Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh trà vinh hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.92 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, ngày càng hội nhập toàn diện và sâu sắc vào
cộng đồng quốc tế. Đảng lãnh đạo sự nghiệp CNH, HĐH thông qua cương
lĩnh, đường lối, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội. Để các quyết sách
của Đảng đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả cần phải có công tác tổ chức
thực tiễn (TCTT) của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và
chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [30; tr.309]. “Công
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [30; tr.313]. Cán bộ
tốt là người có đủ đức và tài, phẩm chất và năng lực, trong đó năng lực tổ
chức thực tiễn (NLTCTT) có vai trò rất lớn, bởi có quyết sách đúng đắn thôi
chưa đủ, mà còn phải đưa quyết sách vào cuộc sống, hiện thực hóa trên thực
tế. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, các quyết sách thì nhiều song việc
thực hiện chưa triệt để, nửa vời, hiệu quả thấp. Vì vậy, nâng cao NLTCTT
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
CBCCCX là những người đứng đầu tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã, có vai trò quan trọng, có
sự ảnh hưởng to lớn đến toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã. Vì
vậy, việc nâng cao NLTCTT cho đội ngũ CBCCCX là một nhiệm vụ không
thể thiếu để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay. Hơn nữa, sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và xây
dựng nông thôn mới ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Trà Vinh nói riêng đòi
1


hỏi phải có một đội ngũ CBCCCX không chỉ đủ về mặt số lượng mà còn phải


bảo đảm về mặt chất lượng, thật sự có năng lực và phẩm chất, năng động và
sáng tạo trong TCTT mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và nhân
dân đã tin tưởng giao phó.
Trà Vinh là một tỉnh duyên hải ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long,
với nhiều lợi thế trong giao lưu về kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, đặc
biệt có tiềm năng rất lớn để phát triển ngành du lịch – dịch vụ. Đồng thời, Trà
Vinh cũng là một tỉnh có nhiều dân tộc với nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác
nhau cùng sinh sống, xuất phát điểm kinh tế và trình độ dân trí thấp. Việc
TCTT, đặc biệt là ở cấp xã còn nhiều khó khăn. Vì vậy, để khai thác có hiệu
quả tiềm năng và thế mạnh, để trở thành một tỉnh phát triển năng động đòi hỏi
đội ngũ lãnh đạo của tỉnh Trà Vinh có tâm huyết, có năng lực và phẩm chất,
có tư duy lý luận sắc bén, trong đó NLTCTT là một yếu tố quan trọng quyết
định thành bại trong hoạt động thực tiễn.
Xuất phát từ yêu cầu đó, việc đánh giá đúng thực trạng NLTCTT của
đội ngũ CBCCCX ở tỉnh Trà Vinh để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao
NLTCTT cho họ, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh Trà Vinh đến năm 2020 và các năm tiếp theo là yêu cầu cấp thiết
của cuộc sống, là vấn đề không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực
tiễn. Chính vì vậy, tôi chọn “Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Trà Vinh hiện nay” làm đề tài luận văn
cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề TCTT, NLTCTT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp
đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau, tiêu biểu như:
Mảng tư liệu thứ nhất, những công trình nghiên cứu về TCTT và
NLTCTT
2



- GS. Nguyễn Đức Bình với tác phẩm Mấy vấn đề về tổ chức thực
tiễn, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983; Phạm Văn Liên, Vấn đề tổ chức thực tiễn
của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở Ninh Thuận hiện nay, Luận văn
thạc sĩ triết học, 2002.
Các tác giả trên đã đề cập đến vấn đề TCTT, làm rõ vai trò của TCTT
đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến
quá trình TCTT của họ.
- Phạm Văn Hai, Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở (qua thực tế Long An), Luận văn thạc sĩ triết học, 1997.
Tác giả đã đề cập đến nhiều vấn đề như tầm quan trọng của việc nâng cao
NLTCTT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Long An, đánh giá thực
trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao NLTCTT cho đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Long An.
- TS. Nguyễn Phương Thảo với đề tài khoa học cấp Bộ: Nâng cao
năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp huyện biên giới phía Bắc
nước ta hiện nay, 2000. Đề tài đã khảo sát, đánh giá thực trạng, phân tích
nguyên nhân dẫn đến chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các huyện biên
giới phía Bắc và NLTCTT của họ. Là địa bàn trọng yếu và chiến lược của
nước ta, biên giới phía Bắc được Đảng và Nhà nước coi là vùng có vị trí quan
trọng trên các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, nhất là an ninh quốc phòng và
quan hệ đối ngoại với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Vì thế, việc nâng
cao NLTCTT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh phía Bắc
nước ta là hết sức quan trọng và mang tính chiến lược.
- Lê Thị Thanh Phụng, Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện miền núi ở Lâm Đồng hiện nay, Luận văn thạc
sĩ triết học, 2003. Trong luận văn này, tác giả đã đánh giá thực trạng, làm rõ

