Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Xu hướng bảo hộ mậu dịch nhằm đối phó với khủng hoảng hiện nay trên thế giới và một số kiến nghị cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (724.85 KB, 73 trang )

1
Lời nói đầu
Chủ nghĩa bảo hộ thương mại trên thực tế đã trở thành vấn đề gây tranh cãi
từ rất lâu, với vô số những lý lẽ không thể thuyết phục được nhau của cả bên ủng
hộ cũng như bên phản đối. Chủ đề này càng trở nên nóng bỏng hơn vào thời điểm
của cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay, khi nhiều nước phương Tây dù ra sức hô
hào ủng hộ tự do thương mại, trong khi mặt khác vẫn đưa ra những quyết định
nhằm bảo hộ nền kinh tế trong nước.
Chính sách bảo hộ dù sao vẫn là con dao hai lưỡi khi sử dụng, có thể làm
phức tạp thêm tình hình, thậm chí làm bùng nổ những cuộc chiến thương mại. Lời
cảnh báo này đã được nhắc tới không phải một lần trong hội nghị thượng đỉnh G-
20 hồi tháng 4 vừa qua tại London.
Tuy nhiên lịch sử cũng như những nghiên cứu đã chỉ ra rằng không thể xóa
bỏ hoàn toàn chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch. Đây có thể nói là một công cụ kinh tế
mang tính chính trị sâu sắc. Càng trong bối cảnh khủng hoảng, các nhà cầm quyền
càng bất chấp mọi nỗ lực tự do hóa thương mại quốc tế nhằm mục đích bảo hộ nền
sản xuất và trấn an người dân. Chính bởi vậy sự trở lại của chủ nghĩa bảo hộ mậu
dịch trong thời điểm hiện tại đã trở thành vấn đề cả thế giới quan ngại, chống bảo
hộ mậu dịch trở thành vấn đề cấp thiết với mọi quốc gia nếu muốn kéo nền kinh tế
ra khỏi khủng hoảng.
2
Mặc dù vậy, thực tế lại cho thấy điều ngược lại. Các biện pháp bảo hộ mậu
dịch ngày càng được các quốc gia lạm dụng, nhất là EU và Hoa Kỳ, hai tác nhân
chính duy trì sự sôi động của nền kinh tế thế giới. Nghiên cứu lí thuyết, thực tế và
rút ra những kinh nghiệm, bài học, từ đó đề ra những kiến nghị cho Việt Nam là
mục đích chính của người viết khi chọn đề tài:
“Xu hướng bảo hộ mậu dịch nhằm đối phó với khủng hoảng hiện nay trên thế
giới và một số kiến nghị cho Việt Nam”
Do những hạn chế nhất định về mặt thu thập nguồn số liệu mới chuẩn xác
cũng như kỹ năng của bản thân người viết nên khóa luận này chỉ dừng lại ở mức
nghiên cứu những số liệu về bảo hộ mậu dịch đến tháng 6 năm 2009, từ đó đưa ra


một vài kiến nghị cho Việt Nam để đối phó với các loại thuế đối kháng. Bài khóa
luận ngoài “Lời nói đầu” và “Kết luận” bao gồm 3 chương chính:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về bảo hộ mậu dịch và tự do hóa
thương mại trong giai đoạn khủng hoảng
Chương II: Xu hướng bảo hộ mậu dịch nhằm đối phó với khủng
hoảng trên thế giới hiện nay
Chương III: Những chính sách cấp thiết nhằm đảm bảo công bằng trong
thương mại quốc tế
3
Chương I:
Những vấn đề cơ bản về bảo hộ mậu dịch và tự do hóa
thương mại trong giai đoạn khủng hoảng
1. Tổng quan về bảo hộ mậu dịch
1.1. Khái niệm bảo hộ mậu dịch
Bảo hộ mậu dịch là một khái niệm không xa lạ gì trong thương mại quốc tế.
Trên thực tế không có một quốc gia nào tử bỏ việc bảo hộ một số ngành sản xuất
nội địa. Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, các hàng rào bảo hộ
đang từ từ được gỡ bỏ để tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và việc chu
chuyển vốn trên phạm vi quốc tế. Tổ chức tương mại thế giới WTO và các quốc
gia thành viên đã không ngừng nồ lực minh bạch hóa và giảm thiểu các biện pháp
bảo hộ nhằm xây dựng một cơ chế thương mại đa biên chặt chẽ, ổn định và khả thi
hơn. Tuy nhiên khủng hoảng toàn cầu 2008 đã làm dấy lên mối lo ngại về sự trở lại
của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch trên phạm vi toàn cầu. Các quốc gia trong khủng
khoảng đã không ngần ngại dựng nên những hàng rào bảo hộ nhằm mục đích nâng
đỡ nền sản xuất trong nước, từ đó giảm thất nghiệp và trấn an người dân. Đi ngược
lại với lí thuyết và thực tế về tự do mậu dịch, chủ nghĩa bảo hộ với nguy cơ làm
trầm trọng hơn khủng hoảng thực sự là vấn đề làm thế giới phải quan tâm.
Muốn đi sâu tìm hiểu vấn đề này, trước hết cần làm rõ khái niệm “Chính
sách bảo hộ mậu dịch”
1.1.1. Theo giáo trình “Quan hệ kinh tế quốc tế” – TS. Bùi Thị Lý– NXB

