Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ xây DỰNG cơ cấu KINH tế mới và VAI TRÒ của nó đối với CỦNG cố QUỐC PHÒNG TRONG THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.05 KB, 106 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thế giới ngày nay một đất nước muốn đạt tới sự phát triển phồn vinh,
tiến bộ và văn minh phải tạo lập được một cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý, phù
hợp với điều kiện và đặc điểm riêng của mình.
Đối với nước ta trước khi có công cuộc đổi mới, mặc dù đã trải qua một
thời gian khá dài tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa song do những sai
lầm, khuyết điểm trong tư duy công nghiệp hóa, trong bố trí cơ cấu kinh tế và cơ
cấu đầu tư nền kinh tế vẫn trong tình trạng lạc hậu, rời rạc, mất cân đối và trì trệ.
Việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một nội dung quan trọng của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong suốt cả thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Sự chuyển dịch đó nhằm từng bước xây dựng một cơ cấu kinh tế
theo hướng hiện đại và năng động phù hợp với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, với yêu
cầu của cách mạng khoa học - công nghệ và phát triển nền kinh tế hàng hóa vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, với sự tham gia tích cực,
chủ động vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế.
Những thành tựu đáng khích lệ và sự phát triển theo khuynh hướng tiến bộ
của các nghành kinh tế nước ta trong công cuộc đổi mới đã chứng minh đúng đắn,
khoa học của chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trong đường lối của Đảng. Tuy nhiên còn nhiều vấn đề lý luận của quá trình đó
cần được luận giải và tiếp tục làm sáng tỏ. Đặc biệt quá trình xây dựng cơ cấu kinh
tế mới có vai trò rất to lớn trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự
nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, trong đó quân đội nhân dân Việt Nam có vai trò
tích cực và phải đựơc coi là lực lượng quan trọng của quá trình thực hiện sự nghiệp
đó với những ý nghĩa trên tác giả xác định tên gọi của luận án là " Xây dựng cơ cấu
kinh tế mới và vai trò của nó đối với củng cố quốc phòng trong thới kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án.



Mục đích: Tác giả xác định mục tiêu của luận án là làm rõ những tính quy
luật của quá trình hình thành cơ cấu kinh tế mới ở nước ta trong thời kỳ quá độ và
xu hướng vận động của cơ cấu trong những năm trước mắt (đến năm 2000). Trên
cơ sở đó phân tích tác động của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế với củng cố
quốc phòng và làm rõ vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ xây
dựng cơ cấu kinh tế mới.
Để đạt được mục đích luận án có các nhiệm vụ sau.
+ Phân tích làm rõ khái niệm cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo tư duy mới
+ Trên cơ sở nghiên cứu quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của nhân loại, phân tích quy luật hình thành cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
+ Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta trong thời
gian vừa qua, trên cơ sở đó xác định xu hướng và một số giải pháp chủ yếu trong
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong những năm trước mắt.
+ Nghiên cứu sự tác động của xây dựng cơ cấu kinh tế mới đối với củng cố
quốc phòng, đồng thời phân tích vai trò của quân đội trong quá trình xây dựng cơ
cấu kinh tế mới.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế ở Việt Nam
dưới góc độ kinh tế chính trị và sự ứng dụng khoa học đó trong lĩnh vực quân sự.
Sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương
pháp hệ thống, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diện dịch, thống kê so sánh cùng
một số phương pháp khác đang được vận dụng trong khoa học kinh tế.
4. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đã từ lâu thu hút rộng rãi sự quan tâm của các nhà kinh tế ở cả các cơ
quan làm công tác lý luận lẫn các cơ quan chi đạo thực tiễn. Vì thế đã có khá nhiều
các bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, đề cập tới khía cạnh này hay



khía cạnh khác của vấn đề ở các mức độ khác nhau. Trong đó những công trình liên
quan trực tiếp tới phần lý luận và thực tiễn Việt Nam của đề tài phải kể đến:
a.
"Xây dựng cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta" - tác giả
tập thể, do Viện kinh tế học, ủy ban khoa học xã hội Việt Nam xuất bản 1986.
b.
"Cơ cấu công nông nghiệp hơp lý" - Tác giả tập thể, Nxb Thông tin
lý luận 1986.
c.
"Sự hình thành cơ cấu kinh tế trong chặng đường đầu của thời kỳ quá
độ" - của tác giả Trần Ngọc Hiên, Nxb Sự thật, Hà Nội 1987.
d.
"Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa nền kinh
tế quốc dân- Giáo sư tiến sĩ Ngô Đình Giao chủ biên, Nxb chính trị quốc gia, Hà
Nội 1994.
Những công trình trên chủ yếu nghiên cứu trên lĩnh vực kinh tế-xã hội. Mối
quan hệ giữa xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
với quốc phòng, xây dựng quân đội chưa có công trình nghiên cứu, lý giải, thuyết
minh và đề cập đến vấn đề một cách có hệ thống. Bản thân luận án này cũng không
có khả năng đề cập vấn đề một cách toàn diện, tác giả chỉ giới hạn nghiên cứu cơ
cấu kinh tế công nông nghiệp - dịch vụ trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ ở
Việt Nam. Trên cơ sở tiếp thu, có chọn lọc những thành tựu trên, vận dụng tư duy
kinh tế mới, luận án tiếp tục làm rõ thêm về lý luận và thực tiễn của việc xây dựng
cơ cấu kinh tế mới. Đề cập đến một số vấn đề cơ bản sự tác động của cơ cấu kinh tế
mới đối với quốc phòng, quân đội, đồng thời phân tích vai trò của quân đội đối với
việc xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
5. Đóng góp mới của luận án
- Trên cơ sở nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nhân loại,

với cách tiếp cận hệ thống gắn với thực tiễn Việt Nam, luận án trình bầy tính quy
luật của việc xây dựng cơ cấu kinh tế, chỉ ra quá trình này diễn ra trong những năm
tới, đồng thời dự kiến xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Đưa ra một số giải pháp kiến nghị để tiến hành cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


- Phân tích tác động của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới đối với
củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội, từ đó có những giải pháp nhằm phát huy
một cách tốt nhất sức mạnh của cơ cấu kinh tế đối với quốc phòng, nhằm kết hợp
kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.
- Luận án phân tích vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam trong quá trình
xây dựng cơ cấu kinh tế mới - đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa vai
trò của quân đội với việc xây dựng cơ cấu kinh tế mới.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận án
Góp phần luận giải co sở khoa học của quá trình hoặch định và thực thi quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy một số nội
dung thuộc môn: kinh tế chính trị, kinh tế quân sự, học thuyết bảo vệ Tổ quốc ở các
nhà trường quân sự.
7. Kết cấu và nội dung luận án
Luận án gồm phần mở đầu, hai chương (4 tiết), phần kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và 13 bản phụ lục kèm theo.
Chương I: SỰ HÌNH THÀNH CƠ CẤU KINH TẾ MỚI TRONG THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM
1.1. Tính quy luật của quá trình chuyển từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu
kinh tế mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.1.1. cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nghiên cứu cơ cấu kinh tế la xem xét cấu trúc bên trong của quá trình tái sản

xuất mở rộng của nền kinh tế. Cờu trúc bên trong của nền kinh tế thường được thể
hiện thông qua các mối quan hệ kinh tế. Quan hệ này không chỉ là quan hệ tỷ lệ
mang tính chất số lượng mà còn mang tính chất chất lượng. Trong khi phân tích
quá trình phân công lao động nói chung Các Mác hiểu cơ cấu ở cả hai mặt chất và
lượng của nó. Theo Mác đó là: "Sự phân chia về chất lượng và một tỷ lệ về số
lượng của những quá trĩnh xã hội"(1). Tính thống nhất giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trong khái niệm cơ cấu kinh tế cũng được C.Mác chỉ ra một lần
nữa khi Người khẳng định rằng: "Do tổ chức quá trình lao động và phát triển kỹ
thuật một cách mạnh mẽ cho nên làm đảo lộn kết cấu kinh tế của xã hội"(2). Như


