Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Giáo trình toàn cầu hóa và quan hệ quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.79 KB, 46 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)
TOÀN CẦU HÓA VÀ QUAN HỆ QUỐC TẾ
(Dành cho Sinh viên ngành Giáo dục chính trị-Hệ chính quy)

Tác giả: Th.S Nguyễn Thị Hương Liên

Năm 2017

1


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU-----------------------------------------------------------------------------3
CHƯƠNG 1: TOÀN CẦU HÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN MỞ
RỘNG ĐỐI NGOẠI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ----------------------------------4
1.1 Toàn cầu hóa và những nhân tố có ảnh hưởng đến sự hình thành và thúc đẩy
quá trình toàn cầu hóa---------------------------------------------------------------------4
1.2 Những tác động của toàn cầu hoá đến mở rộng đối ngoại và hội nhập quốc
tế----------------------------------------------------------------------------------------------9
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ-------13
2.1. Khái niệm quan hệ quốc tế--------------------------------------------------------13
2.2. Chủ thể quan hệ quốc tế-----------------------------------------------------------13
2.3. Quan hệ giữa các quốc gia dân tộc trong giai đoạn hiện nay------------------14
2.4. Xu thế chung của các quốc gia dân tộc trong quan hệ quốc tế hiện đại------15
2.5. Nội dung những vấn đề toàn cầu mà thế giới đang đối mặt-------------------16
2.6. Châu Á-Thái Bình Dương- chiến lược của một số nước, tính chất, xu hướng


và mối quan hệ trong khu vực----------------------------------------------------------18
2.7. Đông Nam Á- giai đoạn hợp tác và phát triển----------------------------------19
CHƯƠNG 3: QUÁ TRÌNH MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ
CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG XU
THẾ TOÀN CẦU HÓA----------------------------------------------------21
3.1 Quá trình thực hiện đường lối đối ngoại của Việt Nam-------------------------21
3.2 Những thành tựu đạt được trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
của Việt Nam------------------------------------------------------------------------------33
3.3 Những tồn tại, hạn chế trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế của
Việt Nam-----------------------------------------------------------------------------------35
CHƯƠNG 4: NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ VIỆT
NAM CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ CÓ HIỆU QUẢ------------------37
4.1 Chủ trương và mục tiêu đối ngoại của Việt Nam--------------------------------37
4.2 Những giải pháp cơ bản để Việt Nam chủ động hội nhập quốc tế có hiệu quả----------------------------------------------------------------------------------------------41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2


LỜI NÓI ĐẦU
Để tồn tại, con người, bất kể quốc gia hay dân tộc nào cũng đều có nhu cầu
chung là ăn, mặc, tìm nơi ở và tổ chức đời sống cộng đồng. Trước xu hướng toàn
cầu hoá nhanh chóng hiện nay, một đất nước muốn phát triển chỉ có một con
đường duy nhất, không có con đường nào khác là con đường hội nhập quốc tế.
Đối với Việt Nam cũng vậy, chúng ta muốn thực hiện nhanh chóng quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá để nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp,
và đạt được mục đích sau cùng là đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần hội nhập
quốc tế và hoà nhập vào xu hướng toàn cầu hoá chung của thế giới. Vì hội nhập
quốc tế cho ta những cơ hội có thể tạo bước đột phá lớn, song bên cạnh đó là vô
vàn thách thức và những mặt trái của nó, từ lẽ đó cho thấy ta phải có những bước
đi đúng đắn có một cái nhìn tổng quan về sự phát triển của đất nước cùng với xu

thế thế giới trong quá trình hội nhập.
Tài liệu cung cấp cho sinh viên những vấn đề lý luận về toàn cầu hóa và
quan hệ quốc tế như: các quan niệm, những nhân tố có ảnh hưởng đến sự hình
thành và thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá; Những tác động của toàn cầu hoá đến
mở rộng đối ngoại; Lý luận chung về quan hệ quốc tế; Nội dung cơ bản của
chính sách đối ngoại ở Việt Nam; Những cơ hội và thách thức trong quá trình
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế của Việt Nam; Ngoài ra còn nêu ra chủ trương,
mục tiêu và giải pháp đối ngoại của Việt Nam.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TOÀN CẦU HÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN MỞ
RỘNG ĐỐI NGOẠI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. Toàn cầu hoá và những nhân tố có ảnh hưởng đến sự hình thành và
thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá
1.1.1. Khái niệm
Hiện nay trong học thuật cũng còn dùng khá nhiều khái niệm để cùng chỉ về
quá trình toàn cầu hóa. Chẳng hạn trong nhiều tài liệu dùng từ thế giới hóa, rồi
quốc tế hóa, và rồi hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, thậm chí còn có người
đánh đồng thế giới hóa, toàn cầu hóa với các vấn đề có tính toàn cầu.
- Khái niệm toàn cầu hóa (Globalisation) được George Modelski lần đầu tiên
đưa ra vào năm 1972 trong tác phẩm “Principle of the World Politics” (Nguyên
tắc chính trị thế giới)
Ở Việt Nam, thuật ngữ toàn cầu hoá chỉ được đề cập sau thời kỳ thực hiện
chính sách đổi mới năm 1986. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6/1986 đã cho
rằng sự đóng cửa hay khép kín nền kinh tế nội địa là nguy cơ gây tụt hậu phát
triển kinh tế. Vì vậy, Việt Nam phải mở cửa ra thị trường thế giới bên cạnh việc
giữ vững độc lập và an ninh lãnh thổ theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Có nhiều quan niệm về toàn cầu hoá:
- Quan niệm thứ nhất: toàn cầu hóa là giai đoạn cao của quá trình phát triển
lực lượng sản xuất thế giới, là kết quả tất yếu của phát triển kinh tế thị trường và
khoa học công nghệ.
Đúng là toàn cầu hoá phản ánh sự phát triển của lực lượng sản xuất trên qui
mô toàn cầu, song vấn đề đặt ra là bản chất của các hoạt động kinh tế này ra sao?
Quan niệm này dễ đưa lại những cách hiểu đơn giản về toàn cầu hoá, mà trên
thực tế toàn cầu hoá là hiện tượng cực kỳ phức tạp, đầy mâu thuẫn.
- Quan niệm thứ hai: toàn cầu hóa là một giải pháp về quan hệ sản xuất phù
hợp với lực lượng sản xuất thời gian ở thang bậc vi mô.
4


