Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Phân tích vai trò của nhà nước trong việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN công lập tại Hải Dương (Nghiên cứu trường hợp của

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.52 KB, 85 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN










Phạm Thị Thanh Vân







Phân tích vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện cơ chế,
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN công lập
tại Hải Dương (nghiên cứu trường hợp của Trung tâm thông
tin KHCN & Tin học Hải Dương)











1
MỤC LỤC

LỜI CÁM ƠN 4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 5
PHẦN MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài : 6
2. Lịch sử nghiên cứu : 7
3. Mục tiêu nghiên cứu : 7
4. Phạm vi nghiên cứu: 8
5. Khách thể nghiên cứu và mẫu khảo sát 8
6. Vấn đề nghiên cứu : 8
7. Giả thuyết nghiên cứu 8
8. Luận cứ và phƣơng pháp nghiên cứu : 9
9. Kết cấu của luận văn : 10
PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………………12
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN
CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM, VỀ HOẠT ĐỘNG
THÔNG TIN CỦA CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 12
1.1. Lý luận về tự chủ, tự chịu trách nhiệm : 12
1.1.1. Các khái niệm liên quan: 12
1.1.2. Ý nghĩa của vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm : 13
1.1.3. Vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức NC&PT
theo một số đánh giá, kinh nghiệm của nước ngoài : 15
1.1.4. Vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH & CN

tại Việt Nam : 19
1.1.5. Những thuận lợi khi thực hiện chuyển đổi theo Nghị định 115 21
1.2. Hoạt động thông tin : 23
1.2.1. Khái quát về hoạt động thông tin : 23
1.2.2. Các hoạt động thông tin : 25
1.2.3. Việc thực hiện cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị
có hoạt động dịch vụ thông tin : 27

2
1.2.4 Hiện trạng của hệ thống thông tin KH&CN tại Việt Nam 33
1.2.5. Một số nhiệm vụ và phương hướng phát triển hoạt động thông tin
KHCN : 35
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TẠI TRUNG TÂM
THÔNG TIN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ & TIN HỌC HẢI DƢƠNG . 43
2.1. Thực trạng hoạt động : 43
2.1.1. Về tổ chức bộ máy : 43
2.1.2. Về cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động : 43
2.1.3. Về tình hình tài chính, tài sản : 44
2.1.4. Tiến độ thực hiện chuyển đổi : 45
2.1.5. Chức năng, nhiệm vụ : 46
2.2. Một số hoạt Động của Trung tâm có thể chuyển đổi theo NĐ 115/CP :
49
2.3. Các hoạt động của Trung tâm chƣa thực hiện chế độ tự chủ : 50
2.4. Những khó khăn của đơn vị trong quá trình thực hiện chuyển đổi: 50
CHƢƠNG 3. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG VIỆC THỰC HI ỆN
CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC
KH&CN CÔNG LẬP 58
3.1. Chính sách của Nhà nƣớc đối với các đơn vị KH & CN thực hiện cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhi ệm 59
3.1.1. Nhà nước tăng cường tuyên truyền, phổ biến mục đích chuyển đổi

để thay đổi tư duy cho lãnh đạo, cán bộ công nhân viên : 59
3.1.2. Nhà nước có sự phân cấp quản lý rõ ràng để tạo sự tự chủ thực sự
cho các tổ chức KH&CN : 62
3.1.3 Chính sách con người trong các tổ chức KH&CN…… ……… 62
3.1.4 Chính sách hỗ trợ kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KH&CN, vốn
sản xuất kinh doanh và đầu tư cơ sở vật chất cho các tổ chức
KH&CN:……………………………………………………… ………… 63
3.1.5 Ban hành đồng bộ, kịp thời các văn bản, chế độ :……………… 66

3
3.1.6 Chính sách phát triển thị trường, tuyên truyền quảng bá sản phẩm
………………………………………………………………………………67:
3.1.7 Nhà nước cần quan tâm tạo điều kiện cho các tổ chức KH&CN
được dự bình xét thi đua và được Bộ khen thưởng công bằng như các tổ
chức khác…………………………………………… …………………….68
3.1.8. Chính sách cuả Nhà nước đối với hoạt động chưa thực hiện cơ chế
tự chủ: 69
3.2. Chính sách của Nhà nƣớc đối với các hoạt động thông tin: 71
3.2.1. Đối với các hoạt động có thể tự chủ theo Nghị Định
115:………………………………………………………………….……….71
3.2.2. Đối với các hoạt động chưa tự chủ theo Nghị định 115 vẫn được
Nhà nước cấp kinh phí qua hình thức giao nhiệm vụ thường
xuyên…………………………………………………………………….… 73
3.3. Một số đề xuất đối với công tác quản lý : 74
KẾT LUẬN 80
KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83















4

LỜI CÁM ƠN

Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài : "Phân tích vai trò của Nhà nước
trong việc thực hiện cơ chế, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
KH&CN công lập tại Hải Dương (nghiên cứu trường hợp của Trung tâm
thông tin KHCN & Tin học Hải Dương" là kết quả học tập và nghiên cứu
của tôi trong khoá học về Quản lý Khoa học và Công nghệ tại trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. Trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo hướng dẫn
PGS.TS Vũ Cao Đàm, xin chân thành cảm ơn Thầy.

Tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các Thầy cô không ngại đường xá đã
đến giảng dạy cho lớp học chuyên ngành Quản lý Khoa học và Công nghệ tại
Hải Dương.

Cuối cùng, xin được cảm ơn các đơn vị đã nhiệt tình cung cấp thông
tin, nhất là Trung tâm thông tin KHCN & Tin học Hải Dương đã hỗ trợ tôi

hoàn thành bài nghiên cứu này.


