Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Quan diem ve KVPCT (r)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.09 KB, 6 trang )

VÀI NÉT VỀ KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC
Hiện nay, trên thế giới đang phổ biến một số tên gọi như: khu vực phi chính
quy (Informal sector); kinh tế bóng đen (Shadow economy); kinh tế ngầm
(Underground economy)… Dù tên gọi được dùng khác nhau, chung quy lại các
thuật ngữ trên đều phản ánh bản chất các hoạt động của một khu vực kinh tế phi
chính thức (KTPCT), trái ngược với khu vực kinh tế chính thống.
Thực tế khu vực này tồn tại từ lâu và đã trở thành một bộ phận quan trọng cấu
thành nền kinh tế của tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt đối với các nước đang
phát triển như Việt Nam. Hoạt động KTPCT xuất hiện khắp mọi nơi ở Việt Nam và
phát triển vô cùng mạnh mẽ, điển hình là vào mọi lúc chúng ta đều có thể dễ dàng
mua hàng hóa trên đường phố hoặc ăn bát phở trên vỉa hè, đi xe ôm hay may quần
áo ở nhà hàng xóm.
Sự quan tâm về khu vực này vì thế mà ngày một nhiều hơn, song về khái
niệm và định nghĩa thống nhất thì vẫn còn rất mơ hồ. Cho tới nay số liệu thống kê
về sự đóng góp của khu vực này cho nền kinh tế (dưới góc độ giá trị sản xuất hoặc
lực lượng lao động) cũng chưa được thu nhập thường xuyên, mà mới chỉ có các
nghiên cứu đơn lẻ. Chính vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá về khu vực
KTPCT là rất cần thiết để giúp cho các nhà quản lý đưa ra những chính sách phù
hợp,
1. Một số quan điểm về khu vực kinh tế phi chính thức
Thuật ngữ “Khu vực kinh tế phi chính thức” đầu tiên do Hart (1973) đề xuất
để mô tả một khu vực kinh tế truyền thống ở các nền kinh tế đang phát triển.
Nguyên gốc, sự phân biệt giữa khu vực kinh tế chính thức và PCT là dựa trên sự
phân biệt giữa lao động được trả lương và lao động tự làm.
Phạm trù này dần dần được mở rộng để bao quát tất cả các sự thay đổi về
công việc do toàn cầu hóa gây ra, do đó đã chuyển từ khái niệm “Khu vực
KTPCT” sang khái niệm “Kinh tế phi chính thức”. Một khái niệm bao trùm cả khu
vực KTPCT và việc làm phi chính thức - xuất hiện ở cả hai khu vực KTPCT và
chính thức (ILO, 2002), hay:
Kinh tế phi chính thức = Khu vực KTPCT + Việc làm PCT


1


1.1. Quan điểm của Tổ chức Lao động Thế giới (ILO)
Theo ILO 1993 và 2002, OECD 2002, SNA 1993 và 2008 thì “kinh tế chưa
được giám sát” bao gồm 3 thành tố:


Nền kinh tế phi chính thức: thoát khỏi (một phần hoặc hoàn toàn) các quy

định của Nhà nước (nhưng không cố ý) – đặc biệt là ở các nước đang phát triển:
lao động tự làm; điều tra trực tiếp.
• Kinh tế ngầm: tránh các quy định của Nhà nước (cố ý khai thấp doanh số);
tiếp cận gián tiếp: chợ đen (tránh kiểm toán thuế).
• Kinh tế bất hợp pháp :sản phẩm bất hợp pháp (sản phẩm và dịch vụ: buôn
bán ma túy…)
Theo đó thì:
- Kinh tế phi chính thức (KTPCT) là khu vực mà ở đó tồn tại việc làm phi
chính thức, là một tập hợp các đơn vị sản xuất ra sản phẩm vật chất và dịch vụ với
mục tiêu chủ yếu nhằm tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho những người có
liên quan, đóng góp vào GDP mà khu vực kinh tế chính thức không với tới được.
KTPCT bao gồm nhiều khu vực, nhiều loại hình, nhiều hình thức và đối tượng hoạt
động.
- Đơn vị sản xuất kinh doanh (SXKD) thuộc khu vực KTPCT mang những
đặc điểm của hộ SXKD, không có tư cách pháp nhân, hoạt động của các đơn vị
SXKD thuộc khu vực KTPCT không nhằm để lảng tránh nghĩa vụ nộp thuế, bảo
đảm xã hội, vi phạm luật lao động hay vi phạm luật pháp hoặc bất kì quy định quản
lý nào khác (Hệ thống Tài khoản Quốc gia – SNA, Tái bản lần thứ tư) Những đơn
vị này thường được tổ chức đơn giản, quy mô nhỏ, với không hoặc rất ít sự phân
chia giữa lao động và vốn là các yếu tố đầu vào của sản xuất. Các mối liên hệ việc