- Quan niệm thứ ba: Dưới góc độ kinh tế, toàn cầu hoá là quá trình lực
lượng sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế phát triển vượt qua các rào cản bởi
biên giới quốc gia và khu vực, lan toả ra phạm vi toàn cầu, trong đó hàng hoá,
vốn, tiền tệ, thông tin, lao động... vận động thông thoáng; sự phân công lao động
mang tính quốc tế; quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen nhau,
hình thành mạng lưới quan hệ đa chiều.
Khái niệm toàn cầu hóa:
Toàn cầu hoá là bước phát triển cao, là giai đoạn chuyển biến về chất của
quá trình quốc tế hoá.
- Nội hàm của toàn cầu hoá là:
+ Sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ gắn kết, tác động phụ thuộc lẫn
nhau giữa các nước.
+ Quá trình mở rộng quy mô và cường độ các hoạt động giữa các khu vực,
các quốc gia, các dân tộc và có sự tham gia của các tổ chức quốc tế trên phạm vi
toàn cầu trong sự vận động phát triển.
- So sánh giữa quốc tế hóa và toàn cầu hóa
+ Giống nhau: Toàn cầu hoá giống quốc tế hoá ở sự phát triển mạnh mẽ của

các lực lượng sản xuất và sự hợp tác xuyên quốc gia của các nước trong tất cả
các lĩnh vực
+ Khác nhau: Toàn cầu hoá không chỉ đơn thuần là sự xích lại gần nhau của
các nước, mà nó là tiến trình bao gồm một hoặc hàng loạt các sự kiện và hoạt
động về kinh tế, chính trị, văn hoá hay môi trường trên thế giới có tác động vừa
tích cực, lẫn tiêu cực giữa các quốc gia.
Mặt khác, với quốc tế hoá, các chủ thể tham gia vào quá trình này chỉ giới
hạn ở các quốc gia dân tộc. Còn với toàn cầu hoá, các chủ thể tham gia quá trình
này đã được mở rộng, ngoài quốc gia dân tộc còn có các tổ chức quốc tế và các
tổ chức khu vực như: quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) , tổ chức thương mại thế giới
(WTO)…
5


Từ đó ta thấy rằng: quốc tế hoá và toàn cầu hoá là một quá trình. Tham gia
vào quốc tế hoá và toàn cầu hoá là hội nhập quốc tế.
Tóm lại, toàn cầu hoá được định nghĩa một cách khách quan nhất là sự phụ
thuộc qua lại không ngừng giữa các quốc gia và các cá nhân. Sự phụ thuộc qua
lại có thể xảy ra trên lĩnh vực kinh tế, công nghệ, môi trường, văn hoá hay xã
hội…
1.1.2. Những nhân tố làm nảy sinh và thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất và tính chất xã hội hóa sản xuất trên
phạm vi quốc tế
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung của mọi thời đại nên
nó là động lực của toàn cầu hóa kinh tế. Trong các xã hội cổ xưa thì lực lượng
sản xuất còn hết sức thấp kém, của cải làm ra chưa đủ bảo đảm những nhu cầu
tối thiểu của con người, các yếu tố của quá trình tái sản xuất đóng khung theo
kiểu “nội bất xuất ngoại bất nhập”, thị trường bị bó hẹp.
Với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự tăng tiến của sản xuất và trao đổi
hàng hóa, sự mở rộng thị trường (nguyên liệu, sức lao động, tiêu thụ sản

phẩm…) thì mối quan hệ cũng dần mở rộng khỏi ranh giới quốc gia, hình thành
các mối quan hệ quốc tế và quá trình toàn cầu hóa được bắt đầu.
- Sự phát triển của khoa học và công nghệ
Như chúng ta đã biết ở vào thế kỷ XV-XVI, nhờ những phát kiến lớn về địa
lý (tìm ra con đường đi vòng quanh thế giới do nhà thám hiểm Firdimand
Magellan thực hiện vào năm 1522…), đặc biệt là sự phát triển của khoa học kỹ
thuật trong lĩnh vực giao thông, thông tin và sản xuất nửa sau thế kỷ XVIII và
đầu thế kỷ XIX đã thật sự làm thay đổi đời sống con người và thế giới.
Cụ thể: Cách mạng công nghiệp thứ nhất diễn ra ở cuối thế kỷ 18 và đầu thế
kỷ 19. Cách mạng công nghiệp lần thứ hai tiếp tục ngay sau đó từ nửa sau thế kỷ
19 đến đầu thế kỷ 20. Cách mạng Công nghiệp lần ba bắt đầu khoảng 1969, khi
có các tiến bộ về hạ tầng điện tử, máy tính và số hoá vì nó được xúc tác bởi sự
6


phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính. Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư
bắt đầu vào đầu thế kỉ 21, tiếp sau những thành tựu lớn từ lần thứ 3 để lại, được
hình thành trên nền tảng cải tiến của cuộc cách mạng số, với những công nghệ
mới như in 3D, robot, trí tuệ nhân tạo, IoT, S.M.A.C, công nghệ nano, sinh học,
vật liệu mới.Những phát minh trong thế kỷ XX như tivi, máy vi tính, máy bay,
xe hơi, kỹ thuật lai tạo giống… đã thật sự giúp nhân loại thu hẹp khoảng cách và
thời gian, làm cho phân công lao động ngày càng mở rộng trên phạm vi quốc gia
và quốc tế. Đặc biệt, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại với những
công cụ thông tin và viễn thông, hệ thống nối mạng đã làm cho quá trình toàn
cầu hoá ngày càng sâu rộng hơn.
Như vậy, có thể nói sự phát triển của khoa học công nghệ là yếu tố vật chất
có tính quyết định sâu xa nhất đến sự phát triển vận động của toàn cầu hoá.
- Sự hình thành mạng lưới sản xuất quốc tế và vai trò ngày càng tăng của
các công ty xuyên quốc gia
+ Mạng lưới sản xuất quốc tế