Ngƣời thực hiện
Phạm Thị Thanh Vân







5

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


KH & CN Khoa học và Công nghệ
KHCN Khoa học Công nghệ
CNH-HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
XHCN Xã hội chủ nghĩa
KT-XH Kinh tế xã hội






















6
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài :
Để tăng cƣờng trách nhiệm và nâng cao tính tích cực, chủ động, năng
động sáng tạo của các tổ chức khoa học & công nghệ công lập, Chính phủ đã
đề ra quy định về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại Nghị định số
115/2005/NĐ-CP. Thực hiện quy định trên, các tổ chức khoa học & công
nghệ thực sự đã có quyền tự chủ đối với các hoạt động của mình, nhất là thủ
trƣởng của các tổ chức khoa học và công nghệ đƣợc tự chủ về kinh phí, tổ
chức và biên chế. Nghị định trên có những nội dung hoàn toàn mới, trong đó
vấn đề trọng tâm xuyên suốt là trao quyền tự chủ cao cho các tổ chức
KH&CN, đổi mới phƣơng thức cấp phát kinh phí từ ngân sách nhà nƣớc, cho
phép các tổ chức KH&CN khi có sản xuất kinh doanh thì đƣợc cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh để hoạt động nhƣ doanh nghiệp hoặc có thể
chuyển sang doanh nghiệp thực sự. Từ đó nâng cao tối đa tính năng động,
sáng tạo và tiềm năng của cán bộ và tổ chức KH&CN, tăng hiệu quả hoạt

động kết quả nghiên cứu vào sản xuất kinh doanh, làm thay đổi căn bản tỷ
trọng đầu tƣ cho KH&CN từ các thành phần kinh tế trong xã hội, đặc biệt là
các doanh nghiệp.
Nghị định trên có tác dụng gắn kết nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ với sản xuất, kinh doanh, với thị trƣờng; đƣa các hoạt động khoa
học công nghệ đến với đời sống và nguồn nhân lực khoa học công nghệ đƣợc
đào tạo theo hƣớng đáp ứng nhu cầu của sự phát triển chung toàn xã hội; đẩy
nhanh quá trình hội hoá các hoạt động khoa học và công nghệ. Nghị định tạo
điều kiện tập trung đầu tƣ kinh phí một cách có trọng điểm cho các tổ chức
khoa học và công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức này và
góp phần tăng cƣờng tiềm lực khoa học và công nghệ cho đất nƣớc.
Các tổ chức khoa học & công nghệ công lập trên địa bàn tỉnh Hải
Dƣơng đóng vai trò rất quan trọng đối với việc nghiên cứu khoa học, phát
triển công nghệ tại địa phƣơng. Sự thay đổi trên là bƣớc chuyển biến mới với

7
sự phát triển của sự nghiệp khoa học và công nghệ. Tại tỉnh Hải Dƣơng, các
tổ chức khoa học và công nghệ nhƣ Trung tâm thông tin khoa học công nghệ
và Tin học đã tiến hành chuyển đổi theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về tổ chức, biên chế và kinh phí. Thực tế cho thấy khi thực hiện Nghị định
trên đã gặp phải một số khó khăn, vƣớng mắc về điều kiện thành lập, về kinh
phí, về tổ chức, về tài sản, về nhân sự Xuất phát từ thực trạng trên, tác giả
đã đi tìm hiểu và nghiên cứu về vấn đề này.

2. Lịch sử nghiên cứu :
Căn cứ vào các tƣ liệu thu thập đƣợc, đã có một số nghiên cứu liên quan đến
vấn đề thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 115/NĐ-
CP. Bài nghiên cứu của Trung tâm thông tin KH&CN quốc gia : Tổng luận
tự chủ tự chịu trách nhiệm của các tổ chức nghiên cứu và phát triển.
Nghiên cứu đƣợc thực hiện năm 2005, đã nêu ra một số kinh nghiệm thế giới

và thực tế đổi mới đang diễn ra về vấn đề thực hiện tự chủ, tự chịu trách
nhiệm tại thế giới và nƣớc ta.
Các bài nghiên cứu, bài viết trên Tạp chí Khoa học & công nghệ, Tạp chí Tia
sáng, các tài liệu tại Hội nghị sơ kết tình hình thực hiện Nghị định 115/NĐ-
CP của các tỉnh .

3. Mục tiêu nghiên cứu :
Nghị định 115/2005/NĐ-CP quy định về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
đối với các tổ chức khoa học & công nghệ công lập đƣợc ban hành đƣợc coi
là một bƣớc đột phá, "cởi trói" cho các tổ chức khoa học và công nghệ trong
hoạt động nghiên cứu và sản xuất kinh doanh, là cơ sở pháp lý cho hoạt động
của các tổ chức này trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định
trên còn chậm, các tổ chức khoa học & công nghệ chƣa thực sự phát huy đƣợc
hiệu quả hoạt động. Có rất nhiều nguyên nhân nhƣng nguyên nhân từ phía
Nhà nƣớc là chủ yếu. Mục tiêu của tác giả là đi sâu nghiên cứu phân tích vai

8
trò của Nhà nƣớc trong việc thực hiện Nghị định trên tại Trung tâm thông tin
khoa học công nghệ & Tin học Hải Dƣơng.

4. Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu các tổ chức khoa học & công nghệ công lập trên địa bàn tỉnh
Hải Dƣơng đang chuẩn bị và đã tiến hành chuyển đổi theo cơ chế mới.
- Thời gian tiến hành khảo sát từ năm 2006 đến năm 2008.

5. Khách thể nghiên cứu và mẫu khảo sát
- Khách thể nghiên cứu là các tổ chức khoa học & công nghệ công lập tại tỉnh
Hải Dƣơng hoạt động theo các quy định của Nhà nƣớc về khoa học & công
nghệ.
- Mẫu khảo sát : Trung tâm thông tin khoa học công nghệ & Tin học Hải

Dƣơng.

6. Vấn đề nghiên cứu :
Thực hiện chủ trƣơng chuyển đổi cơ chế hoạt động đã tạo ra nhiều cơ
hội và thách thức đối với các tổ chức khoa học & công nghệ. Hầu hết các tổ
chức này đang lúng túng trong việc lựa chọn mô hình quản lý, thủ tục để đƣợc
cấp Giấy phép đăng ký kinh doanh, kinh phí hoạt động cho tổ chức, đào tạo
sử dụng nguồn nhân lực khoa học công nghệ, giải quyết chế độ cho các cán
bộ không còn phù hợp với cơ chế mới, sử dụng tài sản đƣợc giao sao cho có
hiệu quả. Vấn đề đặt ra cho nghiên cứu là : Khi chuyển đổi sang cơ chế tự chủ
tự chịu trách nhiệm, các tổ chức khoa học và công nghệ công lập gặp phải rất
nhiều khó khăn, vậy nguyên nhân những khó khăn đó là gì ? Vai trò của Nhà
nƣớc thể hiện nhƣ thế nào trong việc xử lý các vƣớng mắc, khó khăn đó ?