vậy, cơ cấu kinh tế hể hiện những mối quan hệ về quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất của nền kinh tế. Mối quan hệ kinh tế đó không chỉ là những mối quan hệ
riêng lẻ từng bộ phận kinh tế, mà là những mối quan hệ tổng thể của các bộ phận
cấu thành nền kinh tế, bao gồm các lĩnh vực (sản xuất, phân phối, trao đổi,k tiêu
dùng); các ngành kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao
thông vận tải…); các thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, tư nhân, các vùng
kinh tế).
Các quan hệ kinh tế trên đây không chỉ là quan hệ tỷ lệ về số lượng (như cơ
cấu công nghiệp nặng, cơ cấu công nghiệp nhẹ, cơ cấu diện tích trồng trọt, cơ cấu
lao động…) mà còn là quan hệ về chất (như năng suất, chất lượng sản phẩm, lợi
nhuận…).
Cơ cấu kinh tế bao giờ cũng ở trong những điều kiện không gian và thời gian
nhất định, trong điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội nhất định, thích hợp với điều
kiện mỗi nước, mỗi vùng, mỗi doanh nghiệp.
Cơ cấu kinh tế là một phạm trù lao động, do đó phải có những chuyển dịch
cần thiết, thích hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. Sự duy trì quá lâu hoặc
thay đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế mà không dựa vào những biến đổi của điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội sẽ gây những thiệt hại về kinh tế. Quá trình biến đổi
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm không phải là mong muốn chủ

quan, mà phải dựa vào mục tiêu đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội như thế nào. Từ
những phân tích trên đây có thể hiểu khái quát rằng: cơ cấu kinh tế là tổng thể các
bọ phận hợp thành cùng với vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương tác giữa các bộ
phận đó trong quá trình tái sản xuất xã hội, phù hợp với mục tiêu kinh tế - xã
hội xác định.
Từ cách hiểu trên, cơ cấu kinh tế bao gồm những đặc trưng chủ yếu sau:
Một là, tính khoa học. Điều đó có nghĩa nó phản ánh đúng các quy luật
khách quan, nhất là quy luật kinh tế.
Hai là, cơ cấu kinh tế phải bảo đảm mối quan hệ cân đối và đồng bộ giữa các
bộ phận kinh tế nằm trong một tổng thể. Nói cách khác, nó mang tính hệ thống.


Ba là, cơ cấu kinh tế luôn luôn vận động, biến đổi vì nó gắn với sự biến đổi,
phát triển không ngừng của những mối quan hệ giữa chúng.
Bốn là, cơ cấu kinh tế không "khép kín" mà mang tính "mở" cả trong nước
và ngoài nước.
Năm là, cơ cấu kinh tế bao gồm nhiều cơ cấu bộ phận khác nhau, có cơ cấu
bộ phận kinh tế chủ yếu, có cơ cấu bộ phận kinh tế thứ yếu, sắp xếp theo thứ tự ưu
tiên khác nhau, tùy theo vị trí của chúng. Trong toàn bộ hệ thống cơ cấu kinh tế thì
cơ cấu ngành: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ là bộ phận có tầm quan trọng
"bộ xương" của cơ cấu kinh tế, phản ánh trình độ văn minh của mối nước.
Sáu là, trong nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường, cơ cấu
kinh tế được hoàn thiện trong quan hệ hợp tác và cạnh tranh theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. Các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần
kinh tế trong quá trình phát triển phải lựa chọn cho mình cơ cấu kinh tế hợp lý để
đạt hiệu quả kinh tế cao. Trong quá trình đó các ngành kinh tế, các vùng kinh tế
vừa hợp tác với nhau trên nhiều mặt như: xây dựng cơ cấu hạ tầng, bố trí sản xuất,
áp dụng thành tựu khoa học - công nghệ, tiêu thụ sản phẩm… đồng thời cũng vừa
cạnh tranh với nhau trong việc bố trí sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng
sản phẩm nhằm đạt hiệu quả cao.

Bảy là, tính hiệu quả kinh tế - chính trị -xã hội. Thể hiện sự tối ưu hóa của cơ
cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là một phạm trù có nội dung rất phong phú. Tùy theo cách
tiếp cận khác nhau có thể phân định các loại cơ cấu khác nhau:
Cơ cấu các quan hệ sản xuất trong nền kinh tế, cơ cấu này phản ánh mối
quan hệ kinh tế - xã hội giữa con người với con người trong quá trình sản xuất xã
hội, trong đó nổi bật lên hàng đầu là quan hệ sở hữu đối với các tư liệu sản xuất.
Nói một cách khác đó là cơ cấu của nền kinh tế xét theo các thành phần kinh tế - xã
hội hiện hữu. Nó cho biết số lượng, vai trò, xu hướng vận động của các thành phần
có trong nền kinh tế, qua đó ít nhiều có thể thấy được mức độ thống trị của quan hệ
sản xuất chủ đạo trong mỗi bước tiến của phương thức sản xuất đang được hình
thành và phát triển.


Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, song song với các thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa mới hình thành và ngày càng phát triển, nền kinh tế còn
tồn tại các thành phần kinh tế khác. Vấn đề là làm sao cho quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa được thiết lập ngày càng phát triển và phát huy được tính ưu việt và thực
sự đóng vai trò chủ đạo trong sự nghiệp phát triển kinh tế và định hướng xã hội chủ
nghĩa với các thành phần kinh tế khác.
Cơ cấu vùng lãnh thổ của nền kinh tế phản ánh sự phân công lao động xã
hội về mặt không gian địa lý, tức là trên các địa bàn khác nhau của đát nước. Phân
công lao động theo lãnh thổ đồng thời có nghĩa là bố trí các ngành sản xuất trên
những vùng lãnh thổ khác nhau, để khai thác mọi ưu thế của từng vùng. Mỗi một
vùng nằm trong hệ thống thống nhất và hoàn chỉnh của toàn nền kinh tế, là một hệ
thống bộ phận của sự phân công lao động chung, có phương hướng chuyên môn
hóa đặc thù để tham gia vào sự phân công đó, song cũng lại có tính đồng bộ và cân
đối riêng của các ngành trong nội bộ vùng nhằm tăng cường tính chủ động và linh
hoạt của các đơn vị sản xuất - kinh doanh, đồng thời tự bảo đảm một số nhu cầu
của bản thân vùng.

Cơ cấu tái sản xuất xã hội, phản ánh mối quan hệ của các bộ phận cấu thành
của quá trình sản xuất xã hội, bao gồm nhiều yếu tố, nhiều quá trình. Đó là các mối
quan hệ của: các yếu tố (đầu vào) của sản xuất như sức lao động, đối tượng lao
động, tư liệu lao động; các khâu trong vòng tuần hoàn như sản xuất, phân phối, trao
đổi, tiêu dùng. Nừu giả định rằng, trong những điều kiện kinh tế xã hội về cơ bản là
như nhau, thì cơ cấu tái sản xuất (với số lượng và chất lượng của các yếu tố sản
xuất hay các khâu của chu trình sản xuất), sẽ có ảnh hưởng lớn đến độ tăng trưởng
kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế là cơ cấu quan trọng nhất của mọi nền kinh tế. Xét ở
tầm vĩ mô đó là số lượng và quan hệ giữa các ngành lớn của nền sản xuất như:
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ,… sự hình thành phát triển cơ cấu kinh tế ngành
là kết quả quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã tác động một cách mạnh mẽ đến


