quốc tế, nâng cao tiềm lực mọi mặt của đất nước Trung Quốc. Trung Quốc
xác định sự lạc hậu của Trung Quốc là do trong suốt thời gian dài Trung Quốc

bế quan, toả cảng, Nhà nước XHCN Trung Quốc phải có nhiệm vụ khắc phục
lạc hậu đó và không ngừng phát triển lớn mạnh, rút ngắn khoảng cách với các
nước phát triển. Mở cửa đối ngoại là giải pháp chiến lược nhằm hiện đại hoá
Trung Quốc và là quốc sách cơ bản lâu dài để hiện đại hoá CNXH. Mở cửa
đối ngoại trên mọi phương diện, mọi tầng bậc nhằm tranh thủ các nguồn tài
nguyên quốc tế, vốn, thông tin, tri thức; thực hiện phân phối hợp lý các nguồn
tài nguyên, tích cực tham gia hợp tác, cạnh tranh quốc tế, phát huy lợi thế so
sánh và ưu thế phát triển chiều sâu. Ra sức phát triển ngoại thương, mở rộng
xuất khẩu, tích cực thu hút trang thiết bị hiện đại, tiên tiến, tích cực sử dụng
có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài. Xây dựng đặc khu kinh tế để thực hiện
chủ trương mở cửa, kêu gọi đầu tư. Trung Quốc nhấn mạnh phải xử lý tốt,
chính xác các mối quan hệ có lợi cho công cuộc cải cách mở cửa phát triển
lành mạnh, có trật tự, trong đó cần xử lý tốt và chính xác mối quan hệ mở cửa
đối ngoại và giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh.
* Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ nghiên cứu các mô hình kinh tế thị trường trên thế giới có thể rút ra
một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
Thứ nhất, kết hợp hài hòa giữa đảm bảo phúc lợi xã hội với tạo điều
kiện cho mỗi cá nhân được tự do tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh, tự do cạnh tranh, tự do trao đổi trong khuôn khổ luật pháp và trên cơ
sở tín hiệu, sự điều tiết của thị trường. Nhờ đó vừa cho phép khai thác có hiệu
quả cao tiềm lực (về vốn, tay nghề, tư liệu sản xuất…) của mỗi cá nhân trong
xã hội để kích thích năng lực nội sinh, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế; tận dụng triệt để những ưu thế của thị trường; vừa hạn chế được sự phân
cực giàu - nghèo do thuộc tính của thị trường gây ra.
Thứ hai, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong đời sống kinh
tế - xã hội; nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của các tổ chức đoàn thể
như: Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên Cộng sản, Công đoàn, Hội phụ nữ….
Đồng thời tăng cường kiểm tra việc ký thỏa ước lao động tập thể và ký kết
hợp đồng lao động; mở rộng bàn bạc thảo luận công khai dân chủ để vừa tạo

sự nhất trí về tư tưởng, hành động và sự đồng thuận, đồng hướng về lợi ích;
vừa đảm bảo lợi ích hợp pháp của người lao động và của người sử dụng lao
động. Trên cơ sở đó vừa phát huy trí tuệ, tính năng động sáng tạo cá nhân,
vừa đảm bảo kỷ cương, phép nước và sự phát triển kinh tế - xã hội theo định
hướng, mục tiêu thống nhất.
Thứ ba, gắn liền với thực thi dân chủ trong kinh tế, chính trị, xã hội là