7. Giả thuyết nghiên cứu
Trong nền kinh tế thị trƣờng, các tổ chức khoa học và công nghệ muốn
tồn tại và đứng vững đƣợc phải đầu tƣ tiếp cận thị trƣờng, tìm kiếm thị

9
trƣờng, chủ động tạo ra các nguồn thu để vận hành tổ chức. Trong khi đó các
tổ chức này đều thiếu vốn và chƣa đƣợc Nhà nƣớc hỗ trợ về kinh phí, về điều
kiện hoạt động.
Do vậy, Nhà nƣớc cần hỗ trợ về mặt pháp lý và hỗ trợ về mặt tài chính ban
đầu thì các tổ chức R&D mới có thể có đủ năng lực tự chủ, tự chịu trách
nhiệm.
8. Luận cứ và phƣơng pháp nghiên cứu :
* Luận cứ :
Theo hƣớng dẫn của Bộ KH&CN, các tổ chức này đƣợc Nhà nƣớc tạo
điều kiện về các thủ tục pháp lý, về kinh phí để có thể chuyển đổi cơ chế hoạt
động sang tự chủ tự chịu trách nhiệm. Nhƣng qua thực tế chuyển đổi tại tỉnh

Hải Dƣơng của Trung tâm thông tin khoc học công nghệ & Tin học Hải
Dƣơng cho thấy : tỉnh chƣa có sự quan tâm đúng mức với các tổ chức này,
chƣa đầu tƣ, hỗ trợ những điều kiện cần thiết để đơn vị củng cố tổ chức, ổn
định hoạt động. Điều này đã tạo ra những khó khăn cho đơn vị trong quá trình
chuyển đổi.
- Nhà nƣớc chƣa có chính sách giúp các tổ chức KH&CN thực hiện tự chủ và
tự chịu trách nhiệm.
+ Hiện thủ tục cấp Giấy phép đăng ký kinh doanh không thực hiện
đƣợc. Nguyên nhân do Sở Kế hoạch - đầu tƣ không cấp cho các tổ chức khi
chƣa phải là doanh nghiệp. Do đó các tổ chức này chƣa thực hiện đƣợc nghĩa
vụ nộp thuế cho nhà nƣớc và cũng không đƣợc hƣởng các ƣu đối đối với đơn
vị mới đƣợc thành lập.
+ Cơ quan quản lý nhà nƣớc có thẩm quyền chƣa tạo đƣợc hành lang
pháp lý cho các đơn vị này trong khi thực hiện chức năng nhiệm vụ khoa học
công nghệ.
- Nhà nƣớc chƣa có chính sách hỗ trợ tài chính, tạo cơ sở vật chất ban đầu
giúp các tổ chức KH&CN có thể tự chủ về các mặt hoạt động:

10
+ Ngân sách nhà nƣớc không hỗ trợ kinh phí cho tổ chức vào năm thực
hiện chuyển đổi (theo quy định của Nghị định 115/2005/NĐ-CP đƣợc hỗ trợ
50% kinh phí vào năm chuyển đổi).
+ Nhà nƣớc chƣa hỗ trợ về đầu tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc
cho tổ chức.
+ Kinh phí hoạt động của các tổ chức này rất hạn hẹp, Ngân sách Nhà
nƣớc chỉ hỗ trợ 80% kinh phí của năm trƣớc. Do đó các tổ chức này ban đầu
không có kinh phí để đầu tƣ đào tạo nguồn nhân lực, đầu tƣ cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình, giải quyết chế độ cho các lao động dôi

* Phương pháp nghiên cứu

- nghiên cứu tài liệu : thu thập tài liệu liên quan, xử lý phân tích và tổng hợp
các tài liệu có đƣợc. Trên cơ sở đó kế thừa lý thuyết, kinh nghiệm và có
những đánh giá mới.
- tổ chức điều tra, khảo sát, phỏng vấn : tiến hành điều tra, khảo sát tại một số
đơn vị chọn mẫu về thực hiện chuyển đổi cơ chế hoạt động sang tự chủ tự
chịu trách nhiệm; tiến hành phỏng vấn sâu các nhà lãnh đạo của các tổ chức
KH&CN đã thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
- khảo sát bằng phiếu điều tra về tình hình hoạt động của các tổ chức KH&CN
khi chuyển đổi sang cơ chế tự chịu trách nhiệm.

9. Kết cấu của luận văn :
Lời mở đầu
Chƣơng 1 : Những vấn đề lý luận chung về thực hiện cơ chế tự chủ tự
chịu trách nhiệm, về hoạt động thông tin của các tổ chức khoa học &
công nghệ
1.1. Lý luận về tự chủ, tự chịu trách nhiệm
1.2. Lý luận chung về hoạt động thông tin.
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động tại Trung tâm thông tin KHCN & Tin
học Hải Dƣơng

11
2.1. Thực trạng hoạt động về chức năng nhiệm vụ , cơ cấu tổ chức, tình
hình tài chính, biên chế của đơn vị
2.2. Các hoạt động của đơn vị có thể chuyển đổi theo Nghị định 115
2.3. Các hoạt động của đơn vị chƣa thực hiện chế độ tự chủ
2.4. Những khó khăn của đơn vị trong quá trình thực hiện chuyển đổi.
Chƣơng 3 : Vai trò của Nhà nƣớc và một số đề xuất đối với việc
chuyển đổi sang cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm theo Nghị định
115/CP của các tổ chức khoa học & công nghệ
3.1. Chính sách của Nhà nƣớc đối với các đơn vị KH&CN khi thực

hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
3.2. Chính sách của Nhà nƣớc đối với các hoạt động thông tin.
3.3. Một số đề xuất đối với công tác quản lý .
Kết luận
Khuyến nghị
















12
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN CƠ
CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM, VỀ HOẠT ĐỘNG THÔNG
TIN CỦA CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

1.1. Lý luận về tự chủ, tự chịu trách nhiệm :
1.1.1. Các khái niệm liên quan:
a.Tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các tổ chức khoa học và công nghệ

- Tự chủ, tự chịu trách nhiệm : là quyền đƣợc chủ động, sáng tạo về nhiệm vụ,
tài chính và tài sản, tổ chức và biên chế và trách nhiệm với các vấn đề trên
của thủ trƣởng các tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
- Tổ chức khoa học và công nghệ: là các tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ
chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tổ chức dịch vụ khoa học
và công nghệ có tƣ cách pháp nhân, có con dấu riêng, do cơ quan quản lý Nhà
nƣớc có thẩm quyền quyết định thành lập.
b. Thông tin khoa học công nghệ
- Thông tin khoa học và công nghệ là các dữ liệu, số liệu, dữ kiện, tin tức, tri
thức khoa học và công nghệ (bao gồm khoa học tự nhiên, khoa học công
nghệ, khoa học xã hội và nhân văn) được tạo lập, quản lý và sử dụng nhằm
mục đích cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước hoặc đáp ứng nhu
cầu của tổ chức, cá nhân trong xã hội.
- Hoạt động thông tin khoa học và công nghệ là hoạt động nghiệp vụ về tìm
kiếm, thu thập, xử lý, lưu trữ, phổ biến thông tin khoa học và công nghệ; các
hoạt động khác có liên quan trực tiếp và phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ
thông tin khoa học và công nghệ.
- Tài liệu là dạng vật chất ghi nhận những thông tin dưới dạng văn bản, âm
thanh, đồ hoạ, hình ảnh, phim, video nhằm mục đích bảo quản, phổ biến và
sử dụng.
- Vật mang tin là phương tiện vật chất dùng để lưu giữ thông tin gồm giấy,
phim, băng từ, đĩa từ, đĩa quang và các vật mang tin khác.