sự hình thành một cơ cấu kinh tế hiện đại trên phạm vi thế giới. Ngày nay khi nhân
loại đang chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị
trường thì xu hướng đi tới xây dựng một nền kinh tế với cơ cấu công - nông nghiệp
- dịch vụ hiện đại đang trở thành tất yếu với các quốc gia. Song cơ cấu cụ thể ở mỗi
nước và quá trình hình thành nó phụ thuộc vào đặc điểm của từng nước.
Việc phân chia bốn loại cơ cấu kinh tế này không phải là cách phân chia duy
nhất, lại càng không phải là có từng ấy loại cơ cấu kinh tế. Thực tế, tùy theo mục
đích nghiên cứu mà người ta có thể phân chia theo những cách khác nhau (ít hơn
hoặc nhiều hơn) và trong mỗi cơ cấu này, đến lượt nó lại bao hàm nhiều kiểu cơ
cấu khác nữa. Song, trong chừng mực cần thiết đối với đề tài này, chúng tôi cho
rằng sự phân chia như vậy cũng đủ để giới hạn vấn đề, ở đây đối tượng chính của
nó sẽ là cơ cấu kinh tế ở cấp vĩ mô chứ không phải ở các loại cơ cấu khác. Tuy
nhiên, sự phân tích không loại trừ ít nhiều đề cập đến các vấn đề của các loại cơ
cấu khác khi chúng liên quan trực tiếp tới các vấn đề của cơ cấu ngành, nhất là cơ
cấu vùng lãnh thổ vì nó liên quan đến bố trí lực lượng cơ cấu quốc phòng.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: là quá trình làm thay đổi cấu trúc và các mối
quan hệ của một nền kinh tế theo một chủ đích và một phương hướng nhất định.
Hiện nay nước ta đang tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ở các địa phương đang tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, khai thác thế mạnh của địa phương,
từng bước phát triển công nghiệp, khoa học và công nghệ nhằm thu được kết quả
và giá trị kinh tế cao nhất.
Ở nước ta hiện nay, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình biến đổi nền
kinh tế chủ yếu ở chỗ là nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế có công nghiệp, nông
nghiệp và dịch vụ hiện đại. Đó là quá trình tăng tốc độ và tỷ trọng của sản xuất
công nghiệp trong nền kinh tế gắn liền với đổi mới căn bản về công nghệ tạo nền
tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và
từng bước phát triển nền kinh tế dịch vụ.


Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ có mối
quan hệ qua lại chặt chẽ. Tiến bộ khoa học công nghệ làm cho cơ cấu kinh tế có sự
thay đổi phù hợp, những thay đổi cơ cấu kinh tế lại có tác dụng mở đường cho việc
thực hiện tiến bộ khoa học công nghệ. Việc phát triển ưu tiên một số ngành trọng
điểm ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ và có vai trò quan trọng với việc
tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật như: điện, năng lượng, cơ khí, hóa chất trong thời kỳ
công nghiệp hóa hiện đại hóa là động năng thúc đẩy nhiều ngành kinh tế khác phát
triển vượt bậc, bởi vì nó đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, đồng thời
tạo ra khả năng đổi mới công nghệ sản xuất trong các ngành kinh tế.
Quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước - tuân thủ
những tính quy luật chung. Song do những đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội… của mỗi nước, những xu thế thay đổi cơ cấu chung sẽ đựơc biểu hiện qua
hình thái đặc thù của từng giai đoạn phát triển. Vì vậy nói đến vấn đề vận dụng
những tính quy luật chung vào việc xác định chính sách cơ cấu kinh tế của đất nước
cần phân tích những nhân tố ảnh hưởng đối với quá trình hình thành cơ cấu. Có
nhiều nhân tố quy định cơ cấu kinh tế. Từng nhân tố riêng sẽ ảnh hưởng trự tiếp

hoặc gián tiếp, ít hoặc nhiều tới sự hình thành cơ cấu kinh tế (trước hết tới cơ cấu
sản xuất), đồng thời chúng cũng gắn bó với nhau chặt chẽ tạo thành một hệ thống
và tác động tới cơ cấu kinh tế như là kết quả của một sức mạnh tổng hợp.
Có thể phân chia những nhân tố chịu ảnh hưởng tơi sự hình thành cơ cấu
của nền kinh tế quốc dân làm ba nhóm như sau:
Một là, những nhân tố địa lý - tự nhiên (tài nguyên khoáng sản, nguồn
nước, nguồn năng lượng, đất đai, khí hậu, địa hình, vị trí địa lý, dân số và lao động,
độ lớn của đất nước…)
Hai là, những nhân tố kinh tế - xã hội bên trong (chế độ xã hội, nhu cầu,
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tiến bộ khoa học công nghệ, truyền thống và kinh nghiệm sản xuất, quy mô, trình độ của thị trường
nội địa…)


Ba là, những nhân tố kinh tế - chính trị bên ngoài (phân công lao động
quốc tế, biến động trên thị trường thế giới, sự cần thiết tăng cường tiềm lực quốc
phòng…)
Bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người chiếm hữu lấy những
đối tượng của tự nhiên trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định và thông qua
hình thái đó. Do sản xuất luôn luôn là sự "chiếm hữu tự nhiên" nên quá trình chiếm
hữu đó cũng tác động và tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất như là điều kiện
chung của sản xuất, đồng thời như là những tư liệu sản xuất và tiêu dùng. Một vấn
đề có tính quy luật là muốn chuyển nền kinh tế từ trình độ khai thác tự nhiên ở mức
thấp lên trình độ khai thác tự nhiên ở mức cao hơn, đồng thời chế ngự nó thì tất yếu
phải dựa vào chính việc đẩy mạnh khai thác tự nhiên, lợi dụng những điều kiện
thuận lợi nhất của nó. Những ngành làm cơ sở cho sự phát triển kinh tế ở bước đi
ban đầu là những ngành trực tiếp khai thác tự nhiên: nông, lâm, ngư nghiệp và công
nghiệp khai thác. Thông thường, chính từ việc phát triển những ngành này mà
người ta mới có được khoản tích lũy ban đầu để mở mang công nghiệp chế biến.
Trong bước đầu của quá trình công nghiệp hóa, nếu chính sách cơ cấu không xác
định được đúng đắn những "thế mạnh" và những điều kiện bất lợi về tự nhiên của

đất nước và không lợi dụng được chúng, thì sẽ làm mất đi một cơ sở tự có rất cơ
bản.
Trong số những nhân tố kinh tế - xã hội bên trong đất nước ảnh hưởng tới
cơ cấu kinh tế (trứơc tiên tới cơ cấu sản xuất), nhu cầu nổi lên như một nhân tố
hàng đầu. Với tính cách là động cơ bên trong của sản xuất, nhu cầu của con người
quy định các dạng hoạt động lao động, cơ cấu và kết quả những hoạt động đó.
Nhu cầu là một yếu tố mang tính chất chủ quan, song nó bị yếu tố khách
quan quy định. Tác động của nhiều nhân tố kinh tế - xã hội đối với cơ cấu kinh tế
thể hiện gián tiếp qua nhu cầu. Vì vậy song song với việc tính toán, đánh giá chính
xác tác động trực tiếp của các nhân tố kinh tế - chính trị…, cần lưu ý tới tác động
gián tiếp của chúng đối với cơ cấu kinh tế thể hiện qua nhu cầu.


