Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Vai trò hoàng kế viêm trong lịch sử việt nam cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.26 KB, 32 trang )

Lời cảm ơn
Trong quá trình thực hiện bài khóa luận em đã nhận được nhiều sự giúp
đỡ, đóng góp ý kiến của quý thầy, cô giáo, gia đình, bạn bè và các cơ quan liên
quan.
Trước hết, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo ThS. Lê Trọng Đại
người trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em về kiến thức và phương pháp để em
hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp này.
Em cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Khoa học
Xã hội, các thầy cô trong trường Đại học Quảng Bình đã tận tình giảng dạy em
trong suốt ba năm qua và động viên giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khóa
luận.
Em xin chân thành cảm ơn Trung tâm học liệu trường Đại học Quảng
Bình, đã giúp đỡ em trong quá trình tìm kiếm và khai thác tài liệu phục vụ cho
việc nghiên cứu hoàn thành khóa luận.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới những người thân
trong gia đình, bạn bè đã luôn ủng hộ và động viên em hoàn thành tốt khóa luận
tốt nghiệp này.
Mặc dù có rất nhiều cố gắng nhưng do trình độ và thời gian có hạn nên
khóa luận này chắc chắn không tránh khỏi nhiều thiếu sót và hạn chế. Tác giả
khóa luận rất mong muộn nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và bạn bè
để khóa luận được hoàn thành tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !

1


A. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Quảng Bình là một tỉnh nằm ở Bắc Trung Bộ, là vùng đất có vị trí chiến
lược hết sức quan trọng, là điểm thắt nhất của khúc ruột miền Trung. Cảnh


quan, di tích danh thắng của Quảng Bình hết sức hấp dẫn, độc đáo như Nhật Lệ,
Đá Nhảy, Di sản thiên nhiên Thế giới Phong Nha – Kẻ Bàng,…
Quảng Bình cũng là vùng đất của những chiến công trong các cuộc
chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc, là quê hương “Hai giỏi” trong kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Quảng Bình cũng là nơi con người phải thường xuyên đối mặt
với hạn hán, lũ lụt, bão tố….chính mảnh đất này đã từng chịu nhiều gian khó
nhưng con người nơi đây đã kiên cường, dũng cảm, đoàn kết gắn bó, sống ân
tình mộc mạc, cần cù, nhẫn nại, gan góc chống chọi với kẻ thù và chống chọi
với thiên nhiên. Chính vì vậy, con người ở đây cũng rất sáng tạo, hiếu học và
vùng đất này đã sản sinh ra nhiều danh nhân lịch sử văn hóa như Tiến sĩ Dương
Văn An (thế kỷ XVI); Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, danh tướng Hoàng Kế
Viêm. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở mỗi thế kỷ là một giai đoạn
đầy sống gió nhưng anh dũng của dân tộc. Trong cuộc kháng chiến đó Hoàng
Kế Viêm là một trong những gương mặt nổi bật được các học giả xưa và nay
tốn khá nhiều công sức nghiên cứu.
Việc nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp của Hoàng Kế Viêm sẽ giúp cho tác
giả khóa luận nâng cao hiểu biết của mình về lịch sử Việt Nam cận đại, làm
hành trang cho nghề nghiệp sau này. Mặt khác việc thực hiện khóa luận còn
giúp em bước đầu tập làm quen với việc nghiên cứu khoa học.
Với tất cả những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề “Vai trò
Hoàng Kế Viêm trong lịch sử Việt Nam cận đại” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về một giai đoạn hào hùng
của dân tộc cũng như góp phần làm sáng tỏ thêm tài năng của ông.

2


2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Nhìn lại lịch sử, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về cuộc đời sự
nghiệp và những đóng góp to lớn của Hoàng Kế Viêm. Tuy nhiên việc đánh giá