Như chúng ta đã biết, trước đây sự phân công lao động quốc tế dựa trên cơ
sở chuyên môn hoá theo ngành, nay chuyển sang chuyên môn hoá sản xuất trong
nội bộ ngành, tức là chuyên môn hoá theo đối tượng, chi tiết sản phẩm, phân
chia giữa nhiều công ty độc lập, nằm ở nhiều nước khác nhau. Ví dụ như việc
sản xuất máy bay Airbus: Đôi cánh của Airbus được sản xuất tại Anh, thân và
đuôi của Đức, cửa máy bay do Tây Ban Nha sản xuất và Pháp chịu trách nhiệm
thiết kế buồng lái và công đoạn lắp ráp cuối cùng. Ngoài ra Airbus còn ký hợp
đồng với 27 quốc gia khác để sản xuất các thiết bị cần thiết, với khoảng 35% các
chi tiết trong máy bay do hơn 500 công ty của Mỹ cung cấp.
+ Các công ty xuyên quốc gia (TNC) - lực lượng chi phối toàn cầu hoá
Công ty xuyên quốc gia là công ty cổ phần, vốn là từ 1 quốc gia hình thành
nên. Nhờ quá trình hoạt động lớn mạnh mà thực hiện chính sách hướng ngoại,
mở cửa thị trường thế giới, thị trường hoạt động từ 2 quốc gia trở lên. Theo số
7


liệu của liên hợp quốc thì hiện nay trên thế giới hiện có 64.000 công ty xuyên
quốc gia với 800.000 chi nhánh ở nước ngoài (năm 1970 chỉ có 7.000 với 27.000
chi nhánh), có tổng doanh thu hơn 15.000 tỷ. Thương mại trong nội bộ TNC và
giữa các TNC với nhau chiếm 2/3 thương mại thế giới, 4/5 vốn đầu tư ra nước
ngoài được tiến hành bởi các TNC, 9/10 kết quả nghiên cứu triển khai kỹ thuật
và chuyển giao công nghệ nằm trong tay các TNC. Giá trị tổng tư bản thị trường
của Microsoft, Dell, Cisco và SBC Communication đã lớn hơn toàn bộ giá trị sản
xuất hàng hóa hàng năm của Vương quốc Liên hợp Anh. Riêng Microsoft có
tổng tài sản tương đương nền kinh tế của quốc gia đứng thứ 11 thế giới.
- Các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại quốc tế đóng vai trò thúc đẩy
toàn cầu hóa kinh tế
Vai trò của các tổ chức như IMF, WB, WTO là hỗ trợ về vốn, thúc đẩy tự do
thương mại, giải quyết các tranh chấp quốc tế… những tổ chức này ra đời là kết
quả của quá trình toàn cầu hoá. Song đến lượt mình, chúng lại trở thành nhân tố

thúc đẩy toàn cầu hoá. Có thể kể tên một vài tổ chức sau: WTO (Tổ chức
thương mại thế giới), IMF (Qũy tiền tệ quốc tế), WB (Ngân hàng thế giới), EU
(Liên minh châu Âu), ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), APEC(
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương), NAFTA (Khu mậu dịch tự
do Bắc Mỹ), AFTA( Khu mậu dịch tự do Đông Nam Á)…Trong các tổ chức trên
thì WTO với 150 nước thành viên, là tổ chức có vai trò hàng đầu trong việc thúc
đẩy quan hệ thương mại toàn cầu, từ đó cũng thúc đẩy sự phát triển của quá trình
toàn cầu hoá.
Những tác động của các tổ chức này đến toàn cầu hoá thể hiện ở các hiệp
định, hiệp ước của chúng. Ví dụ: hiệp định nhằm gỡ bỏ các hạn chế đối với
thương mại tự do của GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại);
Những hiệp ước thành lập Tổ chức thương mại thế giới WTO nhằm giải quyết
các tranh chấp thương mại. Hay như các hiệp ước thương mại song phương khác

8


như: hiệp ước của Marstrict của châu Âu và hiệp ước mậu dịch tự do Bắc Mỹ (
NAFTA) cũng nhằm mục tiêu giảm bớt các thuế quan và rào cản thương mại…
- Do sự phát triển kinh tế đã nảy sinh những vấn đề toàn cầu
Những vấn đề toàn cầu như: môi trường thiên tai, dịch bệnh, tội phạm ma
tuý, nạn khủng bố quốc tế, vấn đề di dân… đòi hỏi phải có sự hợp tác toàn cầu
mới có thể giải quyết được.Ví dụ: trên thế giới hiện nay có khoảng 200 triệu
người sử dụng chất ma tuý, nửa triệu phụ nữ và các em gái ở các nước đang phát
triển bị bán sang các nước đang phát triển, hiện tượng biến đổi khí hậu ngày
càng theo chiều hướng xấu, sự tăng nhiệt độ của điạ cầu gây ra nhiều cơn bão
lớn như El Nino và La Nina, đáng quan tâm hiện nay là hiện tượng mực nước
biển tăng cao xâm lấn đất liền ở nhiều nước.
Những vấn đề này có ảnh hưởng tới phạm vi toàn cầu và luôn đòi hỏi các
quốc gia trên toàn thế giới tìm gia các giải pháp và chiến lược phát triển mang

tính bền vững.
1.2. Những tác động của toàn cầu hoá đến mở rộng đối ngoại và hội
nhập quốc tế
1.2.1 Tác động tích cực
* Kinh tế
- Thúc đẩy sự phát triển kinh tế và quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất,
tạo sự tăng trưởng kinh tế cao ở nhiều khu vực, tái cơ cấu nền kinh tế thế giới.
- Truyền bá, chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn những thành quả,
những phát minh sáng tạo mới về khoa học - công nghệ và tổ chức quản lý về
mọi lĩnh vực: Công nghệ thông tin (internet, điện thoại, …), điện tử (máy vi tính,
máy ảnh…)…
- Toàn cầu hóa tạo ra khả năng phát huy có hiệu quả nguồn lực trong nước
và sử dụng nguồn lực quốc tế cả về vốn và con người.
- Thị trường được mở rộng, giao lưu hàng hóa thông thoáng hơn, hàng rào
thuế quan giảm dần, nhờ hàng hóa tăng mạnh, thúc đẩy quá trình sản xuất có lợi
9