làm (nếu có) chủ yếu dựa trên sự tình cờ, quan hệ họ hàng, hoặc quan hệ cá nhân,
sự quen biết hơn là các thỏa thuận hợp đồng với sự bảo đảm chính thức.
Như vậy, khái niệm về các hoạt động của khu vực KTPCT khác với các hoạt
động tương tự của kinh tế giấu giếm hay kinh tế ngầm.
1.2. Quan điểm của Viện Khoa học Thống kê (Tổng cục Thống kê)
Năm 2007, Viện Khoa học Thống kê (KHTK) và Đơn vị nghiên cứu Phát
triển, Thể chế và Phân tích Dài hạn (DIAL) đã thiết kế một lược đồ điều tra để thu
thập thông tin về khu vực KTPCT và việc làm phi chính thức ở Việt Nam. Lược đồ
2


này được xây dựng có sự tham khảo các khuyến nghị của các tổ chức quốc tế, có
điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam:
- Khu vực KTPCT được định nghĩa là “tất cả các doanh nghiệp không có tư
cách pháp nhân, sản xuất ít nhất một hoặc một vài sản phẩm và dịch vụ để bán
hoặc trao đổi, không đăng kí kinh doanh (không có giấy phép kinh doanh) và
không thuộc ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản” (gọi tắt là ngành nông nghiệp) 1.
Các doanh nghiệp như vậy được gọi là “các hộ SXKD phi chính thức”, phù hợp
với từ dùng chính thức về loại hình SXKD này. Việc loại hoạt động SXKD trong
lĩnh vực nông nghiệp ra khỏi định nghĩa là do đặc trưng hoạt động nông nghiệp và
phi nông nghiệp có sự khác nhau, ví dụ như tính thời vụ, tổ chức lao động, mức thu
nhập,… và công cụ điều tra khác nhau ở 2 khu vực này. Các hộ SXKD chính thức
(có đăng ký kinh doanh) thuộc vào khu vực kinh tế chính thức.
- Việc làm phi chính thức được định nghĩa là việc làm không có bảo hiểm xã
hội (đặc biệt là bảo hiểm y tế). Ở Việt Nam, tất cả các doanh nghiệp và hộ SXKD
có đăng ký kinh doanh, bất kể có quy mô như thế nào đều bắt buộc phải đăng ký
lao động thường xuyên (có hợp đồng lao động ít nhất là từ 3 tháng trở lên) của đơn
vị mình với Cơ quan Bảo hiểm Xã hội Việt Nam. Tất cả các việc làm thuộc khu
vực KTPCT được coi là việc làm phi chính thức.
2. Đặc điểm của khu vực phi chính thức trong thị trường lao động

Lần đầu tiên vào năm 2007 và tiếp theo là vào năm 2009, ở Việt Nam, cuộc
điều tra Lao động và việc làm đã cho phép thu thập số liệu lao động được phân loại
theo khu vực thể chế và phân tách riêng được số liệu về khu vực phi chính thức.
Hai cuộc điều tra chuyên biệt thực hiện ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh (điều tra
HB&IS 2007, 2009) nhằm tìm hiểu thêm về đặc tính của các hộ SXKD nói chung
và đặc biệt là của khu vực PCT.
2.1. Đặc điểm
- Điều kiện lao động không được đảm bảo. Các quyền lợi về bảo hiểm xã
hội, phân chia lợi nhuận, nghỉ phép được trả công gần như không tồn tại đối với
việc làm trong khu vực này, thậm chí tỷ trọng lao động phụ thuộc không hề được

1

Định nghĩa của ILO để lại hai khả năng mở cho việc xác định khu vực KTPCT: tiêu chuẩn không đăng ký kinh
doanh và tiêu chuẩn quy mô tối đa (ngưỡng số người nhiều nhất làm việc trong hộ SXKD). Trong nỗ lực áp dụng
khuyến nghị của ILO, Nhóm Delhi đã khuyến nghị là coi các hộ SXKD có dưới 5 người làm công ăn lương là hộ
SXKD phi chính thức, với mục đích chủ yếu là để so sánh giữa các nước với nhau. Không giống với nhóm Delhi,
Viện KHTK không lấy quy mô hộ SXKD làm tiêu chuẩn xác định hộ SXKD chính thức hay phi chính thức. Tuy
nhiên, ở Việt Nam cũng chỉ có 3% số hộ SXKD phi chính thức có quy mô từ 5 lao động trở lên.