vai trò lịch sử của Hoàng Kế Viêm đến nay vẫn chưa có sự thống nhất. Qua
nghiên cứu chúng tôi thấy rằng về cơ bản các nhà nghiên cứu đều thống nhất
đánh giá cao các đóng góp của Hoàng Kế Viêm trong việc đánh dẹp giặc cướp
ở các tỉnh biên giới Việt Trung (tàn quân Thái Bình Thiên quốc) và làm nên hai
chiến thắng Cầu Giấy trong các năm 1873, 1882. Tuy nhiên khi xem xét thời
gian Hoàng Kế Viêm khi ông nhận chức An Phủ sứ của triều đình Đồng Khánh
(tay sai Pháp) đi chiêu dụ lực lượng Cần Vương Thì có hai nhóm quan điểm
đối lập nhau. Nhóm thứ nhất, thông cảm với Hoàng Kế Viêm cho rằng ông
nhận sắc đi chiêu dụ lực lượng Cần Vương là do thời thế. Nhóm thứ hai thi phê
phán coi đó là sai lầm, là Hoàng Kế Viêm đã từ bỏ hàng ngũ kháng chiến đi làm
tay sai cho Pháp.
Quá trình tìm hiểu các công trình nghiên cứu về Hoàng Kế Viêm, trên
cơ sở các nguồn tài liệu thu thập được, chúng tôi tiến hành thống kê, tập hợp và
sắp xếp phân loại như sau:
Nhóm thứ nhất gồm các tác giả nghiên cứu ở mực độ khái quát cuộc đời
và sự nghiệp của Hoàng Kế Viêm thể hiện trong các công trình như của nhóm
tác giả của Viện sử học với Lịch sử Việt Nam tập 2, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1976; của PGS.TS Trần Bá Đệ với Lịch sử Việt Nam 1858 đến nay, NXB
ĐH Quốc gia Hà Nội 2000, tác giả Trương Hữu Quýnh và cộng sự trong Đại
cương lịch sử Việt Nam tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội 1997,…
Nhóm thứ hai gồm các tác giả nghiên cứu một cách chuyên sâu về
cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng Kế Viêm. Có thể kể đến các tác giả như
Nguyễn Tú tác phẩm “danh tướng Hoàng Kế Viêm - thân thế và sự nghiệp”,
Nxb VH Thông tin (1997). Đặc biệt Nguyễn Ngọc Trai có tác phẩm “Hoàng Kế
Viêm cuộc đời và sự nghiệp” đã khắc họa một cách đầy đủ, chi tiết và chân
thực về thân thế, cuộc đời và đặc biệt đã làm rõ tài năng quân sự của Hoàng Kế
Viêm ở nửa sau thế kỷ XIX. Đặc biệt Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh
Quảng Bình đã cùng Hội Di sản tỉnh tổ chức Hội thảo khoa học Hoàng Kế Viêm
3



trong tiến trình lịch sử cận đại Việt Nam. Hội thảo đã có sự tham gia của các
nhà khoa học trên toàn quốc với 26 báo cáo được in thành kỷ yếu. Trong các
bài viết của hội thảo các nhà khoa học đã đi sau làm rõ nhiều góc cạnh khác
nhau về những khoảng thời gian khác nhau trong cuộc đới của Hoàng Kế Viêm.
Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy các công trình nghiên
cứu của các nhà khoa học đều đề cập đến vấn đề đóng góp của Hoàng Kế Viêm
trong lịch sử cận đại Việt Nam ở những phương diện khác nhau, ở những mức
độ khái quát hoặc từng khía cạnh. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của tác giả, cho đến
nay, chưa có một công trình nào giải mả một cách thật thấu đáo về những uẩn
khúc trong cuộc đời của Hàng Kế Viêm và đi chú ý đến 2 trận thắng của Hoàng
Kế Viêm cùng với quân đội nhà Thanh trước quân Pháp ở Sơn Tây năm 1883.
Trên cơ sở kế thừa những thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi
tập hợp lựa chọn và khai thác thông tin phục vụ cho đề tài của mình. Mặt khác,
trên cơ sở các tài liệu tập hơp được tác giảkhái quát thành các luận điểm, lựa
chọn các luận cứ, phân tích và chứng minh để làm rõ đóng góp của Hoàng Kế
Viêm ở nửa sau thế kỷ XIX. Mặt khác khóa luận sẽ giải mả những uẩn khúc
trong cuộc đới của Hoàng Kế Viêm thời gian ông nhận chức An phủ sử của
triều đình Đồng Khánh, và việc đàn áp khởi nghĩa Hoàng Phan Thái, làm rõ
thêm trong 2 trận thắng ở Sơn Tây năm 1883.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu các đối tượng sau
+ Quê hương, gia thế và sự nghiệp của Hoàng Kế Viêm
+ Đóng góp của Hoàng Kế Viêm trong lịch sử cận đại Việt Nam.
+ Một số hạn chế của Hoàng Kế Viêm
3.2 Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: căn cứ vào đề tài chúng tôi xác định không gian nghiên
cứu chủ yếu ở những địa phương mà Hoàng Kế Viêm đã từng sinh sống hoạt
động bao gồm địa bàn Trung Bộ và Bắc Bộ (từ Khánh Hòa đến biên giới Việt

Trung)