13
- Nguồn tin khoc học và công nghệ bao gồm sách, báo, tạp chí, cơ sở dữ liệu,
tài liệu hội nghị, hội thảo khoa học, báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ
khoa học khoa học công nghệ, tài liệu sở hữu trí tuệ, tài liệu về tiêu chuẩn, đo
lường, chất lượng, luận văn, luận án sau đại học và các nguồn tin khác được
tổ chức, cá nhân thu thập.
- Tổ chức dịch vụ thông tin khoa học và công nghệ là dơn vị sự nghiệp thực

hiện chức năng cung cấp dịch vụ thông tin khoa học và công nghệ do cơ quan
nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân thành lập theo quy định của pháp luật.
1
1.1.2. Ý nghĩa của vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm :
Một trong những đặc điểm nổi bật của xu hƣớng mới trong KH&CN
hiện nay có ảnh hƣởng tới tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
Kh&CN là mối liên kết giữa nghiên cứu, phát triển công nghệ, sản xuất kinh
doanh ngày càng phát triển. Quá trình từ phát minh khoa học đến sáng chế,
phát triển công nghệ và đƣa vào sử dụng trong sản xuất ngày càng rút ngắn.
Gắn bó chặt chẽ giữa hoạt động KH&CN với hoạt động sản xuất đòi
hỏi các tổ chức nghiên cứu nói chung phải chủ động
1
mở rộng quan hệ với
doanh nghiệp, phải năng động trƣớc các diễn biến của đời sống kinh tế và
điều đó chỉ có thể thực hiện đƣợc đúng với việc tăng cƣờng quyền tự chủ, thái
độ tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN.
Ngoài việc tăng cƣờng quyền tự do, tự chủ trong nghiên cứu KH&CN
và phát huy các kết quả nghiên cứu KH&CN, ý nghĩa khác của tự chủ, tự chịu
trách nhiệm còn là nâng cao đời sống của các nhà KH&CN. Cần nhấn mạnh
đến đời sống của nhà KH&CN là bởi vì mức thu nhập quá thấp đang khiến
cho nhiều cán bộ nghiên cứu không muốn gắn bó với công việc của mình với
tổ chức KH&CN. Đời sống cũng là nguyên nhân chính làm cho các đơn vị
KH&CN không thu hút đƣợc ngƣời giỏi vào làm việc. Thực ra, đảm bảo lợi
ích của nhà KH&CN là vấn đề từng đợc công khai đề cập tới từ lâu, chẳng
hạn, trên Tạp chí hoạt động Khoa học số 7/1988, các tác giả Nguyễn Điền và
Ngô Vi Khoát (Viện công cụ cơ giới hóa nông nghiệp, nay là Viện cơ điện

1
Điều 2 Nghị định số 159/2004/NĐ-CP về hoạt động thông tin khoa học và công nghệ.


14
nông nghiệp) đã xác định rõ hai mục tiêu của viện nghiên cứu là: “ Mục tiêu
hàng đầu là mỗi hoạt khoa học kỹ thuật của viện nghiên cứu phải xuất phát
và nhằm phục vụ cho yêu cầu của sản xuất, thúc đẩy khoa häc kỹ thuật đi vào
sản xuất, làm lợi cho sản xuất; mục tiêu thứ hai là làm lợi cho người lao động
khoa học kỹ thuật, bao gồm cả cá nhân và tập thể đội ngũ cán bộ khoa học kỹ
thuật được bồi dưỡng và đầu tư theo chiều sâu để lao động chất xám sáng tạo
không ngừng”. Sở dĩ sau nhiều năm mục tiêu nâng cao đời sống của các nhà
KH&CN tiếp tục được nhấn mạnh là do mức sống và các chính sách có liên
quan tới lợi ích của họ vẫn chưa có những thay đổi đáng kể
2
.
Có thể nói tự chủ sẽ buộc các tổ chức tự chịu trách nhiệm về khả năng
hoạt động của mình. Đồng thời, sau một thời gian thiết lập tràn lan các tổ
chức KH&CN thuộc Nhà nƣớc, lúc này cần rà soát lại xem những đơn vị nào
cần giữ lại thuộc Nhà nƣớc và những đơn vị có thể chuyển sang thành phần
kinh tế khác.
Qua những phân tích trên, có thể rút ra một số định hƣớng quan trọng
cho nghiên cứu nội dung tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
KH&CN:
- Tự chủ tự chịu trách nhiệm của các tổ chức là nhằm vào các mục tiêu cụ thể
về : giải quyết mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, đáp ứng
những thay đổi trong chính sách KH&CN, đáp ứng xu hƣớng phát triển mới
của KH&CN.
- Tự chủ, tự chịu trách nhiệm là một tất yếu khách quan, nhƣng cũng là những
tình huống phụ thuộc vào hoàn cảnh (không gian và thời gian) nhất định. Tự
chủ tự chịu trách nhiệm không phải là một chế độ đƣợc xác lập theo tính chất
"từ không đến có" và nhất thành bất biến, mà chủ yếu là các động thái biến
đổi, từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng.
- Nhìn chung các tổ chức KH&CN cần tăng cƣờng tự chủ trên cả 2 mặt : giảm

những loại tổ chức KH&CN mang tính phụ thuộc cao, đồng thời tăng mức độ

15
tự chủ ở mọi loại hình tổ chức KH&CN. Nói một cách khác là tăng tự chủ ở
mọi loại và tăng loại có khả năng tự chủ cao.
2