Trình độ phát triển đã đạt được trong kinh tế là một nhân tố ảnh hưởng
mạnh tới sự hình thành cơ cấu của nền kinh tế, tới những bước đi và độ dài của quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong số những nhân tố bên ngoài tác động đến cơ cấu kinh tế, cần chú ý
một cách thích đáng đến mối quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của quốc tế
hóa đời sống kinh tế và phân công lao động đòi hỏi bất cứ nền kinh tế nào cũng đều
phải có sự hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong đó cần phải tính toán tới sự
thích ứng của cơ cấu nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới đang phát triển
theo xu hướng toàn cầu hóa để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Như đã nói ở trên, các nhân tố quy định cơ cấu tạo thành một hệ thống
phức tạp, đòi hỏi phải có quan điểm tổng hợp, đồng bộ khi phân tích.
1.1.2. Tính quy luật của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.1.2.1. Tổng quan quá trình có tính quy luật chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong lịch sử.
Sự hình thành và phát triển của cơ cấu các ngành kinh tế về thực chất là quá
trình phân công lại lao động xã hội trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong chủ nghĩa Tư bản trước đây, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra

một cách tự phát và lâu dài. Nhưng trong điều kiện của thế giới ngày nay, đối với
bất kỳ quốc gia nào để hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế mới không thể thiếu
vai trò của Nhà nước, với tư cách là người xác định mục tiêu, mô hình, hoạch định
chiến lược, chính sách và tổ chức ở tầm vĩ mô quá trình thực hiện.
Sự hình thành, phát triển cơ cấu kinh tế hiện nay diễn ra trong điều kiện của
cách mạng khoa học - công nghệ, trình độ của lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao
động đã rất cao, mối quan hệ và phụ thuộc của các nền kinh tế của các nước với
nhau rất chặt chẽ. Bởi vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở một quốc gia là
sự thống nhất của sự chuyển dịch các bộ phận cấu thành nền kinh tế trong nước với
việc mở rộng sự tham gia vào quá trình phân công, hợp tác kinh tế quốc tế, xây
dựng một cơ cấu kinh tế mở.
Quá trình chuyển biến nền kinh tế với cơ cấu ở một trình độ thấp lên một
nền kinh tế với cơ cấu ở trình độ cao hơn, hợp lý hơn phải tuân theo những vấn đề


có tính quy luật nhất định. Song trong điều kiện mới của thế giới phải biết tận dụng
các điều kiện rút ngắn thời gian phát triển kinh tế bằng sự tranh thủ kỹ thuật hiện
đại, kết hợp tuần tự và nhảy vọt trong quá trình hình thành cơ cấu mới.
Trong lịch sử hình thành và phát triển nền sản xuất của nhân loại, cơ cấu
kinh tế ra đời và phát triển trong quá trình phân công lao động xã hội. Trong đó
phân công giữa công nghiệp và nông nghiệp là nội dung cở bản của sự hình thành
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong một giai đoạn lịch sử lâu dài. Có thể nói, quá
trình phát triển, phân công lao động sản xuất hàng hóa dẫn tới sự hình thành cơ cấu
công - nông nghiệp là vấn đề có tính quy luật của sự chuyển biến từ sản xuất nhỏ
lên sản xuất lớn. Cơ cấu kinh tế lúc đầu của nhân loại chủ yếu là cơ cấu nông
nghiệp còn công nghiệp (dưới hình thức thủ công nghiệp), kết hợp với nông nghiệp
chủ yếu trong từng gia đình, người sản xuất vừa tiến hành sản xuất nông nghiệp
vừa tiến hành chế tạo và sửa chữa các công cụ sản xuất nông nghiệp, vừa làm ra
những tư liệu tiêu dùng cần thiết cho bản thân và gia đình.
Cuộc phân công lao động lần thứ hai của loài người là thủ công nghiệp tách

ra khỏi nông nghiệp. Sự tách ra này chỉ diễn ra trong phạm vi chức năng lao động,
trong chuyên môn hóa lao động, còn về mặt kinh tế hai ngành này luôn luôn liên hệ
nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Chuyên môn hóa trong chức năng lao động càng sâu
thì phạm vi phối hợp và liên kết giữa chúng càng rộng. Lúc đó sự kết hợp giữa hai
ngành này được thực hiện thông qua trao đổi sản phẩm mở rộng thị trường và quan
hệ hàng hóa - tiền tệ. Trong lịch sử, trước chủ nghĩa Tư bản, quá trình tách ra đó
chưa bao giờ diễn ra phổ biến, đều khắp bao trùm toàn xã hội. Mặc dù dưới thời
phong kiến, quá trình xuất hiện các thành thị phong kiến - trung tâm của sản xuất
thủ công nghiệp và thương nghiệp gắn liền với sự tách rời lao động thủ công
nghiệp khỏi nông nghiệp trên quy mô đáng kể, nhưng cũng chưa thể phá vỡ được
tính tự nhiên, tự cấp, tự túc của nền kinh tế. Chỉ đến chủ nghĩa Tư bản, mối quan hệ
giữa công nghiệp và nông nghiệp mới thay đổi tận gốc. Sự phát triển mạnh mẽ của
công nghiệp, biểu hiện tập trung ở sự ra đời đầu tiên của máy công tác, sau đó đến
động cơ hơi nước cải tiến, cuối cùng là hệ thống máy móc, công xưởng đã làm cho


hàng hóa tràn ngập thị trường. Công nghiệp lớn loại trừ thủ công nghiệp cứ mở dần
ra hết mặt hàng này đến mặt hàng khác. Thủ công nghiệp nông thôn trở nên tiêu
điều. Kết quả là "phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hoàn thành việc cắt đứt
mối liên hệ gia đình lúc ban đầu giữa nông nghiệp và công nghiệp", "nhưng đồng
thời nó lại tạo ra những tiền đề vật chất cho một sự tổng hợp mới cao hơn, nghĩa là
một sự kết hợp giữa nông nghiệp và công nghiệp trên cơ sở những hình thức phát
triển đối lập lẫn nhau của chúng".(1) Từ đây lao động nông nghiệp và công nghiệp
đựơc chuyên môn hóa, tách rời nhau về chức năng phổ biến trên phạm vi toàn xã
hội, vừa đòi hỏi sự kết hợp vơi nhau, làm tiền đề cho nhau phát triển qua quan hệ
thị trường. Nhưng quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản
kéo theo nhiều hậu quả kinh tế - xã hội to lớn trong nông thôn và nông dân, đó là
việc "đồng thời phá hoại các nguồn đẻ ra mọi của cải xã hội: đất đai và người lao
động"(1). Đó còn là tình trạng bị phụ thuộc nặng nề và tương đối lạc hậu của nông
nghiệp và nông thôn đối với công nghiệp và thành thị. Như vậy, dưới chế độ tư bản

chủ nghĩa, do trình độ của lực lượng sản xuất và phân công lao động phát triển đã
hình thành cơ cấu kinh tế công nông nghiệp hiện đại.
Ngày nay, do áp dụng cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại cơ cấu
kinh tế cũ của chủ nghĩa tư bản vỡi các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp
vốn được coi là nguồn gốc tạo ra sự giàu có cho xã hội, là cơ sở tồn tại và phát triển
của tất cả các lĩnh vực, giờ đây đã chuyển dịch sang cơ cấu mới với ba bộ phân
công - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại. Nếu trong cơ cấu cũ, dịch vụ được coi là một
lĩnh vực thuần túy có tính chất phục vụ và tiêu dùng của cải vật chất do các ngành
sản xuất của cải vật chất tạo ra thì trong cơ cấu mới nó được coi như bộ phận sản
nghiệp thứ ba đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế và tạo ra một
lượng lớn tổng thu nhập quốc dân.
Tính chất tiến bộ, cách mạng của sự chuyển dịch cơ cấu các nghành kinh tế
trong chủ nghĩa tư bản hiện đại chủ yếu không phải sự tăng lên về số lượng các bộ
phận trong cấu thành cơ cấu mà là ở chất lượng mới trong mối quan hệ cũng như
tác dụng tích cực của mỗi bộ phận đối với sự phát triển của nền kinh tế.