Giáo dục Việt Nam 2009:
Chính sách bảo hộ mậu dịch là một hình thức trong chính sách thương mại
quốc tế trong đó nhà nước áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ thì trường
nội địa, bảo vệ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa nhập
khẩu từ nước ngoài.
4
Mục đích của chính sách bảo hộ mậu dịch là hỗ trợ, bảo vệ và khuyến khích
các ngành công nghiệp non trẻ đang gặp khó khăn, đảm bảo duy trì việc làm trong
một số ngành cũng như đảm bảo sự phát triển cân đối của cơ cấu kinh tế, tránh
được những áp lực và tác động xấu từ bên ngoài.
1.1.2. Theo “Britannica Concise Encyclopedia”
Bảo hộ mậu dịch – Protectionism là những chính sách bảo hộ các ngành
công nghiệp trong nước chống cạnh tranh nước ngoài bằng thuế quan, trợ cấp, hạn
ngạch nhập khẩu, hoặc những rào cản khác đối với nhập khẩu. Biện pháp bảo hộ
chủ yếu là: Chính phủ đánh thuế, tăng giá của hàng nhập khẩu, làm cho chúng ít
hấp dẫn khách hàng hơn so với giá rẻ hơn sản phẩm trong nước; áp hạn ngạch nhập
khẩu, trong đó giới hạn số lượng hàng hoá có thể được nhập khẩu cũng là một cơ
chế bảo hộ.
1.1.3. Từ khía cạnh thương mại:
Bảo hộ mậu dịch là chính sách kinh tế hạn chế thương mại giữa các quốc
gia, thông qua các phương pháp như thuế quan cho hàng hoá nhập khẩu, hạn ngạch
hạn nhập khẩu và một loạt các quy định khác của chính phủ được thiết kế để ngăn
cản hàng nhập khẩu. Chính sách này đi ngược lại xu hướng toàn cầu hoá và nỗ lực
tự do hóa thương mại, nơi mà các rào cản thương mại được các chính phủ duy trì ở
mức tối thiểu để luồng vốn quốc tế tự do di chuyển. Thuật ngữ này chủ yếu được
sử dụng trong bối cảnh các nền kinh tế sử dụng các chính sách với mục đích bảo vệ
các doanh nghiệp và công nhân trong nước bằng cách hạn chế hoặc điểu chỉnh
thương mại với nước ngoài.
Tuy nhiên, bảo hộ mậu dịch chỉ là một giải pháp tạm thời để ngăn cản hàng
hoá nước ngoài xuất hiện tràn lan trên thị trường cạnh tranh với hàng nội địa. Về

lâu dài, nó sẽ làm tăng chi phí đối với người tiêu dùng, trong khi đồng thời bảo vệ
các công ty trong nước không hiệu quả.
1.2. Thực tế về chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch trong bối cảnh khủng hoảng
1.2.1. Lịch sử của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch
5
Dù vẫn còn nhiều tranh cãi nhưng phần lớn các chuyên gia kinh tế hiện đại
đều thống nhất cho rằng, tương quan giữa những tác hại và lợi ích của chủ nghĩa
bảo hộ thương mại là 2:1, đồng nghĩa với biện pháp này có nhiều tác động xấu hơn
gấp đôi so với những lợi ích nó mang lại cho từng quốc gia.
Những chính sách kiểu như vậy sẽ làm thui chột tính chất cạnh tranh lành
mạnh trong nền kinh tế. Chưa kể chủ nghĩa bảo hộ thương mại còn được coi là
nguyên nhân của nhiều cuộc chiến tranh. “Khi hàng hóa không thể vượt qua các
biên giới thì quân đội sẽ giúp làm điều này” - chuyên gia kinh tế người Pháp
Frederic Bastia trong thế kỷ XIX đã từng phát biểu như vậy.
Thực tế cho thấy trong giai đoạn thế kỷ XVII và XVIII, đã có không ít
những cuộc xung đột giữa các cường quốc châu Âu xuất phát từ những chính sách
bảo hộ thương mại của các chính phủ nước này.
Ví dụ như cuộc chiến Anh - Hà Lan đầu tiên (1652-1654) nổ ra khi Quốc hội
Anh thông qua đạo luật hàng hải, theo đó hàng hóa của châu Phi, châu Á, châu Mỹ
chỉ có thể được đưa vào Anh trên những con tàu của Anh; còn hàng hóa châu Âu
cũng chỉ được hạn chế chở bằng tàu của Anh vào nước này hoặc bằng đúng tàu của
chính quốc gia xuất khẩu loại hàng đó.
Còn những người chống lại chính sách thương mại tự do thì ngược lại gọi
chủ nghĩa bảo hộ là biện pháp bảo vệ các nhà sản xuất. “Trong thương mại tự do,
thương gia là một quý ngài, còn nhà sản xuất chỉ là một nô lệ” - phát biểu của tổng
thống thứ 25 của nước Mỹ Wiliam McKinley - “Chủ nghĩa bảo hộ là quy luật tự
nhiên, quy luật tự vệ, tự phát triển, là một phương pháp để đảm bảo cho một tương
lai tốt hơn cho nhân loại…”.
Cũng theo những người này, chủ nghĩa bảo hộ trong nhiều giai đoạn lịch sử
đã là nguyên nhân chính dẫn tới bùng nổ kinh tế cho nhiều quốc gia như Anh thời

điểm trước năm 1850, Mỹ trong giai đoạn 1860-1914, Đức (1870-1914), Nhật
(1950-1990)… Còn Anh do chuyển sang chính sách ủng hộ tự do thương mại từ
năm 1860 đã nhanh chóng mất vị trí cường quốc hàng đầu về tay Mỹ, trước khi
còn bị cả Đức vượt qua.
1.2.2. Khủng hoảng kinh tế 1930 và Đạo luật Smoot - Hawley
6
Trong lịch sử, nền kinh tế hàng đầu thế giới như nước Mỹ đã không ngần
ngại áp dụng các biện pháp bảo hộ thương mại trên tư thế của “kẻ mạnh” chỉ vì
những quyền lợi riêng của kinh tế trong nước. Tuy nhiên, không phải bao giờ
những biện pháp đơn phương như vậy cũng đem lại hiệu quả, khi chúng thường
gặp phải sự chống đối quyết liệt không những từ phía các quốc gia khác mà còn từ
nhiều doanh nghiệp của chính nước Mỹ. Điển hình như trường hợp đạo luật Smoot
- Hawley đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với kinh tế Mỹ cũng như toàn
thế giới.
Bất đầu từ những năm 20 của thế kỷ trước, khi ngành nông nghiệp Mỹ rơi
vào một giai đoạn khó khăn nghiêm trọng, ứng cử viên Herbert Hoover trong chiến
dịch tranh cử tổng thống vào năm 1928 đã hứa hẹn sẽ giúp đỡ các chủ trang trại
Mỹ bằng cách tăng thuế đối với các hàng hóa nông nghiệp nhập khẩu. Ngay sau
khi Hoover đắc cử, dự thảo về đạo luật này đã được giao cho thượng nghị sĩ Rid
Smoot và nghị sĩ Willis Hawley nghiên cứu soạn thảo. Tháng 5-1929, dự thảo đạo
luật Smoot - Hawley được đưa ra điều trần trước quốc hội và xuất hiện trên bàn
của tổng thống để chờ ký ban hành.
Tháng 9-1929, Nhà Trắng đã nhận tổng cộng 23 công hàm phản đối của các
nước đối tác với Mỹ về dự thảo luật này. Chính phủ các nước này đều khẳng định
sẽ nâng thuế đối với các hàng hóa xuất khẩu của Mỹ để trả đũa nếu Washington
quyết định ban hành đạo luật trên.
Chống lại đạo luật này còn có phần lớn các thương gia hàng đầu của nước
Mỹ, khi tất cả đều lường trước được hậu quả từ những đòn trả đũa của các đối tác.
Tháng 5-1930, đã có tổng cộng 1.028 nhà kinh tế của Mỹ cùng ký vào một
lá đơn thỉnh cầu gửi lên Nhà Trắng vì đạo luật trên. Trùm tư bản về ô tô Henry

