Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Xây dựng mô hình Gia đình văn hóa dân tộc Thái tại xã Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu giai đoạn 2016 – 2020”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.24 KB, 48 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do xây dựng đề án
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan
trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát
huy văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhận thức rõ vai
trò to lớn của gia đình trong việc xây dựng con người, xây dựng xã hội mới, Ðảng
và Nhà nước ta đã khẳng định xây dựng gia đình là vấn đề lớn, hệ trọng của dân
tộc. Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ,
Ðề án Phát triển gia đình Việt Nam bền vững cũng như việc ban hành các luật, các
chính sách đối với gia đình đã thể hiện quyết tâm đó của Đảng, Nhà nước ta đối
với vấn đề này.
Cách trung tâm thị trần huyện lỵ Phong Thổ 12 km về phía Đông Nam,
Mường So là 1 trong 17 xã của huyện Phong Thổ và hiện là nơi cư trú của các dân
tộc Thái, Kinh, Giáy và một số thành phần dân tộc khác; trong đó dân tộc Thái
chiếm đa số với 73% dân số, cư trú ở 10 trong tổng số 11 bản của xã. Mặt khác,
dân tộc Thái là cư dân bản địa nên nói đến Mường So là nói đến dân tộc Thái với
nền văn hóa phong phú và độc đáo của họ.
Cùng với các xã/phường/thị trấn của tỉnh Lai Châu và cả nước, Đảng bộ,
Chính quyền và nhân dân các dân tộc xã Mường So nói chung, dân tộc Thái xã
Mường So nói riêng đã và đang tích cực bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc mình. Phong trào “TDĐKXDĐSVH”, trong đó xây dựng
GĐVH được Đảng bộ xã Mường So xác định là hạt nhân cốt lõi của phong trào.
Vấn đề xây dựng GĐVH cũng đã được nhấn mạnh trong các Nghị quyết của các
kỳ đại hội Đảng bộ xã, đặc biệt, từ sau khi Nghị quyết số 13/NQ-TU ngày 7 tháng


5 năm 2007 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lai Châu về đẩy mạnh xây dựng,
nâng cao hiệu quả và chất lượng đời sống văn hóa ở cơ sở trong giai đoạn tới; Nghị
quyết số 90/2007/NQ-HĐND ngày 17 tháng 7 năm 2007 của Hội đồng nhân dân
tỉnh Lai Châu về việc Thông qua Đề án “Đẩy mạnh xây dựng, nâng cao hiệu quả


và chất lượng đời sống văn hóa cơ sở trong giai đoạn tới”; Quyết định số 635/QĐUBND ngày 01 tháng 6 năm 2009 của UBND tỉnh Lai Châu V/v Kiện toàn BCĐ
phong trào “TDĐKXDĐSVH”, công tác xây dựng GĐVH của tỉnh Lai Châu nói
chung, xã Mường So nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Tuy nhiên, do mặt trái của cơ chế thị trường cùng với lối sống thực dụng tôn
thờ đồng tiền, các sản phẩm văn hóa độc hại bên ngoài tràn vào cùng với các tệ nạn
xã hội đang tấn công mạnh mẽ vào các gia đình. Từ đó, tình trạng tảo hôn, sống
thử không đăng ký kết hôn, quan hệ tình dục, nạo phá thai trước hôn nhân gia tăng.
Nhiều giá trị đạo đức gia đình đang xuống cấp. Các tệ nạn xã hội như ma túy, mại
dâm, cờ bạc, rượu chè bê tha và đại dịch HIV/AIDS đang len lỏi thâm nhập vào
các gia đình... làm băng hoại các giá trị gia đình và những truyền thống văn hóa
tốt đẹp của dân tộc.
Như vậy, có thể thấy, công tác xây dựng GĐVH ở xã Mường So đang đứng
trước những thách thức lớn đòi hỏi phải tìm ra được mô hình mới, hiệu quả hơn.
Trong đó, việc kế thừa những giá trị gia đình truyền thống, phù hợp với đặc điểm
văn hóa tộc người kết hợp với những giá trị mới phù hợp là một hướng đi mang
tính đột phá. Các giá trị này nếu được nghiên cứu, phân tích trên cơ sở khoa học sẽ
góp phần tích cực vào công tác xây dựng GĐVH dân tộc Thái xã Mường So hiện
nay, đồng thời góp phần giữ gìn và phát huy vai trò của bản sắc văn hóa dân tộc
trong quá trình phát triển và hội nhập. Với lý do đó, tôi chọn đề tài “Xây dựng mô
hình Gia đình văn hóa dân tộc Thái tại xã Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh


Lai Châu giai đoạn 2016 – 2020” làm đề án tốt nghiệp lớp Cao cấp lý luận chính
trị hệ tập trung năm học 2016 – 2020.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Xây dựng mô hình GĐVH dân tộc Thái tại xã Mường So, huyện Phong Thổ,
tỉnh Lai Châu giai đoạn 2016 – 2020 nhằm tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng phong trào TDĐKXDĐSVH,
Nâng cao ý thức, trách nhiệm về gia đình cho các thành viên trong việc giữ

gìn, phát huy và bảo vệ sự phát triển của gia đình để gia đình thực sự phát triển cả
về vật chất, tinh thần, làm động lực cho sự phát triển KT-XH của địa phương, góp
phần xây dựng và phát triển văn hóa gia đình mang đậm đà bản sắc dân tộc Thái tại
xã Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Phấn đấu đến năm 2020, đạt một số tiêu chí như sau:
- 100% gia đình dân tộc Thái xã Mường So có đời sống kinh tế ổn định, bảo
đảm vệ sinh môi trường, có công trình vệ sinh, xây dựng chuồng gia súc xa nhà.
- 100% gia đình dân tộc Thái xã Mường So chấp hành nghiêm chỉnh chính
sách, pháp luật của Nhà nước, hương ước.
- Từ 80% - 85% gia đình dân tộc Thái xã Mường So bảo tồn và phát huy các
giá trị gia đình; từ 70 – 75% gia đình dân tộc Thái xã Mường So gìn giữ và phát
huy các giá trị truyền thống văn hóa tộc người.
- Từ 70 – 75% gia đình dân tộc Thái xã Mường So không còn các phong tục
tập quán lạc hậu, thực hiện nếp sống chi tiêu có kế hoạch; 100% trẻ em trong độ


tuổi được đến trường; 100% gia đình dân tộc Thái xã Mường So kế thừa truyền
thống đoàn kết tương trợ cộng đồng, giúp đỡ nhau sản xuất, đời sống.
3. Giới hạn của đề án
- Đối tượng của đề án: xây dựng mô hình gia đình văn hóa dân tộc Thái.
- Phạm vi không gian: Đề án được nhiên cứu và thực hiện tại xã Mường So,
huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
- Giới hạn thời gian: đề án thực hiện trong giai đoạn 2016 – 2020.