Sự xuất hiện bộ phận dịch vụ là kết quả phát triển cao của công nghiệp và
nông nghiệp về trình độ kỹ thuật và năng suất lao động, đồng thời nó cũng là do đòi
hỏi khách quan của sự phát triển chính hai ngành này. Nếu dịch vụ không trở thành
một bộ phận có vai trò thúc đẩy quah trọng thì bản thân các ngành công nghiệp và
nông nghiệp cũng không thể tiếp tục phát triển. Đến lượt nó, khi đã trở thành một
bộ phận cấu thành quan trọng của cơ cấu mới, dịch vụ có sự tác động hết sức tích
cực, thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế. Bộ phận dịch vụ có lợi thế do ra
đời sau nên nhanh chóng tận dụng được những thành tựu khoa học, công nghệ mới,
các phương tiện vật chất hiện đại, những phương pháp quản lý tiên tiến nên tốc độ
hiện đại hóa của nó nhanh hơn cả.Vì vậy nó trở thành nhân tố quan trọng nhất làm
biến đổi sâu sắc quan hệ giữa sản xuất với tiêu dùng, thúc đẩy nhu cầu mới và tạo
điều kiện thuận lợi cho sản xuất. Bộ phận dịch vụ bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt
động khác nhau như: thông tin, dịch vụ kinh doanh, y tế, tài chính, dịch vụ tư

vấn… có vai trò ngày càng lớn đối với phát triển kinh tế và đời sống. Chẳng hạn
như thông tin đã trở thành tài sản và nguồn vốn quan trọng hàng đầu trong sự phát
triển của mỗi quốc gia, trở thành một nhân tố quyết định hiệu quả của sản xuất kinh
doanh, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình xã hội hóa và quốc tế hóa đời sống kinh tế của
nhân loại. Cùng với thông tin, hoạt động tư vấn ra đời trên cơ sở phát triển kinh tế
và thông tin. Đây là lĩnh vực hoạt động nhằm sử lý thông tin, chọn các phương án
tối ưu và ra các quyết định xử lý các vấn đề của sản xuất và kinh doanh. Trong
quản lý và kinh doanh ngày nay không một Chính phủ, một tổ chức kinh tế lớn nào
có thể hoạt động có hiệu quả mà lại thiếu những nhà tư vấn tài giỏi.
Tính chất tiến bộ, cách mạng của cơ cấu kinh tế mới còn thể hiện ở tính
năng động và xu hướng tối ưu hóa của nó trong quá trình phát triển của nền kinh tế
thị trường hiện đại. Sự hình thành cơ cấu kinh tế theo hướng tối ưu hóa căn cứ vào
những điều kiện địa lý, tài nguyên, lao động, đặc điểm dân tộc và tận dụng tối đa
lợi thế của mỗi nước nhằm xây dựng một nền kinh tế mở. Còn tính năng động thể


hiện ở khả năng điều chỉnh, biến đổi theo yêu cầu của cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại, quá trình hợp tác và cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường thế giới.
Gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của cơ cấu kinh tế mới là sự
biến đổi sâu sắc trong cơ cấu lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Nếu
xét tổng số lao động xã hội ở các nước này thì gần nửa thế kỉ nay số lượng lao động
gần như không tăng lên, song cơ cấu lao động lại có sự thay đổi rất lớn: lao động
trong nông nghiệp giảm mạnh (cẩ tuyệt đối và tương đối). Vào những năm 20 của
thế kỷ, bẩy nước tư bản phát triển có số lao động nông nghiệp gần 70 triệu người
thì nay chỉ còn khoảng 15 triệu. ở nhiều nước lao động nông nghiệp chỉ chiếm từ
1,5% đến 3% dân số. Lao động trong công nghiệp tăng khá nhanh do sự phát triển
mạnh của lĩnh vực này, đặc biệt lao động tăng nhanh hơn cả là khu vực dịch vụ. Ơ
những nước tư bản phát triển nhất như: Mỹ, Nhật, Đức, lao động trong lĩnh vực
dịch vụ chiếm từ 50% đến 70% lao động xã hội và tạo ra từ 40 đến 45% tổng thu
nhập quốc dân. Sự biến đổi của cơ cấu lao động theo xu hướng trên đây là điều hợp

qui luật, năng suất lao động cao của ngành sản xuất vật chất tạo điều kiện cho sự
chuyển dịch lao động. Mặt khác, sự phát triển của bản thân nền kinh tế đã đạt đến
trình độ xã hội hóa sẽ đặt ra yêu cầu khách quan phải có sự chuyển dịch lao động
cho phù hợp. Tính chất tiến bộ, hợp quy luật của sự biến đổi trong cơ cấu lao động
không chỉ thể hiện ở sự chuyển dịch số lượng và tỷ trọng lao động giữa các ngành
mà quan trọng hơn là ở sự thay đổi của chất lượng lao động. Ngày nay, lao động
phức tạp, lao động trí tuệ đang trở thành mặt chủ đạo của quy trình lao động, ngày
càng trở thành nguồn gốc chủ yếu của sự giàu có của xã hội. Ngoài ra, tính chất
tiến bộ của những biến đổi trong cơ cấu lao động còn được thể hiện ở khuynh
hướng tác động mang tính tổng hợp của các ngành khoa học ngày càng có vai trò
quyết định đối với hiệu quả của lao động. Sự phát triển chất lượng mới của lao
động mở ra những điều kiện khách quan để giải phóng người lao động ra khỏi sự
tha hóa do quan hệ bóc lột, áp bức tư bản chủ nghĩa tạo nên. Như vậy, quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nhân loại đã phát triển từ thấp đến cao, gắn liền với


quá trình phát triển phân công lao động và lực lượng sản xuất. Ngày nay, sự chuyển
dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hóa vị trí của các ngành sẽ thay đổi. Xét
tổng thể, cơ cấu kinh tế của mỗi nước được cấu thành bởi ba loại ngành tổng hợp:
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Các ngành này có quan hệ rằng buộc với
nhau.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các nước đang phát triển trong quá trình
công nghiệp hóa, nói chung, diễn ra theo xu hướng sau: nông nghiệp trong giai
đoạn đầu giữ vị trí quan trọng, là hoạt động kinh tế cơ bản của dân cư, tạo ra những
hàng hóa tiêu dùng cần thiết cho nhân dân và bảo đảm một số điều kiện quan trọng
cho sự phát triển công nghiệp. Đến một trình độ phát triển nhất định khi những nhu
cầu cơ bản của dân cư về lương thực, thực phẩm đã được bảo đảm, nông nghiệp sẽ
chuyển vị trí xuống hàng thứ yếu tỷ trọng lao động nông nghiệp trong lao động xã
hội và giá trị sản lượng nông nghiệp trong tổng giá trị sản lượng sẽ giảm dần; công
nghiệp trong nhận thức luôn được coi là ngành quan trọng, nhưng trong giai đoạn

đầu của công nghiệp hóa, các nước đang phát triển có nền công nghiệp nhỏ bé sản
xuất hàng tiêu dùng đơn giản và khai thác các sản phẩm thô từ tài nguyên thiên
nhiên. Trong quá trình công nghiệp hóa, công nghiệp luôn được giành sự ưu tiên
phát triển. Tuy công nghiệp hóa không đồng nhất với phát triển công nghiệp, nhưng
không thể tiến hành công nghiệp hóa nếu không phát triển mạnh công nghiệp. Bởi
vậy, công nghiệp dần dần chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế của đất
nước; các hoạt động dịch vụ sản xuất và dịch vụ đời sống phát triển là điều kiện để
phát triển các ngành kinh tế và cải thiện đời sống của nhân dân. Do đó lĩnh vực
dịch vụ, đặc biệt là hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế phải được phát triển thì mới
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của mỗi nước trong quá trình công nghiệp hóa sẽ chuyển dịch từ cơ cấu
nông - công nghiệp - dịch vụ sang cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ.
1.1.2.2. Bối cảnh thế giới và trong nước có liên quan đến việc xác định
cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.