3



nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao NLTCTT của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện miền núi ở Lâm Đồng một cách có hệ thống.
- Lê Hữu Xanh với bài Văn hóa truyền thống ảnh hưởng đến sự hình
thành, phát triển năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã đồng
bằng sông Hồng hiện nay, Tạp chí tâm lý học, số 4, 2005. Bài viết đã chỉ ra
những điều kiện tự nhiên và kỹ thuật của văn minh nông nghiệp trồng lúa
nước, hình thái văn hóa tiền tư bản chủ nghĩa và cuộc đấu tranh bền bỉ chống
thiên tai, địch họa đã tác động đến sự hình thành và phát triển NLTCTT của
người CBCCCX vùng đồng bằng sông Hồng với tất cả những mặt mạnh, mặt
yếu của nó.
- Đề tài khoa học cấp Bộ của TS. Nguyễn Thị Tuyết Mai: Nâng cao
năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã ở một số tỉnh Đồng
bằng Sông Hồng trong điều kiện hiện nay, 2005. Đề tài đã đánh giá thực trạng
NLTCTT của CBCCCX ở một số tỉnh Đồng bằng Sông Hồng và nguyên nhân
của nó, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao NLTCTT của
CBCCCX ở một số tỉnh Đồng bằng Sông Hồng.
- PGS. TS Trần Văn Phòng với đề tài khoa học cấp Bộ: Nâng cao
năng lực tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
vùng đồng bằng sông Hồng, 2007. Đề tài đã chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng
tới năng lực tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
ở vùng đồng bằng sông Hồng, phân tích thực trạng năng lực tổng kết thực tiễn
và nguyên nhân của thực trạng đó, từ đó đề xuất một số nguyên tắc và giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng.
Mảng tư liệu thứ hai, những công trình nghiên cứu về đội ngũ cán bộ,
công chức ở tỉnh Trà Vinh

4



- Hồng Văn Ân với đề tài khoa học cấp tỉnh: Thực trạng và giải pháp
tạo nguồn cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị tỉnh Trà Vinh thời kỳ 2005 –
2015, 2008. Trên cơ sở đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp
của tỉnh trong các nhiệm kỳ đã qua, thấy được điểm mạnh, điểm yếu và
nguyên nhân, từ đó tác giả đề ra một hệ thống giải pháp tạo nguồn nhằm khơi
dậy tiềm năng nguồn nhân lực dồi dào với sức phát triển mạnh mẽ và sáng tạo
của tỉnh để xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt 3 cấp: tỉnh, huyện, xã ở Trà
Vinh thời kỳ 2006 – 2015, hướng đến năm 2020.
- Nguyễn Văn Thơ, Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh, Luận văn
thạc sĩ luật học, 2008. Tác giả đã bước đầu làm rõ những vấn đề lý luận về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc Khmer, phân
tích thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2003 –
2007. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh.
- Châu Thị Trúc Ly, Đào tạo cán bộ, công chức cấp xã, phường người
Khmer ở tỉnh Trà Vinh, Luận văn thạc sĩ kinh tế, 2013. Tác giả đã hệ thống
được lý luận về đào tạo cán bộ, công chức cấp xã, phường, phân tích thực
trạng đào tạo cán bộ, công chức cấp xã, phường của tỉnh Trà Vinh và đề xuất
một số giải pháp để đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, phường là
người Khmer.
Nhìn chung, các tác giả nêu trên đã nghiên cứu vấn đề TCTT,
NLTCTT, năng lực tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
nói chung, cán bộ chủ chốt nói riêng ở các cấp, các địa phương khác nhau, với
nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình
nghiên cứu nào đề cập đến việc nâng cao NLTCTT cho đội ngũ CBCCCX ở

5



tỉnh Trà Vinh một cách có hệ thống và toàn diện dưới góc độ triết học. Những
công trình nghiên cứu trước đây sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích giúp
tôi hoàn thiện đề tài luận văn: “Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Trà Vinh hiện nay”.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực trạng NLTCTT của đội ngũ CBCCCX ở
tỉnh Trà Vinh và nguyên nhân của nó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao NLTCTT cho đội ngũ cán bộ này trong giai đoạn hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu của đề tài là đội ngũ CBCCCX ở tỉnh Trà Vinh.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là NLTCTT của đội ngũ CBCCCX
ở tỉnh Trà Vinh.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu không nâng cao NLTCTT cho đội ngũ CBCCCX ở tỉnh Trà Vinh
thì sẽ không khắc phục được những hạn chế, sai lầm mà họ mắc phải trong
quá trình TCTT, không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn tỉnh Trà Vinh
hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở khoa học của việc nâng cao NLTCTT cho đội ngũ
CBCCCX ở tỉnh Trà Vinh;
- Phân tích thực trạng NLTCTT của đội ngũ CBCCCX ở tỉnh Trà
Vinh và nguyên nhân của thực trạng đó;
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao NLTCTT cho đội
ngũ CBCCCX ở tỉnh Trà Vinh.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là NLTCTT của đội ngũ CBCCCX ở
tỉnh Trà Vinh từ năm 2010 đến năm 2015.
8. Phương pháp nghiên cứu