B. NỘI DUNG
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản

- Mô hình
Có thể hiểu một cách khái quát, mô hình là sự phản ánh sự vật cả về cấu trúc,
chức năng, thuộc tính và cơ chế vận hành ở dạng trực quan hoặc là cơ sở để có
những hình dung chính xác (hoặc tương đối chính xác) về sự vật, bởi ở đó có
“những yếu tố căn bản cấu thành sự vật. Nhờ các yếu tố này có thể dựng lại sự vật
theo một nguyên tắc chung nhất, khiến sự vật không bị biến đổi mặc dù nó vẫn bao
chứa được những khác biệt đa dạng của điều kiện cụ thể” [11, tr. 141].
- Gia đình
Gia đình được định nghĩa bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong xã hội
học, khái niệm gia đình được hiểu là một nhóm xã hội đặc thù hoặc một thiết chế
xã hội, một nhóm xã hội được hình thành trên cơ sở hôn nhân và quan hệ huyết
thống, những thành viên trong gia đình có sự gắn bó và ràng buộc với nhau về
trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ có tính hợp pháp được nhà nước thừa nhận và bảo
vệ. Tiếp cận gia đình từ góc độ thiết chế xã hội, gia đình là một thiết chế gắn liền
với hôn nhân để đảm bảo chức năng tái sản xuất, duy trì nòi giống. Những thành
viên trong gia đình liên kết bởi cơ sở huyết thống, hôn nhân và việc nhận con nuôi.
- Gia đình văn hóa
Tiêu chuẩn GĐVH thực hiện theo quyết định tại điều 29 Luật Thi đua, khen
thưởng được ban hành theo Quy chế công nhận danh hiệu "Gia đình văn hóa"
(GĐVH) của Bộ trưởng VH-TT ngày 23/6/2006. Nội dung cụ thể gồm:


1. Gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua của địa phương;
2. Gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ, tương trợ giúp đỡ mọi người trong
cộng đồng;
3. Tổ chức lao động, sản xuât, kinh doanh, công tác, học tập nhằm đặt năng
suất, chất lượng và hiệu quả.
1.1.2. Mô hình gia đình văn hóa dân tộc Thái tại xã Mường So, huyện
Phong Thổ, tỉnh Lai Châu

1.1.2.1. Vài nét về dân tộc Thái tại xã Mường So, huyên Phong Thổ, tỉnh Lai
Châu
Dân tộc Thái xã Mường So thuộc nhóm Thái Trắng và là dân tộc chủ thể của
xã Mường So. Tính đến tháng 12/2015, toàn xã Mường So có 11 bản với 1.298 hộ,
5.594 nhân khẩu, gồm 6 dân tộc, trong đó dân tộc Thái chiếm đa số với 3.827 nhân
khẩu (chiếm 73% dân số toàn xã). Dù có những khác biệt so với người Thái Đen
và các nhóm Thái Trắng ở các địa phương khác nhưng văn hóa của họ vẫn “chung
một dòng chảy” trong mạch nguồn văn hóa Thái với 4 đặc trưng cơ bản: văn hóa
thung lũng; kỹ thuật tiền công nghiệp; thiết chế xã hội dựa trên tổ chức bản,
mường; tư tưởng và tri thức folklore manh nha bác học.
Dân tộc Thái xã Mường So đã định cư lâu đời ở thung lũng Mường So màu
mỡ, ven sông Nậm Na và các con suối Nậm So, Nậm Lùm và Nậm Pạt… được bao
bọc bởi các dãy núi Pú Đăng Pâu, Pú Khọ Nhọ… nên sớm có truyền thống canh
tác ruộng nước và sáng tạo ra hệ thống thủy lợi gồm mương, phai, lái, lín (lốc), cọn
độc đáo và hiệu quả. Ngoài ra, trồng trọt nương rẫy, chăn nuôi, săn bắt, hái lượm,
đánh bắt cá, thủ công gia đình và trao đổi hàng hóa cũng đóng vai trò quan trọng


trong kinh tế truyền thống. Ngựa và thuyền đuôi én trước kia là những phương tiện
giao thông phổ biến.
Dân tộc Thái xã Mường So có ba quan hệ họ hàng là: ải noọng, lúng ta và
nhinh sao, xuất phát từ hình thái hôn nhân thuận chiều. Tiểu gia đình phụ quyền là
hình thức phổ biến.
Đám cưới của dân tộc Thái xã Mường So có nhiều nghi thức cho thấy tàn dư
mẫu hệ còn đậm nét, đặc biệt là tục ở rể. Khi sinh nở, trước cửa nhà sản phụ
thường treo một tấm phên đan mắt cáo với một cục than và một cành cây xanh để
ngăn "ma ác" hay "hồn" khách lạ làm hại hồn sản phụ và trẻ sơ sinh. Tang ma có
nhiều nghi thức để người chết là tiếp tục "sống" ở thế giới bên kia, đặc biệt là tục
chia của cho người chết.
Dân tộc Thái xã Mường So từ lâu đã định cư thành từng bản, nhiều bản hợp

thành mường. Mỗi bản đều có ranh giới rất cụ thể, có khu rừng, ruộng đất, rừng
cấm, bãi tha ma, nguồn nước riêng. Nhà sàn được dựng theo những quy định chặt
chẽ. Khi dựng nhà, việc dựng cột chính và dọn sang nhà mới gắn với vai trò của
ông cậu.
Trang phục đàn ông dân tộc Thái xã Mường So tương tự trang phục nam giới
nhiều dân tộc ở miền núi phía Bắc (áo cánh ngắn xẻ ngực, quần chân què cạp lá
tọa, cả quần và áo đều được may bằng vải bông nhuộm chàm). Phụ nữ mặc áo màu
trắng cổ may hình chữ V. Nẹp ngực áo đính hàng khuy bạc hình bướm, ve sầu…
Khăn đội đầu có màu trắng trơn; váy đen, thắt lưng bằng vải bông hoặc tơ tằm màu
xanh hoặc tím nhạt. Túi đeo vai bằng vải bông trắng và pha lẫn những đường kẻ
xọc màu tối.
Thức ăn chính của dân tộc Thái xã Mường So trước kia là cơm nếp, nhưng
hiện nay họ ăn cơm tẻ là chủ yếu. Cách chế biến chủ yếu bằng cách luộc, đồ hoặc


ăn sống, ăn tái (gỏi). Các vị chua cay, chát và các món "nậm pịa", cá, các món
nướng rất được ưa chuộng.
Dân tộc Thái xã Mường So tin vào sự tồn tại của các lực lượng siêu nhiên.
Trên trời có Then Luông cai quản trời đất, vạn vật. Ở trần gian chỗ nào cũng có các
ma cai quản như ma ruộng, ma rừng, ma suối, ma nhà… Để cầu mong bình an,
thịnh vượng, trước kia, vào đầu xuân, họ tổ chức xên mường, xên bản, xên hươn…
cúng ma bếp, tổ tiên… Trong năm, họ có các nghi lễ nông nghiệp như lễ đón lúa
mới, lễ ăn cơm mới…
Từ lâu, dân tộc Thái xã Mường So đã sáng tạo ra 36 điệu "xòe" (múa) và trở
thành một trong 4 trung tâm “xòe” Thái của nước ta (gồm: Mường So - Lai Châu;
Mường Chiến - Sơn La; Mường Lay - Điện Biên; Mường Lò - Yên Bái). Ngoài ra,
Mường So còn là một trong những cái nôi của “tính tẩu” hai dây – loại đàn được
làm từ vỏ quả bầu đắng đặc trưng của miền núi. Cùng với “xòe” và “tính tẩu”, điệu
“khắp” hồn nhiên, da diết cũng một nét đẹp trong văn hóa nghệ thuật của dân tộc
Thái xã Mường So.