Nói chung, các nước trên thế giới cũng như các nước trên vùng Châu á Thái bình dương đều rất quan tâm đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Song tính
quy luật đặc thù của sự dịch chuyển mỗi nước, mỗi thời kỳ khác nhau điều đó có
nghĩa nó gắn với bối cảnh nhất định trong và ngoài nước.
Trong điều kiện ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ, mà nội dung
cơ bản là những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, điều đó tạo cơ
may công nghệ thông qua chuyển giao công nghệ, làm cho những nước kém phát
triển có thể tiếp thu công nghệ mới, rút ngắn sự phát triển của mình.
Cùng với sự phát triển của kỹ thuật công nghệ, nền kinh tế thế giới bước
vào giai đoạn phân công lao động, hợp tác kinh tế trên phạm vi toàn thế giới;
thường được gọi là quốc tế hóa kinh tế quốc tê. Thực chất của phân công lao động
là chuyên môn hóa và hợp tác hóa phát triển cao dẫn tới tình trạng thế giới ngày
càng phụ thuộc lấn nhau về tài nguyên, vốn, kỹ thuật, thị trường… chính sự phụ
thuộc đó đã dẫn đến thực tế là: về kinh tế các nước phải hợp tác với nhau lại vừa

cạnh tranh nhau. Đấu tranh và hợp tác là hai mặt của nền kinh tế thế giới ngày nay.
Một đặc điểm của nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây là mức độ
tập trung ngày càng cao vào ba trung tâm kinh tế lớn của các nước tư bản là Mỹ Tây âu - Nhật Bản và đấu tranh kinh tế nổi lên vị trí hàng đầu. Có thể nói sự tập
trung kinh tế vào ba trung tâm lớn có tác động rất lớn và mang nhiều yếu tố bất lợi
đối với những nước kinh tế kém phát triển. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, các
chuyên gia nghiên cứu kinh tế thường cho rằng, thế giới phụ thuộc vào ba mối quan
hệ lớn: quan hệ Đông - Tây chịu ảnh hưởng lớn của ý thức hệ và đối đầu quân sự,
quan hệ Tây - Nam mang yếu tố cạnh tranh kinh tế và quan hệ Bắc - Nam thể hiện
chủ nghĩa thực dân kinh tế và cuộc đấu tranh của các nước kém phát triển đối lập
trật tự kinh tế thế giới mới. Từ khi chiến tranh lạnh kết thúc quan hệ Đông - Tây
giảm mức độ căng thẳng thì quan hệ kinh tế đang nổi lên chiếm vị trí hàng đầu:
cạnh tranh gay gắt của các trung tâm (quan hệ Tây - Tây) có tác động lớn đến tình
hình liên kết và cạnh tranh trên thế giới, đồng thời cũng tạo ra những thời cơ nhất


định để các nước kinh tế kém phát triển lợi dụng sự chuyển giao kỹ thuật, xuất
khẩu tư bản tham gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế để tiến lên. Bên
cạnh đó quan hệ Bắc - Nam cũng ngày càng trở nên gay gắt hơn, các nước tư bản
phát triển đang tiến hành bóc lột các nước đang phát triển bằng nhiều hình thức
mới. Các nước đang phát triển đang đấu tranh đòi lập trật tự thế giới mới. Tuy
nhiên với các công cụ, vốn, kỹ thuật, với hàng ngàn công ty xuyên quốc gia, các
nước tư bản phát triển vẫn có nhiều lợi thế hơn trong cuộc đấu tranh này. Con
đường đúng đắn để các nước kém phát triển hạn chế, tiến tới xóa bỏ đựơc sự bóc
lột tinh vi từ bên ngoài đối với mình, đồng thời vẫn tham gia hợp tác quốc tê, lợi
dụng được lợi thế so sánh là ý thức độc lập tự cường, có chiến lược phát triển khôn
ngoan và đoàn kết quốc tế đòi độc lập trật tự kinh tế thế giới mới.
Về đặc điểm của quan hệ thị trường thế giới, do tác động của cách mạng
công nghệ, sự thay đổi của cơ cấu kinh tế đang dẫn đến sự thay đổi về giá cả sản
phẩm và cơ cấu đầu tư bất lợi cho những nước kinh tế kém phát triển.
Sự thay đổi cơ cấu kinh tế thế giới, trước hết tác động đến cơ cấu nhu cầu

các loại sản phẩm và dịch vụ các nhu cầu về nguyên vật liệu thô, các sản phẩm sơ
chế giảm tương đối, còn nhu cầu về kỹ thuật cao, công nghệ mới, dịch vụ chuyển
vốn tăng lên từ đó giá cả các sản phẩm nông nghiệp, khai khoáng sơ chế bị giảm rõ
rệt cả về tuyệt đối lẫn tương đối. Giá so sánh hàng nông nghiệp và hàng công
nghiệp cũng ngày càng bất hợp lý. Đó là biểu hiện của hai cách kéo ngày càng rộng
ra giữa giá cả sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu là do
sự thay đổi cơ cấu tạm thời giá trong một sản phẩm. Một sản phẩm thường có hàm
lượng khoa học, hàm lượng nguyên vật liệu và hàm lượng lao động. Trong đó, xu
hướng là hàm lượng khoa học đựơc tăng lên. sự thay đổi đó còn có nguyên nhân
của quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế quốc tế. Tất cả các nước đều mở rộng
nền kinh tế của mình, tham gia vào thị trường thế giới.
Về đầu tư, trong giai đoạn trước đây, sự kết hợp vốn và công nghệ của các
nước phát triển và nguyên liệu, lao động, thị trường của các nước kém phát triển đã
quy định dòng đầu tư chủ yếu từ nước giàu vào nước nghèo. Nhưng trong giai đoạn


hiện nay, khi nhu cầu lao động giảm đi rõ rệt, những yêu cầu cao về cơ sở hạ tầng
vật chất, về cơ sở nghiên cứu, lao động kỹ thuật tăng lên thì zu hướng chính của
dòng đầu tư tư bản là các nước phát triển đầu tư lẫn nhau. Tất cả những chuyển
biến về cơ cấu sản phẩm và dòng đầu tư trên đây bất lợi đối với các nước kinh tế
kém phát triển. Tuy nhiên cũng cần thấy rõ rằng, nhiều nước đang phát triển do có
chiến lược khoa học - công nghệ đúng đắn, biết sử dụng các loại công nghệ nhiều
tầng, giải quyết đúng đắn quan hệ giữa nhập và nghiên cứu tại chỗ đã từng bước
đưa trình độ kinh tế và công nghệ của đất nước đi lên.
Nói đến kinh tế, thị trường thế giới ngày nay không thể không nói đến vị trí
vai trò kinh tế, kỹ thuật của các công ty xuyên quốc gia. Các công ty này nắm trong
tay tiềm lực kinh tế và công nghệ khổng lồ và đang thực hiện sự bóc lột lũng loạn
của các nứơc đang phát triển. Do đặc điểm cạnh tranh trên thị trường, các công ty
xuyên quốc gia đầu tư cho nghiên cứu triển khai rất lớn, thường là 2-4% tổng thu
nhập, có công ty đến 4%. Do đó có tới 85% kỹ thuật mới, công nghệ hiện đại nằm

trong các công ty này. Tình trạng trên đã nói lên một yêu cầu là: bước chân ra thị
trường thê giới chắc chắn sẽ phải giáp mặt với các công ty xuyên quốc gia, dù
muốn hay không. Vấn đề là ở chỗ phải biết lợi dụng mâu thuẫn của các công ty, có
những mỗi liên hệ phù hợp để tranh thủ vốn và kỹ thuật mà phát triển.
Bên cạnh những yếu tố tác động trên các công ty xuyên quốc gia cũng là
tác nhân kích thích mạnh mẽ quá trình phân công lao động quốc tế, đẩy nhanh quốc
tế hóa đời sống kinh tế quốc tê. Đầu tư của các công ty xuyên quốc gia thường là
đầu tư trực tiếp, tập trung vào công nghiệp chế biến nên có tác dụng làm thay đổi
cơ cấu của nề kinh tế các nước nhận đầu tư, là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở
một loạt nước. Vì vậy Việt Nam có thể lợi dụng các công ty xuyên quốc gia trong
việc đầu tư trực tiếp đề xây dựng cơ cấu kinh tế mới.
Quá trình đấu tranh và hợp tác trên thế giới đã dẫn đến việc hình thành
những liên kết khu vực, trong đó nổi lên sự phát triển hết sức năng động của khu
vực châu Á - Thái Bình Dương. Bên cạnh các liên kết khu vực Tây âu trong EEC
hay Bắc Mỹ, NAFTA khu vực châu Á Thái Bình Dương đang trở thành khu vực