Ford đã dành cả một buổi tối để tới Nhà Trắng thuyết phục Tổng thống Hoover
không ký ban hành đạo luật mà ông này gọi là “một hành vi ngu xuẩn về kinh tế”.
Còn Thomas Lamont - Giám đốc Ngân hàng Đầu tư J.P.Morgan khi đó -
theo như lời chính ông, đã gần như phải quỳ xuống van nài người đứng đầu đất
nước không nên đặt bút ký vào cái “đạo luật ngớ ngẩn” trên. Bản thân Herbert
Hoover cũng tỏ ra chần chừ thực sự khi ông cho rằng, Smoot và Hawley đã “đi quá
xa” trong việc soạn thảo đạo luật. Nhưng cuối cùng tổng thống cũng phải đặt bút
7
ký do sức ép từ chính đảng Cộng hòa của mình, vốn từ trước đó luôn có khuynh
hướng theo đường lối bảo hộ mậu dịch.
Chính thức có hiệu lực vào ngày 17-6-1930, đạo luật Smoot-Hawley đã áp
giá thuế tăng lên gấp đôi đối với hơn 20.000 mặt hàng nhập khẩu khác nhau. Hậu
quả là hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ trong giai đoạn 1929-1933 đã giảm tới 66%,
trong khi hàng hóa xuất khẩu cũng giảm tới 61%. Tính chung, tổng giá trị thương
mại toàn cầu giai đoạn 1929-1934 đã giảm tới 66%. Dù không thể đổ hết lỗi về
tình trạng suy thoái này cho đạo luật bảo hộ Smoot-Hawley nhưng chắc chắn nó đã
gây ra những tác động hết sức tồi tệ đối với nền kinh tế thế giới.
2. Các chính sách bảo hộ mậu dịch cơ bản hiện nay
Một loạt các chính sách có thể được sử dụng để đạt được mục tiêu bảo hộ.
Chúng bao gồm:
Thuế quan : Thông thường, thuế quanđược áp dụng đối với hàng hoá nhập
khẩu. Mức thuế thường khác nhau tùy theo loại hàng hoá nhập khẩu. Thuế nhập
khẩu sẽ làm tăng chi phí nhập khẩu, và làm tăng giá hàng hoá nhập khẩu trong các
thị trường nội địa, do đó làm giảm số lượng hàng nhập khẩu. Thuế nhập khẩu
được xem là giúp đỡ các ngành công nghiệp địa phương, .
Hạn ngạch nhập khẩu : Để giảm số lượng và vì thế làm tăng giá thị trường
của hàng hóa nhập khẩu. Những ảnh hưởng kinh tế của hạn ngạch nhập khẩu là
tương tự như thuế quan, ngoại trừ doanh thu thuế thu được từ thuế quan thay vào
đó sẽ được phân phối cho những người nhận được giấy phép nhập khẩu.
Rào cản hành chính: Các nước đôi khi sử dụng các quy tắc hành chính của

họ (ví dụ liên quan đến an toàn thực phẩm , tiêu chuẩn môi trường, an toàn điện,
…) như là một cách để tạo rào cản đối với hàng nhập khẩu.
Thuế chống bán phá giá: Là biện pháp nhằm ngăn chặn hàng hóa nước
ngoài bán phá giá vào thị trường có thể gây ra cho các công ty địa phương nhiều
thiệt hại. Trong thực tế, thuế chống bán phá giá thường được sử dụng như một
hình thức áp đặt thuế quan đặc biệt với nước ngoài.
Trợ cấp trực tiếp: Chính phủ trợ cấp bằng cách trao cho doanh nghiệp
trong nước các hình thức thanh toán một lần hoặc các khoản vay giá rẻ khi họ
8
không thể cạnh tranh tốt với hàng nhập khẩu nước ngoài. Các khoản trợ cấp được
dùng với mục đích "bảo vệ" người lao động, và giúp doanh nghiệp trong nước
thích nghi với thị trường thế giới.
Trợ cấp xuất khẩu : Trợ cấp xuất khẩu thường được các chính phủ sử dụng
để tăng xuất khẩu thông qua những ưu đãi về cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Tỷ giá ngoại tệ : Một chính phủ có thể can thiệp vào ngoại hối trên thị
trường để hạ thấp giá trị của nội tệ bằng cách mua ngoại tệ trong thị trường ngoại
hối. Làm như vậy sẽ tăng chi phí nhập khẩu và giảm chi phí xuất khẩu, dẫn đến
một sự thay đổi trong cán cân thương mại. Tuy nhiên, chính sách này chỉ có hiệu
quả trong ngắn hạn, vì nó sẽ rất có thể dẫn đến lạm phát trong nước, mà từ đó sẽ
làm tăng chi phí xuất khẩu và giảm giá tương đối của hàng nhập khẩu.
Trên thực tế, các biện pháp được sử dụng nhiều nhất trong bối cảnh thương
mại hiện nay trên thế giới là thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, trợ cấp và chống bán
phá giá. Trong đó thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu là bộ đôi chính sách phổ biến
nhất.
2.1. Thuế quan
2.1.1. Khái niệm
Theo giáo trình “Quan hệ kinh tế quốc tế” – TS. Bùi Thị Lý– NXB Giáo dục
Việt Nam 2009:
Thuế quan là loại thuế đánh vào hàng hóa khi hàng hóa đó đi qua lãnh thổ
hải quan của một nước.

