Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Vai trò của nhà nước trong việc thúc đẩy hoạt động đầu tư mạo hiểm – kinh nghiệm quốc tế và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THÚC ĐẨY
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM – KINH NGHIỆM
QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH SÁCH CÔNG

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT
-----------------------------

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THÚC ĐẨY
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM – KINH NGHIỆM
QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH SÁCH CÔNG

Chuyên ngành: Chính sách Công
Mã số: 60340402


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HUỲNH THẾ DU

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017


-i-

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các trích dẫn và số liệu
được sử dụng trong luận văn được ghi nguồn và có độ chính xác cao nhất trong khả năng
hiểu biết của tôi. Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trường Đại học
Kinh tế Hồ Chí Minh hay Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.
TP. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

năm 2017

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Vân Anh


-ii-

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn đến quý Thầy Cô ở Chương trình Giảng dạy Kinh
tế Fulbright đã truyền đạt, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và tạo mọi điều kiện thuận lợi
nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.

Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Huỳnh Thế Du, người đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ và khích lệ tôi trong thời gian thực hiện luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các anh chị nhân viên làm việc tại Chương
trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright đã tạo mọi điều kiện và hỗ trợ tôi trong suốt quá trình
học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn sự trợ giúp của các đồng nghiệp tại Viện Chiến lược và Chính
sách Khoa học và Công nghệ - Bộ Khoa học và Công nghệ trong suốt quá trình tôi học tập
và nghiên cứu tại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.
Tôi luôn biết ơn gia đình, bạn bè, đặc biệt là tập thể lớp MPP8 và các anh chị cựu
học viên đã luôn động viên và sát cánh bên tôi trong khóa học vừa qua.


-iii-

TÓM TẮT
Đầu tư mạo hiểm (ĐTMH) ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy các ngành công nghệ mới, công nghệ cao góp phần không nhỏ vào việc nâng cao năng
lực cạnh tranh của nhiều quốc gia trên thế giới. Thành công của mô hình thung lũng
Silicon ở Mỹ với vai trò dẫn dắt của nhà nước đã mở ra một kỷ nguyên phát triển thần kỳ
trong lĩnh vực công nghệ và đã có tác động lan tỏa tích cực đến nhiều quốc gia, khu vực,
trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều nơi đã thử nghiệm mô hình thung lũng Silicon
nhưng kết quả không đúng kỳ vọng. Thực tế đã chứng minh, không phải lúc nào các khoản
đầu tư của nhà nước cũng mang lại hiệu quả, ngược lại còn làm trầm trọng hóa thất bại thị
trường. Do vậy, cách thức sử dụng các nguồn lực công để thúc đẩy hoạt động ĐTMH sao
cho hiệu quả đang trở thành mối quan tâm lớn đối với các quốc gia có ý định theo đuổi
thành công của mô hình thung lũng Silicon.
Nhu cầu ĐTMH ở Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây,
tuy nhiên, thị trường ĐTMH Việt Nam chưa thực sự có những đột phá cần thiết để giúp
nền kinh tế bước vào giai đoạn cất cánh. Một mặt, do các quỹ ĐTMH ở Việt Nam chủ yếu
là quỹ của nước ngoài, lại lựa chọn phương án đầu tư an toàn, tức là đầu tư vào những

doanh nghiệp đã trưởng thành; mặt khác, do nhà nước còn lúng túng trong việc lựa chọn
hình thức can thiệp và do môi trường, thể chế pháp lý gây cản trở đối với sự phát triển của
thị trường này.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhà nước cần xem xét thận trọng trong việc sử dụng
nguồn lực công để hỗ trợ hoạt động ĐTMH nhằm đạt được hiệu quả kỳ vọng. Cụ thể, nhà
nước nên sử dụng hình thức can thiệp gián tiếp nhằm gia tăng khuyến khích cho ĐTMH và
tránh tổn thất xã hội. Nhà nước chỉ nên đóng vai trò như một chất xúc tác bằng cách phối
hợp với khu vực tư nhân để thúc đẩy sự phát triển của thị trường ĐTMH. Với kinh nghiệm
quốc tế đã phân tích và bối cảnh hiện tại của Việt Nam, tác giả đưa ra khuyến nghị chính
sách: (i) nhà nước cần tạo môi trường thông thoáng cho hoạt động ĐTMH bằng cách xây
dựng một hệ thống các quy định pháp lý thống nhất về ĐTMH; (ii) xây dựng một hệ sinh
thái khởi nghiệp bằng cách khuyến khích tinh thần doanh nhân ở mọi khu vực trong nền
kinh tế; (iii) nhà nước nên tìm đến một tổ chức mới có năng lực và động cơ thúc đẩy sự
phát triển của thị trường ĐTMH để thay mình thực hiện sứ mệnh.


-iv-

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................ii
TÓM TẮT .............................................................................................................................iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................................... vi
DANH MỤC HÌNH VẼ ......................................................................................................vii
DANH MỤC HỘP .............................................................................................................viii
DANH MỤC PHỤ LỤC ....................................................................................................... ix
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG ................................................................................. 1
1.1.

Bối cảnh nghiên cứu ................................................................................................ 1


1.2.

Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................ 3

1.3.

Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................................. 3

1.4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: .......................................................................... 3

1.5.

Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 3

1.6.