4


+ Về thời gian: Khóa luận chủ yếu tập trung nghiên cứu đóng góp của
Hoàng Kế Viêm những năm 1820 - 1909.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
4.1 Mục đích nghiên cứu:
+ Tìm hiểu về quê hương gia đình và tiển sử của Hoàng Kế Viêm.
+ Đóng góp của Hoàng Kế Viêm về kinh tế, chính trị, quân sự và văn hóa
+ Giải mã những uẩn khúc trong cuộc đời Hoàng Kế Viêm.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích nói trên chúng tôi vạch ra các nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
+ Sưu tầm các tài liệu thành văn ở các thư viện, trung tâm lưu trữ viết về
Hoàng Kế Viêm trong lịch sử Việt Nam, các công trình nghiên cứu về Hoàng
Kế Viêm đã được công bố.
+ Điền dã dân tộc học để tìm kiếm các tài liệu về Hoàng Kế Viêm ở địa
phương.
+ Làm rõ những nét chính trong cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng Kế
Viêm đặc biệt là những đóng góp của ông cho lịch sử.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
+ Về phương pháp luận: Thực hiện đề tài tác giả khoa luận đứng trên
quan điểm phương pháp luận duy vật lịch sử và lập trường quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về lịch sử
+ Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện khoa luận chúng
tôi sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp điền giả dân tộc học để tập hợp tài liệu lịch sử ở địa
phương.

- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết trong đó chủ yếu sử dụng
hai phương pháp chuyên ngành là phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Đồng thời kết hợp một số phương pháp liên ngành bổ trợ như: phương pháp
phân tích tổng hợp, thống kê, xác minh tài liệu để khai thác thông tin phục vụ
đề tài.

5


6. ĐÓNG GÓP CỦA KHÓA LUẬN
Thứ nhất, khóa luận sẽ tập trung giới thiệu làm rõ cuộc đời sự nghiệp của
danh tướng Hoàng Kế Viêm trong lịch sử Việt Nam cận đại.
Thứ hai, khóa luận tập hợp được một thư mục tài liệu khá phong phú về
nhân vật Hoàng Kế.
Thứ ba, thực hiện đề tài này còn giúp chính tác giả của khóa luận nâng
cao hiểu biết của mình về lịch sử Việt Nam cận đại làm hành trang nghề nghiệp
và cuộc sống sau này.
7. BỐ CỤC KHÓA LUẬN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và tài liệu tham khảo thì
nội dung Khóa luận gồm 2 chương.
Chương I: Quê hương, gia thế và tiểu sử của Hoàng Kế Viêm từ trang 6
đến trang 12
Chương II: Vai trò của Hoàng Kế Viêm trong tiến trình lịch sử Việt Nam
cận đại từ trang 13 đến trang 25

6


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I

QUÊ HƯƠNG, GIA THẾ VÀ TIỂU SỬ CỦA HOÀNG KẾ VIÊM
1.1 Quê hương và gia đình của Hoàng Kế Viêm
Làng Văn La xưa nằm trong tổng Long Đại, huyện Phong Lộc, phủ
Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, nay là thôn Văn La, xã Lương Ninh, huyện
Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Làng Văn La, địa danh nổi tiếng đất văn vật,
được xếp vào “bát danh hương” của Quảng Bình: “Sơn - Hà - Cảnh - Thổ - Văn
- Võ - Cổ - Kim”. Họ Hoàng ở Văn La là một dòng họ đã góp một phần không
nhỏ trong việc làm nổi danh làng Văn La, trong “bát danh hương” đó. Nhắc đến
vùng đất Văn La, xưa nay nhiều người biết đến câu “Long đáo địa”. Các nhà
phong thủy cho rằng: Sự uốn lượn con sông Kiến Giang - sông Nhật Lệ từ làng
Hiển Lộc cho tới cuối làng Văn La như hình con rồng thì mất hút. Các thầy địa
lý cho đó là Rồng đã lên đất, Rồng vào làng Văn La nằm gọn trong cái Bàu
Rồng.
Theo sử liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn cũng như theo gia phả họ
Hoàng ở Văn La, các cụ tổ họ vốn gốc làng Ngọc Sơn, huyện Đông Xuân, phủ
Phú Yên. Gốc tích xa xưa về trước đó chưa rõ, không biết từ tỉnh nào ở miền
Bắc hay miền Trung di dân vào Phú Yên. Hoàng Kim Xán thời làm quan, có về
nơi quê cũ, tìm gốc tích nhưng qua trên 200 năm những người có mặt ở địa
phương không ai biết tung tích. Đến đời cụ Hoàng Kim Xán, nổi tiếng về đạo
hiếu trung, chỉnh lý gia huấn. Con của Hoàng Kim Xán là Hoàng Kế Viêm.
Hoàng Kế Viêm sinh ra trong một gia đình khoa bảng, quan lại triều
Nguyễn. Cha là Hoàng Kim Xán làm quan thời triều Gia Long, có tiếng thanh
liêm đức độ, hiếu trung toàn vẹn, khi mất được thờ ở đền Hiền Lương tại Kinh
đô Phú Xuân. Cụ Hoàng Kim Xán có 3 người con trai, Hoàng Kế Viêm là út.
Năm 1883 cụ Xán mất tại chức ở Khánh Hòa, gia đình dời về quê, đưa thi hài
về táng ở Văn La.