2.1.2. Tác động tích cực
Thuế quan theo truyền thống được đưa ra chủ yếu để tăng thu cho ngân sách,
tuy nhiên nó cũng phục vụ những mục đích khác như:
- Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho các mặt hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn
so với các mặt hàng thay thế có trong nước và điều này làm giảm thâm hụt
trong cán cân thương mại.
- Hướng dẫn tiêu dùng trong nước.
9
- Chống lại các hành vi phá giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt
hàng phá giá lên tới mức giá chung của thị trường.
- Trả đũa trước các hành vi dựng hàng rào thuế quan do quốc gia khác đánh
thuế đối với hàng hóa xuất khẩu của mình, nhất là trong các cuộc chiến tranh
thương mại.
- Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, chẳng hạn nông nghiệp giống
như các chính sách về thuế quan của Liên minh châu Âu đã thực hiện trong
Chính sách nông nghiệp chung của họ.
- Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để
có thể cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường quốc tế.
- Không khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng có thể bị coi là xa xỉ phẩm hay
đi ngược lại các truyền thống văn hóa dân tộc v.v
2.1.3. Tác động tiêu cực
10
Thuế tác động trực tiếp làm tăng giá tiêu dùng trong nước, từ đó hạn chế tiêu
dùng.
Khi đánh thuế nhập khẩu, người tiêu dùng bị thiệt hại vì nó làm tăng giá của
hàng nhập khẩu từ mức giá thế giới lên bằng với giá thế giới cộng với thuế nhập
khẩu. Đồ thị này chỉ ra tác động của thuế nhập khẩu:
Khi thực hiện thương mại tự do cân bằng thị trường như sau: người tiêu dùng
muốn mua một số lượng Qd hàng hoá ở mức giá thế giới trong khi những nhà sản
xuất trong nước chỉ sản xuất một số lượng Qs ở mức giá thế giới. Bằng cách nhập

khẩu phần thiếu hụt (chênh lệch giữa Qd và Qs) ở mức giá thế giới, người tiêu
dùng có thể thoả mãn toàn bộ nhu cầu ở mức giá này.
Khi có thuế nhập khẩu cân bằng thị trường như sau: giá hàng hoá trong nước
bị tăng lên đến mức bằng giá thế giới công với thuế nhập khẩu kích thích những
nhà sản xuất trong nước sản suất thêm, đẩy sản lượng sản xuất trong nước từ Qs
11
lên Qs'. Tuy nhiên do giá tăng nên cầu của người tiêu dùng bị kéo từ Qd xuống
Qd'.
Rõ ràng việc giá bị đẩy lên cao đã làm cho người tiêu dùng phải trả thêm một
khoản tiền bằng diện tích của hình chữ nhật CEGH để mua số lượng hàng Qd'.
Phần diện tích hình ABF đã bị mất trắng, đây chính là tổn thất của xã hội để chi
phí cho sự yếu kém của những nhà sản xuất trong nước. Diện tích hình ECD lại là
một tổn thất nữa khi độ thoả dụng của người tiêu dùng bị giảm sút: thay vì có thể
tiêu thụ Qd hàng hoá, do có thuế nhập khẩu họ chỉ có thể tiêu dùng Qd' mà thôi.
Đối với sản xuất trong nước, thuế nhập khẩu làm giá ở thị trường nội địa
tăng lên, khuyến khích các nhà sản xuất trong nước phát triển. Mặt khác, như đã
phân tích ở trên, người tiêu dùng phải trả thêm một khoản ứng với diện tích BCEF.
Khoản trả thêm này một phần (bằng diện tích hình BCEF) được chuyển cho chính
phủ dưới dạng thuế nhập khẩu thu được, một phần (bằng diện tích hình AFGH)
được chuyển thành lợi nhuận của nhà sản xuất trong nước do vậy hai phần này
không làm thiệt hại lợi ích tổng thể của quốc gia.
Tóm lại, thuế nhập khẩu dẫn đến cả thu nhập chuyển giao từ người tiêu dùng
sang chính phủ và nhà sản xuất trong nước đồng thời gây tổn thất lợi ích ròng của
toàn xã hội.
12
2.2. Hạn ngạch nhập khẩu
2.2.1. Khái niệm
Hạn ngạch nhập khẩu là quy định của Nhà nước về số lượng hoặc giá trị một
mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng được xuất đi hoặc nhập về đến hoặc từ
một thị trường nào đó, trong một thời gian nhất định, thường là một năm.