1.1.2.2. Mô hình gia đình văn hóa dân tộc Thái tại xã Mường So, huyện
Phong Thổ, tỉnh LaiChâu
Tiêu chuẩn một GĐVH dân tộc Thái xã Mường So bao gồm 5 nội dung cụ thể
như sau:
Một là, GĐVH dân tộc Thái xã Mường So có đời sống kinh tế ổn định, bảo vệ
môi trường, đảm bảo vệ sinh. Các hộ gia đình thực hiện định canh, định cư, có đời
sống kinh tế ổn định. Mỗi hộ gia đình đều phải có công trình vệ sinh, xây dựng
chuồng gia súc xa nhà.
Hai là, GĐVH dân tộc Thái xã Mường So chấp hành nghiêm chỉnh chính
sách, pháp luật của Nhà nước, hương ước của bản, đảm bảo an ninh, trật tự và an


toàn xã hội. Các GĐVH phải thực hiện dân số kế hoạch hoá gia đình. Tích cực
tham gia tổ tự quản, tổ hòa giải, tham gia vận động những người mắc các tệ nạn xã
hội (cờ bạc, ma túy, mại dâm…) từ bỏ tệ nạn; vận động các gia đình khác bài trừ
mê tín dị đoan; gương mẫu và vận động các gia đình khác thực hành tiết kiệm
trong chi tiêu, nghi lễ, nhất là các nghi lễ cưới và tang ma.
Ba là, GĐVH dân tộc Thái xã Mường So là nơi bảo tồn và phát huy các giá
trị gia đình để mỗi gia đình thực sự là một “tổ ấm”, là “hậu phương” vững chắc
cho mỗi thành viên. Phải khai thác triệt để bản sắc văn hóa dân tộc Thái trong
truyền thống gia đình, bao gồm các chức năng của gia đình (sinh sản, kinh tế, giáo
dục, tâm lý – tình cảm và bảo vệ - chăm sóc sức khỏe) cũng như nếp sống gia đình
(mối quan hệ vợ chồng hòa thuận, truyền thống kính già yêu trẻ, truyền thống dân
chủ, yêu thương và đùm bọc lẫn nhau và mối quan hệ tốt đẹp với các nàng dâu
chàng rể)…
Bốn là, GĐVH dân tộc Thái xã Mường So là nơi gìn giữ và phát huy các giá
trị truyền thống văn hóa tộc người để mỗi gia đình trở thành một “thành trì” vững
chắc chống lại sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai. Các di sản văn hoá vật thể
được gìn giữ trong gia đình bao gồm: kiến trúc và bố trí không gian nhà cửa, nơi
thờ cúng tổ tiên (bên nội, bên ngoại), trang phục, ẩm thực. Các di sản văn hoá phi

vật thể được gìn giữ trong các gia đình bao gồm các phong tục tập quán, tín
ngưỡng dân gian, văn nghệ dân gian, các tri thức về bí quyết ẩm thực, chữa bệnh…
Trong các nghi lễ gia đình như cưới xin, vào nhà mới nên tổ chức văn nghệ dân
gian (ca, múa, nhạc truyền thống).
Năm là, GĐVH dân tộc Thái xã Mường So không còn các hủ tục, các phong
tục tập quán lạc hậu để mỗi gia đình trở thành một “đòn bẩy” cho sự phát triển
của mỗi thành viên và của cả cộng đồng, phù hợp với sự phát triển của xã hội. Các
GĐVH không còn nếp sống chi tiêu thiếu kế hoạch, nếp sống không đảm bảo vệ sinh,


tập quán thả rông gia súc, coi trọng cái lợi trước mắt.v.v...; không thực hành các hủ tục
mê tín dị đoan, trẻ em trong độ tuổi được đến trường. Các GĐVH phải kế thừa truyền
thống đoàn kết tương trợ cộng đồng, các gia đình giúp đỡ nhau sản xuất, đời sống;
Như vậy, mô hình GĐVH dân tộc Thái xã Mường So được cấu thành bởi hai
nhóm yếu tố khác nhau:
- Nhóm yếu tố thứ nhất là các yếu tố về KT-XH. Nhóm này bao gồm các yếu
tố về đời sống kinh tế ổn định, bảo vệ môi trường, đảm bảo vệ sinh; chấp hành
nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của Nhà nước, hương ước của bản, đảm bảo an
ninh, trật tự và an toàn xã hội. Chỉ khi KT-XH được đảm bảo thì văn hóa và
GĐVH mới được củng cố, duy trì và phát huy.
- Nhóm yếu tố thứ hai là các yếu tố về văn hóa. Nhóm này bao gồm các yếu
tố: truyền thống văn hóa gia đình, truyền thống văn hóa tộc người, bài trừ các hủ
tục lạc hậu. Chỉ khi các giá trị văn hóa truyền thống được kế thừa và phát huy, các
hủ tục và tệ nạn xã hội được bài trừ thì GĐVH mới có nền tảng vững chắc để xây
dựng và phát triển.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Cơ sở chính trị
Gia đình luôn được Đảng ta quan tâm vun đắp và phát triển, đặc biệt là từ khi
thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Từ Đại hội VI của Đảng năm 1986 đến các
đại hội và nghị quyết hội nghị trung ương về sau, gia đình được đề cập đến như là

thành tố bảo đảm thành công của các nhiệm vụ cách mạng. Đảng khẳng định gia
đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ
mới, nền kinh tế mới, con người mới.
Tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII), Đảng ta xác định: “Nêu cao trách
nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của mình có