Bố cục của luận văn ................................................................................................ 4

CHƯƠNG 2. LÝ THUYẾT VỀ SỰ CAN THIỆP CỦA NHÀ NƯỚC VÀO HOẠT
ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM ............................................................................................ 5
2.1. Tổng quan về ĐTMH .................................................................................................. 5
2.1.1. Khái niệm ĐTMH................................................................................................. 5
2.1.2. Vai trò của ĐTMH đối với sự phát triển kinh tế .................................................. 7
2.2. Can thiệp của nhà nước đối với hoạt động ĐTMH ..................................................... 8
CHƯƠNG 3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ SỰ THAM GIA CỦA NHÀ NƯỚC
VÀO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM ................................................................... 15
3.1. Hình thức can thiệp trực tiếp ..................................................................................... 15

3.1.1. Nhà nước trực tiếp thành lập và quản lý quỹ ĐTMH ......................................... 15
3.1.2. Nhà nước thành lập quỹ ĐTMH nhưng thuê công ty tư nhân có kinh nghiệm
quản lý quỹ ................................................................................................................... 17
3.1.3. Nhà nước dùng tiền ngân sách góp vốn vào các quỹ ĐTMH tư nhân................ 21
3.2. Hình thức can thiệp gián tiếp .................................................................................... 21
3.2.1. Trợ cấp cho các start-up ..................................................................................... 21
3.2.2. Ưu đãi thuế ......................................................................................................... 22
3.2.3. Đưa ra những quy định/điều tiết ......................................................................... 23
3.3. Tổng kết yếu tố thành công/thất bại của các quốc gia trong hoạt động ĐTMH ....... 25


-v-

CHƯƠNG 4. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN
PHÁP CAN THIỆP CỦA NHÀ NƯỚC ........................................................................... 27
4.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến ĐTMH ở Việt Nam ................................. 27
4.2. Thực trạng ĐTMH ở Việt Nam................................................................................. 28
4.3. Các biện pháp can thiệp của Nhà nước vào hoạt động ĐTMH ở Việt Nam ............. 29
4.4. Bài học cho Việt Nam ............................................................................................... 33
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ......................................... 36
5.1. Kết luận ..................................................................................................................... 36
5.2. Kiến nghị chính sách ................................................................................................. 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 39
PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 42


-vi-

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


Từ viết tắt

Tên tiếng Việt

Tên tiếng Anh

CNC

Công nghệ cao

DNKN

Doanh nghiệp khởi nghiệp

ĐTMH

Đầu tư mạo hiểm

IPO

Thị trường sơ cấp

HSTKN

Hệ sinh thái khởi nghiệp

KH&CN

Khoa học và Công nghệ


KNST

Khởi nghiệp sáng tạo

OECD

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

R&D

Nghiên cứu và phát triển

Research and Development

SMEs

Doanh nghiệp nhỏ và vừa

Small and Medium Enterprises

TTCK

Thị trường chứng khoán

UBND

Ủy ban nhân dân

Initial Public Offering


Organisation for Economic Cooperation and Development


-vii-

DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1. Cách tiếp cận xây dựng phương pháp luận nghiên cứu ......................................... 4
Hình 2.1. Sơ đồ hệ sinh thái khởi nghiệp............................................................................... 6
Hình 3.1. Mô hình tổ chức của Third Frontier ..................................................................... 19
Hình 3.2. Cơ chế hoạt động của Third Frontier ................................................................... 20


-viii-

DANH MỤC HỘP
Hộp 3.1. Thất bại của chính phủ Úc khi can thiệp trực tiếp ................................................ 16
Hộp 3.2. Trợ cấp cho start-up của Chính phủ Đức .............................................................. 22
Hộp 4.1. Hai quan điểm trái chiều về hình thức can thiệp trực tiếp .................................... 29
Hộp 4.2. Quy định về thuế theo Luật Công nghệ cao .......................................................... 30
Hộp 4.3. Những văn bản chính sách mới ban hành trong thời gian gần đây ....................... 33


-ix-

DANH MỤC PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐTMH TẠI VIỆT NAM ..... 42
PHỤ LỤC 2. NHỮNG TRỞ NGẠI CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN ĐTMH TẠI VIỆT
NAM .................................................................................................................................... 44
PHỤ LỤC 3. MỘT SỐ CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN SỬ DỤNG VỐN ODA HỖ TRỢ
KHỞI NGHIỆP .................................................................................................................... 47

PHỤ LỤC 4. CÁC CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ KHỞI NGHIỆP Ở VIỆT NAM ............. 49
PHỤ LỤC 5. Ý KIẾN CỦA ĐẠI DIỆN QUỸ IDG VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM ............................................................................................ 51
PHỤ LỤC 6. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐỐI VỚI ĐTMH..................56


-1-

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG
1.1.

Bối cảnh nghiên cứu
Làn sóng khởi nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ trong thời gian gần đây và góp phần

không nhỏ vào sự thịnh vượng của nhiều quốc gia trên thế giới. Sự xuất hiện của các doanh
nghiệp khởi nghiệp (DNKN) không chỉ tạo những việc làm trực tiếp mà còn làm tăng hiệu
ứng lan tỏa quan trọng có lợi cho sự tăng trưởng của các doanh nghiệp khác trong cùng
khu vực, tăng trưởng năng suất, gia tăng đổi mới sáng tạo và thúc đẩy quốc tế hóa kinh
doanh. Theo trang tin công nghệ khởi nghiệp Techinasia, ở Mỹ, các doanh nghiệp thành
lập dưới 5 năm đóng góp gần như cho toàn bộ sự tăng trưởng việc làm mới trong khu vực
tư nhân suốt 25 năm qua. Tại Việt Nam, khởi nghiệp đang trở thành một xu hướng với hơn
1500 DNKN năm 2016 và dự kiến sẽ tăng nhanh trong những năm tiếp theo. Chính phủ
cũng dành sự quan tâm rất lớn đối với hoạt động khởi nghiệp, trong đó đặc biệt chú trọng
đến việc hỗ trợ các DNKN bằng cách sử dụng ngân sách nhà nước thành lập các quỹ đầu
tư mạo hiểm (ĐTMH).
Những hành động của Chính phủ: (i) Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2016
của Chính phủ đặt ra yêu cầu hình thành và từng bước phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp
như vườn ươm doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ khởi nghiệp, quỹ ĐTMH, dịch vụ đào tạo, tư vấn,
hỗ trợ khởi nghiệp; (ii) Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/05/2016 của Chính phủ về hỗ trợ
và phát triển doanh nghiệp đến năm 20201; (iii) Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 28/04/2016