Hạn ngạch nhập khẩu thường là một hình thức hạn chế về số lượng và thuộc
hệ thống giấy phép không tự động. Hạn ngạch nhập khẩu được áp dụng bằng
cách cấp giấy phép nhập khẩu cho một số công ty.
2.2.2. Lợi ích của hạn ngạch nhập khẩu
- Bảo hộ sản xuất trong nước
- Sử dụng hiệu quả quỹ ngoại tệ
- Thực hiện các cam kết của chính phủ ta với nước ngoài
- Dự đoán về lượng hàng nhập khẩu vào thị trường nội địa
- Hướng dẫn tiêu dùng
2.2.3. Tác động tiêu cực của hạn ngạch nhập khẩu
Hạn ngạch tác động lên giá gián tiếp thông qua hạn chế nhập khẩu
13
Equilibrium domestic price: gía cân bằng trong nước
Price after imposition of import quota: giá sau khi áp dụng hạn ngạch nhập
khẩu
Equilibrium free trade price: giá cân bằng khi có mậu dịch tự do
International supply curve: đường cung thế giới
Demand curve: đường cầu
Quantity: lượng
Price: giá
Hạn ngạch nhập khẩu tức là cắt giảm số lượng hàng được phép nhập khẩu vào
một nước. Trong thị trường cạnh tranh, điểm cân bằng quyết định đến lượng và giá
của hàng hoá là điểm giao nhau giữa cầu và đường cung. Đồi với thị trường thuần
nội địa, điểm cân bằng này sẽ là P* và Q*. Khi thương mại quốc tế thâm nhập vào
thị trường, điểm cân bằng này có thể thay đổi. Giả sử rằng, giá của một hàng hoá
nằm dưới điểm P* khi nhập khẩu từ nước ngoài lớn hơn sản xuất trong nước. Đồng
thời giả định rằng, nền kinh tế thế giới có thể cung cấp nhiều hàng hoá hơn tại mức
giá đó. Khi đó, đường cung thế giới là một đường nằm ngang tại mức giá P2 (tức là
mức giá của hàng nhập khẩu). Mức giá cân bằng giảm xuống P2, và lượng cân
bằng tăng từ Q* lên Q4. Các doanh nghiệp trong nước sẽ phải sản xuất ít hơn (Q1),

trong khi phần còn lại (sự chênh lệch giữa Q1 và Q4) sẽ được chuyển sang nhà
nhập khẩu.
Khi mậu dịch tự do xuất hiện, người tiêu dùng được lợi đáng kể. Xét trên thị
trường thuần nội địa, thặng dư tiêu dùng được biểu diễn bởi vùng A. Mậu dịch tự
do làm tăng mức thặng dư tiêu dùng này, bao gồm B, C ,D, E, F, G, H, và I bời vì
người tiêu dùng chỉ phải trả mức giá là P2 cho chi mua hàng hoá thay vì mức giá
cao hơn P*, và họ có thể mua một lượng Q4 thay vì Q*. Mặt khác, các doanh
nghiệp trong nước phải chịu ảnh hưởng tiêu cực. Xét trên thị trường thuần nội địa,
thặng dư sản xuất trong nước được biểu diễn bởi vùng B, E và J. Và mậu dịch tự
14
do khiến họ mất đi vùng B và E, chuyển sang người tiêu dùng, bởi vì họ chỉ có thể
tính giá P2 thay vì P*. Cuối cùng, nền kinh tế sẽ được lợi trên những vùng C, D, F,
G, H, và I, trước khi mậu dịch tự do xuất hiện, hoàn toàn không có những thặng dư
này. Rõ ràng rằng, người được lợi ở đây là người tiêu dùng.
Khi có hạn ngạch, chính phủ sẽ hạn chế số lượng hàng nhập khẩu để tăng
giá và giúp các doanh nghiệp lấy lại phần thặng dư bị mất. Nếu chính phủ giới hạn
tổng lượng nhập khẩu tại sự chênh lệch giữa Q2 và Q3, lượng hàng nhập khẩu sẽ
giảm từ chênh lệch Q1 và Q4 sang chênh lệch giữa Q2 và Q3, giá sẽ tăng lên P1.
Hạn ngạch gián tiếp đẩy giá trong nước từ P2 lên P1 nên cũng khuyến khích
sản xuất trong nước phát triển.
Tuy nhiên, khác với thuế, hạn ngạch còn có thể biến một doanh nghiệp trong
nước trở thành kẻ độc quyền. Và do đó, họ có thể áp đặt giá cả độc quyền để thu
được lợi nhuận tối đa.
Chính phủ không có thu nhập từ hạn ngạch. Khi một hạn ngạch đựơc dùng
để hạn chế nhập khẩu thay cho thuế quan, thì lượng tiền thuế đáng ra Chính phủ
thu được sẽ rơi vào bất cứ người nào có giấy phép nhập khẩu theo hạn ngạch.
Những người có giấy phép này nhập khẩu hàng hoá và sau đó bán lại với giá cao
hơn tại thị trường trong nước.
2.2.4. Hạn ngạch thuế quan
Hạn ngạch thuế quan là chế độ trong đó quy định sẽ áp dụng một mức thuế

bằng không (0%) hoặc thấp hơn đối với những hàng hóa được nhập khẩu theo
đúng số lượng quy định, nhằm đảm bảo cung cấp với giá hợp lí cho ngừoi tiêu
dùng. Khi hàng hóa nhập khẩu quá số lượng quy định thì sẽ áp dụng mức thuế cao
(còn gọi là thuế lần 2) để bảo hộ các nhà sản xuất trong nước.
Chế độ hạn ngách thuế quan được sử dụng nhằm đảm bảo hài hòa mục tiêu
bảo vệ quyền lợi ngừoi tiêu dùng và mục tiêu bảo hộ người sản xuất trong nước.
15
Việc áp dụng biện pháp này phải dựa trên cơ sở nghiên cứu kĩ càng thực trạng
cung cầu, khả năng sản xuất cũng như cầu tiêu dùng trong nước.
Trên thực tế, WTO không cho phép các nước thành viên sử dụng hạn ngạch
trong quan hệ thương mại nhưng lại cho phép sử dụng hạn ngạch thuế quan với
điều kiện không có sự phân biệt đối xử với từng nước.
2.3. Trợ cấp
2.3.1. Khái niệm
Trợ cấp là việc chính phủ dành cho doanh nghiệp những lợi ích mà
trong điều kiện thông thường doanh nghiệp không thể có được. Những lợi ích
đó có thể phát sinh từ việc chính phủ trực tiếp cấp tiền hay tạo điều kiện
thuận lợi về mặt tài chính, tín dụng, … cho doanh nghiệp.
Có 2 hình thức trợ cấp cơ bản: trợ cấp trong nước và trợ cấp xuất khẩu.
- Trợ cấp xuất khẩu: là loại trợ cấp nhằm mục đích đẩy mạnh, khuyến
khích xuất khẩu. Hàng hóa bán ra thị trường nước ngoài có giá có thể
còn thấp hơn tại thị trường trong nước. Điều này tạo sự cạnh tranh
không lành mạnh trong thương mại quốc tế.
- Trợ cấp trong nước: là loại trợ cấp dành cho các doanh nghiệp chủ yếu
sản xuất hàng hóa phục vụ thị trường nội địa, hàng hóa được trợ cập là
hàng hóa tiêu dùng nội địa. Tuy nhiên khi hàng hóa này được người sản
xuất xuất khẩu thì nó lại trở thành trợ cấp xuất khẩu. Ảnh hưởng của nó
khá giống với trợ cấp xuất khẩu dù mục đích ban đầu khác nhau.
2.3.2. Tác động của trợ cấp
Khi hàng hóa xuất khẩu được trợ cấp, nước xuất khẩu sẽ mở rộng được