lối sống văn hóa, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào
lành mạnh của xã hội. Đẩy mạnh phong trào “TDĐKXDĐSVH”; ngăn chặn việc
phục hồi các hủ tục, khắc phục tình trạng mê tín đang có xu hướng lan rộng trong
xã hội” [4, tr. 126].
Đại hội X của Đảng, năm 2006, tiếp tục khẳng định: “Phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi
trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo
tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [4, tr. 170, 103 - 104].
Như vậy, qua các kỳ Đại hội kể từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn coi gia
đình không chỉ đơn thuần là nơi con người - mỗi thành viên của xã hội được sinh
ra, chức năng của gia đình không chỉ để sản sinh ra con người, duy trì nòi giống,
mà hơn thế, gia đình là một tế bào cấu thành nên xã hội và mang đặc trưng của xã
hội Việt Nam theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
Đến Đại hội XI, Đảng ta đã có sự phát triển nhận thức mới về gia đình, đó
là: No ấm, tiến bộ, hạnh phúc là những điều kiện cơ bản, quan trọng để gia đình
phát triển lành mạnh. Muốn có một “tế bào lành mạnh”, một “nền tảng vững chắc”
thì phải xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
Như vậy, qua hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, trong bối
cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu và toàn cầu hóa hiện nay, Đảng ta ngày càng
nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của gia đình với tư cách là “tế bào” vững chắc

của xã hội, là môi trường lành mạnh để xây dựng nguồn lực con người; coi xây
dựng GĐVH là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong chiến lược
phát triển KT-XH.


1.2.2. Cơ sở pháp lý
- Thông báo số 26-BT/TW ngày 09/5/2011 Kết luận của Ban Bí thư về việc sơ
kết Chỉ thị số 49-CT/TW về “Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”;
- Nghị định số 02/2013/NĐ-CP ngày 03/01/2013 của Chính phủ quy định về
công tác gia đình;
- Nghị quyết số 81/NQ-CP ngày 04/12/2012 ban hành kế hoạch hành động
thực hiện Thông báo Kết luận số 26-TB/TW ngày 09/5/2011 của Ban Bí thư (khóa
IX) về việc sơ kết Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21/02/2005 của Ban Bí thư về “xây
dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
- Quyết định số 72/2001/QĐ-TTg ngày 04/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ
về Ngày Gia đình Việt Nam;
- Quyết định số 629/QĐ-TTg ngày 29/5/2012 phê duyệt Chiến lược phát triển
gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030;
- Quyết định số 3391/QĐ-BVHTTDL ngày 01/10/2009 của Bộ VHTT&DL về
việc phê duyệt “Đề án Tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình Việt
Nam giai đoạn 2010 – 2020”;
- Quyết định số 2744/QĐ-BVHTTDL ngày 26/7/2012 của Bộ VHTT&DL về
việc phê duyệt Chương trình phối hợp chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện
“Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030”;
- Hướng dẫn số 1316/BVHTTDL-GĐ ngày 15/4/2013 của Bộ VHTT&DL về
việc Hướng dẫn thành lập BCĐ công tác gia đình;


- Nghị quyết số 13/NQ-TU ngày 7 tháng 5 năm 2007 của Ban Chấp hành

Đảng bộ tỉnh Lai Châu về đẩy mạnh xây dựng, nâng cao hiệu quả và chất lượng
đời sống văn hóa cơ sở trong giai đoạn tới;
- Hướng dẫn số 331/HD-BCĐ ngày 29 tháng 7 năm 2008 của BCĐ Phong
trào “TDĐKXDĐSVH” tỉnh Lai Châu V/v Thực hiện Cuộc vận động “sạch bản
mường, tốt ruộng nương” trong phong trào “TDĐKXDĐSVH” trên địa bàn tỉnh
Lai Châu;
- Quyết định số 15/2014/QĐ-UBND ngày 2 tháng 7năm 2014 của UBND tỉnh
Lai Châu Ban hành Quy định thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang và lễ hội trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
- Quyết định số 845/QĐ-UBND ngày 17 tháng 01 năm 2013 của UBND
huyện Phong Thổ V/v Kiện toàn BCĐ phong trào “TDĐKXDĐSVH” huyện Phong
Thổ;
- Quyết định số 1092/QĐ-BCĐ ngày 14 tháng 5 năm 2014 của phong trào
“TDĐKXDĐSVH” huyện Phong Thổ V/v Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động
của BCĐ phong trào “TDĐKXDĐSVH”;
- Quyết định số 921/QĐ-BCĐ ngày 15 tháng 4 năm 2016 của BCĐ phong trào
TDĐKXDĐSVH” huyện Phong Thổ V/v Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động
của BCĐ phong trào “TDĐKXDĐSVH”.
- Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 21 tháng 01 năm 2013 của UBND xã
Mường So V/v Kiện toàn BCĐ phong trào “TDĐKXDĐSVH” xã Mường So;
- Quyết định số 252/QĐ-BCĐ ngày 14 tháng 5 năm 2014 của phong trào
“TDĐKXDĐSVH” xã Mường So V/v Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của
BCĐ phong trào “TDĐKXDĐSVH”;


- Quyết định số 921/QĐ-BCĐ ngày 15 tháng 4 năm 2016 của BCĐ phong trào
TDĐKXDĐSVH” xã Mường So V/v Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của
BCĐ phong trào “TDĐKXDĐSVH”.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Cuộc vận động “xây dựng GĐVH” có tiền thân ngay sau khi Cách mạng

tháng Tám thành công.
Năm 1962, tại Hội nghị phổ biến nhân rộng mô hình xây dựng Gia đình văn
hoá tại Hải Phòng, đồng thời phát động phong trào xây dựng gia đình văn hoá trên
phạm vi cả nước. Mục đích của phong trào nhằm đoàn kết giúp đỡ để gia đình hoà
thuận, bình đẳng, dân chủ, tiến bộ, hạnh phúc, góp phần đấu tranh giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Ngày 15-3-1975, Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ VHTT&DL) và Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam đã ban hành Thông tư liên tịch về việc đẩy mạnh cuộc vận
động xây dựng Gia đình văn hoá mới (Nay là Gia đình văn hoá) với 3 tiêu chuẩn
gia đình văn hoá mới được đặt ra là: Xây dựng gia đình hoà thuận, dân chủ, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; Thực hiện sinh đẻ có kế hoạch: Sản xuất, tiêu dùng tiết
kiệm, đoàn kết xóm giềng tốt; Thực hiện đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước.
Từ năm 1975-1985, Phong trào phát triển rộng khắp trong toàn quốc. Trong
thời kỳ đổi mới, thay đổi cơ chế từ bao cấp sang hạch toán, khiến cho nguồn chi
cho phong trào giảm sút, ngành Văn hoá - Thông tin, cơ quan thường trực của
BCĐ Nếp sống mới Trung ương vẫn cố gắng duy trì phong trào nhưng kết quả có
hạn chế nhất định.
2. Nội dung thực hiện của đề án


2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
2.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, lịch sử, kinh tế, xã hội xã Mường So,
huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu
Xã Mường So cách trung tâm huyện Phong Thổ khoảng 12 km về phía Đông
Nam. Xung quanh được bao bọc bởi những dãy núi Pú Đăng Pâu, Pú Khọ Nhọ, độ
cao từ 600 m đến 1.100 m. Tổng diện tích tự nhiên toàn xã là 3.548,08 ha, trong đó
đất nông nghiệp (ruộng và nương) đạt 2.621,67 ha (chiếm 73,89%). Khí hậu ở
Mường So mang đặc điểm chung của khí hậu Tây Bắc, một năm chia thành hai
mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô.