6


Tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp như: phương pháp lôgíc
và lịch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống kê, so sánh và
đối chiếu, điều tra xã hội học nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài
đặt ra.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn bao gồm 2 chương, 4 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản
Từ mục đích nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn tập trung vào
một số luận điểm cơ bản sau:
Một là, nâng cao NLTCTT cho đội ngũ CBCCCX ở tỉnh Trà Vinh
hiện nay là một yêu cầu cấp thiết.
Hai là, để nâng cao NLTCTT cho đội ngũ CBCCCX ở tỉnh Trà Vinh
hiện nay, chúng ta cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu.
10.2. Đóng góp mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần giúp cho lãnh đạo tỉnh
Trà Vinh đánh giá cụ thể hơn những ưu điểm và hạn chế về NLTCTT của đội
ngũ CBCCCX trong thời gian qua, từ đó có kế hoạch xây dựng, phát triển đội
ngũ CBCCCX đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai
đoạn mới, mà trước hết là thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ X, nhiệm kỳ 2015 - 2020.

7


NỘI DUNG

Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ CHỨC
THỰC TIỄN CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ
Ở TỈNH TRÀ VINH HIỆN NAY

1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Năng lực và năng lực tổ chức thực tiễn
- Năng lực
Trong cuộc sống, để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con
người phải tác động vào giới tự nhiên thông qua hoạt động thực tiễn nhằm tạo
ra các giá trị vật chất và tinh thần đáp ứng nhu cầu của cá nhân và xã hội.
Muốn một hoạt động nào đó đạt hiệu quả cao thì con người cần có trình độ,
kỹ năng, phẩm chất nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động đó.
Căn cứ vào mục đích, yêu cầu của từng loại hoạt động cũng như khả
năng đáp ứng yêu cầu đó mà chúng ta xác định năng lực của một tổ chức hay
một cá nhân. Nếu cá nhân, tổ chức nào đáp ứng được yêu cầu thì có năng lực,
ngược lại là không có năng lực hoặc năng lực kém.
Theo Từ điển triết học, năng lực – hiểu theo nghĩa rộng là những đặc
tính tâm lý của cá thể điều tiết hành vi của cá thể và là điều kiện cho hoạt
động sống của cá thể. Hiểu theo nghĩa đặc biệt thì năng lực là toàn bộ những
đặc tính tâm lý của con người khiến cho nó thích hợp với một hình thức hoạt
động nghề nghiệp nhất định đã hình thành trong lịch sử [54; tr.379].
Khi đề cập đến khái niệm năng lực, có nhiều ý kiến khác nhau. Tiến sĩ
Nguyễn Thị Tuyết Mai cho rằng:

8


Năng lực là thành tố cơ bản trong cấu trúc của nhân cách, là
những đặc điểm tâm lý cá nhân đảm bảo cho con người thực hiện một

dạng hoạt động nhất định đạt hiệu quả cao [29; tr.20].
Giáo sư Nguyễn Lân trong “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” cho rằng:
Năng lực là khả năng làm việc tốt, nhờ có phẩm chất đạo đức
và trình độ chuyên môn [17; tr.1225].
Ý kiến thứ nhất xem xét năng lực với tư cách là một trong hai bộ phận
cấu thành nhân cách của con người, độc lập với bộ phận còn lại là phẩm chất.
Nhân cách con người là sự thống nhất giữa phẩm chất và năng lực (đức và
tài), từ đó hình thành bản lĩnh chính trị của họ. Ý kiến thứ hai cho rằng, năng
lực bao hàm cả phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn, nghĩa là, một
người có năng lực cần phải hội tụ đủ cả đức và tài.
Ở đây, tác giả tán đồng với ý kiến thứ nhất và cho rằng: Năng lực là
tổng hợp những đặc tính tâm lý của con người nhằm đáp ứng yêu cầu của một
hình thức hoạt động nhất định.
Khác với động vật, năng lực của con người là sản phẩm của sự phát
triển xã hội. Nó không phải là một đặc tính riêng lẻ nào đó mà là sự tổng hợp
những đặc tính của cá nhân nhằm đáp ứng những yêu cầu nhất định của hoạt
động thực tiễn. Sự tổng hợp ở đây không phải là tổng số giản đơn các đặc tính
cá nhân mà là quan hệ biện chứng giữa các đặc tính đó trong một hệ thống
hoàn chỉnh.
- Thực tiễn
Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học
Mác – Lênin. Trước khi triết học Mác ra đời, đã có nhiều quan điểm khác
nhau về thực tiễn.
L.Phoiơbắc cho rằng, chỉ có lý luận mới thực sự là hoạt động chân
chính của con người; còn thực tiễn là hoạt động có tính chất con buôn, “bẩn
9


thỉu” giống như hoạt động của con người trong nền kinh tế thị trường. Phê
phán quan niệm này, C.Mác viết: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ

nghĩa duy vật từ trước đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là sự
vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách
thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác
của con người, là thực tiễn” [27; tr.9].
Các nhà triết học duy tâm chính là những người thấy được tính năng
động, sáng tạo trong hoạt động của con người nhưng họ lại tuyệt đối hóa quá
trình hoạt động đó, giới hạn thực tiễn ở hoạt động tinh thần. G.V.Ph.Hêghen
cho rằng, thực tiễn là hoạt động có ý chí của tư tưởng.
Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan
điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
đem lại một quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối
với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Theo C.Mác, quan hệ khởi nguyên của
con người và giới tự nhiên là quan hệ thực tiễn. Ông viết: “Con người hoàn
toàn không bắt đầu từ chỗ ở trong quan hệ lý luận đối với những vật của thế
giới bên ngoài… mà tích cực hoạt động” [28; tr.538]. Như vậy, C.Mác đã
khẳng định rằng, con người không ngừng tác động vào thế giới xung quanh,
mọi hoạt động của con người, xét đến cùng đều dựa trên cơ sở trao đổi chất và
trao đổi năng lượng với thế giới xung quanh. Con người với các thực thể tự
nhiên có sự khác biệt căn bản là ở chỗ, con người có khả năng nhận thức và
cải tạo thế giới khách quan theo nhu cầu, lợi ích của mình. Hoạt động nhận
thức chỉ nảy sinh, phát triển từ thực tiễn và vì thực tiễn.
Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý
luận nhận thức nói riêng. V.I.Lênin nhận xét: “Quan điểm về đời sống, về thực
tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức” [19; tr.167].
10


Vậy thực tiễn là gì? Theo triết học Mác, thực tiễn là toàn bộ hoạt động
vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến

tự nhiên và xã hội.
- Tổ chức thực tiễn
TCTT là một dạng hoạt động của con người nhằm thực hiện một
nhiệm vụ nào đó theo mục đích nhất định. Đây là một quá trình hết sức phức
tạp, bao gồm nhiều dạng hoạt động cụ thể với các mục tiêu khác nhau; là một
quy trình bao gồm nhiều khâu nối tiếp nhau, liên hệ chặt chẽ với nhau: nhận
thức vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, cụ thể hóa thành nội dung thực hiện, huy
động, tập hợp lực lượng thực hiện, kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện, tổng
kết kinh nghiệm.
Khi bàn về TCTT, có nhiều ý kiến khác nhau. Tác giả Phạm Văn Hai
trong Luận văn thạc sĩ triết học của mình đã định nghĩa:
Tổ chức thực tiễn là quá trình bao gồm sự liên kết, phối hợp các
nhân tố khách quan và chủ quan, các yếu tố vật chất và tinh thần, tri
thức và tình cảm, truyền thống và thời đại, trong nước và quốc tế…
thành một hệ thống, một chỉnh thể hoạt động nhịp nhàng, cân đối có
hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu đã xác định [14; tr.6].
Hai tác giả Đình Nguyên – Hữu Xanh trong bài “Nâng cao năng lực tổ
chức thực tiễn” lại cho rằng:
Tổ chức thực tiễn là quá trình bao gồm sự liên kết, phối hợp các
nhân tố khách quan và chủ quan, các yếu tố vật chất và tinh thần;
truyền thống và thời đại; con người; xã hội và tự nhiên; sức lao động,
tư liệu lao động, hoàn cảnh, điều kiện trong nước và quốc tế thành một
hệ thống, một chỉnh thể hoạt động nhịp nhàng, cân đối, có hiệu quả
nhằm đạt được mục tiêu xác định [35; tr.64].
Các quan điểm trên đã đề cập đến những nội dung cơ bản của TCTT,
đều xem TCTT như là một quá trình có sự liên kết, phối hợp của nhân tố
11


khách quan và chủ quan, vật chất và tinh thần, truyền thống và thời đại, trong

nước và quốc tế… thành một chỉnh thể hoạt động nhịp nhàng, cân đối nhằm
đạt được một mục tiêu nhất định.
Ở đây, tác giả tán đồng với quan điểm thứ nhất. Trên cơ sở kế thừa
những yếu tố hợp lý đó, tác giả cho rằng: Tổ chức thực tiễn là sự liên kết,
phối hợp giữa các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, các yếu tố vật
chất và tinh thần, truyền thống và thời đại thành một chỉnh thể thống nhất
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội theo những mục tiêu đã xác định.
TCTT là một phạm trù rất rộng, là một hệ thống khép kín bao gồm các
khâu từ ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết định đến kiểm tra việc thực
hiện quyết định và tổng kết quá trình thực hiện quyết định. TCTT không chỉ
đơn thuần là tổ chức một quá trình kinh tế, chính trị hay xã hội mà là cả một
quá trình tổ chức thực hiện tổng thể các chương trình, kế hoạch, mục tiêu đã
xác định.
- Năng lực tổ chức thực tiễn
Muốn TCTT đạt hiệu quả thì chủ thể phải nắm bắt được quy luật vận
động của tự nhiên và xã hội, biết sử dụng, phát huy các điều kiện vật chất và
tinh thần, các phương tiện, các lực lượng xã hội… Nói cách khác, chủ thể
TCTT cần phải có NLTCTT.
Theo tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết Mai thì năng lực tổ chức thực tiễn là
những hiểu biết, những kỹ năng và các phẩm chất tâm – sinh lý của chủ thể
quản lý đảm bảo cho việc tổ chức thực tiễn đạt hiệu quả [29; tr.23]. Theo đó,
cấu trúc NLTCTT của chủ thể TCTT (chủ thể TCTT ở đây là cán bộ lãnh đạo,
quản lý) gồm 3 bộ phận, đó là khả năng hiểu biết, các kỹ năng cần thiết và các
phẩm chất tâm – sinh lý.
Đối với con người nói chung, người cán bộ nói riêng thì khả năng hiểu
biết có vai trò rất lớn, bởi vì khi có hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về đối tượng thì