cho sự phát triển của các nước. Lượng hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu tăng
mạnh
- Năng suất lao động tăng cao, giá thành sản phẩm giảm, hàng hóa ngày càng
đa dạng…
- Nguồn vốn khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý cùng hình thức đầu
tư, hợp tác mang lại lợi ích cho các bên tham gia.
- Qúa trình toàn cầu hóa gia tăng, tính tùy thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế có
lợi cho cuộc đấu tranh vì hòa bình hợp tác và phát triển
* Chính trị
- Tạo các thế mạnh về quân sự, chính trị bằng việc áp dụng các thành tựu
khoa học, kỹ thuật và sản xuất các vũ khí quân sự, …. cho các quốc gia.
- Các quốc gia học hỏi lẫn nhau về kinh nghiệm tổ chức, hoạt động, quản lý

nhà nước để đạt hiệu quả cao nhất.
* Văn hóa, xã hội, ngôn ngữ
- Giao lưu văn hóa, trí tuệ, chuyển giao công nghệ.
- Con người được tiếp xúc với các nền văn hoá và văn minh khác nhau, giúp
mọi người hiểu hơn về thế giới và những thách thức ở quy mô toàn cầu qua sự
bùng nổ các nguồn thông tin, việc phổ thông hoá hoạt động du lịch, việc tiếp cận
dễ dàng hơn với giáo dục và văn hoá;
- Các quốc gia có sự đồng nhất qua ảnh hưởng của các dòng chảy thương
mại và văn hoá mạnh mẽ. Đồng nhất hóa việc dùng “tiếng anh toàn cầu”.
- Gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế, chẳng hạn như việc xuất khẩu các văn
hoá phẩm như phim ảnh hay sách báo…
- Thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc tạo mối quan hệ gần gũi
gắn bó giữa các quốc gia, tăng tính phụ thuộc lẫn nhau nâng cao sự hiểu biết
giữa các quốc gia.
- Đem lại cho người lao động nhiều cơ hội tìm việc làm có thu nhập cao.
- Góp phần nâng cao dân trí người dân.
10


- Toàn cầu hoá sẽ làm tăng lên nhiều lần các mối quan hệ giữa các công dân
trên thế giới và cũng như các cơ hội cho từng người
- Điều kiện lao động ở thành thị, nông thôn được cải thiện đời sống nhân dân
từng bước được nâng cao.
- Mức độ bao phủ của hệ thống an sinh xã hội ngày càng rộng, đời sống của
mọi người dân trên thế giới tăng dần.
- Sự tương trợ lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới để đem lại cuộc sống
hòa bình rộng khắp.
- Những thiết bị kỹ thuật y tế, phương pháp chữa bệnh trên các quốc gia
được trao đổi, học hỏi lẫn nhau làm giảm tỷ lệ số người chết do bệnh tật,…
- Nền giáo dục giữa các quốc gia ngày càng cao kèm theo sự học hỏi, giao

lưu quốc tế: tổ chức các kỳ thi quốc tế, các học sinh, sinh viên đi du học,…Nền
giáo dục trên toàn thế giới nói chung và của các quốc gia nói riêng phát triển
vượt bậc.
- Toàn cầu hoá cũng tác động đến ý thức con người, khiến con người chú ý
hơn đến những vấn đề có ảnh hưởng toàn cầu như vấn đề nóng lên của khí hậu,
khủng bố, buôn lậu ma tuý và vấn đề nâng cao mức sống ở các nước nghèo
1.2.2. Tác động tiêu cực
* Kinh tế
- Làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, phân hóa giàu nghèo giữa các
nước, các khu vực; Nạn thất nghiệp tăng
- Nền kinh tế toàn cầu hóa là một nền kinh tế rất dễ bị chấn thương, sự trục
trặc ở một khâu có thể lan nhanh ra phạm vi toàn cầu. Năm 2009, khủng hoảng
tài chính ảnh hưởng đến mọi quốc gia trên thế giới, Hảnh ưởng đến mọi mặt của
xã hội, có những nơi, những lúc dẫn đến những hậu quả khó lường về chính trị,
an ninh và ổn định xã hội.
- Toàn cầu hóa cũng làm cho hiện tượng "chảy máu chất xám" diễn ra nhiều
và dễ dàng hơn, kéo theo biến tướng là nạn "săn đầu người". Hai hiện tượng này
11


đã góp phần gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia phát triển và
đang phát triển, giữa từng khu vực riêng biệt trong một đất nước.
* Chính trị
- Ỷ thế sức mạnh về kinh tế, khoa học và công nghệ, các nước tư bản đang
thao túng các tổ chức kinh tế toàn cầu như IMF, WB, WTO,…áp đặt nhưng quy
chế và phương thức hoạt động không bình đẳng, gây thiệt hại ngày càng nghiêm
trọng,uy hiếp chủ quyền quốc gia của các nước đang phát triển và nước chậm
phát triển dẫn đến thao túng và giàng buộc về chính trị.
- Những bất ổn về chính trị: vấn đề hạt nhân, vấn đề tranh chấp lãnh thổ,
lãnh hải trên toàn thế giới.