Dù còn nhiều khó khăn nhưng những năm qua, kinh tế xã Mường So đã có
bước chuyển biến tích cực, tăng trưởng kinh tế đạt cao luôn ở mức hai con số (năm
2015 đạt 14%), thu nhập bình quân/người năm 2015 đạt 12,8 triệu đồng. Tuy
nhiên, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, chưa có sự chuyển biến
mạnh sang sản xuất hàng hoá.
Sự hình thành và phát triển của xã Mường So gắn liền với lịch sử phát triển
của vùng Tây Bắc, của dân tộc Thái trong mối đoàn kết thống nhất với các dân tộc
anh em, đặc biệt là với dân tộc Việt (Kinh).
2.1.2. Khái quát về gia đình dân tộc Thái tại xã Mường So, huyện Phong Thổ,
tỉnh Lai Châu hiện nay
Cho đến thời điểm hiện nay (năm 2016), về kiểu gia đình, số lượng gia đình
hạt nhân (một cặp vợ chồng và các con của họ) hiện nay chiếm tỷ lệ đáng kể.
Trong tổng số 1.400 hộ gia đình ở xã Mường So thì có tới 770 hộ gia đình thuộc
kiểu gia đình hạt nhân (chiếm 55,0%). Tuy nhiên, ở 7 bản dân tộc Thái, tỷ lệ trung
bình khoảng 30% [Xem phụ lục: Biểu 2]. Như vậy, các tiểu gia đình ở dân tộc Thái
vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ hơn so với các dân tộc Kinh, Giáy… nhưng theo đánh giá của


người dân nơi đây thì con số này lớn hơn rất nhiều so với 20 năm về trước cho thấy
hiện tượng hạt nhân hóa gia đình trong cộng đồng dân tộc Thái xã Mường So đang
có xu hướng gia tăng. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là sự phát
triển của kinh tế hộ gia đình cùng với các chính sách của Đảng, Nhà nước về phân
chia đất canh tác cho các hộ cũng góp phần tạo điều kiện cho việc tách hộ, hình
thành các gia đình hạt nhân.
Về quy mô hộ gia đình, trong tổng số 1.400 hộ gia đình ở xã Mường So có tới
799 hộ có từ 1 đến 4 nhân khẩu (chiếm 57,07%; ở 7 bản Thái, con số này là
35,03%), 481 hộ gia đình có từ 5 đến 6 nhân khẩu (chiếm 60,20%; ở 7 bản Thái là
51,95%), 120 gia đình có từ 7 đến 10 nhân khẩu (chiếm 8,57%; ở 7 bản Thái là
13,02%) [Xem phụ lục: biểu 3]. Số lượng nhân khẩu trong mỗi gia đình giảm có
nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân quan trọng hơn cả là do sức lao động được

giải phóng và ý thức về quyền tự chủ, tự quyết của các tiểu gia đình ngày càng lớn.
Quy mô gia đình thu hẹp còn dẫn đến độ tuổi của các thành viên trong gia đình
cũng đang được “trẻ hóa”. Tỷ lệ các gia đình trẻ tương đương với tỷ lệ số hộ gia
đình có từ 1 – 4 nhân khẩu và phần lớn số hộ có từ 5 – 6 nhân khẩu.
Về nghề nghiệp, bên cạnh những hoạt động kinh tế truyền thống là ruộng
nước và canh tác nương đất dốc, hiện nay ngày càng nhiều gia đình dân tộc Thái xã
Mường So tham gia vào các hoạt động kinh doanh hàng hóa (chủ yếu là buôn bán
nhỏ) và trồng các loại cây công nghiệp như cao su, chè hay các loại cây hàng hóa
như đố tương, ngô… Với những nghề nghiệp mới, họ đã có thêm những nguồn thu
nhập góp phần gia tăng phân tầng xã hội trong cộng đồng. Việc kiếm sống, tạo thu
nhập trong các gia đình dân tộc Thái xã Mường So vẫn là trách nhiệm của hai vợ
chồng (hoặc bố mẹ) và không còn sự phân công lao động theo giới rạch ròi như
xưa (nam làm những việc ngoài xã hội, nữ làm ruộng, làm nương, nội trợ và chăm
sóc con cái) mà vợ chồng trong các gia đình đều có cơ hội kiếm thêm thu nhập và


chia sẻ công việc gia đình. Tuy phần lớn các gia đình vẫn dựa vào nguồn thu chủ
yếu từ các hoạt động nông nghiệp truyền thống, nhưng đã xuất hiện một bộ phận
có thu nhập từ lương (cán bộ) và buôn bán (tiểu thương).
Về trình độ dân trí, ngoại trừ một số phụ nữ cao tuổi, còn hầu hết người Thái ở
Mường So ngày nay đều biết; đặc biệt thanh thiếu niên người Thái hiện nay được
gia đình quan tâm nhiều hơn đến việc học hành. Nhờ đó, tỷ lệ trẻ em theo học các
lớp bậc phổ thông cơ sở đạt 100%; bậc phổ thông trung học đạt 96%; số người có
trình độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và đang theo học các cấp
tương đương là 207 người, trong đó người Thái chiếm 64% [Nguồn: Báo cáo tình
hình phát triển kinh tế xã hội xã Mường So năm 2015, phương hướng năm 2016].
Nếp sống gia đình dân tộc Thái hiện nay vẫn bảo lưu được một số nét đẹp
truyền thống như phong tục thờ cúng tổ tiên với những nghi lễ chung của các thành
viên của đại gia đình. Mặc dù đã tách hộ thành các gia đình hạt nhân (tiểu gia
đình), có nơi ở riêng nhưng nhiều gia đình dân tộc Thái xã Mường So vẫn giữ

phong tục sinh hoạt chung của đại gia đình. Các công việc như cưới xin, tang ma,
dựng nhà hay giúp đỡ nhau khi khó khăn hoạn nạn vẫn được duy trì thường xuyên
giữa các thành viên trong đại gia đình. Trong một số công việc quan trọng của gia
đình như đám cưới, đám tang,… người đứng đầu đại gia đình vẫn có vị trí quan
trọng.
2.2. Thực trạng gia đình văn hóa dân tộc Thái tại xã Mường So, huyện
Phong Thổ, tỉnh Lai Châu những năm qua
2.2.1. Đời sống kinh tế và vấn đề vệ sinh môi trường
Kinh tế của xã Mường So những năm qua đã có bước chuyển biến tích cực,
tăng trưởng luôn ở mức hai con số (năm 2015 đạt 14%). Năm 2015, thu nhập bình
quân/người toàn xã đạt 12,8 triệu đồng. Tổng sản lượng lương thực cây có hạt năm