12



sự tác động cải tạo chúng mới đem lại hiệu quả cao. Trong quá tình TCTT của
người cán bộ, sự hiểu biết được thể hiện ở khả năng nhận thức được chức
trách, nhiệm vụ của mình, am hiểu chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, nắm vững đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội ở địa
phương, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp vị trí công tác.
Bên cạnh khả năng hiểu biết, NLTCTT còn thể hiện ở các kỹ năng cần
thiết cho quá trình TCTT đạt hiệu quả như kỹ năng cụ thể hóa chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước thành những quyết định phù
hợp với thực tiễn địa phương, kỹ năng phổ biến và truyền đạt chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đến quần chúng nhân dân và
kỹ năng tổ chức thực hiện để biến những chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách của Nhà nước thành hiện thực. Các kỹ năng này được thể hiện
xuyên suốt quá trình TCTT của người cán bộ.
Một yếu tố quan trọng góp phần làm hoàn chỉnh NLTCTT của người
cán bộ là các phẩm chất tâm – sinh lý. Nghĩa là muốn có NLTCTT thì trước
hết người cán bộ đó phải có sức khỏe, cơ thể phát triển bình thường, có ý thức
và hành động nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Người cán bộ khi đã xác
định được mục tiêu, kế hoạch hành động rồi thì cần phải có sức khỏe mới có
thể biến mục tiêu đó thành hiện thực. Mặc khác, sự phát triển không phải lúc
nào cũng diễn ra theo đường thẳng tắp mà luôn có những khúc quanh co,
phức tạp, luôn có những vấn đề mới nảy sinh, có thể cản trở việc hiện thực
hóa mục tiêu. Điều đó đòi hỏi người cán bộ phải có ý chí khắc phục khó khăn
để đạt được mục tiêu đã xác định.
Ở đây, tác giả tán đồng với quan điểm của tác giả Nguyễn Thị Tuyết
Mai và cho rằng: NLTCTT có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình
TCTT của người cán bộ lãnh đạo, quản lý, giúp họ hoàn thành tốt chức năng
của mình là tổ chức, chỉ đạo thực tiễn, đưa lý luận vào thực tiễn.
13



Như vậy, NLTCTT của chủ thể được thể hiện ở trình độ hiểu biết, ở
kỹ năng triển khai và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, ở khả năng lôi cuốn, tập
hợp đông đảo quần chúng nhân dân thành phong trào rộng lớn nhằm đạt được
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, để hình thành và nâng cao
NLTCTT thì trước hết chủ thể phải được cung cấp những tri thức về TCTT và
có được các kỹ năng cần thiết để triển khai hoạt động đó.
1.1.2. Cấp xã và cán bộ chủ chốt cấp xã
- Cấp xã
Cấp xã mà luận văn nghiên cứu là cấp cơ sở với tư cách là một cấp
quản lý trong hệ thống quản lý hành chính Nhà nước. Cấp xã nằm trong mối
quan hệ tác động hai chiều: cấp trung ương – cấp tỉnh – cấp huyện – cấp xã.
Cấp cơ sở bao gồm xã, phường, thị trấn. Phường là đơn vị hành chính cơ sở ở
đô thị, đặc trưng bởi quản lý đô thị. Xã và thị trấn là đơn vị hành chính cơ sở
ở nông thôn.
Cấp xã có vai trò rất quan trọng, là nền tảng của nền hành chính quốc
gia, là nơi tổ chức các hoạt động nhằm hình thành và phát triển khả năng sáng
tạo, năng lực làm chủ của nhân dân. Cấp xã là nơi mà thực tiễn diễn ra phong
phú, đa dạng hàng ngày, hàng giờ, cũng là nơi kiểm tra tính đúng đắn của chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước. Vì vậy,
cấp xã là cấp tổ chức thực hiện, cấp chấp hành, cấp hành động. Chủ trương,
đường lối, nghị quyết, chính sách muốn đi vào cuộc sống phải thông qua cấp
xã, phải đến được với xã, phải được thực hiện ở xã thành các phong trào hành
động của nhân dân. Cấp xã cũng là nơi kiểm tra tính đúng đắn, sự phù hợp
hoặc không phù hợp, sai lầm, cung cấp những kinh nghiệm cho sự điều chỉnh,
bổ sung, hoàn thiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chính sách ấy.
Mặc dù là cấp thấp nhất theo sự phân cấp quản lý, nhưng cấp xã có
tầm quan trọng đặc biệt. Nó là bức tranh xã hội thu nhỏ, trong đó đời sống
14