của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016 – 2017, định hướng đến năm 2020,
trong đó nêu mục tiêu và nhiệm vụ “tạo lập hệ thống hỗ trợ khởi nghiệp, tạo môi trường
đầu tư, kinh doanh thuận lợi, ổn định, tự do sáng tạo cho DNKN”; (iv) Quyết định
844/QĐ-TTg/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2020” chú trọng tạo lập môi trường để thúc đẩy,
hỗ trợ quá trình hình thành và phát triển DNKN thông qua việc sử dụng ngân sách nhà
nước thành lập các quỹ ĐTMH công để dẫn dắt và hỗ trợ các DNKN có tiềm năng tăng
trưởng cao.

Nhà nước có chính sách đặc thù để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, DNKN, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo
và có tiềm năng tăng trưởng cao phát triển
1


-2-

Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai thành phố tiên phong cho phong trào
khởi nghiệp của cả nước. Ủy ban nhân dân (UBND) hai thành phố này đã có những nỗ lực
tích cực để hỗ trợ cho cộng đồng khởi nghiệp. Thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập và
đưa vào hoạt động Quỹ phát triển Khoa học – Công nghệ thành phố với số vốn điều lệ là
50 tỷ đồng nhằm hỗ trợ triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu có sản phẩm thương
mại hóa cao. Theo Văn phòng Chính phủ (2016), tính đến thời điểm hiện tại, Quỹ đã thực
hiện thẩm định 10 dự án với tổng số vốn đề nghị vay là 57,2 tỷ đồng chiếm 39,5% trong
tổng vốn đầu tư là 144,7 tỷ đồng. Trong đó, số dự án đã được phê duyệt cho vay là 7 dự án
với số tiền cho vay là 31 tỷ đồng cho đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị (trung bình 4,43 tỷ
đồng/dự án). Đồng thời, UBND Thành phố Hồ Chí Minh cũng ban hành “Quy chế phối
hợp hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo” để hỗ trợ các dự án khởi nghiệp 2, với mức kinh
phí tối đa là 2 tỷ đồng/1 dự án. Đối với Hà Nội, UBND thành phố đã quyết định cho ra đời
Trung tâm sáng tạo khởi nghiệp3, dự kiến sẽ đi vào hoạt động đầu năm 2017 với 3 giai

đoạn hỗ trợ các DNKN: giai đoạn đầu hỗ trợ thông tin để tiếp cận và thành lập doanh
nghiệp (thủ tục pháp lý, kế toán); giai đoạn hai hỗ trợ tiếp cận khoa học kỹ thuật; giai đoạn
ba kết nối để thương mại hóa các sản phẩm. Rõ ràng, những bước đi này của Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh đang bước đầu đặt nền móng cho hoạt động khởi nghiệp, từ đó
lan tỏa sức ảnh hưởng và cơ hội đến các khu vực khác của cả nước.
Khởi nghiệp luôn gắn liền với hoạt động ĐTMH bởi đây là kênh cung cấp vốn tiềm
năng cho các dự án hoặc các DNKN trong bối cảnh việc tiếp cận vốn từ các thể chế tài
chính truyền thống bị giới hạn. Thành công của mô hình thung lũng Silicon ở Mỹ với vai
trò dẫn dắt của nhà nước đã mở ra một kỷ nguyên phát triển thần kỳ trong lĩnh vực công
nghệ và đã có tác động lan tỏa tích cực đến nhiều quốc gia và khu vực, trong đó có Việt
Nam. Tuy nhiên, nhiều quốc gia đã thử nghiệm mô hình thung lũng Silicon của Mỹ nhưng
kết quả không đúng kỳ vọng. Thực tế đã chứng minh, không phải lúc nào khoản đầu tư của
nhà nước cũng mang lại hiệu quả, ngược lại còn làm trầm trọng hóa những thất bại thị
trường. Do vậy, cách thức sử dụng các nguồn lực công để thúc đẩy hoạt động ĐTMH sao
cho có hiệu quả đang trở thành mối quan tâm lớn của các quốc gia có ý định theo đuổi
thành công của mô hình thung lũng Silicon. Đặc biệt là đối với Việt Nam - một quốc gia
2

Các dự án khởi nghiệp gồm nhóm 4 ngành công nghiệp trọng yếu, nhóm ngành công nghiệp hỗ trợ và 9
nhóm ngành dịch vụ.
3
Hà Nội thuê chuyên gia Israel thiết kế trung tâm sáng tạo khởi nghiệp.


-3-

đang phát triển với những tham vọng rất lớn đòi hỏi phải rất thận trọng trong việc sử dụng
ngân sách nhà nước để hỗ trợ cho hoạt động ĐTMH.
1.2.


Mục tiêu nghiên cứu
Qua phân tích kinh nghiệm thành công và thất bại của các quốc gia trên thế giới,

tác giả đúc kết những yếu tố cốt lõi dẫn đến thành công trong ĐTMH, từ đó đề xuất bài học
phù hợp mà Việt Nam nên áp dụng.
1.3.

Câu hỏi nghiên cứu
(i) Nhà nước có cần can thiệp vào hoạt động ĐTMH hay không? Nếu có thì nhà

nước nên can thiệp như thế nào?
(ii) Những bài học nào từ kinh nghiệm quốc tế mà Việt Nam có thể học hỏi để thúc
đẩy hoạt động ĐTMH trong nước?
1.4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng chính sách đối với hoạt động ĐTMH

tại Việt Nam;
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động ĐTMH,
đồng thời xem xét các chính sách về ĐTMH ở Việt Nam.
1.5.