1.1.3. Vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức NC&PT nhà
nước theo một số đánh giá, kinh nghiệm của nước ngoài :
Hoạt động của các tổ chức NC&PT có liên quan đến nhiều mặt về hoạt
động KH&CN, tài chính, quản lý nhân sự, quan hệ quốc tế. Tự chủ, tự chịu
trách nhiệm diễn ra trên tất cả các mặt đó; tự chủ trong các hoạt động thuộc
khuôn khổ Nhà nƣớc (nhiệm vụ của Nhà nƣớc giao, kinh phí nhà nƣớc cấp ),
tự chủ trong hoạt động ngoài khuôn khổ nhà nƣớc, quan hệ giữa tự chủ
(quyền) và tự chịu trách nhiệm (nghĩa vụ), cách thức giải quyết những mâu
thuẫn đặt ra.
a. Về nhiệm vụ KH&CN:
Liên quan tới tự chủ của các tổ chức NC&PT nhà nƣớc có thể chia
thành 3 loại nhiệm vụ . Loại nhiệm vụ thứ nhất là những công việc đƣợc Nhà
nƣớc giao cụ thể và trực tiếp. Ví dụ nhƣ một số vấn đề cấp bách đã đƣợc xác
định rõ về đối tƣợng nghiên cứu trong quốc phòng, phòng chống thiên tai,
phát triển kinh tế-xã hội Với loại nhiệm vụ này, tổ chức NC&PT chỉ là
ngƣời lĩnh hội và thực hiện nhiệm vụ trên giao.
Loại nhiệm vụ thứ hai là các chủ đề nghiên cứu trong chức năng hoạt
động của tổ chức (đã đƣợc Nhà nƣớc quy định). Trong một phạm vi khá rộng,
việc nghiên cứu có quyền và phải tự chịu trách nhiệm lựa chọn ra các vấn đề
làm nhiệm vụ khoa học và công nghệ cụ thể. Đối với một số nhiệm vụ đƣợc
Nhà nƣớc giao trực tiếp nhƣng chỉ có tính chất định hƣớng, viện nghiên cứu
cũng phải tự cụ thể hoá, xác định rõ các vấn đề cần tập trung giải quyết.
Nhìn chung, mức độ tự chủ của loại nhiệm vụ thứ hai cao hơn nhiệm

vụ thứ nhất, nhƣng giới hạn về tự chủ ở loại này cũng rất rõ ràng, Ngoài giới
hạn lĩnh vực, phạm vi xác định đề tài theo chức năng và theo nhiệm vụ định
hƣớng do Nhà nƣớc giao trực tiếp, thông thƣờng các kế hoạch nghiên cứu của
đơn vị còn phải đƣợc Nhà nƣớc xét duyệt một cách chặt chẽ.

2
http;// www.tchdkh. org.vn/Nguyễn Điền & Ngô Vi Khoát, Tạp ch í hoạt động khoa học tháng 7.1998

16
Loại nhiệm vụ thứ ba là các hợp đồng mà tổ chức NC&PT ký kết thực
hiện với bên ngoài . Lựa chọn những hợp đồng nào hoàn toàn thuộc quyền tự
chủ của các đơn vị trên cơ sở vận dụng các quy luật của kinh tế thị trƣờng.
Một số nghiên cứu của Nhà nƣớc đƣợc mang ra đấu thầu cũng thuộc loại
nhiệm vụ thứ ba, bởi vậy đơn vị có thể toàn quyền quyết định có tham gia đấu
thầu hay không và tham gia vào chƣơng trình nào
b. Về tổ chức thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu
Nếu nhƣ ở khâu xác định nhiệm vụ nghiên cứu có khác nhau nhất định về
mức độ độc lập, tự chủ giữa 3 loại nhiệm vụ thì trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ nghiên cứu lại có xu hƣớng chung tôn trọng tính chủ động của tổ chức . Các tổ
chức NC&PT tự do xác định phƣơng pháp nghiên cứu, tự do huy động và bố trí
các nguồn lực phục vụ cho nghiên cứu
Tổ chức NC&PT thƣờng có quyền tự do liên doanh, liên kết với bên ngoài,
đƣợc thành lập các doanh nghiệp khoa học nhƣ Spin of trên cơ sở các kết quả
nghiên cứu ra. Các đơn vị cũng có thể tự thay đổi tổ chức, cơ cấu bên trong nhƣng
không đƣợc có biểu hiện xa rời nhiệm vụ chức năng đƣợc giao.
c. Về sử dụng truyền bá kết quả nghiên cứu
Các kết quả nghiên cứu là sản phẩm của việc sử dụng các nguồn lực tự huy
động của tổ chức NC&PT sẽ thuộc toàn quyền sử dụng của đơn vị. Vấn đề là
những kết quả nghiên cứu sử dụng kinh phí của Nhà nƣớc thì các tổ chức NC&PT
có quyền tự chủ sử dụng và truyền bá hay không?

Đây là một chủ đề đƣợc thảo luận nhiều ở các nƣớc và trên thực tế cũng tồn
tại những cách khác nhau.
ở Trung Quốc, lúc đầu ngƣời ta cho rằng quyền sở hữu thành quả nghiên
cứu sử dụng kinh phí Nhà nƣớc phải thuộc về cơ quan nghiên cứu, nhƣng sau đó
đã thống nhất là thành quả nghiên cứu đƣợc Nhà nƣớc cấp tiền thì quyền sở hữu là
của Nhà nƣớc.
Tại Nga, tình hình cũng giống nhƣ Trung Quốc. Luật Khoa học và Chính
sách Khoa học và Kỹ thuật Quốc gia Liên Bang Nga đã quy định: "Các kết quả
nghiên cứu khoa học của Viện hàn lâm Khoa học Nga và các viện hàn lâm Khoa

17
học ngành đƣợc thực hiện bằng vốn ngân sách Liên bang đều phải giao nộp cho
Nhà nƣớc theo quy định của pháp luật liên bang Nga:".
d. Về quản lý tài chính
Các tổ chức NC&PT đƣợc Nhà nƣớc đảm bảo cung cấp một nguồn kinh
phí thƣờng xuyên phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ. Nguồn kinh phí thƣờng bao gồm chi cho các khoản về vốn cố định và vốn
lƣu động tối thiểu để đơn vị có đủ điều kiện tiến hành một số nội dung nghiên cứu
cụ thể trong phạm vi chức năng của mình.
Ngoài kinh phí Nhà nƣớc cấp, các tổ chức còn mở rộng nguồn vốn từ nhiều
hình thức nhƣ: hợp đồng nghiên cứu với bên ngoài, sản xuất thử nghiệm, nguồn
tài trợ, vốn đi vay,
e. Về quản lý nhân lực
Nhìn chung, tổ chức có quyền tự chủ trong việc tuyển dụng, đào tạo, sử
dụng và đề bạt cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong đơn vị.
Trong đó, nổi bật có một số vấn đề về quyền của thủ trƣởng, tự chủ của cán bộ
nghiên cứu, phân biệt giữa lực lƣợng cán bộ trong tổ chức NC&PT với đội ngũ
công chức nhà nƣớc nói chung.
Là đơn vị thuộc thành phần nhà nƣớc, các tổ chức NC&PT thƣờng có
những quy chế hoạt động đƣợc cấp trên quy định rõ ràng. Đây là khuôn khổ để

các thủ trƣởng đơn vị sử dụng quyền hạn của mình.
Tự chủ của các tổ chức NC&PT nhà nƣớc thƣờng bao gồm cả tự chủ của
các cán bộ nghiên cứu trong đó.
Nhân lực hoạt động trong tổ chức NC&PT là một loại lao động khá đặc
thù. Làm việc trong các cơ quan của Nhà nƣớc thì dƣờng nhƣ họ là những công
chức Nhà nƣớc, nhƣng nghiên cứu khoa học thì lại cần có sự độc lập, tự chủ ở
nhiều nƣớc, mâu thuẫn này đƣợc giải quyết bằng cách coi cán bộ là loại công
chức, viên chức đặc biệt, có bổ sung thêm những quy chế riêng
3
.
* Kinh nghiệm chuyển đổi tổ chức nghiên cứu và phát triển ở Trung Quốc :