- Làm mờ đi ý niệm chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia thông qua các
hiệp ước quốc tế dẫn đến việc thành lập các tổ chức như WTO và OPEC
* Văn hóa, xã hội, ngôn ngữ
- Du nhập nền văn hóa đồi trụy, nền văn hóa không lành mạnh
- Sự tràn lan của chủ nghĩa đa văn hoá và việc cá nhân ngày càng có xu
hướng hướng đến đa dạng văn hoá, mặt khác, làm mất đi tính đa dạng văn hoá
thông qua sự đồng hoá, lai tạp hoá, Tây hoá, Mỹ hoá hay Hán hoá của văn hoá.
- Cuộc sống của con người trở nên kém an toàn hơn: nguy cơ xảy ra các cuộc
khủng hoảng dây chuyền trong các lĩnh vục kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,
các bí mật thông tin và đời tư bị xâm phạm: Năm 2009, khủng hoảng kinh tế là
một trong những nguyên nhân của các cuộc biểu tình phản đối và bạo động ở
một loạt nước châu Âu, như Pháp, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Litva và Latvia…
- Toàn cầu hóa kinh tế, khoa học và công nghệ cũng kéo theo cả những tội
phạm xuyên quốc gia, truyền bá nền văn bá phi nhân bản, không lành mạnh băng
hoại đạo đức, xâm hại bản sắc văn hóa dân tộc và gây ô nhiễm môi trường.

12


CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ
2.1. Khái niệm
Quá trình hình thành dân tộc, đường biên giới quốc gia, sự biến đổi và phát
triển của các chế độ chính trị, kinh tế, xã hội liên quan chặt chẽ với quá trình trao
đổi, buôn bán, hợp tác, đấu tranh cũng như phát triển quan hệ ngoại giao với các
nước, các vùng lãnh thổ trong khu vực và quốc tế, với các chính phủ, phi chính
phủ, liên minh quốc gia, các tổ chức và phong trào quốc tế. Trong thời đại ngày
nay, các mối quan hệ đó, một mặt ngày càng phát triển sâu rộng, chặt chẽ, ràng
buộc và phụ thuộc lẫn nhau, mặt khác, chứa đầy mâu thuẫn và những biến đổi
không ngừng. Thế kỷ XXI đã và sẽ đánh dấu sự phát triển vượt bậc của khoa học
và công nghệ, của toàn cầu hóa và các vấn đề kinh tế, văn hóa, … các quốc gia

vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau để tồn tại và phát triển.
Quan hệ quốc tế được hiểu là sự vận động của các chủ thể và mối quan hệ,
sự tác động lẫn nhau giữa các chủ thể cấu thành nền chính trị thế giới, là tổng thể
những mối quan hệ về kinh tế, chính trị, tư tưởng, luật pháp, ngoại giao, quân
sự…giữa những quốc gia & hệ thống quốc gia với nhau, giữa các giai cấp chính,
các lực lượng tổ chức xã hội, kinh tế và chính trị chủ yếu hoạt động trên trường
quốc tế.
2.2. Chủ thể
Quan hệ quốc tế là tương tác qua biên giới quốc gia giữa các chủ thể quan hệ
quốc tế
2.2.1. Phân loại chủ thể quan hệ quốc tế
* Quốc gia
- Khái niệm: Là một khái niệm địa lý và chính trị, trừu tượng về tinh thần,
tình cảm và pháp lý, để chỉ về một lãnh thổ có chủ quyền, một chính quyền và
những con người của các dân tộc có trên lãnh thổ đó; họ gắn bó với nhau
bằng luật pháp, quyền lợi, văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ, chữ viết qua quá
trình lịch sử lập quốc, và, những con người chấp nhận nền văn hóa cũng như lịch
13


sử lập quốc đó cùng chịu sự chi phối của chính quyền, và, họ cùng nhau chia sẻ
quá khứ cũng như hiện tại và cùng nhau xây dựng một tương lai chung trên vùng
lãnh thổ có chủ quyền.
- Vai trò chủ thể quan hệ quốc tế của quốc gia
+ Tham gia quan hệ quốc tế nhiều nhất: lâu đời nhất, liên tục nhất, rộng nhất
+ Mục đích trong quan hệ quốc tế lớn nhất: mạnh mẽ nhất, thường xuyên,
bao trùm mọi mặt đời sống
+ Khả năng thực hiện quan hệ quốc tế lớn hơn nhiều: sức mạnh tổng hợp,
phương tiện thực hiện, có tính tự trị cao
+ Ảnh hưởng quốc tế lớn nhất: rộng khắp, mạnh mẽ và sâu sắc, hình thành

luật lệ quốc tế
* Chủ thể phi quốc gia
- Tổ chức quốc tế: là thể chế có thẩm quyền xác định, được thành lập trên
cơ sở thoả thuận và nhằm mục đích hợp tác qua biên giới
- Công ty Xuyên quốc gia: là công ty cổ phần, vốn là từ 1 quốc gia hình
thành nên. Nhờ quá trình hoạt động lớn mạnh mà thực hiện chính sách hướng
ngoại, mở cửa thị trường thế giới. Thị trường hoạt động từ 2 quốc gia trở lên.
- Một số chủ thể phi quốc gia khác
+ Tổ chức tôn giáo: Giáo hội Kito giáo, Hội đồng thế giới các nhà thờ Tin
Lành, + Nhà thờ Hồi giáo,…
+ Nhóm sắc tộc: ly khai, đòi lại đất,…
+ Tổ chức tội phạm quốc tế: Al Queda,…
+ Chính quyền địa phương
2.3. Quan hệ giữa các quốc gia dân tộc trong giai đoạn hiện nay
Các loại nước khác nhau trên thế giới có mục tiêu và con đường phát triển
khác nhau nhưng các quốc gia dân tộc không thể không biết các mối quan hệ
đang chi phối sự phát triển đi lên của thế giới hiện nay. Đó là:

14


- Mối quan hệ giữa các quốc gia dân tộc không phân biệt sự khác nhau về
chế độ chính trị- xã hội và trình độ phát triển; Quan hệ giữa các nước Xã hội Chủ
nghĩa với nhau; Quan hệ giữa các nước Tư bản Chủ nghĩa và Xã hội Chủ nghĩa
Quan hệ giữa các nước Tư bản chủ nghĩa với nhau; Quan hệ giữa các nước đang
phát triển với nhau; Quan hệ giữa các nước Xã hội Chủ nghĩa và các nước đang
phát triển; Quan hệ giữa các nước Tư bản Chủ nghĩa và các nước đang phát triển
Trong các mối quan hệ đó, có 2 loại quan hệ đặc trưng:
Quan hệ giữa các quốc gia dân tộc không phân biệt sự khác nhau về chế độ
chính trị- xã hội và trình độ phát triển

- Đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ
chính trị- xã hội khác nhau là mối quan hệ có tính đặc thù trong sự vận động và
phát triển của lịch sử xã hội loài người
- Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi là nhu cầu chi phối mối quan hệ giữa các
quốc gia dân tộc nói chung trên toàn thế giới
- Cơ sở lý luận và nhận thức của mối quan hệ này là Quyền tự quyết của các
dân tộc và những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình
Quan hệ giữa các nước Xã hội Chủ nghĩa với nhau
- Đây là mối quan hệ giữa các quốc gia dân tộc có cùng một bản chất chế độ
chính trị - xã hội, có chung mục tiêu, lợi ích và cùng phát triển theo quy luật
chung của nó
- Đặc trưng của mối quan hệ này là bình đẳng, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau,
phối hợp hoạt động và bảo vệ nhau, cùng nhau phát triển.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành và phát triển của mối quan hệ này là
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
2.4. Xu thế chung của các quốc gia dân tộc trong quan hệ quốc tế hiện
đại

15


- Có hai mối quan hệ đặc trưng của các quốc gia dân tộc trong giai đoạn hiện
nay và trong hai mối quan hệ này lại có xu thế chung của các quốc gia dân tộc
trong quan hệ quốc tế hiện đại
- Đấu tranh và hợp tác, cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính
trị- xã hội khác nhau là mối quan hệ có tính đặc thù trong sự vận động và phát
triển của lịch sử xã hội loài người
- Phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh
của các quốc gia dân tộc trên thế giới. Vì vậy, hòa bình, hợp tác là đòi hỏi bức
xúc của các quốc gia dân tộc để ưu tiên phát triển kinh tế

- Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và
liên kết quốc tế về kinh tế và thương mại
- Tính cạnh tranh giữa các quốc gia dân tộc ngày càng gay gắt
- Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự cường dân tộc, chống sự
can thiệp quá sâu của nước ngoài
- Các nước Xã hội Chủ nghĩa và các Đảng Cộng Sản, giai cấp công nhân, các
lực lượng cách mạng và tiến bộ kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội
Đối với quan hệ giữa các quốc gia dân tộc có cùng một bản chất chế độ
chính trị-xã hội, có chung mục tiêu, lợi ích thì đặc trưng của mối quan hệ này là
bình đẳng, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, phối hợp hoạt động và bảo vệ nhau,
cùng nhau phát triển
Xu thế trên là xu thế khách quan, xu thế hội nhập, từ đó nảy sinh tính đa
phương, đa dạng trong quan hệ quốc tế
2.5. Nội dung những vấn đề toàn cầu mà thế giới đang phải đối mặt
Thuật ngữ “những vấn đề toàn cầu” dùng để chỉ những vấn đề mà tác động
của nó liên quan trực tiếp đến từng con người, đến vận mệnh của tất cả các dân
tộc không phân biệt chế độ chính trị-xã hội, biên giới quốc gia

16


- Nguyên nhân: sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, khoa học
công nghệ dẫn đến sự phân bố lại các lực lượng xã hội trên thế giới, là quá trình
đấu tranh và hợp tác về quân sự, chính trị, kinh tế giữa các quốc gia, dân tộc
* Có 2 tổ hợp những vấn đề toàn cầu:
Là tất cả các vấn đề có liên quan tới việc giải quyết mối quan hệ giữa con
người với con người nảy sinh trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc về chính
trị, quân sự và kinh tế
Nội dung của tổ hợp này gồm:

- Các cuộc đấu tranh lớn nhỏ: ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, bảo vệ hòa
bình, khắc phục tình trạng lạc hậu và bùng nổ dân số ở các nước đang phát triển,
thiết lập trật tự kinh tế thế giới, cuộc chiến tranh nhằm tạo điều kiện cho sự tiến
bộ của mọi quốc gia (để chống đói nghèo và bệnh tật)
- Nguyên nhân xuất hiện: do cuộc đấu tranh giữa người với người. Cụ thể là
cuộc đấu tranh giữa các nước có chế độ chính trị- xã hội khác nhau; các cuộc
xung đột dân tộc, sắc tộc và tôn giáo; cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa tư bản, trong đó CNTB muốn sử dụng sức mạnh quân sự nhằm thủ
tiêu chủ nghĩa xã hội, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc; đồng thời còn biểu
hiện mâu thuẫn giữa các nước lớn.
Là những vấn đề phản ánh mối quan hệ và mâu thuẫn giữa con người và thế
giới tự nhiên:
- Khắc phục tình trạng tàn phá môi trường, giải quyết cân bằng sinh thái,
đảm bảo sự phát triển bền vững của loài người, thúc đẩy quá trình nghiên cứu,
đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phục vụ cuộc sống hòa bình
Hiện nay, có hai vấn đề toàn cầu quan trọng nhất, có liên quan trực tiếp đến
sự sống của loài người là bảo vệ hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh và tình
trạng môi trường sống bị phá hủy nghiêm trọng
2.6. Châu Á- Thái Bình Dương- chiến lược của một số nước, tính chất,
xu hướng và mối quan hệ trong khu vực
17


2.6.1. Một số nét chung
Châu Á-Thái Bình Dương (gọi tắt: APAC) là một khu vực trên Trái Đất nằm
gần hoặc nằm ở phía Tây Thái Bình Dương, bao gồm nhiều quốc gia và vùng
lãnh thổ Đông Á, Đông Nam Á, Australia và châu Đại Dương. Đôi khi thuật ngữ
này còn được sử dụng để chỉ những quốc gia vùng Nam Á, Nga, Nam
Mỹ và Bắc Mỹ dù các nước này nằm xa hoặc gần như không có liên hệ đến
vùng Thái Bình Dương