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp định tính bao gồm tổng quan

tài liệu, phân tích, chứng minh, tổng hợp. Đề tài cũng sử dụng phương pháp khảo sát,
phỏng vấn những đối tượng liên quan (các quỹ ĐTMH tại Việt Nam, Bộ Khoa học và
Công nghệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư).



-4-

Hình 1.1. Cách tiếp cận xây dựng phương pháp luận nghiên cứu
Dừng lại các chính sách
can thiệp trực tiếp

Triển khai các chính
sách can thiệp gián tiếp

Định hướng
giải pháp chính sách

Vấn đề cần khắc phục

Các điều kiện để
ĐTMH phát triển

Phân tích hiện trạng

Nhận dạng bản chất
ĐTMH

trong nước

Bài học cho Việt Nam

Phân tích kinh nghiệm
nước ngoài


Nguồn: Tác giả tự vẽ

1.6. Bố cục của luận văn
Luận văn được bố cục thành 5 chương:
Chương 1. Giới thiệu chung
Chương 2. Lý thuyết về sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động ĐTMH
Chương 3. Kinh nghiệm quốc tế về sự tham gia của nhà nước vào hoạt động ĐTMH
Chương 4. Thực trạng ĐTMH tại Việt Nam và các biện pháp can thiệp của nhà nước
Chương 5. Kết luận và kiến nghị chính sách


-5-

CHƯƠNG 2. LÝ THUYẾT VỀ SỰ CAN THIỆP CỦA NHÀ NƯỚC VÀO
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM
2.1. Tổng quan về ĐTMH
2.1.1. Khái niệm ĐTMH
“Đầu tư mạo hiểm là đầu tư cổ phần kiên nhẫn và chấp nhận rủi ro cao vào những
doanh nghiệp mới, có tính đổi mới cao, hoặc có tiềm năng tăng trưởng nhanh nhưng thiếu
độ tin cậy và chưa tỏ rõ khả năng; bởi vậy không giành được sự quan tâm của các thể chế
tài chính truyền thống. Thay vì cho vay, các nhà đầu tư góp vốn để giành lấy một cổ phần
không có lãi cố định hay quyền sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp mà họ đầu tư” (Lê
Quang Huy, 1999). Kết luận này đi sâu vào những điểm cốt lõi của ĐTMH, cụ thể: (i) tính
rủi ro – đặc điểm mang tính bản chất của ĐTMH và cũng là đặc điểm để phân biệt với các
kênh đầu tư truyền thống khác; (ii) điều kiện cơ bản để các doanh nghiệp nhận được vốn
mạo hiểm là phải có tính đổi mới cao, tỏ rõ được tiềm năng tăng trưởng trong tương lai;
(iii) phương thức đầu tư là nhà đầu tư góp vốn để sở hữu cổ phần không có lãi cố định
trong doanh nghiệp (hoàn toàn khác với việc cho vay lấy lãi của ngân hàng hay các định
chế tài chính khác).
Dự thảo Thông tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016) hướng dẫn việc thành lập, tổ

chức quản lý và hoạt động của quỹ ĐTMH cho khởi nghiệp sáng tạo (KNST) cũng đưa ra
giải nghĩa tương tự về ĐTMH. Theo đó, “ĐTMH cho đối tượng KNST là việc nhà đầu tư
bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc đầu tư góp vốn, mua cổ
phần, phần vốn góp của các đối tượng KNST nhằm thành lập doanh nghiệp hoặc tăng vốn
chủ sở hữu của doanh nghiệp tại thời điểm doanh nghiệp chưa có lợi nhuận trước thuế”. Ở
đây, ĐTMH được xác định trong mối quan hệ mật thiết với hoạt động khởi nghiệp – chủ đề
đang tạo sức “nóng” đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây.
Một thuật ngữ khác cần được làm rõ trong mối tương quan với thuật ngữ “đầu tư
mạo hiểm” là “hệ sinh thái khởi nghiệp”. Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia
(2016) định nghĩa hệ sinh thái khởi nghiệp (HSTKN) là sự tương tác giữa một loạt các bên
liên quan là các tổ chức kinh doanh, các định chế (là các quỹ ĐTMH, quỹ hưu trí...) và các
quá trình kinh doanh để thúc đẩy sự hình thành các DNKN, đổi mới sáng tạo và tăng
trưởng doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs). Như vậy, ĐTMH là một thành tố then chốt


-6-

không thể thiếu trong HSTKN, bởi nếu không có vốn thì các start-up khó có cơ hội hiện
thực hóa những ý tưởng kinh doanh, từ đó cũng sẽ không có những gã khổng lồ dẫn đầu
nền kinh tế thế giới như hiện nay như Google, Apple hay Facebook.
ĐTMH là một mắt xích trong HSTKN, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo mối
liên kết chặt chẽ giữa các định chế tài chính, các trường đại học, các doanh nghiệp định
hướng công nghệ, các tập đoàn công nghệ lớn. Các mắt xích trong mạng lưới này liên kết,
tương tác chặt chẽ, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Sự phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng
của HSTKN góp phần thúc đẩy sự phát triển của công nghệ, đổi mới giáo dục, phát triển
thị trường tài chính và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Hình 2.1. Sơ đồ hệ sinh thái khởi nghiệp