kinh tế phát triển năng động nhất, có tốc độ phát triển cao nhất và có mối quan hệ
nhiều tầng nấc, kết hợp với nhau. Khu vực châu Á Thái Bình Dương đã hình thành
một mô hình kinh tế nhiều tầng , chênh lệch nhau về trình độ kỹ thuật - công nghệ
và tiền lương công nhân và các tầng này đang tác động lên nhau. Đầu tầu kinh tế là
Nhật Bản, với sức mạnh về vốn, kỹ thuật của mình, tiếp theo là các nước công
nghiệp mới châu Á, tầng thứ ba là các nước công nghiệp hóa như: Trung Quốc,
Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia… cuối cùng là các nước mới gia nhập vào thị
trường khu vực như: Lào Cămphuchia, Mianma. Mô hình kinh tế này có tác dụng
bổ xung cho nhau, tạo ra lợi thế của mỗi nước để đưa kinh tế từng nước và kinh tế
khu vực phát triển. Mỗi nước trong khu vực đang tích cực lợi dụng lợi thế so sánh
của mình, tham gia tích cực vào phân công lao động khu vực để phát triển. Đối với
nước ta đã trở thành một thành viên của các nước ASEAN, do đó có điều kiện
thuận lợi và thời cơ mới để tranh thủ vốn, kỹ thuật phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nhanh, có hiệu quả.
Tình hình thế giới nói trên đòi hỏi chúng ta phải nhận thức rõ để nước ta
không bị lạc hậu, mà cần phải biết lợi dụng những lợi thế của các nước di sau, đồng
thời không để bị biến thành nơi tiếp nhận những công nghệ trình độ thấp, gây ô
nhiễm và bị lệ thuộc và nước xuất khẩu công nghệ.
Nước ta hiện nay vẫn là nước nghèo và kém phát triển, tuy vậy những thành
tựu của công cuộc đổi mới đã tạo ra thế và lực để chúng ta bước vào một thời kỳ
phát triển mới, tiền đề cần thiết cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã được
tạo ra. Khả năng giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập với cộng đồng thế giới được
rộng mở, có môi trường hòa bình để xây dựng đất nước. Đảng và Nhà nước có kinh
nghiệm bước đầu, nhưng rất quan trọng trong xây dựng và phát triển kinh tế.
Cũng cần nói thêm về truyền thống văn hóa là một trong những độc lực
phát triển. Nước ta có truyền thống văn hóa lâu đời, truyền thống trọng tri thức,
nhân văn, tính cộng đồng là những yếu tố quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Trong
điều kiện cách mạng công nghệ, nhân tố con người là nhân tố quyết định cho sự
phát triển. Hơn thế nữa, nền văn hóa phương Đông đang được coi là ưu thế cho sự


phát triển đó. Việc duy trì phát triển truyền thống văn hóa dân tộc đồng thời chống
mọi hủ tục lạc hậu, tiếp thu tinh hoa văn hóa của các nước khác vừa là động lực
vừa là mục tiêu phát triển của chúng ta.
Với nhận thức đúng đắn và lợi thế so sánh của đất nước trong quan hệ với
thị trường thế giới là điều kiện để xác định và thực hiện quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của nước ta.
1.1.2.3. Những quá trình có tính quy luật trong chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ở nước ta.
Xét về bước đi, mỗi nước có những cách khác nhau, tùy thuộc vào điều
kiện của từng nước, với nước ta tính quy luật của sự hình thành cơ cấu kinh tế mới
được thể hiện ra ở các quá trình:
Một là, phát triển nền nông nghiệp hàng hóa toàn diện theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế nông nghiệp, nông thôn..
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa
của nước ta sự phát triển cân đối của nền kinh tế nói chung và của công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ nói riêng không phải ngay từ đầu đã có. Sự phát triển cân đối
đó là kết quả của một quá trình vừa cải tạo cơ cấu cũ, vừa xây dựng cơ cấu mới.
Trong sự chuyển biến từ cơ cấu cũ sang cơ cấu mới, không thể đầu tư dàn đều trên
tất cả các khâu như nhau, mà phải xác định hướng đầu tư trọng điểm, sao cho từ
khâu đó có thể chuyển nền kinh tế sang quỹ đạo mới, với cơ cấu mới. Trong đường
lối do đại hội V của Đảng đề ra, khâu trung tâm đó đã đựơc xác định rõ ràng và
đúng đắn: "Cần phải tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, đưa nông nghiệp
một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trong một cơ cấu kết hợp chặt chẽ
đúng đắn nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng"(64).
Nhưng trong những năm trước đây, trước khi có chính sách đổi mới, đặc biệt là
những năm 1976-1980, chúng ta đánh giá không đúng vai trò và vị trí của nông
nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân nước ta, từ đó dẫn đến sai lầm trong chính
sách đầu tư, nhất là đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển lực lượng
sản xuất trong nông nghiệp. Trong khi nền nông nghiệp còn lạc hậu, sản xuất nhỏ,
nhưng đã đóng góp cho xã hội 52% trong tổng thu nhập quốc dân sản xuất (1982)


và bình quân thời kỳ 1976-1980 là 46% (47) thì vốn đầu tư cho nông nghiệp luôn
luôn thấp hơn so với công nghiệp (68,69). Khối lượng đầu tư của nhà nước và nông
nghiệp còn ít là một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình hình lạc hậu của
nông nghiệp, của sự tiếp tục tách rời giữa nông nghiệp và công nghiệp, của sự mất
cân đối ngày càng gay gắt trong nền kinh tế quốc dân. Bởi vì, nền công nghiệp
nặng của nước ta còn rất yếu ớt so với yêu cầu tái sản xuất mở rộng, đại bộ phận
vật tư, kỹ thuật thiết yếu nhất (thiết bị toàn bộ, sắt, thép, xăng, dầu, hóa chất,
phương tiện vận tải…) phải nhập từ nước ngoài. Để cho nền công nghiệp nặng
nước ta có thể tự cung cấp được phần lớn những tư liệu sản xuất đó, còn cần một
thời gian khá dài và đó cũng là mục tiêu của sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước. Khi quy mô kinh tế lớn dần lên. Trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, khi nguồn vốn còn rất hạn chế, tới mức mà như thực tiến của
chúng ta đã chỉ rõ, chỉ xây dựng đồng thời một vài công trình lớn cũng đã tạo ra sự
căng thẳng về nhiều mặt trong đời sống kinh tế xã hội của đất nước, thì vấn đề tự
bảo đảm cho mình phần lớn những tư liệu sản xuất quan trọng phải dựa vào hợp tác
với bên ngoài, thông qua trao đổi những sản phẩm mà chúng ta hiện có khả năng
sản xuất ra. Những sản phẩm đó là nông sản, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ
nghệ, sản phẩm của công nghiệp khai thác. Hiện nay, do thành tựu quan trọng đạt
được trong những năm đổi mới kinh tế đã và đang tạo ra những tiền đề đưa đất
nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm có
tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới không mâu thuẫn với chủ trương đẩy
mạnh phát triển nông nghiệp. Phát triển nông nghiệp là một trong những nội dung
có vai trò quyết định trong việc ổn định tình hình kinh tế xã hội, tạo cơ sở cho sự
phát triển công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, ngày nay nông nghiệp cần hiểu theo
nghĩa rộng, không phải thuần nông, càng không phải nông nghiệp lạc hậu. Nước ta
từ nay đến năm 2000 phải từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và
kinh tế nông thôn. Do đó cần giải quyết nhiều vấn đề, trước hết từng bước thực


hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, tự động hóa, hóa học hóa các ngành sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp và các công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản. Đẩy mạnh cơ
giới hóa khâu làm đất, sử dụng máy kéo nhỏ ở nơi ít ruộng đất, máy kéo lớn ở
những nơi có nhiều ruộng đất. Cơ giới hóa các phương tiện vận tải đáp ứng các nhu
cầu vận chuyển hàng hóa và hành khách ở các vùng nông thôn. Tăng nguồn phân
bón trên cơ sở tận dụng phân hữu cơ kết hợp sử dụng phân hóa học và phân vi sinh,
sử dụng các biện pháp hóa chất phòng trừ sâu bệnh từng loại cây trồng để được
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao nhất. Phát triển công nghiệp chế biến nông,
lâm, thủy sản trên cơ sở sử dụng rộng rãi các máy móc, thiết bị nhỏ, lẻ ở các thôn
xóm với việc xây dựng nhà máy chế biến quy mô lớn, công nghệ hiện đại ở những

vùng nguyên liệu tập trung. Nông nghiệp hàng hóa chỉ có thể phát triển với sự tác
động mạnh mẽ của công nghiệp, bản thân nông nghiệp không thể tự đi lên nếu
không có sự tác động trực tiếp của một nền công nghiệp và dịch vụ. Công nghiệp
chế biến và các loại dịch vụ trên địa bàn nông thôn được tổ chức tốt sẽ tạo điều
kiện cho trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt thủy, hải sản phát triển mạnh, phá vỡ trạng
thái khép kín, trì trệ, lạc hậu vốn có của nền nông nghiệp nhỏ tăng nhanh sản phẩm
xã hội và thu nhập quốc dân, tích lũy đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa đất nước
đây là giải pháp nhằm xóa đói giảm nghèo trong nông thôn nước ta, đặc biệt ở vùng
núi, vùng cao, vùng sâu.
Đồng thời với quá trình cơ khí hóa, điện khí hóa, phải chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong nông nghiệp từ độc canh chuyển sang một nền nông nghiệp đa canh,
phát triển sản xuất hàng hóa với ngành nghề đa dạng trong cả nước và đặc biệt là
hai vùng nông nghiệp lớn. Phải dựa vào từng vùng để từng bước xây dựng cơ cấu
kinh tế vừa đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên phương diện kinh
tế vĩ mô, quá trình đó diễn ra từ nông nghiệp, do điều kiện khác nhau, cho nên các
vùng diễn ra không giống nhau. ở vùng kinh tế phát triển, quá trình đó diễn ra theo
trình tự chung, còn ở vùng kinh tế kém phát triển, quá trình đó bắt đầu từ việc phá


thế độc canh lúa chuyển sang đa canh lúa, mầu, phát triển chăn nuôi và bước tiếp
theo là phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
Đối với nước ta, trong thời gian trước mắt tiếp tục phát triển sản xuất lương
thực, chủ yếu là lúa nước, chú trọng thâm canh để càng có nhiều hàng hóa lương
thực cho xã hội, đảm bảo chương trình an toàn lương thực cho quốc gia. Chính vì
vậy, phát triển và hiện đại hóa hệ thống thủy lợi, giải quyết tốt nhu cầu tưới tiêu
khoa học cho nông nghiệp là hướng đi đúng đắn cho công nghiệp hóa nông nghiệp.
Hiện nay các công trình thủy nông đang xuống cấp, ảnh hưởng lớn đến
thâm canh tăng vụ. Nguyên nhân chính là do vẫn áp dụng cơ chế bao cấp vốn đầu
tư nên không có cốn duy tu, bảo dưỡng, nâng cấp công trình, do đó cần có giải
pháp để thu hồi vốn đầu tư của các công trình thủy nông, đồng thời có biện pháp

huy động các nguồn vốn Nhà nước, địa phương và của nhân dân cùng hoàn chỉnh
hệ thống thủy lợi nhằm bảo đảm tưới tiêu chủ động, có hiệu quả hơn. Coi trọng đưa
tiến bộ khoa học, công nghệ sinh học vào nông nghiệp. áp dụng rộng rãi cộng nghệ
và các biện pháp sinh học trong các khâu chính của quá trình sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp. Đặc biệt chú trọng công nghẹ sinh học trong giai đoạn sau
thu hoăch nhằm bảo quản, nâng cao giá trị nông sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu.
Xây dựng sớm cơ sở hạ tầng điện, nước và giao thông cho nông thôn. Đây là cơ sở
vật chất - kỹ thuật nền tảng cho mọi hoạt động sản xuất và tổ chức đời sống. Trong
đó giao thông cần được xây dựng trước một bước, bởi vì giao thông đóng vai trò
mở đường đưa nông thôn gắn liền với thành thị đưa các vùng kinh doanh nông
nghiệp tự cấp, tự túc hòa nhập với hoạt động kinh tế của cả nước là mạch máu lưu
thông hàng hóa, mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ buôn bán đến các vùng vốn
xa xôi nhưng lại có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển các loại nông sản
hàng hóa có giá trị kinh tế cao. Trong vốn đầu tư dành cho nông thôn, Nhà nước
nên ưu tiên chủ yếu dành cho đầu tư cơ sở hạ tầng, trước hết là cho giao thông.
Việc đầu tư không giàn đều, chắp vá và chất lượng thấp, nên đầu tư đến mức cần
thiết với tiêu chuẩn cần có cả về quy mô và kỹ thuật để phát triển hàng hóa tập
trung của vùng. Vì vốn có hạn, nên cần sắp sếp thứ tự vùng để ưu tiên đầu tư vào


vùng nào có thể chuyển sang sản xuất hàng hóa sớm và thu hồi vốn nhanh thì được
ưu tiên đầu tư xây dựng trước.
Hai là, phát triển mạnh công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Công nghiệp hàng tiêu dùng phát triển sẽ đáp ứng trực tiếp nhu cầu đa dạng, phong
phú và ngày càng tăng của nhân dân. Phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng sẽ thúc
đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác, nhất là nông, lâm, ngư nghiệp, thông
qua chế biến, gia công của công nghiệp hàng tiêu dùng làm cho những sản phẩm
trung gian của các ngành cũng trở thành sản phẩm hàng hóa, thu nhập của dân cư
tăng lên, làm sức mua của nhân dân trên thị trường sản phẩm tiêu dùng được mở
rộng. Công nghiệp hàng tiêu dùng phát triển sẽ góp phần nâng cao tỷ trọng xuất

khẩu để thay thế nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ, để đổi mới công nghệ mua sắm máy
móc tiên tiến và nguyên vật liệu phải nhập ngoại. Công nghiệp tiêu dùng phát triển
sẽ góp phần tích lũy vốn đầu tư vào sản xuất, nâng cao tỷ trọng đầu tư trong GDP
theo dự kiến là 25 - 30% (67). Đặc biệt với những ngành có lợi nhuận cao như: bia,
rượu , chất dẻo… nếu có chính sách đúng, các ngành này sẽ tạo ra tích lũy đáng kể
cho nền kinh tế.
Qua phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng dẫn đến mạng lưới gia công, chế
biến cho nó từ thành thị đến nông thôn góp phần lớn vào việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Số lao động sẽ chuyển dịch
từ nông nghiệp sang công nghiệp có thể tiến hành ngay tại chỗ chứ không phải thu
hút vào thị thành. Trong những năm tới cần phát triển mạnh công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu như: hàng dệt, da, may mặc, đồ điện dân dụng,
phương tiện đi lại, thuốc chữa bệnh, dụng cụ học tập, đồ dùng văn phòng, hàng thủ
công mỹ nghệ… để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của nhân dân và
tăng nhanh hàng xuất khẩu. Để đảm bảo cạnh tranh trên thị trường trong nước và
quốc tế, các đơn vị sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu cần phải có sự đổi mới
khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng đa dạng hóa mặt hàng cải tiến bao bì và
giảm giá thành.


×