tăng cường và nâng cao vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô, hiệu lực, hiệu quả quản
lý xã hội của Nhà nước. Yêu cầu đặt ra ở đây trước hết là phân biệt vai trò,
chức năng kinh tế của Nhà nước với sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào
những hoạt động kinh tế có tính nghiệp vụ trong từng doanh nghiệp. Vai trò
quản lý xã hội và điều tiết kinh tế vĩ mô ngày càng gia tăng, còn sự can thiệp
trực tiếp của Nhà nước vào kinh tế vi mô thì phải giảm dần; phải tôn trọng
những nguyên tắc, thể chế của thị trường.
Thứ tư, xây dựng chiến lược giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ
quốc gia gắn với chiến phát triển kinh tế - xã hội. Nói cách khác, chiến lược
giáo dục - đào tạo, chiến lược khoa học - công nghệ phải là bộ phận hữu cơ
của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ năm, cần phân biệt rõ ràng vấn đề độc quyền của Nhà nước với sự
độc quyền của doanh nghiệp và đầu tư Nhà nước chỉ hướng trọng tâm vào
những ngành, những lĩnh vực nhiều rủi ro hoặc tư nhân chưa đủ tiềm lực về
tài chính, kỹ thuật, hoặc tư nhân không muốn đầu tư. Còn những ngành, lĩnh
vực nào tư nhân có khả năng đầu tư và đầu tư có hiệu quả (trừ lĩnh vực luật
pháp cấm) thì Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển;
nâng đỡ, hỗ trợ, định hướng, hướng dẫn cho kinh tế tư nhân hoạt động.
Thứ sáu, Nhà nước phải chủ động, năng động trong việc tạo ra và phát
triển cơ sở hạ tầng cũng như các loại thị trường. Đồng thời bộ máy Nhà nước
phải thật sự gọn, nhẹ, hiệu quả, hiệu lực, trong sạch, trong suốt và không
ngừng được hoàn thiện.

Thứ bẩy, toàn cầu hóa, khu vực hóa đã trở thành xu hướng vận động chính
của nền kinh tế thế giới. Vì vậy, trong thời đại ngày nay không một nền kinh tế
nào có thể tồn tại, phát triển trong sự co cụm, khép kín. Do đó, mỗi doanh nghiệp
cũng như toàn bộ nền kinh tế phải chủ động tham gia vào sự phân công lao động,
liên kết, hợp tác, cạnh tranh khu vực và quốc tế, trên cơ sở khai thác tốt nhất lợi
thế của mình. Đồng thời những công cụ, biện pháp bảo hộ mậu dịch sẽ phải giảm
dần và tiến tớùi loại bỏ trên nhiều lĩnh vực, ngành hàng.
Câu 2: Mục tiêu, quan điểm tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Theo Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) xác định: Thể chế kinh tế thị
trường ở Việt Nam là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, các qui định, qui tắc
chế định, điều tiết hành vi của mọi chủ thể, mọi quá trình diễn ra trong nền kinh
tế nhằm tạo điều kiện cho việc hình thành, vận hành thông suốt và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Lý luận và thực tiễn chỉ ra, hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam phải được cấu thành từ ba mảng (khối) thể chế sau:
Thứ nhất, bao gồm các thị trường và cơ chế vận hành thị trường


Thứ hai, bao gồm các chủ thể thị trường.
Thứ ba, bao gồm các quan hệ giữa các yếu tố chủ yếu tham gia vận hành cơ
chế thị trường là Nhà nước và thị trường (nhìn từ góc độ cơ chế) hay Nhà nước và
các doanh nghiệp (nhìn từ góc độ chủ thể tham gia vận hành cơ chế).
Mục tiêu và quan điểm tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
* Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát: Thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả,
bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Giữ vững định hướng XHCN,
thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu cụ thể: Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định: Đến năm
2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại
và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế
chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm hài hoà giữa tăng trưởng kinh
tế với phát triển văn hoá, phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững;
chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được trong xây
dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát
triển kinh tế - xã hội2
* Quan điểm
Một là, nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy
luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều
kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế.
Hai là, bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh
tế; giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể
chế chính trị, xã hội; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Gắn kết hài hòa giữa
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ
môi trường.
Ba là, chủ động, tích cực với quyết tâm chính trị cao, tập trung giải
quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có
bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm.
Bốn là, kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của
nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ
quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
2


Đảng cộng sản Viêt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H 2016, tr 104


Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực và hiệu quả
quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá
trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ý nghĩa của việc nắm vững vấn đề nêu trên