Bất chấp tính xác thực của thuật ngữ, nó vẫn được sử dụng phổ biến từ cuối
thập niên 1980 trong giao thương với thị trường tư bản, và các loại hình hợp tác
kinh tế chính trị khác.
Trong một số trường hợp, khu vực này mở rộng ra phần lớn châu Á, các
nước nằm trong vành đai Thái Bình Dương kéo dài từ châu Đại Dương đến Nga,
vòng xuống phía tây châu Mỹ.
2.6.2. Tính chất
- Là khu vực đặc thù, không thống nhất về địa lý, lịch sử, văn hóa
- Là khu vực bao gồm các nước và lãnh thổ có trình độ kinh tế khác biệt, với
sự đa dạng về văn hóa, phong phú về chế độ chính trị- xã hội
- Là khu vực đan xen giữa những hệ tư tưởng, tôn giáo và những phong tục,
tập quán khác nhau cùng tồn tại hòa bình
- Là trung tâm tăng trưởng năng động, tốc độ cao liên tục của thế giới
Xu hướng quan hệ quốc tế trong khu vực:
- Các quốc gia lớn nhỏ trong khu vực đều có mục tiêu, chính sách để phát
triển mạnh kinh tế và ưu tiên phát triển kinh tế bằng nhiều biện pháp quản lý,
khoa học kỹ thuật và công nghệ, kinh tế tri thức
- Nhu cầu tất yếu của các quốc gia trong khu vực là hòa bình, ổn định và an
ninh
- Khu vực còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định như: mâu thuẫn biên
giới, tranh chấp mậu dịch, khủng hoảng, tàng trữ vũ khí…
18


- Xu hướng cơ bản: hòa bình, ổn định, cùng phát triển, đấu tranh để kiềm chế
nhau, để đảm bảo lợi ích mỗi bên một cách hợp lý,
- Bảo tồn thể chế chính trị, kinh tế và ý thức tư tưởng của mỗi quốc gia.
- Các quốc gia hợp tác để khai thác nhau, cùng có lợi, cùng phát triển.
2.7. Đông Nam Á- giai đoạn hợp tác và phát triển
2.7.1. Một số nét chung

Đông Nam Á nằm trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Đầu thế kỷ
XX, các quốc gia Đông Nam Á chủ yếu là những nước kém phát triển và là
thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Ngày nay, các nước đang vươn lên thành các
nước công nghiệp mới hoặc đang chuẩn bị hành trang để bước vào thời kỳ phát
triển. Hiện tại và tương lai, khu vực này là nơi phát triển năng động của thế giới.
Đông Nam Á bao gồm các nước nằm ở phía nam Trung Quốc, phía đông Ấn
Độ và phía bắc của Úc, rộng 4.494.047 km² và bao gồm 11 quốc gia. Đông Nam
Á là chỗ giao nhau của nhiều mảng địa chất có núi lửa và động đất hoạt động
mạnh. Các quốc gia của khu vực được chia ra làm hai nhóm chính: Myanma,
Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam nằm ở Đông Nam Á lục địa, còn
gọi bán đảo Trung Ấn, trong khi đó các nước còn lại tạo nên Quần đảo Mã Lai.
Quần đảo này được hình thành bởi nhiều cung đảo thuộc về Vành đai núi lửa
Thái Bình Dương và là một trong những khu vực có hoạt động núi lửa mạnh
nhất thế giới.
Trong 11 nước Đông Nam Á, thì có 10 quốc gia có hải giới, trừ Lào.
Philippines và Singapore là 2 nước trong khu vực này không có địa giới chung
với bất kỳ quốc gia nào.
2.7.2. Sự hợp tác giữa các nước Đông Nam Á
- Xu hướng quốc tế hóa các mặt đời sống xã hội là xu hướng chung để phá
vỡ sự khép kín của các quốc gia và hàng rào ngăn cách về hệ tư tưởng
- Sự thuận lợi về mặt địa lý và văn hóa đảm bảo cho các nước Đông Nam Á
sẽ trở thành thị trường thống nhất trong những năm tới
19


- Hợp tác là sự tác động lẫn nhau, khai thác thế mạnh của nhau về các mặt
lợi ích trong quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, trong đó, hợp tác trong lĩnh vực
kinh tế giữ vai trò cơ bản
- Nền kinh tế của các quốc gia tồn tại bên nhau để phát triển nhưng mỗi bên
đều có lợi ích và nhu cầu riêng, để duy trì lợi ích lâu dài, phải đấu tranh chống

xu hướng vị kỉ, duy trì sự hợp tác ổn định và bền vững
- Hợp tác ở Đông Nam Á được đặt trong sự khác biệt về thể chế chính trị.
Hợp tác gắn liền với đấu tranh để duy trì lợi ích mỗi bên một cách hợp lý
- Xu thế hòa bình, ổn định là căn bản, tuy vẫn còn nhân tố gây mất ổn định,
có mâu thuẫn song vì những lợi ích, mâu thuẫn đó sẽ được giải quyết bằng các
giải pháp chính trị, hòa bình và thương lượng
- Do đặc điểm phát triển của các nước Đông Nam Á không đồng đều nên sự
hợp tác mang tính đồng dạng, hạn chế
- Các nước Đông Nam Á phải hợp tác đầu tư với các nước công nghiệp phát
triển (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, các nước EU…) và phải có bước quá
độ chuyển từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp chiếm ưu thế sang nền kinh tế công
nghiệp

20


CHƯƠNG 3: QUÁ TRÌNH MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ
CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG XU
THẾ TOÀN CẦU HÓA
3.1. Qúa trình thực hiện đường lối đối ngoại của Việt Nam
3.1.1. Đường lối đối ngoại từ năm 1975 đến 1986
3.1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
* Tình hình thế giới
Từ thập kỷ 70, thế kỷ XX, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh; Nhật
Bản và Tây Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế giới; xu thế
chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hoà hoãn giữa các nước lớn.Với
thắng lợi của cách mạng Việt Nam (năm 1975) và các nước Đông Dương, hệ
thống xã hội chủ nghĩa đã mở rộng phạm vi, phong trào cách mạng thế giới phát
triển mạnh. Đảng ta nhận định: Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang

lớn mạnh không ngừng; phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng của
giai cấp công nhân đang trên đà phát triển mãnh liệt. Tuy nhiên, từ giữa thập kỷ
70 của thế kỷ XX, tình hình kinh tế – xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất
hiện sự trì trệ và mất ổn định. Tình hình khu vực Đông Nam Á cũng có những
chuyển biến mới. Sau năm 1975, Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á, khối quân sự
SEATO tan rã; tháng 2-1976, các nước ASEAN ký hiệp ước thân thiện và hợp
tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước Bali), mở ra cục diện hoà bình, hợp tác trong khu
vực.
* Tình hình trong nước
Thuận lợi: Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hoà bình,
thống nhất, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa
giành được thắng lợi vĩ đại. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được
một số thành tựu quan trọng. Đây là những thuận lợi rất cơ bản của cách mạng
nước ta.
21