thị trường ra nước ngoài do hàng xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh về giá. Việc
mở rộng quy mô thị trường này lại gây sức ép khó khăn cho ngành sản xuất
16
hàng hóa tương tự của nước nhập khẩu: sự suy giảm sản lượng, doanh số bán,
lợi nhuận,…
Về mặt kinh tế học, tác động của trợ cấp là ngược lại với thuế quan,
đồng thời cũng tạo ra phần mất không cho xã hội làm giảm hiệu quả của tự
do mậu dịch.
Chính vì thế nước nhập khẩu sẽ có thể áp dụng biện pháp đối kháng:
“Thuế chống trợ cấp”. Nó là khoản thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu được
trợ cấp từ phía chính phủ nước xuất khẩu nhằm triệt tiêu những lợi thế do
khoản trợ cấp mang lại. Mức thuế này được thông qua sau một quá trình điều
tra xác định mức độ trợ cấp và mức độ thiệt hại gây ra của nước nhập khẩu.
2.4. Chống bán phá giá
2.4.1. Bán phá giá
a)Khái niệm:
Bán phá giá hàng hóa là việc bán sản phẩm của một nước sang một
nước khác với giá thấp hơn giá bán thông thường của hàng hóa đó tại nước
xuất khẩu.
b) Mục đích:
Về cơ bản bán phá giá hàng hóa được thực hiện với 3 mục đích chính:
- Gạt bỏ đối thủ cạnh tranh
- Thu lợi nhuận độc quyền
- Giải quyết hàng tồn kho
Việc bán hàng hóa với giá thấp như vậy nhằm mục đích loại bỏ các đối
thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường từ đó đẩy mạnh xuất khẩu.Khi thực hiện
bán phá giá, ban đầu người bán sẽ chịu lỗ, vì vậy họ phải có tiềm lực kinh tế
mạnh hoặc được sự hỗ trợ từ phái chính phủ. Sau khi chiếm lĩnh thị trường,
họ sẽ khống chế giá để thu lợi nhuận tối đa.
2.4.2. Chống bán phá giá

a) Điều kiện áp dụng:
Hàng hóa nhập khẩu có bán phá giá.
17
Ngành sản xuất hàng hóa tương tự ở nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng
kể.
Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá và
thiệt hại nói trên.
b) Các biện pháp thực hiện:
Trước khi nước nhập khẩu đưa ra mức thuế chống bán phá giá, các bên
sẽ thương lượng về việc thay đổi mức giá bán hay hạn chế nhập khẩu.
Thực hiện thuế chống bán phá giá: khoản thuế bổ sung ngoài thuế nhập
khẩu thông thường đánh vào sản phẩm của nước ngoài bán phá giá vào thị
trường nước nhập khẩu.
18
3. Những vấn đề thương mại phát sinh trong khủng hoảng
3.1. Những hậu quả mang tính xã hội của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu 2008
Khi tình trạng thất nghiệp gia tăng ở nhiều quốc gia do ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế và sự suy giảm thương mại diễn ra nhanh chóng và rõ nét hơn dự
kiến, liệu rằng các chính phủ có thể chịu được áp lực để bảo vệ nền kinh tế và
người dân của mình khỏi sự cạnh tranh từ bên ngoài? Nếu chính phủ không thể, thì
chính phủ có thể làm được những gì để hạn chế nhập khẩu và thúc đẩy xuất khẩu
mà không gây ra một cuộc khủng hoảng bảo hộ nào ngăn cản sự hồi phục nền kinh
tế toàn cầu?
Khi hàng triệu người mất việc làm hoặc không thể tìm được việc làm sẽ
khiến họ mất đi khả năng tự cứu lấy bản thân, lòng tự trọng và hy vọng. Hậu quả
có thể bao gồm cả sự bất ổn về xã hội và chính trị.
Các nước phát triển và đang phát triển đều có chung mục đích xóa đói giảm
nghèo, tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững và tiến bộ xã hội. Chính vì thế, quá
trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ hình thành các liên kết khu vực và thế