hiện thực của con người được thể hiện rõ. Vai trò quan trọng của cấp xã là do
yêu cầu khách quan của đời sống nhân dân, của nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội ở xã quy định. Cuộc sống của cộng đồng dân cư ở xã là một tập hợp lớn,
phức tạp, đa dạng với nhiều vấn đề cần giải quyết như: lao động, việc làm,
dạy nghề, trật tự an toàn xã hội, y tế, văn hóa, đạo đức… Đáp ứng nhu cầu
cuộc sống của nhân dân và tạo điều kiện để mọi người dân phát triển khả
năng sáng tạo, phát huy quyền làm chủ của họ là vấn đề cốt lõi tạo nên vai trò
của cấp xã. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là
nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong
xuôi” [30; tr.460].
- Cán bộ chủ chốt và cán bộ chủ chốt cấp xã
Để nghiên cứu NLTCTT của CBCCCX hiện nay, trước hết cần làm rõ
quan niệm về cán bộ chủ chốt và CBCCCX.
Trong các văn bản, nghị quyết của Đảng đề cập rất nhiều đến khái
niệm cán bộ chủ chốt. Tuy nhiên, vẫn chưa có một quan niệm thống nhất và
những tiêu chí cụ thể để xác định ai là cán bộ chủ chốt, ai không phải là cán
bộ chủ chốt.
Có người cho rằng, cán bộ chủ chốt bao gồm toàn bộ cán bộ là ủy viên
thường vụ và ban chấp hành của tổ chức Đảng, thường trực của bộ máy chính
quyền và ủy viên ban chấp hành các đoàn thể. Có người lại quan niệm cán bộ
chủ chốt là người đứng đầu quan trọng nhất. Trong mỗi tổ chức đều có tập thể
lãnh đạo, trong tập thể lãnh đạo có người đứng đầu, có vai trò chi phối toàn
bộ hoạt động của tổ chức, người đó chính là cán bộ chủ chốt.
Có quan điểm lại cho rằng:
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những cán bộ lãnh đạo, nhưng là
lãnh đạo toàn diện, có trọng trách nặng nề nhất, có quyền thay mặt tập

15



thể lãnh đạo giải quyết các vấn đề và chịu trách nhiệm trước tập thể
[40; tr.139].
Quan điểm này đã đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất của người cán
bộ chủ chốt nhưng chưa xác định được những tiêu chí cụ thể.
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, khái niệm CBCCCX mà chúng tôi
sử dụng là:
Những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất
trong một tập thể, có quyền ra những quyết định về chủ trương, có
trách nhiệm về quyền điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức
để thực hiện những nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức ấy, thậm chí có
thể chi phối, dẫn dắt toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định [53;
tr.35, 36].
Đó là:
- Những người giữ chức vụ cao nhất trong các tổ chức Đảng, Chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã;
- Những người có trách nhiệm chính trong việc đề ra các chủ trương,
nghị quyết, quyết định của Đảng ủy, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội ở cấp xã;
- Những người có nhiệm vụ quan trọng nhất trong việc điều hành và tổ
chức thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách
của Nhà nước trên địa bàn xã;
- Những người chịu trách nhiệm chính trước tập thể, Nhân dân và cấp
trên về nhiệm vụ ở cương vị công tác ở cấp xã.
Như vậy, CBCCCX là bộ phận quan trọng nhất trong một tổ chức nhất
định của hệ thống chính trị ở cấp xã, là người thực hiện sự lãnh đạo toàn diện,
ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của tổ chức đó.

16



Từ những nội dung trên, tác giả cho rằng: Cán bộ chủ chốt cấp xã là
những người đứng đầu tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã.
Mỗi CBCCCX được xác định gắn liền với một tổ chức và một chức
danh cụ thể: Bí thư Đảng ủy là cán bộ chủ chốt của Đảng; Chủ tịch Hội đồng
Nhân dân (HĐND), Chủ tịch Ủy ban Nhân dân (UBND) là cán bộ chủ chốt
của Chính quyền; Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc (UBMTTQ), Chủ tịch
Hội Nông dân (HND), Chủ tịch Hội Cựu chiến binh (HCCB), Chủ tịch Hội
Liên hiệp phụ nữ (HLHPN), Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
(ĐTNCSHCM) là cán bộ chủ chốt của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội.
Trong hệ thống chính trị ở cấp xã, cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt
luôn luôn biến động cùng với sự vận động, phát triển kinh tế - xã hội. Xã hội
càng phát triển thì cơ cấu cán bộ chủ chốt càng đa dạng, phức tạp. Tùy theo
yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng mà xác định đội ngũ cán bộ
nào giữ vai trò quan trọng. Muốn có đội ngũ CBCCCX tích cực, sáng tạo, đáp
ứng tốt yêu cầu công việc thì cơ cấu tổ chức phải hợp lý, tinh gọn.
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng và tầm quan trọng của nâng cao năng lực
tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Trà Vinh
1.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tổ chức thực tiễn của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Trà Vinh
1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Trà Vinh
* Lịch sử hình thành tỉnh Trà Vinh
Trải qua những thăng trầm vì bị chi phối bởi những quy luật kiến tạo
địa chất cùng những lần "biển tiến, biển lùi", vùng đất có tên gọi "Trà Vang" tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này đã được hình thành vào khoảng thế kỷ
XVII. Vào thời kỳ đó, Trà Vinh vẫn còn là một vùng đất hoang vu, các loại
17