2015 là 1.470,2 tấn; bình quân lương thực đầu người 360 kg. Toàn hiện có xã có
1024 xe máy, 611 nhà xây, 324 máy say sát, 1568 ti vi, 320 máy cày mini [Nguồn:
UBND xã Mường So cung cấp tháng 9/2016]. Đời sống nhân dân không ngừng
được cải thiện. Từ mức đói nghèo rất cao (25% hộ đói, 68% hộ nghèo) năm 1990,
đến nay toàn xã chỉ còn 30% hộ nghèo và không còn hộ đói. Các hộ gia đình đều
có chuồng chăn nuôi gia súc, gia cầm. Các hộ gia đình đều phát quang bụi rậm,
dọn vệ sinh đường giao thông, khơi thông cống rãnh thoát nước 1 lần vào sáng thứ
bảy hàng tuần…
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, đời sống kinh tế ở xã Mường So vẫn
còn nhiều hạn chế. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, chưa có sự
chuyển biến mạnh sang sản xuất hàng hoá. Năm 2015, tỷ trọng giá trị ngành nông
- lâm nghiệp, thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản xuất của chiếm
60,9%; trong khi đó các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chỉ chiếm 12,6%;
thương mại, dịch vụ cũng chỉ đạt 26,5%.
Mặc dù sản xuất nông nghiệp trồng trọt cho đến nay vẫn là nguồn thu chủ yếu
của đại bộ phận các hộ gia đình dân tộc Thái xã Mường So nhưng do nhiều nguyên
nhân nguồn thu này hiện đã giảm sút đáng kể.

Một là, dân số gia tăng khiến cho diện tích ruộng nước của các hộ gia đình
giảm. Bình quân hiện nay, diện tích ruộng trồng lúa nước của xã là 160 ha. Với
1.314 nông hộ (chiếm 93,86% dân số), bình quân mỗi hộ gia đình chỉ có 0,12 ha
ruộng. Ruộng ít nên mặc dù Nhà nước đã đầu tư hệ thống kênh mương thủy lợi
tương đối hoàn chỉnh, hàng năm đều hỗ trợ các nông hộ giống, phân bón và thuốc
bảo vệ thực vật, nhưng sản lượng lúa thu hoạch cũng chỉ đảm bảo cho các nông hộ
đủ ăn, không dư thừa để bán như trước.
Hai là, chính sách giao đất giao rừng được thực hiện ở xã Mường So từ năm
1996 cùng với dân số gia tăng khiến cho canh tác luân khoảnh đến nay không thực


hiện được do nương rẫy bạc màu. Hiện cả xã Mường So không còn hộ nào trồng
lúa nương, mặc dù ở mỗi bản vẫn có từ 30 – 40% số nông hộ trồng cây hàng hóa
trên nương (ngô, lạc, đậu tương, khoai, sắn…) một phần đáp ứng nhu cầu của gia
đình, một phần để bán nhưng do sản lượng ít nên thu nhập cũng không đáng kể.
Ba là, việc đền bù giải phóng mặt bằng cho một số dự án nhưng người dân
không được hướng dẫn chuyển đổi nghề nghiệp, không được dạy nghề, không
được bố trí công ăn việc làm… khiến cho nhiều nông hộ bị thu hồi đất canh tác,
mặc dù có tiền đền bù giải phóng mặt bằng nhưng đến nay đã tiêu hết tiền (xây
nhà, mua sắm đồ dùng đắt tiền…), trong khi số đất canh tác còn lại rất ít.
Bốn là, hoạt động buôn bán ở Mường So khá nhộn nhịp, hầu hết các gia đình
dân tộc Thái xã Mường So đều tham gia các hoạt động buôn bán và làm dịch vụ
nhưng chỉ là buôn bán nhỏ và làm thuê. Trong khi Mường So là trung tâm KT-XH
của toàn bộ các xã vùng thấp huyện Phong Thổ, chợ Mường So là nơi trung
chuyển hàng hóa từ biên giới về, từ miền xuôi lên nhưng lại chủ yếu do các thương
lái từ miền xuôi lên thực hiện.
2.2.2. Việc thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, hương
ước của bản
Mường So là miền đất có truyền thống cách mạng, dân tộc Thái Mường So có
tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm (thổ binh Mường So đã từng tham gia

trong hàng ngũ quân đội của vua Lê Thái Tổ đánh đuổi quân Minh xâm lược và
trừng trị chúa Thái Mường Lay là Đèo Cát Hãn theo giặc; tham gia phong trào Cần
Vương chống Pháp; nuôi giấu cán bộ Việt Minh và tham gia chiến dịch Điện Biên
Phủ…). Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật trong cộng đồng dân tộc Thái Mường
So nói chung, trong các gia đình dân tộc Thái xã Mường So nói riêng hiện nay vẫn
rất hạn chế. Điều tra 50 chủ hộ gia đình dân tộc Thái xã Mường So về mức độ hiểu
biết của một số bộ luật, luật như Bộ luật dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật


hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật đất đai, Luật cư trú.v.v…cho thấy chỉ có 8
người tham gia công tác xã hội (đây là những đảng viên, cán bộ đoàn thể ở bản) có
nghe nói về các bộ luật, luật đó (chiếm 16%) và có đến 100% các chủ không biết
các nội dung cơ bản của một số bộ luật, luật. Họ chỉ biết một số quy định của luật
giao thông đối với người điều khiển mô tô, xe gắn máy do đây là phương tiện đi lại
phổ biến hiện nay. Như vậy, đại bộ phân nhân dân dân tộc Thái ở xã Mường So
hiện nay vẫn sống theo tập quán pháp (những quy định về sở hữu, ứng xử… đã
được các thế hệ trao truyền thực hiện). Thực trạng trên là bởi những nguyên nhân
sau:
Một là, nhận thức của lãnh đạo các cấp, ngành từ tỉnh, huyện, xã về vai trò của
luật pháp, bộ máy và công tác tuyên truyền pháp luật chưa đầy đủ. Từ việc nhận
thức chưa đầy đủ dẫn đến công tác chỉ đạo và giám sát thực hiện nhiệm vụ tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn còn buông lỏng, phó mặc cho cấp
dưới (tư pháp, văn hóa, các đoàn thể, trưởng bản, bí thư chi bộ bản…) trong khi
trình độ hiểu biết pháp luật của hầu hết cán bộ cấp dưới về pháp luật cũng rất hạn
chế (ngoại trừ cán bộ tư pháp);
Hai là, trong một thời gian ngắn, Nhà nước ta đã ban hành gần 100 bộ luật và
luật, gần 1.000 văn bản dưới luật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì
vậy, ngay cả cán bộ tư pháp xã cũng chỉ nắm được một số luật trong phạm vi hẹp:
hành chính, kinh tế, hình sự, dân sự… Lãnh đạo Đảng, Chính quyển, Mặt trận và
cán bộ các ngành ngoài luật cũng chưa nắm vững luật (đây cũng là tình trạng ở cấp