Khó khăn: Trong khi nước ta đang phải tập trung khắc phục hậu quả nặng nề
của ba mươi năm chiến tranh, lại phải đối phó với chiến tranh biên giới Tây Nam
và biên giới phía Bắc. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng những thủ đoạn
thâm độc chống phá cách mạng Việt Nam. Đại hội lần thứ V của Đảng (tháng 31982) nhận định “nước ta đang ở trong tình thế vừa có hoà bình vừa phải đương
đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Ngoài ra, do tư tưởng chủ
quan, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn,
đã dẫn đến những khó khăn về kinh tế – xã hội. Những thuận lợi, khó khăn từ
tình hình thế giới và trong nước ở giai đoạn này đã ảnh hưởng to lớn đến công
cuộc xây dựng, phát triển đất nước và tác động tới việc hoạch định đường lối đối
ngoại của Đảng.
3.1.1.2. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng
* Đại hội lần thứ IV của Đảng (12-1976):
Nhiệm vụ đối ngoại là “Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi

để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Trong quan hệ với các nước, Đại hội
IV chủ trương củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác
với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt
Việt Nam – Lào – Campuchia; sẵn sàng, thiết lập phát triển quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường
giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình
đẳng và cùng có lợi.Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương,
chính sách đối ngoại như: chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với
Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhấn mạnh yêu
cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào trong bối cảnh vấn đề
Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực
Đông Nam Á hoà bình, tự do, trung lập và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại.
22


* Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982):
Công tác đối ngọi phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu
tranh nhằm làm thất bại chính sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan chống
phá cách mạng nước ta. Về quan hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh
đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn
luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ
đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của
ba dân tộc; kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại
và thương lượng để giải quyết các trở ngại, nhằm xây dựng Đông Nam Á thành
khu vực hoà bình và ổn định; chủ chương khôi phục quan hệ bình thường với
Trung Quốc trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình; chủ trương thiết lập
và mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước, về kinh tế, văn hoá, khoa học,
kỹ thuật với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. Thực tế cho thấy,

ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (1975 - 1986) là xây
dựng quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; cũng
cố và tăng cường đoàn kết hợp tác với Lào và Campuchia; mở rộng quan hệ hữu
nghị với các nước không liên kết và các nước đang phát triển; đấu tranh với sự
bao vây cấm vận của các thế lực thù địch.
3.1.1.3. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
* Kết quả và ý nghĩa
Trong mười năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các
nước xã hội chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô. Ngày
29-6-1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV). Viện trợ
hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng. Ngày 31-11-1978, Việt Nam ký Hiệp
ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô.Từ năm 1975 đến năm 1977,
nước ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 23 nước; ngày 15-9-1976, Việt
Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF); ngày 21-923


1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới (WB); ngày 23-91976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); ngày 20-9-1977, tiếp nhận
ghế thành viên tại Liên hợp quốc; tham gia tích cực các hoạt động trong phong
trào Không liên kết... Kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác
kinh tế với Việt Nam.Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối năm
1976, Philippin và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập
quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Những kết quả đối ngoại trên đây có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách
mạng Việt Nam. Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa
và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với cả các nước ngoài hệ thống xã hội chủ
nghĩa đã tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước
sau chiến tranh; việc trở thành thành viên chính thức của Quỹ tiền tệ quốc tế,
Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á và việc trở thành thành viên
chính thức của Liên hợp quốc, tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong

trào không liên kết, đã tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ
chức quốc tế, đồng thời phát huy được vai trò của nước ta trên trường quốc tế.
Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại trong tổ chức ASEAN đã
tạo thuận lợi để triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây
dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
* Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả nêu trên, nhìn tổng quát, từ năm 1975 đến năm
1986, quan hệ quốc tế của Việt Nam gặp những khó khăn trở ngại lớn. Nước ta
bị bao vây, cô lập, trong đó đặc biệt là từ cuối thập kỷ 70 thế kỷ XX, lấy cớ “Sự
kiện Campuchia” các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện bao vây, cấm
vận Việt Nam ... Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trên, là do trong quan hệ
đối ngoại giai đoạn này chúng ta chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu
sang hoà hoãn và chạy đua kinh tế trên thế giới. Do đó, đã không tranh thủ được
các nhân tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc khôi phục và
24


phát triển kinh tế sau chiên tranh; không kịp thời đổi mới quan hệ đối ngoại cho
phù hợp với tình hình.Những hạn chế về đối ngoại của Việt Nam giai đoạn
(1975-1986) suy cho cùng đều xuất phát từ nguyên nhân cơ bản đã được Đại hội
lần thứ VI của Đảng chỉ ra là “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành
động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”.
3.1.2. Đường lối đối ngoại thời kì đổi mới
3.1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối
* Hoàn cảnh lịch sử
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục
phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân
tộc.Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng khoảng sâu sắc. Đến đầu những
năm 1990, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to
lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế

giới thứ hai trên cơ sở hai khối đối lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu (trật tự
thế giới hai cực) tan rã, mở ra thời kỳ hình thành một trật tự thế giới mới.
Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp
vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hoà bình và hợp tác phát triển. Các
quốc gia, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến
lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của thế giới.
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang
phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hoá, đa
dạng hoá quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước
phát triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh
nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh. Các nước đổi mới tư duy về quan
niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào thế
mạnh quân sự bằng các tiêu chí tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế được đặt ở
vị trí quan trọng hàng đầu.
25


×