3
Theo Ho àng Xu ân Long-Phan Thu Hà: T ự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức nghiên cứu và phát
triển nhà nước , S dd tr.15-tr19


18
Hệ thống KH&CN trƣớc đây của Trung Quốc theo mô hình của Liên
Xô cũ hoạt động kém hiệu quả, đƣợc thể hiện ở ba khía cạnh : có quá nhiều
viện đƣợc thành lập và hoạt động tách rời sản xuất nên gặp nhiều khó khăn
trong việc đáp ứng nhu cầu của sản xuất; cơ cấu tổ chức phức tạp, kinh phí
đầu tƣ hạn chế chủ yếu từ ngân sách nhà nƣớc lại dàn trải nên kém hiệu quả.
Tóm lại, một hệ thống KH&CN đƣợc hình thành tách rời hệ thống sản
xuất, có sự ngăn cách giữa ngƣời tạo ra và ngƣời sử dụng tri thức, kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Từ những năm 1980, yêu cầu bức thiết đặt ra là phải cải cách thể chế
kinh tế, thể chế KH&CN và đổi mới công tác kế hoạch hoá. Hàng loạt nỗ lực
của Nhà nƣớc đƣợc thực hiện nhằm khắc phục sự ngăn cách giữa KH&CN và
sản xuất, thông qua một số chính sách nhƣ thành lập các liên hiệp KH-SX,

chuyển một số viện nghiên cứu vào xí nghiệp và tổng công ty, cải tiến cơ chế
lập kế hoạch KH&CN, tạo những biện pháp khuyến khích cho ứng dụng
nhanh các kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Những chính sách này đƣợc xem
là những chính sách áp dụng đối với hệ thống KH&CN hoạt động trong cơ
chế kế hoạch hoá tập trung.
- Quá trình chuyển đổi : chia thành 4 giai đoạn :
+ giai đoạn 1 : cải cách thể chế bƣớc đầu: cải cách chế độ cấp phát tài chính
và xây dựng, phát triển thị trƣờng công nghệ. Nhà nƣớc quản lý chặt kinh phí
của Nhà nƣớc cấp đồng thới khuyến khích các cơ quan nghiên cứu khai thác
các nguồn tài chính khác nhƣ thông qua hợp đồng sản xuất. Tuy nhiên thị
trƣờng công nghệ chƣa phát huy đƣợc vai trò là nơi trao đổi giữa ngƣời bán
và ngƣời mua và là công cụ để tăng cƣờng mối liên kết giữa khu vực nghiên
cứu và sản xuất.
+ giai đoạn 2 : tiếp tục cải cách sâu hơn : biến xí nghiệp trở thành chủ thể tiếp
nhận kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; khuyến khích
chuyển đổi viện nghiên cứu ứng dụng thành doanh nghiệp; tổ chức lại hệ
thống KH&CN gắn với sản xuất.

19
+ giai đoạn 3 : chuyển thế mạnh đối với các viện và tăng khả năng thâm nhập
thị trƣờng
+ giai đoạn 4 : thay đổi toàn bộ cấu trúc hệ thống KHCN : Nhà nƣớc tập trung
đầu tƣ kinh phí cho một số tổ chức nghiên cứu thuộc lĩnh vực nhà nƣớc cần
phát triển ở trình độ cao; tăng cƣờng sáng tạo KH&CN, đẩy nhanh chuyển
hoá thành quả khoa học.
- Các chính sách của Nhà nƣớc để hỗ trợ cho các tổ chức chuyển đổi :
+ Nhà nƣớc vẫn duy trì kinh phí sự nghiệp để các tổ chức NC&PT dùng cho
bảo hiểm xã hội đối với những đối tƣợng vệ hƣu, cán bộ nghiên cứu đƣơng
chức đƣợc hƣởng chế độ bảo hiểm viên chức.
+ Các tổ chức chuyển đổi đƣợc hỗ trợ : miễn thuế thu nhập trong 5 năm đối

với doanh nghiệp, miễn thuế kinh doanh thu nhập qua chuyển giao công nghệ,
miễn thuể sử dụng đất cho các cơ quan nghiên cứu sử dụng đất phục vụ hoạt
động NC&PT; đƣợc quyền xuất nhập khẩu sản phẩm KH&CN; có quyền
đăng ký nhận nhiệm vụ KH&CN của Nhà nƣớc; đƣợc tiếp tục thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu khoa học đã đƣợc nhận trƣớc đây; đƣợc hƣởng quyền
lợi của đơn vị khoa học trƣớc khi trở thành doanh nghiệp; đƣợc tự chủ trong
việc lựa chọn các loại hình tổ chức.
1.1.4. Vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH & CN tại Việt
Nam :
a. Trong xác định nhiệm vụ và mở rộng chức năng hoạt động :
Cùng với việc ban hành những chính sách đổi mới, trên thực tế đã có
nhiều đơn vị thể hiện sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm ttrong việc ký kết hợp
đồng kinh tế thực hiện nhiệm vụ khoa học & phát triển công nghệ với tổ chức,
cá nhân đƣợc tiến hành chủ yếu ở ba loại hoạt động : nghiên cứu khoa học
và triển khai kỹ thuật, sản xuất thử và sản xuất một số sản phẩm có trình độ
kỹ thuật cao hơn, nhƣng chƣa có điều kiện sản xuất đại trà.
b. Trong tổ chức liên doanh liên kết :
Các tổ chức KH & CN đƣợc phép thiết lập và mở rộng mọi hình thức
liên doanh, liên kết để ứng dụng các thành tựu KHKT vào sản xuất và đời