cây rừng trùm lên những giồng đất, những đầm lầy và sông rạch chằng chịt,

dân cư thưa thớt.
Vào thế kỷ XVII, các quốc gia phong kiến như Việt Nam, Trung
Quốc, Campuchia... trong bối cảnh chung của thế giới đã không tránh khỏi sự
khủng hoảng và suy yếu. Ở Việt Nam, cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn (1627
- 1673) đã chia cắt đất nước thành hai xứ: Đàng trong và Đàng ngoài (lấy
sông Gianh làm ranh giới). Điều này đã làm cho hàng vạn nông dân lâm vào
thảm họa bị tiêu diệt, phải đi tìm cõi sống ở Phương Nam.
Trước thực tế khách quan đó, vào cuối thế kỷ thứ XVII, các Chúa
Nguyễn đã chủ động tổ chức di dân người Việt vào vùng đất Nam bộ, thực thi
những chính sách chiêu mộ lưu dân và đưa quân đội vào Nam khai phá đất
đai. Cùng với người Việt và người Khmer, người Hoa cũng được Chúa
Nguyễn tạo điều kiện để cùng nhau khai phá và định cư trên vùng đất phía
Nam này, trong đó có vùng đất Trà Vinh.
Như vậy, vùng đất Trà Vinh, con đẻ của Biển Đông và sông Cửu
Long, một vùng đất chứa đựng một hệ sinh thái đa dạng cùng với nhiều tiềm
năng kinh tế khác nhau, vào thế kỷ thứ XVII đã có chủ nhân là một cộng đồng
dân cư đa dân tộc (Việt, Khmer, Hoa…). Sự hình thành một cộng đồng dân
cư đa dân tộc trên vùng đất này là một trong những sự kiện lịch sử có ý nghĩa
cực kỳ trọng đại đối với sự hình thành và phát triển của tỉnh Trà Vinh sau này.
Sự hình thành và phát triển của tỉnh Trà Vinh có thể được chia thành 2
giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: từ năm 1732 đến năm 1900
Vùng đất và tên gọi "Trà Vang", tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này
đã có từ trước khi Chúa Nguyễn lập Châu Định Viễn, dựng Dinh Long Hồ
vào năm 1732. Như vậy, lúc bấy giờ đất Trà Vinh thuộc Châu Định Viễn.

18


Năm 1802, sau khi lên ngôi, Vua Gia Long bắt tay ngay vào việc sắp

xếp và phân định lại ranh giới các đơn vị hành chính trên toàn quốc. Từ đó,
Gia Định Phủ được đổi thành Gia Định Trấn. Lãnh thổ Gia Định Trấn được
phân chia thành 4 dinh và 1 trấn phụ, vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh
Vĩnh Trấn.
Năm 1803, Vua Gia Long cho lập địa đồ các dinh thuộc Gia Định
Trấn và đổi Dinh Vĩnh Trấn thành Dinh Hoằng Trấn. Vùng đất Trà Vinh lúc
này thuộc Dinh Hoằng Trấn.
Năm 1808, Gia Long đổi Gia Định Trấn thành Gia Định Thành, Dinh
Vĩnh Trấn được đổi thành Trấn Vĩnh Thanh. Lúc bấy giờ, vùng đất Trà Vinh
thuộc Trấn Vĩnh Thanh.
Năm 1825, vùng đất Trà Vinh được Vua Minh Mạng lập thành Phủ
Lạc Hóa trực thuộc Gia Định Thành gồm hai huyện Trà Vinh và Tuân Mỹ.
Đến năm 1832, Trấn Vĩnh Thanh được đổi tên là Trấn Vĩnh Long. Sau
đó, Vua Minh Mạng cho đổi các trấn thành tỉnh. Vùng đất Nam Bộ được chia
thành sáu tỉnh, gọi là "Nam Kỳ lục tỉnh" gồm: Biên Hòa, Gia Định, Định
Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Lúc này, Trà Vinh là một huyện
thuộc Phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long.
Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định phân chia toàn bộ Nam
Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn. Trên cơ sở phân chia đó, khu vực hành
chính lớn Vĩnh Long gồm 4 tiểu khu: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Sa Đéc.
Tiểu khu Trà Vinh là tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này.
Ngày 20/12/1899, Toàn quyền Đông Dương Doumer ký nghị định đổi
tên gọi tiểu khu thành tỉnh. Từ đây Nam Kỳ lục tỉnh cũ được phân chia lại
thành 10 tỉnh mới, tỉnh Vĩnh Long cũ được tách ra thành 3 tỉnh mới: Vĩnh
Long, Bến Tre, Trà Vinh. Nghị định này được chính thức thi hành từ ngày
1/1/1900. Từ đây, tên tỉnh Trà Vinh được sử dụng chính thức trên các văn bản
tiếng Pháp là Province de Trà Vinh.
19