huyện và tỉnh). Vì vậy, việc người dân dân tộc Thái xã Mường So không hiểu luật
và trong nhiều trường hợp vô tình vi phạm pháp luật trở thành một thực tế diễn ra
thường xuyên.
Ba là, trình độ dân trí của dân tộc Thái xã Mường So từ độ tuổi trung niên trở
lên thấp, một số phụ nữ cao tuổi còn mù chữ nên không có khả năng tiếp cận với


các bộ luật và luật qua các phương tiện thông tin đại chúng và qua các kênh tuyên
truyền khác của các cơ quan chức năng tại địa phương.
Bốn là, đội ngũ cán bộ tuyên truyền pháp luật còn thiếu và yếu. Cơ sở vật chất
và phương pháp tuyên truyền lạc hậu, chưa tập trung vào các vấn đề nóng bỏng ở
địa phương như đất đai, môi trường, truyền đạo trái pháp luật, buôn lậu, cờ bạc, ma
túy, mại dâm… Công tác phối hợp liên ngành trong tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật còn lỏng lẻo, nặng tính hình thức.
2.2.3. Việc bảo tồn và phát huy các giá trị gia đình truyền thống
Gia đình truyền thống dân tộc Thái xã Mường So có nhiều giá trị tốt đẹp. Đó
là quan hệ giữa các thành viên bao giờ cũng theo chuẩn mực kính trên nhường
dưới. Ông bà cha mẹ yêu thương con trẻ, con cái trưởng thành nuôi dưỡng, chăm
sóc ông bà, cha mẹ già. Các gia đình ứng xử với nhau theo tinh thần “lá lành đùm
lá rách” đến mức “một nhà còn gạo thì cả bản không sợ đói” được xem là một tiêu
chuẩn đạo đức xã hội. Những giá trị văn hóa về lòng nhân ái, vị tha, đức kính già
yêu trẻ, tình nghĩa vợ chồng gắn kết keo sơn, lòng hào hiệp mến khách, cách giao
tiếp lịch sự, lễ phép, mềm mỏng trong quan hệ giữa người với người…
Tuy nhiên, hiện nay, nhiều giá trị gia đình truyền thống dân tộc Thái xã
Mường So đang mai một. Do sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường và các
yếu tố hiện đại thông qua các luồng băng đĩa, truyền thông đại chúng, đặc biệt là
Internet làm hình thành nhiều tư tưởng, thói quen sinh hoạt mới phần nào ảnh
hưởng đến các chuẩn mực truyền thống của gia đình. Đó là sự quan tâm, trách
nhiệm chăm sóc gia đình giữa các thành viên có sự giảm sút, xuất hiện những tư
tưởng cá nhân, đòi hỏi đáp ứng những lợi ích cụ thể, trước mắt. Các nghi lễ gia

đình đang có xu hướng đơn giản hóa, thậm chí một số nghi lễ đã thay đổi và bị ảnh
hưởng mạnh của văn hóa đô thị và kinh tế thị trường. Các vật phẩm truyền thống
để mừng đám cưới, mừng nhà mới, chia buồn với tang gia trong đám tang (lợn, gà,


rượu, gạo, vải may mặc…) hầu hết được thay bằng tiền mặt hoặc các vật dụng hiện
đại.
Bên cạnh đó, một số tập quán lạc hậu còn tồn tại và biến tướng do sự tác động
của những điều kiện mới khiến cho truyền thống gia đình dân tộc Thái đang diễn
biến theo chiều hướng xấu và ngày càng phức tạp; biểu hiện trên những mặt sau:
Một là, “sống thử” (sống chung khi chưa/không kết hôn) và quan hệ tình dục
trước hôn nhân ngày càng bị dư luận xã hội phê phán thì ở dân tộc Thái lại được
nhìn nhận như một lẽ bình thường. Tập quán dân tộc Thái cho phép quan hệ tính
giao tiền hôn nhân. Khi con gái đến tuổi dậy thì được phép tiếp bạn tình qua đêm
để tâm sự. Luật tục chỉ cấm chửa hoang, nếu mắc phải thì phạt rất nặng. Chính vì
thế mà xưa kia dân tộc Thái Mường So có những bài thuốc tránh thai cổ truyền từ
thảo dược thiên nhiên sẵn có trong vùng và rất hiệu quả để rồi mẹ truyền cho con,
con truyền cho cháu… đời nối đời… nên trong cộng đồng dân tộc Thái ít ai mắc
tội chửa hoang. Hiện nay, hình thức xử phạt này không còn nhưng việc “trộm yêu”
thì vẫn tồn tại khá phổ biến. Và những phụ nữ, thiếu nữ có thai ngoài ý muốn nếu
không “hợp thức hóa” cái thai bằng hôn nhân thì thường tìm đến các cơ sở nạo hút
thai tư nhân để “giải quyết”.
Hai là, tuy nhu cầu về lao động cơ bắp trong các gia đình dân tộc Thái Mường
So đã giảm nhưng việc phải có con trai để nối dõi và thờ cúng cho đến nay vẫn là
nhu cầu thường trực trong ý thức của hầu hết người Thái nơi đây. Điều tra 50 hộ
gia đình dân tộc Thái xã Mường So cho thấy vẫn có tới 38 hộ đã và đang đặt ra
mục tiêu phải sinh bằng được con trai (chiếm 76%) và trên thực tế, trong năm
2015, cả xã Mường So có tới 9/33 gia đình sinh con thứ ba (chiếm 27,3%), trong
số này có 4 gia đình hiện đang là cán bộ, đảng viên. Ngày nay, với sự “hỗ trợ” của
y học hiện đại, việc “để” hay “bỏ” đứa con tùy thuộc vào thai nhi là trai hay gái ở