20
sống giữa các cơ quan nghiên cứu, các cơ sở đào tạo, cơ sở sản xuất kinh
doanh
c. Về tài chính :
Quyền tự chủ về tài chính bao gồm quyền đƣợc tạo nguồn và quyền
phân phối và sử dụng nguồn đó trong tổ chức KH&CN.
Về tự chủ nguồn từ ngân sách nhà nƣớc, Nhà nƣớc ban hành chính sách
tuyển chọn để tạo điều kiện cho các tổ chức chủ động tham gia cạnh tranh để
có đƣợc kinh phí từ các đề tài Nhà nƣớc.
Về nguồn từ hợp đồng và nguồn thu hồi do bán sản phẩm chế thử, Nhà

nƣớc đã cho phép các cơ quan khoa học đƣợc thành lập các quỹ phát triển
khoa học kỹ thuật, quỹ phúc lợi và quỹ khen thƣởng. Ngoài nghĩa vụ với nhà
nƣớc, các tổ chức còn đƣợc chi các khoản thu nhập cho cán bộ công nhân
viên. Đây là điều góp phần khuyến khích các tổ chức KH&CN công lập từ
chủ tìm kiếm các khoản thu nhập từ bên ngoài thông qua hợp đồng.
d. Về nguồn tín dụng ngân hàng :
Các tổ chức đƣợc vay vốn ngân hàng để triển khai nghiên cứu khoa học
và áp dụng kỹ thuật tiến bộ, đổi mới công nghệ.
e. Về tự chủ lao động :
Các tổ chức đƣợc tự chủ về số lao động tuỳ theo điều kiện hoạt động trong tổ
chức.
f. Về hợp tác quốc tế :
Đƣợc tự chủ trong việc tổ chức hội thảo, hội nghị quốc tế, cử cán bộ đi
hợp tác quốc tế về KH&CN, thành lập các tổ chức KH&CN liên kết song
phƣơng và đa phƣơng đồng thời quy định rõ trách nhiệm liên kết hợp tác
quốc tế về KH&CN.
* Một số kết quả đạt được :
- Các tổ chức KH&CN đƣợc tự chủ trong việc ký kết hợp đồng kinh tế với
các doanh nghiệp, các cơ quan nghiên cứu, giáo dục, tƣ vấn dịch vụ
KH&CN đã làm tăng số thu đáng kể cho đơn vị, đƣợc tự chủ trích lập quỹ,
tự chủ về biên chế, sử dụng nguồn kinh phí thu đƣợc.

21
* Một số hạn chế :
- quan hệ tài chính vẫn mang nặng tính hành chính, bao cấp; quản lý cán bộ
còn dập khuôn theo chế độ công chức Nhà nƣớc, chính sách Nhà nƣớc còn
chƣa đồng bộ do nhận thức, ý thức trách nhiệm, trình độ quản lý .
1.1.5. Những thuận lợi khi thực hiện chuyển đổi theo Nghị định 115
Việc ban hành NĐ 115/CP sẽ góp phần thay đổi tƣ duy, sức ỳ lớn đang
tồn tại trong một bộ phận cán bộ nghiên cứu khoa học. NĐ 115/CP không đẩy

các viện, các nhà khoa học ra ngoài đƣờng nhƣ một vài ý kiến gần đây, mà
tạo một hành lang pháp lý thông thoáng hơn, cởi mở và tự chủ hơn cho hoạt
động nghiên cứu khoa học.
Về tài chính: Nghị định 115 quy định thay đổi căn bản phƣơng thức cấp
kinh phí từ ngân sách nhà nƣớc, thay vì cấp theo biên chế, nay các tổ chức
KH&CN sẽ đƣợc cấp theo nhiệm vụ do nhà nƣớc giao, đặt hàng (có thể bao
gồm cả kinh phí để duy trì bộ máy theo chức năng nhiệm vụ), hoặc thông qua
đấu thầu, tuyển chọn.
Ngoài ra, Nghị định 115 cho phép các tổ chức KH&CN khi có sản xuất
kinh doanh thì đƣợc hoạt động “nhƣ doanh nghiệp” hoặc có thể chuyển thành
doanh nghiệp thực sự, đƣợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhƣ
doanh nghiệp, đƣợc miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (miễn 4 năm,
giảm 50% trong 9 năm và thuế suất 10%) và nhiều ƣu đãi khác, có quyền xuất
khẩu, nhập khẩu trực tiếp công nghệ và sản phẩm thuộc lĩnh vực chuyên môn,
đƣợc liên doanh, liên kết sản xuất với mọi tổ chức và cá nhân ở trong và ngoài
nƣớc, đƣợc trực tiếp thuê chuyên gia nƣớc ngoài vào làm việc.
Riêng các tổ chức KH&CN nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lƣợc
chính sách phục vụ quản lý nhà nƣớc, nghiên cứu khoa học phục vụ dịch vụ
công ích của nhà nƣớc đƣợc ngân sách nhà nƣớc tiếp tục cấp kinh phí hoạt
động thƣờng xuyên nhƣng cho phép sử dụng theo phƣơng thức khoán tƣơng
ứng với nhiệm vụ đƣợc giao.
Về tài sản, Nghị định 115 cho phép các tổ chức KH&CN đƣợc cấp có
thẩm quyền giao tài sản, kể cả quyền sử dụng đất và đƣợc quản lý, sử dụng tài

22
sản cho nghiên cứu khoa học và sản xuất kinh doanh trên cơ sở tuân thủ quy
định của pháp luật, tài sản nào sử dụng cho sản xuất kinh doanh thì phải trích
khấu hao nhƣ tài sản nhà nƣớc trong doanh nghiệp nhà nƣớc và hạch toán vào
giá thành sản phẩm, đƣợc giữ lại khấu hao để bổ sung vào quỹ phát triển hoạt
động sự nghiệp của đơn vị. Nếu đơn vị chuyển đổi thành doanh nghiệp

KH&CN theo Nghị định 80 thì tài sản đƣợc coi là phần vốn nhà nƣớc trong
doanh nghiệp, có thể đƣợc giao đất, thuê đất và sử dụng tài sản thế chấp, vay
vốn, liên doanh, liên kết theo quy định của pháp luật.
Về quản lý cán bộ viên chức, Nghị định 115 tăng quyền hạn cho ngƣời
đứng đầu các tổ chức KH&CN góp phần cải cách hành chính và phân cấp
quản lý một cách triệt để, đồng thời có quy định sự phối hợp, giám sát của các
tổ chức chính trị và chính trị xã hội trong đơn vị. Đó là:
1. Thủ trƣởng tổ chức KH&CN đƣợc quyền quyết định tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, ký hợp đồng làm việc, nâng bậc lƣơng (đúng thời hạn,
trƣớc thời hạn và vƣợt 1 bậc khi có thành tích xuất sắc) trong cùng ngạch và
quyết định chuyển ngạch viên chức từ ngạch nghiên cứu viên chính và tƣơng
đƣơng trở xuống.
2. Mức thu nhập của cán bộ, viên chức không bị giới hạn mức tối đa
căn cứ vào hiệu quả công việc, có thể gấp nhiều lần mức lƣơng cơ bản theo
quy định của nhà nƣớc, sau khi đó hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nƣớc và trích
lập các quỹ theo quy định, tiền lƣơng trong hợp đồng làm việc đƣợc tính vào
chi phí hợp lý trƣớc thuế;
3. Chính thức cho phép bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo của tổ chức
KH&CN đối với viên chức đã làm việc theo chế độ hợp đồng làm việc không
xác định thời hạn có thời gian từ 3 năm trở lên.
4. Cán bộ, viên chức chuyển sang chế độ ký hợp đồng làm việc, không
phân biệt ngƣời đó trƣớc đây trong biên chế hay ngoài biên chế.
Khi tổ chức KH&CN lựa chọn hình thức chuyển đổi thành doanh nghiệp
KH&CN theo Nghị định 80, cán bộ viên chức sẽ hƣởng chính sách chung đối
với ngƣời lao động trong doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