Vấn đề thứ 4
Câu 1: Nội hàm khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Khái niệm và nội hàm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
* Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền
kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường,
đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc
tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh". Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng
của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác
và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động
và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải
phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò
định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh

tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của Nhà


nước và công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy
sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
* Nội hàm của nền kinh tế thị trường định hướng xã họi chủ nghĩa
Từ khái niệm trên đây, có thể thấy nội hàm của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bam gồm các khía cạnh chủ yếu sau:
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một mô
hình kinh tế thị trường đặc thù của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Do đó, nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam chứa đựng đầy đủ những đặc trưng của một nền kinh tế thị trường đang
trong quá trình cải biến cách mạng theo con đường rút ngắn tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Cho nên, xét về mặt trình độ phát triển, nền kinh tế thị trường bao gồm
nhiều cấp độ: sản xuất hàng hóa nhỏ, kinh tế thị trường sơ khai, kinh tế thị
trường hiện đại đan xen, đang trong quá trình phát triển, chuyển hóa và hoàn
thiện. Về tính chất xã hội của kinh tế thị trường, vừa có chủ nghĩa xã hội vừa
chưa có chủ nghĩa xã hội, tức là đang định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam phải thực
hiện đồng thời hai bước quá độ: quá độ từ nền kinh tế tự cung, tự cấp, trình độ
lạc hậu lên nên kinh tế thị trường hiện đại không qua giai đoạn trung gian là
kinh tế thị trường tự do theo như tiến trình lịch sử tự nhiên đã diễn ra; quá độ
từ nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
không qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa
chứa đựng những đặc trưng của kinh tế thị trường nói chung, vừa chứa đựng
những đặc trưng của sự định hướng chủ nghĩa xã hội. Về kinh tế thị trường,
thể hiện ở bốn điểm: Vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế

thị trường; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế và các chủ thể
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai
trò chủ yếu trong phân bổ, huy động các nguồn lực phát triển; các nguồn lực
nhà nước được phân bổ theo chiến lược, kế hoạch, quy hoạch phù hợp với cơ
chế thị trường.
Về định hướng xã hội, thể hiện ở bốn điểm: Có sự quản lý của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; có quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển; phát huy
vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Với các dấu hiệu trên đây cho thấy, mô hình kinh tế thị trường định


hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là mô hình kinh tế đặc thù lấy cái riêng là
định hướng xã hội chủ nghĩa để chế định cái chung là kinh tế thị trường. Theo
đó, nó vừa bao hàm đầy đủ các thuộc tính chung của kinh tế thị trường, nhưng
vừa chứa định những cái riêng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Điều đó hoàn toàn phù hợp với qui luật phát triển của lịch sử, Bởi lẽ,
trong lịch sử phát triển của nhân loại cũng đã chứng minh điều đó.
Ý nghĩa của nhận thức vấn đề trên:
Câu 2 : Các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới mà Việt Nam có thể
tham khảo
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ Bảy, khóa VII khẳng định:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động và
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao

động xã hội cao.
Các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới và mô hình công nghiệp
hóa ở nước ta
a, Các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới
* Quan niệm về mô hình CNH
Để hiểu được mô hình CNH trước hết cần hiều khái niệm mô hình, mô
hình kinh tế là gì. Các khái niệm này đã được sử dụng rộng rãi trong các
ngành khoa học.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam đề cập mô hình theo nghĩa hẹp và
nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, mô hình là mẫu, khuôn, tiêu chuẩn theo đó mà
chế tạo ra sản phầm hàng loạt. Theo nghĩa rộng: mô hình là hình ảnh (hình
tượng, sơ đồ, sự mô tả…) ước lệ của một khách thể (hay một hệ thống khách
thể, các quá trình hoặc hiện tượng.
Từ các quan niệm như trên có thể hiểu mô hình kinh tế như sau: Mô hình kinh
tế là sự diễn tả mối quan hệ đặc trưng giữa các yếu tố của một hệ thống thực
tế trong tự nhiên, xã hội; là đại diện của một quá trình kinh tế diễn tả mối
quan hệ đặc trưng giữa các yếu tố của quá trình đó.
Mô hình kinh tế được biểu hiện ở nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh khác
nhau như: mô hình kinh doanh, mô hình sản xuất, mô hình doanh nghiệp, mô
hình CNH…
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính thống nào về mô
hình công nghiệp hoá. Dựa vào các khái niệm mô hình và mô hình kinh tế
như trên, các tác giả trong cuốn sách “Các mô hình công nghiệp hoá trên thế
giới” đưa ra quan niệm như sau: Mô hình CNH là một tổng thể bao gồm nhiều
thành phần, nhiều mối quan hệ lôgíc (mục tiêu, bước đi, cách thức thực