3


đảm bảo bẳng bất cứ một hình thức hợp đồng nào (văn bản hay thỏa thuận) đã tăng
lên.
- Thu nhập thấp và điều kiện làm việc tạm bợ. Một bộ phận khá lớn các hộ
SXKD phi chính thức ở cả 2 thành phố hoạt động trong điều kiện không có địa
điểm kinh doanh cố định (VD: người bán hàng rong, lái xe ôm, …). Trong khi tỷ lệ
hộ SXKD phi chính thức không có địa điểm kinh doanh cố định ở Hà Nội đã giảm
(từ 40% - 2007 xuống 36% - 2009 đối với Hà Nội cũ, 31% - 2009 nếu tính cả địa

bàn Hà Nội mới) thì tỷ lệ này ở TP. Hồ Chí Minh lại tăng lên (từ 37% lên 41%),
điều này cho thấy tình hình hoạt động của các hộ SXKD ở khu vực này đã trở nên
bấp bênh hơn.
Tồn tại khoảng cách về thu nhập ngay trong khu vực phi chính thức ở cả 2
thành phố. Năm 2009, tại Hà Nội, thu nhập bình quân tháng của lao động là 3,6
triệu trong khi thu nhập trung vị là 1,9 triệu; tương ứng ở TP. Hồ Chí Minh là 2,7
triệu và 2 triệu đồng.
- Tỷ lệ lao động nhập cư thấp. Lao động nhập cư của khu vực KTPCT ở Hà
Nội và TP. Hồ Chí Minh thấp, tương ứng là 6% và 17%. Kết quả này trái với mô
hình của Harris - Todaro khi mô hình này coi khu vực KTPCT là sân sau của lao
động nhập cư, khi họ không tìm được việc làm ở đâu thì sẽ thâm nhập vào khu vực
này. Mặc dù mô hình này được đông đảo các nhà kinh tế và chuyên gia nghiên cứu
về di cư chấp nhận, song điều này hoàn toàn không đúng với trường hợp ở Việt
Nam (ít nhất là ở Hà Nội và TP. HCM), nơi kiểm soát chặt chẽ việc nhập cư (thông
qua quản lý hộ khẩu).
- Khu vực KTPCT hoạt động tách rời, với rất ít những mối liên hệ trực
tiếp với nền kinh tế chính thức. Nguyên nhân là do bộ phận khách hàng chủ yếu
của những hộ SXKD phi chính thức này vẫn là các hộ gia đình (tiêu thụ 90% khối
lượng cung cấp).
- Tỷ lệ dừng hoạt động cao: 15% ở Hà Nội và 21% ở Tp. Hồ Chí Minh, đây
chỉ là những ước lượng thận trọng do có một lượng đáng kể các hộ SXKD được
điều tra năm 2007 nhưng không thể tìm được vào năm 2009, và một phần trong số
đó có thể đã giải thể hoạt động.

4


Bảng 1: Tỷ lệ mất mẫu và tỷ lệ dừng hoạt động, 2007-2009 (%)
Hà Nội
Nhóm ngành


CN & XD
Thương mại
Dịch vụ
Hộ SXKD PCT
Hộ SXKD chính
thức
Chung

Vẫn
hoạt
động
(được
điều tra)

TP. Hồ Chí Minh
Tổng

Vẫn
hoạt
động
(được
điều
tra)

Ngừng
hoạt
động

Tồn tại

(không
được
điều tra)

Không

thông
tin

Tổng

5.7
4.4
9.2
6.8

100
100
100
100

59.9
70.1
68.2
66.9

26.1
18.8
20.0
21.0


1.4
1.3
0.3
0.9

12.6
9.8
11.5
11.2

100
100
100
100

5.9

8.4

100

73.7

13.9

2.9

9.5


100

3.0

7.1

100

68.7

19.2

1.4

10.7

100

Ngừng
hoạt
động

Tồn
tại (ko
được
điều
tra)