23
Mặc dù vậy, vẫn có nhiều ngƣời hiểu sai tinh thần của Nghị định 115
nên lo ngại một cách thiếu căn cứ. Ví dụ họ hiểu thuật ngữ “tự chủ” theo
nghĩa hẹp là tự trang trải về tài chính mà quên rằng Nghị định 115 cũng tạo

cho họ quyền tự chủ cao và toàn diện về tổ chức, biên chế, quản lý cán bộ.
Hoặc hiểu “tự trang trải kinh phí” là nhà nƣớc sẽ cắt mọi nguồn kinh phí mà
không biết rằng Nghị định 115 quy định chỉ thay đổi phƣơng thức cấp kinh
phí hoạt động thƣờng xuyên (tức là quỹ lƣơng và chi bộ máy) từ phƣơng thức
cấp theo số lƣợng biên chế sang phƣơng thức cấp theo nhiệm vụ, kể cả nhiệm
vụ duy trì bộ máy để thực hiện chức năng thƣờng xuyên của đơn vị.
Thực tế, nhiều đơn vị đã rất thành công sau khi chuyển đổi theo Nghị
định 115 và đánh giá cao chính sách của Chính phủ đã tạo cho họ “cơ hội
vàng” để phát triển.
1.2. Hoạt động thông tin :
1.2.1. Khái quát về hoạt động thông tin :
Cách mạng khoa học và công nghệ đòi hỏi áp dụng nhanh chóng các
thành tựu khoa học vào đời sống thực tiễn. Nhƣng quá trình này không xảy ra
một cách tự động, nó đòi hỏi những cố gắng thƣờng xuyên của toàn bộ hoạt
động thông tin trong xã hội.
Hiện nay, trên thế giới đang tồn tại một sự khác biệt rất lớn giữa các
khu vực và giữa các nƣớc về hai tham số cơ bản là: trình độ khoa học – giáo
dục và khả năng với tới thông tin – tri thức. 90% số nhà khoa học trên thế giới
hiện đang làm việc ở khoảng 20 nƣớc công nghiệp phát triển, 93% số bằng
phát minh sáng chế đƣợc ghi nhận là của các nƣớc này. Trong khi đó tại 150
quốc gia còn lại tiềm lực khoa học chỉ chiếm có chƣa đầy 10%. Đây là sự mất
cân đối chính và phản ánh tính không đồng đều trong quá trình phát triển. Vì
vậy, nhiệm vụ đƣợc đặt ra cho từng nƣớc là phải có các chiến lƣợc thích hợp
để củng cố tiềm lực khoa học của mình, hoàn thiện hệ thống và chƣơng trình
giáo dục - đào tạo, đặc biệt là đào tạo đại học và sau đại học, tạo lập hệ thống
đổi mới đáp ứng với yêu cầu phát triển và hội nhập.

24
Thế giới đang diễn ra quá trình tiến vào “xã hội thông tin toàn cầu”.
Trong bối cảnh đó, việc hƣớng tới sự định hình một xã hội thông tin ở từng

nƣớc đã đặt ra yêu cầu đối với việc khai thác và sử dụng thông tin nhƣ một
nguồn lực cơ bản và quan trọng để phát triển quốc gia. Là loại tài sản vô hình,
thông tin và tri thức khác với các nguồn lực vật chất truyền thống ở những
đặc điểm nổi trội, ví nhƣ: không bị giới hạn về trữ lƣợng, trong quá trình sử
dụng giá trị của thông tin không bị “hao mòn” hoặc bị mất đi thậm chí có thể
đƣợc làm giàu hơn, tức là thông tin có khả năng tái sinh, tự sinh sản và không
bao giờ cạn kiệt. Với sự phát triển của mạng Internet, không gian thông tin
của nhân loại đƣợc mở rộng và lớn hơn rất nhiều.
Ngày càng có nhiều trang Web đƣợc xây dựng trên mọi lĩnh vực để
đăng tải và truyền thông tin. Các bản tin, các loại ấn phẩm, các cơ sở dữ liệu,
các cuộc thảo luận và tham vấn đƣợc xuất hiện trên mạng Internet. Mọi hoạt
động trong xã hội hiện đại đều phải dựa trên thông tin. Ngày nay, chúng ta
càng thấy thấm thía hơn lời tiên tri của N. Winear – cha đẻ của ngành
Cybernetics cách đây nửa thế kỷ, “Cuộc sống có chất lƣợng là cuộc sống với
thông tin”. Trong thời đại thông tin, lợi thế so sánh sẽ thuộc về quốc gia nào
có năng lực tổ chức khai thác với hiệu quả cao nhất các nguồn thông tin và tri
thức hiện có của nhân loại.
Từ vài thập kỷ qua, cùng với hai yếu tố năng lƣợng và nguyên liệu,
thông tin KHCN đã đƣợc coi là tiềm năng thứ 3 - một tiềm năng đặc biệt quan
trọng, có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy phát triển mọi hoạt động xã hội của
con ngƣời. Thông tin KHCN đƣợc xem là hàng hoá đặc biệt với đặc điểm là
khi đƣợc sử dụng, chúng không những mất đi mà ngƣợc lại càng sử dụng giá
trị của chúng càng đƣợc nhân lên mà hiệu quả mang lại càng tăng. Thông tin
KHCN là yếu tố nền tảng của kinh tế tri thức. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc
cách mạng KHCN, đặc biệt là CNTT và truyền thông trong thập kỷ gần đây
đã tác động sâu sắc tới hoạt động thông tin KHCN, đƣa thế giới từ kỷ nguyên
công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và phát triển kinh tế tri thức. Sự hội tụ
giữa thông tin, viễn thông, tin học là một xu hƣớng quan trọng trong xu thế

×