Mường So đã dẫn đến sự mất cân bằng giới tính. Tỷ suất giới tính của trẻ sơ sinh


qua 5 năm (2011 – 2015) ở xã Mường So trung bình là 122 bé trai/100 bé gái
[Nguồn: Điều tra thực địa tại xã Mường So, tháng 9/2016].
Ba là, tập quán dạy dỗ con cái theo cơ chế mềm dẻo (chỉ khuyên bảo, không
đánh mắng và ít giám sát) vẫn phổ biến trong các gia đình dân tộc Thái Mường So.
Nhưng hiện nay, cơ chế thị trường; quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; sự
phát triển tâm, sinh lý của trẻ ngày càng diễn ra nhanh; sự phát triển như vũ bão
của truyền thống đại chúng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin… một mặt tạo
ra những thời cơ và vận hội mới cho các gia đình dân tộc Thái ở Mường So nâng
cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần, nhưng mặt khác, nó kéo theo những
nguy cơ khôn lường do những thông tin xấu, phản văn hóa, không có lợi cho sự
phát triển nhân cách tuổi trẻ, mà trong đó có những vấn đề vượt khỏi tầm kiểm soát
của gia đình như mại dâm, nghiện hút…
2.2.4. Việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc người
Từ sau Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, cùng với các địa phương trên
toàn quốc, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân xã Mường So đã tích cực tham gia
bảo tồn và khôi phục được nhiều di sản văn hóa, trong đó nhiều di sản văn hóa đặc
biệt có giá trị như di tích đền thờ Nàng Han (gắn với phong trào chống ngoại xâm
thời phong kiến), di tích lịch sử hang Thẳm tạo (gắn với phong trào Cần Vương),
di tích hang kháng chiến Nà Củng (kho quân lương, đạn dược và bệnh viện dã
chiến trong chiến dịch Điện Biên phủ); di sản Nghệ thuật Xòe Thái; di sản Nghi lễ
và trò chơi kéo co; các lễ hội dân gian: Then Kin Pang, Kin Lẩu Khẩu Mẩu, Kin
Khẩu Mớ.v.v… Nhờ đó, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân có nhiều khởi
sắc.
Tuy nhiên, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc Thái
ở xã Mường So hiện nay cũng chỉ mang tính hình thức, thiếu thực tế. Cán bộ văn
hóa chưa ngang tầm nhiệm vụ. Các lễ hội được tổ chức, các di tích được trùng tu



chủ yếu được đầu tư kinh phí từ ngân sách nhà nước và các cơ quan chức năng
đứng ra tổ chức (trước kia do dân góp công, góp của và tự tổ chức thực hiện)
nhưng do không nắm vững phương pháp thực hiện nên các di tích được trùng tu
theo khuôn mẫu của miền xuôi, các lễ hội được tổ chức theo kiểu phong trào khiến
cho các lễ hội, các di tích bị biến dạng, mất bản sắc.
Trong mấy chục năm trở lại đây, nhất là trong thời kỳ đổi mới, các bản dân tộc
Thái xã Mường So đã thay đổi. Do nhu cầu phát triển về KT-XH, địa bàn cư trú
trải rộng hơn so với trước. Nhà ở truyền thống của dân tộc Thái xã Mường So cũng
có nhiều thay đổi. Cả xã hiện có 611 nhà xây, trong đó số nhà xây trong cộng đồng
dân tộc Thái chiếm khoảng 40%. Trong các bản Thái, những ngôi nhà xây theo
kiểu nhà ống (nhiều nhà xây 2 – 3 tầng) xen kẽ với những ngôi nhà sàn truyền
thống gây mất mỹ quan, làm biến dạng không gian bản Thái cổ truyền.
Trang phục truyền thống cũng có nhiều thay đổi. Nghề dệt nổi tiếng của dân
tộc Thái xã Mường So từng bước thiếu vắng trong sinh hoạt thường ngày (trừ một
số gia đình dệt vải để may các sản phẩm truyền thống bán cho khách du lịch nhưng
khách du lịch đến với xã Mường So đang ngày một thưa vắng dần). Trang phục
truyền thống của nam giới hầu như đã thay đổi cơ bản, chỉ phụ nữ mới giữ được
trang phục truyền thống nhưng chất liệu, màu sắc, kiểu dáng, hoa văn đã thay đổi
làm mất đi vẻ đẹp vốn có của bộ trang phục và đặc biệt là làm mất bản sắc tộc
người trong trang phục truyền thống.
2.2.5. Việc bài trừ các phong tục tập quán lạc hậu và các tệ nạn xã hội
Những năm qua, nhiều phong tục tập quán lạc hậu trong cộng đồng dân tộc
Thái xã Mường So đã được bài trừ có hiệu quả như không còn tập quán thả rông
gia súc, gia cầm, các gia đình đều có công trình vệ sinh, các thiếu nữ không còn
tắm trần, trẻ em được học hành, người già được chăm sóc, người bệnh được khám
chữa ở các cơ sở y tế…


Tuy nhiên, đó là những thành tích bề nổi trong đời sống văn hóa ở các bản,

các gia đình dân tộc Thái xã Mường So. Điều tra thực địa cho thấy hầu hết các gia
đình tuy có công trình vệ sinh và chuồng chăn nuôi gia súc, gia cầm nhưng hầu hết
vẫn làm ở gần nhà, chưa có biện pháp xử lý vệ sinh hợp lý nên chưa có hiệu quả
đối với môi trường sống. Các đám cưới tuy không còn kéo dài nhưng vẫn còn hiện
tượng ăn uống linh đình (trung bình mỗi đám cưới của một hộ gia đình bình
thường làm từ 150 – 200 mâm cỗ); các đám tang tuy không để xác trong nhà quá
48 giờ nhưng cũng vẫn ăn uống linh đình, hiện tượng dâng trâu cho người chết rồi
mổ ăn 1 – 2 con trâu/đám tang vẫn còn tồn tại tuy không phổ biến như trước. Đặc
biệt, hiện tượng nghi kỵ và bài xích những người bị cho là “ma cà rồng” vẫn còn ở
các bản (mỗi bản có một vài gia đình bị cho là “ma cà rồng”). Nạn bói, cúng chữa
bệnh vẫn tồn tại. Các tệ nạn xã hội nảy sinh và phát triển phức tạp. Thống kê cho
thấy ở xã Mường So hiện có 12 phụ nữ tự nguyện sang Trung Quốc hành nghề mại
dâm và 35 đối tượng nghiện ma túy các loại [Số liệu do Công an huyện Phong Thổ
cung cấp tháng 9/2016]. Nhưng đó mới chỉ là những số liệu thống kê được, còn
trên thực tế có thể con số này có thể sẽ còn lớn hơn nhiều.
2.3. Nội dung cụ thể đề án cần thực hiện
Một là, GĐVH dân tộc Thái xã Mường So phải có đời sống kinh tế ổn định,
bảo vệ môi trường, đảm bảo vệ sinh. Các hộ gia đình phải thực hiện định canh,
định cư, có đời sống kinh tế ổn định. Mỗi hộ gia đình đều phải có công trình vệ
sinh, xây dựng chuồng gia súc xa nhà.
Hai là, GĐVH dân tộc Thái xã Mường So chấp hành nghiêm chỉnh chính
sách, pháp luật của Nhà nước, hương ước của bản, đảm bảo an ninh, trật tự và an
toàn xã hội. Các GĐVH phải thực hiện dân số kế hoạch hoá gia đình. Tích cực
tham gia tổ tự quản, tổ hòa giải, tham gia vận động những người mắc các tệ nạn xã
hội (cờ bạc, ma túy, mại dâm…) từ bỏ tệ nạn; vận động các gia đình khác bài trừ


×