hiện…) được kết hợp trong một cấu trúc nhất định đại diện cho một quá trình
công nghiệp hoá trên thực tế.
Như vậy, mô hình CNH khác với chiến lược CNH. Chiến lược CNH có

thể hiểu là cách thức hay phương sách, phương án để thực hiện thành công
mô hình CNH. Sự khác nhau cơ bản giữa hai quan niệm này là ở chỗ, trong
khi mô hình CNH ít được thay đổi thì chiến lược CNH lại luôn được điều
chỉnh để phù hợp hơn với hoàn cảnh thực tế, nhằm thích ứng với những diễn
biến của ngoại cảnh.
* Đặc trưng của mô hình CNH
Một là, mô hình CNH có tính lịch sử. Bởi mô hình là “cái” mà con
người tạo ra để thao tác, để đạt được mục tiêu của CNH trong một thời kỳ
nhất định. Vì vậy, không có một mô hình CNH chung cho tất cả các nước, các
thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau. Do đó có nhiều mô hình CNH chứ không
phải chỉ có một mô hình duy nhất.
Hai là, mô hình CNH không phải là hoàn hảo. Vì mô hình chỉ là một
“đại diện” của sự vật, hiện tượng, quá trình kinh tế - xã hội nên dù là một “đại
diện” cơ bản nhất thì cũng không có một mô hình nào là hoàn thiện như chính
sự vật, hiện tượng, quá trình kinh tế - xã hội đó.
Ba là, mô hình CNH có thể điều chỉnh, kiểm soát được. Có nghĩa là
con người, chủ thể có thể điều chỉnh một hay toàn bộ các “thành phần”, các
“mối quan hệ” tạo nên “cấu trúc” của mô hình CNH; thay đầu vào của mô
hình thì đầu ra có thể thay đổi theo. Và sự thay đổi đó có thể kiểm soát được
thì quá trình xây dựng, hoàn thiện mô hình CNH cũng đồng thời là quá trình
tìm tòi, sáng tạo để có được mô hình CNH phù hợp với điều kiện thực tiễn,
nhằm rút ngắn thời gian hoàn thành quá trình CNH.
* Các mô hình công nghiệp hóa
Như trên đã nói, tuỳ theo cách tiếp cận mà có nhiều mô hình CNH khác
nhau. Lịch sử phát triển CNH thế giới cho thấy có một số mô hình sau:
Mô hình công nghiệp hóa theo cách tiếp cận “bước đi”.
Mô hình công nghiệp hoá cổ điển: Là mô hình công nghiệp hoá diễn ra
trong thời đại phát triển cổ điển, được các nước tư bản cổ điển phương Tây
mà điển hình nhất là nước Anh, thực hiện vào khoảng thời gian giữa thế kỷ
XVIII đến giữa thế kỷ XIX và Liên Xô cũ cũng như các nước XHCN Đông

Âu thực hiện vào đầu thế kỷ XX.
Mô hình công nghiệp hoá cổ điển có những đặc trưng có bản là: Quá
trình công nghiệp hoá diễn ra như một quá trình lịch sử tự nhiên; thực hiện
trong một cơ cấu kinh tế khép kín; phát triển tự do; được hoàn thành trong
một thời gian tương đối dài.
Mô hình công nghiệp hoá phi cổ điển (còn gọi là mô hình công nghiệp
hoá rút ngắn). Mô hình này được thực hiện ở các nước và vùng lãnh thổ công


×