giới, tạo ra những chuyển biến tích cực trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc
gia. Nhưng ngay trong thập niên đầu của thế kỷ này, cuộc khủng hoảng kinh tế với
quy mô toàn thế giới đã đặt ra nhiều câu hỏi liên quan đến các thể chế kinh tế, các
chính sách thương mại và các xu hướng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trong đó
nổi lên vấn đề gây tranh cãi về chủ nghĩa bảo hộ thương mại trong bối cảnh hiện
nay.
3.2. Nguyên nhân cơ bản của khủng hoảng
Nếu nói rằng toàn cầu hóa là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế thì điều
đó là không đúng. Nhưng toàn cầu hóa có tác dụng làm cho khủng hoảng lan rộng
hơn. Khủng hoảng là biểu hiện có tính chu kỳ của nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng
19
lần này có thể có những điểm tương đồng với khủng hoảng của những năm 70, 80
của thế kỷ XX nhưng trong nội tại nền kinh tế thế giới thời kỳ này có những diễn
biến rất khác.
Có thể nói cuộc suy thoái đầu thế kỷ XXI được bắt nguồn từ 3 nguyên nhân
chính: sự buông lỏng quản lý của Nhà nước, sự đua tranh khốc liệt vì lợi nhuận và
hoạt động đầu cơ của các tổ chức tài chính, trong khi các định chế quản lý và giám
sát thị trường một cách bất cẩn. Sự tăng lên nhanh chóng của mậu dịch tiền tệ và
quy mô mở rộng của thị trường tài chính với sự ra đời các sản phẩm phái sinh mà
không được kiểm soát trong điều kiện toàn cầu hóa, đã khiến các tác nhân kinh tế
trở nên lúng túng trước những bất ổn của thị trường. Chính trong bối cảnh hội nhập
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đã làm cho khủng hoảng lan tỏa nhanh
hơn và có tác động tới tất cả các nền kinh tế, nhất là những nước có mức tự do hóa
tài khoản vốn cao và có độ mở lớn về kinh tế…
Điều tất yếu xảy ra là các nước tìm cách đối phó với khủng hoảng kinh tế
bằng nhiều biện pháp, nhiều hình thức khác nhau trong đó có khuyến khích xuất
khẩu và bảo hộ sản xuất trong nước, nhằm đảm bảo việc làm và duy trì tăng trưởng
kinh tế.
3.3. Bảo hộ mậu dịch làm khủng hoảng thêm trầm trọng
Chính sách bảo hộ dù sao vẫn là con dao hai lưỡi khi sử dụng, có thể làm

phức tạp thêm tình hình, thậm chí làm bùng nổ những cuộc chiến thương mại.
Các chính sách bảo hộ tiếp tục gia tăng, thương mại toàn cầu tiếp tục giảm
trong năm 2009, nhưng tốc độ suy thoái kinh tế toàn cầu dường như đã chậm lại.
Những đánh giá này được Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa ra
trong báo cáo công bố ngày 1/7/2009.
20
Về cơ bản, các biện pháp bảo hộ mạnh đã được ngăn chặn, dù vấp phải
không ít khó khăn. Tuy nhiên, trong ba tháng vừa qua, nhiều nước vẫn áp đặt các
chính sách hạn chế thương mại và bóp méo thị trường. Theo WTO, các biện pháp
bảo hộ mậu dịch thời kỳ này nhiều hơn gấp đôi các biện pháp tự do hóa thương
mại mới, chưa tính đến những biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo vệ thị trường
trong nước sau khi bùng phát dịch cúm A/H1N1 tháng 4/2009. Những mặt hàng
được bảo hộ nhiều nhất gồm sản phẩm làm từ sữa, sắt, thép, ô tô, hóa chất, đồ nhựa
và hàng dệt may. Một số nước còn bảo hộ khu vực năng lượng và dịch vụ tài
chính.
Ở các nước phát triển, tăng trưởng thương mại giảm mạnh tới 14% so với
mức dự báo 10% trước đó, trong khi tỷ lệ này đối với các nước đang phát triển là
7% so với 2-3%. Nguyên nhân do xuất khẩu giảm, đặc biệt là ô tô, phụ tùng ô tô,
máy cơ khí ở các nước phát triển giảm, cũng như nguyên liệu thô và bán thành
phẩm ở các nước đang nổi lên. WTO dự đoán tình trạng thương mại giảm sẽ tiếp
tục, nhưng có thể “đảo chiều” nếu xuất hiện sự gia tăng về nhu cầu tiêu thụ hàng
hóa trên thế giới.
Các chính sách kích thích kinh tế đang được nhiều nước áp dụng để thoát ra
khỏi thời kỳ suy thoái là vô cùng đáng ngại. Các chính sách này tạo lợi thế cạnh
tranh không công bằng giữa các đối tác thương mại. Hơn nữa, do các nước không
báo cáo với WTO về những biện pháp kích thích kinh tế mà họ đã sử dụng, tổ chức
này không thể đánh giá mức độ bóp méo thị trường và khả năng cạnh tranh do
những biện pháp trên gây ra, cũng như không thể xác định liệu những biện pháp hỗ
trợ hay bảo trợ có được chấm dứt khi tình hình đã thay đổi hay không.
Trong thông báo của WTO về cuộc họp đại diện các thành viên để xem xét

toàn cầu lần thứ hai về viện trợ cho thương mại, nhằm mở rộng khả năng buôn bán
21
của các nước đang phát triển, Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy cho biết, cuộc
họp về Viện trợ cho thương mại nhằm ủng hộ các nước đang phát triển khi các
nước này đang tìm cách hội nhập tốt hơn vào hệ thống buôn bán đa phương và để
tận dụng những cơ hội về xuất khẩu. Ông nói, vấn đề này ngày nay thậm chí còn
quan trọng hơn, bởi Viện trợ cho thương mại là bước chuẩn bị cần thiết cho các
nước nghèo thoát khỏi khủng hoảng và bây giờ không phải lúc để phớt lờ các lời
hứa về phát triển. Theo đó, kết quả cuộc họp về Viện trợ cho thương mại mong
muốn đẩy lùi những hiện tượng tương tự theo kiểu “người Mỹ mua hàng Mỹ”, hay
việc Trung Quốc siết lại việc xuất khẩu khoảng 20 loại khoáng sản bằng một lời
giải thích” mục tiêu chính của chính sách Trung Quốc về vấn đề xuất khẩu là bảo
vệ môi trường và các tài nguyên thiên nhiên...”
Vòng phát triển Đô-ha sẽ đem lại nhiều cơ hội mở cửa thị trường cụ thể cho
các nước đang phát triển không có khả năng, nhiều nước sẽ không thể bắt kịp
những cơ hội này và hậu quả là không thể sử dụng thương mại như công cụ cho
công cuộc phát triển và xóa đói giảm nghèo. Các nước cần củng cố cơ sở hạ tầng,
khả năng sản xuất và đào tạo liên quan đến thương mại nếu thương mại hỗ trợ tốt
hơn cho các chiến lược phát triển và xóa đói giảm nghèo ở những nước đang phát
triển. Sáng kiến Viện trợ cho thương mại được đưa ra có liên quan mật thiết với kết
quả đầy tham vọng về phát triển của vòng đàm phán Đô-ha.
Theo ông Lamy, WTO và các đối tác của Viện trợ cho thương mại sẽ xây
dựng trên những thành quả đã đạt được từ trước tới nay trong các diễn đàn viện trợ
cho thương mại của khu vực và quốc tế, đồng thời củng cố vai trò của khu vực tư
nhân và xã hội dân sự để mở rộng cơ sở kinh nghiệm và các nguồn lực dành cho
buôn bán và phát triển.
22
WTO cho rằng nhiệm vụ cấp thiết đối với Nhóm 20 nền kinh tế phát triển và
đang nổi (G-20) là phải nhanh chóng hình thành một chiến lược bứt ra khỏi chủ
nghĩa bảo hộ cục bộ nhằm những biện pháp ứng phó khủng hoảng hiện nay đưa