Các thị trường địa
phương và toàn cầu


Chính sách
Chính Phủ
Khuôn khổ luật pháp
và cơ sở hạ tầng

Nhân lực và
lao động

Kinh phí và
tài chính

HỆ SINH THÁI
KHỞI NGHIỆP
Giáo dục và
đào tạo

Văn hóa

Các trường đại
học đóng vai trò
xúc tác

Các nhà tư
vấn, cố vấn, hệ
thống hỗ trợ

Nguồn: Diễn đàn kinh tế Việt Nam, 2013



-7-

2.1.2. Vai trò của ĐTMH đối với sự phát triển kinh tế

Hoạt động ĐTMH là một trong những xúc tác quan trọng thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Sự lớn mạnh của những công ty đa
quốc gia, những tập đoàn quốc tế với trình độ phát triển ngày càng cao về công nghệ đã
thôi thúc các quốc gia đang phát triển đầu tư vào công nghệ, nhằm đạt mục tiêu tăng
trưởng bền vững. Lúc này vốn mạo hiểm, tinh thần khởi nghiệp trở thành bàn đạp đối với
nền kinh tế, là điều kiện cần để một quốc gia, một khu vực đang tụt hậu so với thế giới có
thể bứt phá đi lên. Vai trò của ĐTMH đối với nền kinh tế được cụ thể hóa như sau:
Thứ nhất, các quỹ ĐTMH là kênh cung cấp vốn hấp dẫn đối với các DNKN, giúp
họ hiện thực hóa những ý tưởng kinh doanh sáng tạo, góp phần thúc đẩy sự phát triển của
khoa học và công nghệ (KH&CN). Trong khi đó, những thể chế tài chính truyền thống với
yêu cầu khắt khe về tài sản thế chấp đã tạo rào cản trong việc tiếp cận vốn của những công
ty này. Ngoài ra, do nguyên tắc hoạt động của các quỹ ĐTMH là đầu tư vào những dự án
có tiềm năng và rủi co cao hơn mức bình thường nên các công ty quản lý quỹ luôn phải
nâng cao trình độ, năng lực quản lý của mình và hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp. Chính
điều này đã giúp quá trình nghiên cứu, tìm kiếm, thử nghiệm và phát triển một ý tưởng
KH&CN thành phát minh sáng chế, từ đó thương mại hóa thành sản phẩm. Quá trình biến
một ý tưởng thành sản phẩm đòi hỏi một lượng vốn lớn. Nếu không đủ vốn thì các ý tưởng
sẽ không thể thực hiện được. Khi càng nhiều ý tưởng được tài trợ thì các quỹ ĐTMH càng
có nhiều khả năng thu được lợi nhuận. Cứ như vậy, kết quả của việc gia tăng vốn ĐTMH là
KH&CN càng phát triển. Nhờ các quỹ ĐTMH mà ở thời điểm hiện tại, cộng đồng quốc tế
được thụ hưởng những lợi ích lớn từ các sản phẩm chứa đựng hàm lượng công nghệ cao
như dịch vụ của Facebook, Google… Rõ ràng, ĐTMH đóng góp rất lớn cho quá trình tạo
ra những bước phát triển đột phá về KH&CN cũng như góp phần tăng trưởng kinh tế;
Thứ hai, hoạt động ĐTMH tạo điều kiện cho vòng xoáy đi lên. Những hoạt động
của các doanh nghiệp tiên phong và các nhà ĐTMH thường mở đường cho các thế hệ đi
sau. Theo Lerner (2009), nhiều doanh nghiệp đi đầu với vai trò là những “học viện về khởi

nghiệp” đã mở ra một cuộc cách mạng về khởi nghiệp với sự tham gia đông đảo của cộng
đồng doanh nhân, kết quả là sự mọc lên nhanh chóng của một thế hệ doanh nghiệp mới đầy
sáng tạo và không ngừng nỗ lực đổi mới công nghệ. Fairchild Semiconductor là công ty
tiên phong trong lĩnh vực bán dẫn của Mỹ, được thành lập năm 1956 và sau đó, các công ty


-8-

khác như Cirrus Logic, Intel, LSI, và Công ty bán dẫn quốc gia lần lượt ra đời như một làn
sóng mạnh mẽ mở ra bước phát triển thần tốc cho Mỹ trong ngành công nghiệp sản xuất
chất bán dẫn. Chính phủ là nhà cung cấp các khoản trợ cấp cho những công ty này do
những kết quả kinh doanh của họ không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân công ty mà còn
tạo ra lợi ích đối với toàn xã hội. Những sản phẩm bán dẫn ngày nay được sử dụng rộng rãi
trên toàn thế giới là minh chứng cho tác động lan tỏa của hoạt động ĐTMH;
Thứ ba, hoạt động ĐTMH tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng
khoán (TTCK). Một trong những hình thức thoái vốn của các quỹ ĐTMH là chào bán
chứng khoán của công ty nhận đầu tư ra công chúng, biến các công ty này từ cổ phần tư
nhân thành công ty đại chúng. Vì vậy, hoạt động ĐTMH sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp
chưa niêm yết mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh đến mức có thể phát hành cổ phiếu ra
công chúng để huy động vốn. Kết quả của phương thức thoái vốn này là làm tăng số lượng
các công ty trên TTCK, tạo tiền đề cho sự phát triển của thị trường sơ cấp (IPO). Ngược
lại, khi một TTCK phát triển cũng tạo điều kiện để các quỹ mở rộng hoạt động đầu tư hiệu
quả, làm tăng tính thanh khoản cho các danh mục đầu tư của quỹ.
Ngoài ra, hoạt động ĐTMH còn tạo ra những lợi ích gián tiếp khác đối với nền
kinh tế. Đó là tăng trưởng việc làm, tăng khả năng cạnh tranh của các đối tượng kinh doanh
cùng một loại sản phẩm, dịch vụ trong nền kinh tế, đặc biệt giúp quá trình lan tỏa tri thức
diễn ra nhanh chóng hơn. Lerner (2009) đã chỉ ra rằng, đổi mới sáng tạo có tác động lan
tỏa tích cực đến toàn xã hội. Nhiều công ty đã tạo ra những lợi ích lớn cho xã hội hơn sự
kỳ vọng của họ. Amazon là một ví dụ điển hình, sau một thập kỷ hoạt động công ty đã
cung cấp các cuốn sách và những hàng hóa khác có sẵn cho những người không sống gần

các hiệu sách hoặc những nhà bán lẻ. Như vậy, các công ty như Amazon đã tạo ra cầu nối
tri thức cho công dân trên toàn cầu bởi kho sách phong phú và dịch vụ vận chuyển tiện lợi.
2.2. Can thiệp của nhà nước đối với hoạt động ĐTMH
Với những tác động tích cực đối với nền kinh tế như đã phân tích ở trên, nhà nước
nên khuyến khích hoạt động ĐTMH nhằm gia tăng lợi ích cũng như nhân rộng các mô
hình KNST trong nền kinh tế. Như vậy, sự can thiệp của nhà nước đối với hoạt động
ĐTMH là cần thiết. Điều này được giải thích dựa trên những lý thuyết kinh tế sau:


-9-

Thứ nhất, hoạt động ĐTMH cũng như những hoạt động khác trong nền kinh tế luôn
xảy ra thất bại thị trường. Một trong những thất bại điển hình trên thị trường ĐTMH là vấn
đề ngoại tác4. Ngoại tác trên thị trường ĐTMH được nhìn nhận là dạng ngoại tác tích cực,
vì vậy, nhà nước cần có biện pháp can thiệp để thúc đẩy thị trường phát triển và làm giảm
tổn thất xã hội. Vấn đề là, ngay cả khi xác định được ĐTMH tạo ra ngoại tác tích cực thì
nhà nước còn rất lúng túng trong việc lựa chọn hình thức can thiệp.
Thứ hai, việc can thiệp của nhà nước vào thị trường ĐTMH thể hiện chức năng tích
cực của nhà nước. Theo World Bank (1997), Nhà nước ngoài chức năng cơ bản và trung
gian còn thể hiện chức năng tích cực thông qua việc phối hợp với khu vực tư nhân để nuôi
dưỡng thị trường và hình thành các sáng kiếm về cụm ngành. Trong trường hợp này, sự
can thiệp của nhà nước sẽ là đòn bẩy giúp thúc đẩy khu vực tư nhân tham gia và phát triển
thị trường ĐTMH. Theo Lerner (2009), nhờ sự hỗ trợ từ vốn của nhà nước nên nhiều công
ty đã sử dụng nguồn vốn này đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), kết
quả không những làm tăng lợi nhuận cho công ty mà còn làm cho xã hội được thụ hưởng
những lợi ích lớn. Tức là khi công ty thu được khoảng 10% lợi nhuận từ hoạt động R&D
thì xã hội sẽ được hưởng từ 15 – 20% lợi ích. Rõ ràng, với lợi ích xã hội lớn như vậy thì
việc khuyến khích khối tư nhân đổi mới sáng tạo là việc làm cần thiết của nhà nước.
Thứ ba, sự can thiệp của nhà nước vào thị trường ĐTMH cung cấp chứng nhận,
tạo điều kiện cho các dự án khởi nghiệp có thể huy động được nhiều nguồn lực hơn do các

quỹ ĐTMH tư nhân thường chỉ tập trung vào một vài ngành hay lĩnh vực rất nhỏ (Lerner,
2009). Có một vấn đề là nhiều công ty có những ý tưởng kinh doanh đột phá nhưng lại
không nhận được hoặc nhận không đủ số vốn cần thiết để hiện thực hóa những ý tưởng đó.
Điều này được giải thích bằng sự bất cân xứng thông tin. Trong khi những người sáng lập
nắm rất rõ về công nghệ nhưng những nhà đầu tư thì không. Vai trò của chính phủ lúc này
là sử dụng nguồn lực công như một bên trung gian nhằm khắc phục tình trạng bất cân xứng
thông tin và đảm bảo sự tham gia của các nhà ĐTMH cũng như những nhà đầu tư tư nhân
khác hỗ trợ cho các DNKN ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Nỗ lực điều chỉnh những thất bại
thị trường này dẫn đến sự gia tăng vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường.

Ngoại tác xảy ra khi một bên làm tăng (giảm) chi phí/lợi ích của một (số) bên khác nhưng không thông qua
giao dịch thị trường (không được phản ánh qua giá cả)
4


-10-

Nhà nước có thể can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào thị trường ĐTMH
Can thiệp trực tiếp là việc nhà nước trực tiếp bỏ vốn thành lập các quỹ ĐTMH
bằng ngân sách nhà nước để tài trợ cho các dự án khởi nghiệp. Cụ thể:
(a) Nhà nước trực tiếp thành lập và quản lý quỹ ĐTMH. Kinh nghiệm của nhiều
quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam đã chỉ ra rằng, hình thức can thiệp này có mức độ thất
bại khá cao. Nguyên nhân là nhà nước không thể kiểm soát và quản lý nguồn vốn của mình
(do cơ chế người ủy quyền - người thừa hành), kết quả là tiền vốn hay tài sản công được
một số cá nhân sử dụng cho những mục đích riêng, củng cố quyền lực cá nhân hay vây
cánh của họ (Huỳnh Thế Du, 2013). Thất bại của Vinashin, Vinalines là minh chứng rõ
ràng nhất cho sự kiểm soát lỏng lẻo nguồn lực công của nhà nước. Việc giao cho một
nhóm người thay mặt nhà nước đảm nhiệm chức năng quản lý và kiểm soát nguồn vốn
công chẳng khác nào tạo điều kiện cho những người điều hành tính chính danh và công cụ
sử dụng tài sản công cho mục đích riêng của họ và phần thua lỗ đã có “nhiệm vụ xã hội”