Không


thông
tin

78.4
80.6
71.9
76.2

13.1
12.5
17.1
14.7

2.8
2.5
1.8
2.3

73.3

12.4

75.7

14.2

Nguồn: Điều tra HB&IS, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, 2007 & 2009, TCTKVKHTK/ IRD-DIAL.
- Mức độ chuyển đổi cao từ khu vực chính thức sang phi chính thức. Mặc
dù qua điều tra, tỷ trọng của các hộ SXKD thuộc khu vực PCT và chính thức
không thay đổi nhiều giữa 2 năm (2007 & 2009), nhưng những phân tích về sự

năng động cho thấy đã có sự chuyển đổi rõ rệt giữa hai khu vực này. Có đến 15%
hộ SXKD chính thức ở TP. HCM và 31% những hộ như vậy ở Hà Nội đã gia nhập
khu vực PCT.
Bảng 2: Ma trận phản ánh sự chuyển đổi chính thức/phi chính thức, 20072009
Hà Nội (2009)
2007
Chính
thức (%)
Phi chính
thức (%)
Chung
(%)

Chính
thức

Phi
chính
thức

68,9

31,1

8,3

91,7

19,7


80,3

Chung
100
(18,8)
100
(81,2)
100

TP. Hồ Chí Minh
(2009)
Phi
Chính
2007
chính Chung
thức
thức
Chính
100
84,7
15,3
thức (%)
(26,3)
Phi chính
100
10,2
89,8
thức (%)
(73,7)
Chung

29,8
70,2
100
(%)

Nguồn: Điều tra HB&IS, Hà Nội và TP. HCM, 2007&2009, TCTK-VKHTK/IRDDIAL
- Tác động của khủng hoảng là dấu hiệu cho thấy tính chất yếu thế của
các hộ SXKD thuộc khu vực phi chính thức. Ảnh hưởng rõ rệt nhất là sự suy
giảm các khoản tiền để dành và cắt giảm chi tiêu cho lương thực, thực phẩm. Tại
5


TP. HCM – nơi chịu sự tác động nghiêm trọng hơn của cuộc khủng hoảng, 37% số
hộ gia đình có hoạt động trong khu vực PCT đã phải cắt giảm chi tiêu cho lương
thực – thực phẩm; tỷ trọng các hộ gia đình phải cắt giảm chi tiêu cho y tế là khá
cao (17%). Đây chính là những dấu hiệu cho thấy rõ tính chất yếu thế hơn của khu
vực PCT khi mà tỷ lệ này cao gần gấp 2 lần so với các hộ gia đình có hoạt động
kinh doanh thuộc khu vực chính thức.
Bảng 3: Cắt giảm chi tiêu của các hộ gia đình năm 2009
Nhóm ngành
Công nghiệp và xây
dựng
Thương mại
Dịch vụ
Hộ SXKD PCT
Hộ SXKD chính
thức
Chung

Lương thực –

Y tế
thực phẩm

TP.

Nội
HCM
Nội
7,6

29,6

7,6
12,9
9,5

Giáo dục

Khác

TP.
HCM


Nội

TP.
HCM



Nội

TP.
HCM

7,4

13,0

5,5

5,1

15,3

28,1

38,3
38,5
36,8

8,5
6,3
7,5

15,6
18,6
16,7

7,0

4,7
5,8

7,9
6,6
6,7

13,4
16,0
14,8

19,9
26,0
24,8

5,9

18,4

5,8

8,2

4,9

4,3

5,9

18,7


8,9

33,6

7,2

15,2

5,7

6,3

13,4

23,7

Nguồn: Điều tra HB&IS, Hà Nội và TP. HCM, 2007&2009, TCTK-VKHTK/IRDDIAL
Tài liệu tham khảo
1. Tổng quan về kết quả điều tra thống kê khu vực kinh tế phi chính thức ở
Việt Nam và một số khuyến nghị về quản lý thông tin thị trường lao động
và phát triển nguồn nhân lực. Viện Khoa học Thống kê, 2010.
2. Lê Đăng Doanh. Một số vấn đề kinh tế phi chính thức ở Việt Nam. Tọa
đàm: Khu vực kinh tế phi chính thức - Thực trạng ở Việt Nam, Hà Nội
18/12/2012.
3. Nguồn: Điều tra HB&IS, Hà Nội và TP. HCM, 2007-2009, TCTKVKHTK/IRD-DIAL
Tác giả: Lý Quỳnh Anh (tổng hợp)
Ký duyệt của Lãnh đạo Ban TH
Đoàn Hải Yến


6



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×