các thị trường thế giới trở lại hoạt động bình thường.
Tuy nhiên thực tế đã diễn ra không đơn giản như vậy.
Trước cuộc khủng hoảng, năm 2005, khi có tin đồn Tập đoàn PepsiCo của
Mỹ có thể thôn tính hãng Danone, một nhãn hiệu nổi tiếng được xếp vào loại
truyền thống của Pháp, Bộ trưởng Tài chính Thierry Breton dưới sức ép của Quốc
hội đã phải tìm mọi cách ngăn chặn khả năng thương vụ trên xảy ra.
Một năm sau đó lại xảy ra kịch bản tương tự liên quan đến hệ thống cảng
biển của nước Mỹ. Vấn đề là nhà điều hành cảng biển lớn nhất thế giới Dubai Ports
World (DP World) từ Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) đã mua lại
hãng P&O của Anh, trước đó đang quản lý các cảng biển tại Mỹ. Sự kiện này đã
gây ra những phản ứng quyết liệt từ các nghị sĩ Quốc hội Mỹ, những người cho
rằng việc chuyển giao quyền kiểm soát 6 cảng lớn nhất của nước này cho một công
ty của người Ả Rập sẽ đe dọa tới an ninh quốc gia.
Một loạt những cuộc đàm phán sau đó đã diễn ra với sự tham gia của các đại
diện từ DP World, các quan chức chính quyền Bush và cả các nghị sĩ Quốc hội
Mỹ. DP World sau đó đã đưa ra một tuyên bố nói rằng: “Để bảo vệ mối quan hệ
hữu nghị Mỹ-UAE, DP World sẽ chuyển giao hoàn toàn quyền điều hành các cảng
trước đó của P&O cho một công ty tại Mỹ”.
Chính quyền Tây Ban Nha lại đưa ra một lý lẽ khác để phong tỏa vụ Tập
đoàn E.ON của Đức mua lại Công ty năng lượng Endesa của nước này. Dù Ủy ban
châu Âu đã chấp thuận thương vụ trên nhưng Madrid vẫn kiên quyết phản đối với
23
lý do, những hoạt động sát nhập trong lĩnh vực năng lượng cần phải có được thỏa
thuận từ trước đó của chính phủ. Trên thực tế, giới lãnh đạo Tây Ban Nha muốn
thành lập một tập đoàn siêu quốc gia nên ủng hộ việc bán Endesa cho Công ty Gas
Natural cũng của Tây Ban Nha. Với sức ép trên, Endesa cuối cùng vẫn thuộc về
người nước ngoài nhưng không phải người Đức mà là hai Công ty Acciona và Enel
của Italia. Ttháng 2-2009, Enel đã mua số cổ phần của Acciona và trở thành người
sở hữu tới 92% cổ phần của Endesa.
Sau hàng loạt những ví dụ trước và trong thời gian khủng hoảng chỉ cho

thấy, những lời hô hào về ủng hộ tự do thương mại nhiều khi chỉ mang tính “sách
vở”. Các quốc gia sẽ luôn luôn áp dụng những chính sách này hay chính sách khác
không phải vì chúng mang tính hợp lý, mà do có lợi cho họ trong từng trường hợp
cụ thể. Đó là lý do khiến những chính sách bảo hộ vẫn sẽ còn tiếp tục trong thời
đại toàn cầu hóa hiện nay.
24
Chương 2: Xu hướng bảo hộ mậu dịch nhằm đối phó với
khủng hoảng trên thế giới hiện nay
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2009 đã có những ảnh hưởng sâu xa đến
thương mại toàn cầu.Tai họa đầu tiên của cuộc khủng hoảng này là vấn đề tài chính
thương mại - lượng tín dụng cần thiết để cho 90% hàng hóa được buôn bán qua
biên giới. Mức lãi suất của những khoản nợ tài chính thương mại tăng nhanh 300%
vào mùa thu năm 2008, buộc WTO phải triệu tập một cuộc họp đặc biệt và buộc
Ngân hàng thế giới lập nên 1 quỹ tài chính thương mại. Khi cuộc khủng hoảng ảnh
hưởng đến nền kinh tế thực sự thì nó sẽ làm giảm cầu và cung hàng hóa trong
thương mại toàn cầu. Cuộc khủng hoảng có vẻ đang làm thương mại toàn cầu co
lại 2.8 % vào năm 2009, lần giảm đầu tiên từ năm 1982.
1. Thực tế gia tăng hàng rào bảo hộ trên phạm vi toàn cầu
Trong “Báo cáo bảo hộ thương mại toàn cầu 2009” – bản tổng kết các hoạt
động phòng vệ thương mại toàn cầu năm 2008 bao gồm: Chống bán phá giá,các
biện pháp đối kháng và biện pháp tự vệ - ta có thể thấy được sự gia tăng của các
biện pháp bảo hộ mậu dịch kiểu mới trong thời gian đầu của khủng hoảng.
1.1. Gia tăng các biện pháp chống bán phá giá
1.1.1. Số lượng các vụ kiện
Ta có thể thấy hoạt động chống bán phá giá gia tăng đáng kể trong năm
2008 so với năm 2007:
Bảng 1 – Số liệu các vụ khởi xướngđiều tra chống bán phá giá giai đoạn 1995-2008
Đơn vị: vụ
25

×