gánh chịu. Hơn nữa, nhà nước với những cá nhân đại diện thường không có nhiều kinh
nghiệm và kiến thức thực tế để quản lý quỹ ĐTMH nên những trục trặc xảy ra khi điều
hành quỹ là kết quả tất yếu.
(b) Nhà nước thành lập quỹ ĐTMH nhưng giao cho công ty tư nhân có kinh
nghiệm quản lý quỹ5. Hình thức này có ưu điểm: (i) cho phép tách bạch giữa vai trò sở hữu
vốn của nhà nước với vai trò quản lý kinh doanh của tư nhân; (ii) cho phép khai thác kinh
nghiệm, nghiệp vụ chuyên sâu của tư nhân về cách thức tổ chức, quản lý quỹ ĐTMH. Tuy
nhiên, nhìn nhận sâu xa thì hình thức này lại tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn là những lợi ích
trước mắt mà nó mang lại. Nếu không có sự phân tách rạch ròi trách nhiệm giữa nhà nước
và tư nhân trong việc bỏ vốn đầu tư, quản lý quỹ thì rất khó quy kết trách nhiệm và lựa
chọn cơ chế xử lý trong trường hợp thất thoát vốn, sử dụng vốn không đúng mục đích. Bởi
vì xét cho cùng, ai cũng có tính vị kỷ, một khi đã quản lý đồng tiền của người khác thì rất
dễ dẫn đến những mưu lợi, toan tính riêng – mà những toan tính này thường không đồng
nhất với lợi ích của số đông. Do đó, để tư nhân quản lý đồng tiền của nhà nước, trên thực
tế là một trò chơi chứa đựng những rủi ro và hệ lụy rất lớn nếu như phía nhà nước không
cân nhắc kỹ và lường trước hậu quả.

5

Nhà nước là người bỏ tiền, tư nhân là người quản lý quỹ.


-11-

(c) Nhà nước dùng tiền ngân sách góp vốn vào các quỹ ĐTMH tư nhân. Ưu điểm
của hình thức này là: (i) tạo điều kiện hỗ trợ thêm vốn cho các quỹ ĐTMH tư nhân, tạo
thêm nhiều cơ hội cho các start-up; (ii) thông qua việc góp vốn cổ phần vào các quỹ này,
nhà nước có thể can thiệp, định hướng hoạt động đầu tư của các quỹ đó theo hướng ưu tiên
phát triển công nghệ cao (CNC) của quốc gia. Tuy nhiên, hình thức này cũng gặp phải
những trở ngại: (i) tư nhân ít có động lực để chia sẻ thông tin về những thương vụ đầu tư

với nhà nước; (ii) khó khăn trong việc quy kết trách nhiệm và cơ chế xử lý đối với những
trường hợp làm thất thoát hoặc sử dụng nguồn vốn công vào mục đích riêng; (iii) chỉ khi
góp vốn tới một hạn mức nhất định trên tổng số vốn điều lệ thì nhà nước mới có cơ hội có
tiếng nói trong việc định hướng hoạt động của quỹ. Tuy nhiên, nếu làm được điều này thì
những trục trặc của hình thức can thiệp đầu tiên sẽ lặp lại và vòng xoáy thất bại sẽ diễn ra;
(iv) nếu số vốn của nhà nước không đủ để định đoạt hướng đi của quỹ đầu tư thì lúc này,
số vốn đó sẽ được định đoạt bởi khu vực tư nhân. Điều này cũng sẽ dẫn đến những rủi ro
khi xảy ra tình trạng đầu tư thất bại, nguồn vốn công không được bảo toàn.
Can thiệp gián tiếp là việc Nhà nước sử dụng các hình thức trợ cấp, ưu đãi thuế,
đưa ra các quy định để điều tiết thị trường nhằm cải thiện mức độ hiệu quả của thị trường.
Cụ thể:
(a) Trợ cấp cho nhà ĐTMH hoặc các start-up trong giai đoạn đầu. Hình thức can
thiệp này có khả năng khả thi hơn so với can thiệp trực tiếp. Bởi, khi trợ cấp nghĩa là nhà
nước trích một số tiền nhất định cho quỹ, dự án hoặc cho các nhà ĐTMH để họ thực hiện
nghĩa vụ đầu tư. Trách nhiệm của nhà nước chỉ dừng lại tại đó và việc sử dụng trợ cấp như
thế nào tùy thuộc vào đối tượng nhận trợ cấp. Lúc đó khoản trợ cấp thuộc sở hữu của họ
nên họ sẽ có trách nhiệm sử dụng sao cho hiệu quả, bởi sự hiệu quả này sẽ mang lại lợi ích
cho chính họ. Tuy nhiên, cách thức trợ cấp như thế nào và trợ cấp bao nhiêu để đạt hiệu
quả vẫn còn là một vướng mắc lớn đối với khu vực công.
(b) Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho các start-up trong giai đoạn đầu. Hình
thức này thoạt đầu nghe có vẻ sẽ khuyến khích các start-up nỗ lực và không ngại mạo hiểm
trong công cuộc khởi nghiệp. Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan thì những ưu đãi
thuế trong giai đoạn đầu thường không mấy tác dụng. Bởi không kể đến các start-up khi
mới hoạt động gặp vô vàn khó khăn mà những doanh nghiệp bình thường khi mới đi vào


-12-

hoạt động cũng không thể có lãi ngay trong mấy năm đầu, thậm chí là lỗ. Cho nên, không
có lãi thì ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong giai đoạn đầu là vô nghĩa6.