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồng Văn Ân (2008), Thực trạng và giải pháp tạo nguồn cán bộ chủ chốt
của hệ thống chính trị tỉnh Trà Vinh thời kỳ 2005 – 2015, Đề tài khoa
học cấp tỉnh, Ban tổ chức – Tỉnh ủy Trà Vinh.
2. Ban Tổ chức Trung ương (2003), Hướng dẫn số 17-HD/TCTW ngày 23/4,
về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Nguyễn Đức Bình (1983), Mấy vấn đề tổ chức thực tiễn, Nxb Sự thật, Hà Nội.
4. Bộ Nội vụ (2004), Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV, ngày 16/01 về việc ban
hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường,
thị trấn.
5. Chính phủ (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10 về chức danh, số
lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường,
thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
6. Cục thống kê tỉnh Trà Vinh (2015), Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Trà Vinh
năm 2015.
7. Lê Duẩn (1984), Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tập 4, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

87



12. Má Thị Hà (2008), “Đồng bào dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh trong cuộc vận
động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, Mặt Trận, (20), tr.10-12.
13. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Phạm Văn Hai (1997), Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cơ sở (qua thực tế tỉnh Long An), Luận văn thạc sĩ triết
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
15. Trần Đình Hoan (2002), “Luân chuyển cán bộ, khâu đột phá nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm thời kỳ phát triển
mới”, Cộng sản, (7), tr.6-12.
16. Nguyễn Hải Khoát (1990), “Năng lực tổ chức cán bộ lãnh đạo, quản lý”,
Xây dựng Đảng, (9), tr.13-18.
17. Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
18. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, tập 35, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, tập 38, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Phạm Văn Liên (2002), Vấn đề tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp cơ sở ở Ninh Thuận, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
25. Ngô Nguyên Lương (2007), “Về quan điểm và tiêu chuẩn thực tiễn”, Triết
học, (10), tr.41-51.
26. Châu Thị Trúc Ly (2013), Đào tạo cán bộ, công chức cấp xã, phường
người Khmer ở tỉnh Trà Vinh, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
88



27. C.Mác – Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia –
Sự thật, Hà Nội.
28. C.Mác – Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị Quốc gia –
Sự thật, Hà Nội.
29. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2005), Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của
cán bộ chủ chốt cấp xã ở một số tỉnh Đồng bằng Sông Hồng trong điều
kiện hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
30. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
31. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
32. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
33. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
34. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
35. Đình Nguyên – Hữu Xanh (1980), “Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn”,
Cộng sản, (8), tr.64-65.
36. Trần Quang Nhiếp (2003), “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở”, Cộng sản,
(8), tr.38-42.
37. Trần Văn Phòng (2002), “Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn của đội
ngũ cán bộ quản lý cấp tỉnh”, Lý luận chính trị, (3), tr.49-52.
38. Nguyễn Trọng Phúc (2003), Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

89



39. Quy định pháp luật về bộ máy chính quyền cấp cơ sở (2003), NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
40. Trần Xuân Sầm (1998), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ
chốt trong hệ thống chính trị đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
41. Sở Nội vụ - UBND tỉnh Trà Vinh (2011), Báo cáo tổng kết 5 năm thực
hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh Trà Vinh giai
đoạn 2006 – 2010.
42. Sở Nội vụ tỉnh Trà Vinh (2011), Thống kê số lượng, chất lượng cán bộ,
công chức cấp xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không
chuyên trách cấp xã, ấp, khóm.
43. Sở Nội vụ tỉnh Trà Vinh (2012), Báo cáo số lượng, chất lượng cán bộ,
công chức cấp xã.
44. Sở Nội vụ tỉnh Trà Vinh (2013), Báo cáo số lượng, chất lượng cán bộ,
công chức cấp xã.
45. Sở Nội vụ tỉnh Trà Vinh (2014), Báo cáo số lượng, chất lượng cán bộ,
công chức cấp xã.
46. Nguyễn Văn Tài (2010), Phát huy tính tích cực xã hội của đội ngũ cán bộ
nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
47. Trần Thành (2001), “Tư duy lý luận đối với người cán bộ lãnh đạo, chỉ
đạo thực tiễn”, Lý luận chính trị, (2), tr.43-47.
48. Nguyễn Văn Thơ (2008), Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh, Luận
văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
49. Thư viện tỉnh Trà Vinh – Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2/2015),
Thông tin chuyên đề: Trà Vinh đổi mới và phát triển.
50. Tỉnh ủy Trà Vinh (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Trà
Vinh lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2005 - 2010.
90



51. Tỉnh ủy Trà Vinh (2010), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Trà
Vinh lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010 - 2015.
52. Tỉnh ủy Trà Vinh (2015), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Trà
Vinh lần thứ X, nhiệm kỳ 2015 - 2020.
53. Nguyễn Phú Trọng – Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
54. Từ điển triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
55. Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh (2010), Quyết định số 2159/QĐ-UBND
ngày 07/12 về việc ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2011 – 2015.
56. Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh (2011), Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Trà Vinh đến năm 2020.
57. Lê Kim Việt, (2001), “Uy tín của người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước
ta hiện nay”, Cộng sản, (20), tr.41-44.
58.
59. www.travinh.gov.vn

91



×