(c) Đưa ra những quy định/điều tiết nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia thị trường ĐTMH. Những quy định này có thể liên quan đến phát triển TTCK để
nhà đầu tư thoái vốn dễ dàng nhằm gia tăng sự hấp dẫn của môi trường kinh doanh. Theo
Lerner (2009), Ấn Độ là một trong những quốc gia thành công khi thu hút vốn mạo hiểm
nhờ vào sự phát triển của TTCK với sự gia tăng vốn mạo hiểm từ 570 triệu USD năm 2001
lên đến 3,8 tỷ USD năm 2007.
Ngoài ra, những quy định của nhà nước cũng có thể liên quan đến việc hỗ trợ kết
nối và tiếp cận với nguồn nhân lực quốc tế nhằm nâng cao chất lượng các start-up để dễ
dàng thu hút được vốn từ các quỹ đầu tư hoặc quy định tăng chi tiêu cho các nghiên cứu
hàn lâm, khuyến khích doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào những ngành tăng trưởng cao,
tổ chức các cuộc thi, các sự kiện liên quan đến hoạt động đổi mới sáng tạo nhằm thúc đẩy
môi trường khởi nghiệp, tinh thần doanh nhân. Những quy định này có thể được luật hóa
trong các văn bản quy phạm pháp luật của mỗi quốc gia hoặc cũng có thể được cụ thể hóa
thông qua các chính sách của từng địa phương, tùy thuộc vào định hướng, mục tiêu phát
triển kinh tế của nhà nước. Hình thức này được đánh giá là một trong những hình thức can
thiệp hiệu quả của khu vực công vì nó tạo ra thể chế và môi trường kinh doanh thuận lợi
cho các doanh nghiệp, các quỹ đầu tư khi tham gia thị trường ĐTMH.
Mỗi hình thức can thiệp có những ưu và nhược điểm riêng. Tùy vào bối cảnh của
từng quốc gia mà nhà nước lựa chọn cách thức can thiệp phù hợp.
Những trục trặc của Nhà nước khi tham gia thị trường ĐTMH
Tuy nhiên, không phải lúc nào sự can thiệp của nhà nước cũng tạo ra những tác
động tích cực. Ngược lại, sự tham gia của nhà nước đôi khi là rào cản đối với sự phát triển
của thị trường ĐTMH. Nhà nước thực hiện sứ mệnh sửa chữa các thất bại thị trường nhưng
về bản chất, nhà nước cũng chỉ là tập thể những con người vị kỷ. Ăn theo (free rider) và
mâu thuẫn giữa người ủy quyền và người thừa hành (principal – agent problem) luôn ảnh
hưởng đến hiệu quả và tính hữu hiệu của tổ chức (Huỳnh Thế Du, 2013). Thông thường

6

Xem Phụ lục 5.



-13-

trong một tập thể tất cả các cá nhân đều tư duy hợp lý nhưng cho ra các kết quả phi lý về
mặt tập thể7. Lý thuyết kinh tế học chỉ ra rằng, sự bất cân xứng thông tin sẽ làm nảy sinh
vấn đề ủy quyền tác nghiệp. Trong trường hợp tham gia thị trường ĐTMH, nhà nước buộc
phải cử người đại diện để quản lý, sử dụng và kiểm soát nguồn vốn công sao cho hiệu quả
thông qua cơ chế người ủy quyền – người thừa hành. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh, cơ
chế này là một thất bại của nhà nước. Nhà nước với tư cách là người ủy quyền trao mọi
quyền quyết định cho người thừa hành sẽ không thể quan sát, kiểm tra người thừa hành sử
dụng nguồn lực công như thế nào và liệu họ có hoàn thành cam kết mà không tốn kém hay
không. Như một kết quả tất yếu, “rủi ro đạo đức” xảy ra khi phần lớn người thừa hành với
lòng vị kỷ luôn hành động dựa trên lợi ích cá nhân mà không dựa trên lợi ích người ủy
quyền, dẫn đến những lựa chọn công “cứng”. Lý thuyết lựa chọn công “cứng” cho rằng,
các cá nhân vì quyền lợi cá nhân hạn hẹp, hành động một cách duy lý nhìn từ góc độ riêng
của họ, có xu hướng tạo ra các kết quả phi lý về mặt tập thể Khi những nhà lãnh đạo khu
vực công tham gia vào một dự án ĐTMH, đa phần sẽ đặt lợi ích cá nhân lên hàng đầu, hậu
quả là những khoản đầu tư công sẽ thất thoát và rất dễ bỏ qua những doanh nghiệp tiềm
năng. Do đó, nếu nhà nước không xác lập cơ chế kiểm tra, giám sát và quy định rõ ràng
trách nhiệm giải trình thì chắc chắn thất bại của nhà nước khi tham gia thị trường ĐTMH
là không thể tránh khỏi.
Như vậy, vòng tròn thất vọng diễn ra khi nhà nước cố gắng tham gia vào thị trường
ĐTMH nhằm khắc phục thất bại thị trường hoặc thực hiện những chức năng tích cực của
mình nhưng rút cuộc sự can thiệp của nhà nước lại làm trầm trọng hơn thất bại của thị
trường, dẫn đến hậu quả lớn hơn so với việc nhà nước không can thiệp. Đây là thất bại của
nhà nước khiến thị trường vận hành chệch hướng và không hiệu quả. Những kinh nghiệm
rút ra từ bài học thành công và thất bại của một số quốc gia trên thế giới trong phần phân
tích dưới đây sẽ làm rõ những nguyên nhân chính quyết định đến sự thành bại của mỗi
quốc gia khi nhà nước can thiệp vào thị trường ĐTMH.

Những lập luận tích cực về cơ sở can thiệp của nhà nước ở phần trên cho thấy, nhà
nước nên có những biện pháp thúc đẩy sự phát triển của khu vực ĐTMH. Điều quan trọng
hơn là nhà nước nên can thiệp bằng những biện pháp chính sách nào để đảm bảo không
Trong các quyết định tập thể, mỗi cá nhân thường quan tâm đến việc làm sao để mình có được phần nhiều
nhất chứ không phải làm sao để cái bánh lớn hơn để mọi người cùng được nhiều hơn, vì thế những lựa chọn
công “cứng” xảy ra phổ biến ở khu vực công và gây ra những thất bại của nhà nước khi tham gia vào ĐTMH
7


-14-

lãng phí nguồn lực công mà vẫn đạt được hiệu quả khi đầu tư cũng như nhân rộng mô hình
đó để làn sóng ĐTMH lan tỏa khắp nền kinh tế.


×