7



Từ khi sinh ra cho đến 13 tuổi, Hoàng Kế Viêm được bố dạy bảo trực
tiếp về văn hóa lẫn đạo lý. Cụ Hoàng Kim Xán vốn là người chuẩn mực hiếu
trung nên dạy con lấy đạo hiếu trung làm đạo học ở đời.
Tuy nhiên, cảm nhận về đạo hiếu của cụ Xán cũng có điều khác với
người đương thời. Cụ đề cao chữ Hiếu mà không duy nhất lấy việc cung cúc
phụng dưỡng cha mẹ làm đỉnh cao, mà hiếu đối với cụ là giữ gìn và tràu dồi
phép tu thân, bao gồm: cần cù lao động, cần mẫn học tập, khiêm nhượng với
mọi người, dứt bỏ kiêu ngạo, sống thanh bạch, thanh liêm khi hiển đạt dù nghèo
khổ cũng giữ thanh danh, làm rạng rỡ cho dòng họ tổ tông1
Thụ giáo nền đạo đức Nho học đó, tiếp nhận sự hiếu trung trong gia
phong như vậy, Hoàng Kế Viêm khi lớn lên đã không bao giờ tự phụ hay ỷ thế
mình là con quan, hết sức khiêm nhượng và thanh bạch trong đời thường chẳng
khác gì người nông dân khác trong làng xóm. Do học giỏi, Ông được tuyển vào
trường Quốc Tử Giám ở Kinh đô và thi đỗ cử nhân năm 1843. Năm sau 1844,
được vua chọn làm phò mã, lấy công chúa Hương La, con gái thứ 5 của vua
Minh Lạng. Theo lệ phong kiến, con rễ vua (phò mã) không được đi thi, không
được làm quan trừ phi quốc gia đại sự, Tổ Quốc lâm nguy, vua tự cử phò mã ra
cứu nước mới được nhận chức. Cuộc đời của Hoàng Kế Viêm đến đây tưởng đã
yên vị, an hưởng giàu sang phú quý …Nhưng không ngờ, chỉ một năm sau công
chúa Hương La bị bệnh nặng rồi từ trần! Năm 1845, Hoàng Kế Viêm mới được
bổ làm quan, giữ một chức vụ bé nhỏ trong triều – quan lộc tự khanh, năm sau
1

Bia “Hoàng thị gia huấn” của nhà thờ họ Hoàng, Văn La.

1846, thăng lên một cấp: Lang trung Bộ Lại. Năm 1850, cụ bà Hoàng Kim Xán
– mẹ Hoàng Kế Viêm mất ở quê nhà (Văn La). Theo lệ của nhà nước phong
kiến, Ông phải nghỉ việc trở về cư tang mẹ với thời hạn quy định là 3 năm sau
mới được bổ dụng trở lại. Nhưng chỉ 2 năm Ông đã bị nhà vua triệu về Kinh,
nhận công vụ. Cuộc đời của Hoàng Kế Viêm từ đây gắn chặt với sự chìm nổi

của Đất nước và triều đình nhà Nguyễn đang đứng trước nanh vuốt của chủ
nghĩa thực dân Pháp.

8


1.2 Tiểu sử của Hoàng Kế Viêm
Quảng Bình là vùng đất có bề dày lịch sử lâu đời, nơi tiềm chứa nhiều
giá trị lịch sử, văn hóa vật chất và tinh thần độc đáo. Trong suốt chiều dài lịch
sử, trên vùng đất Quảng Bình địa linh nhân kiệt này đã nảy sinh ra nhiều bậc
văn nhân, võ tướng, anh hùng hào kiệt tiếng tăm lừng lẫy với những chiến công
hiển hách đã làm rạng danh cho quê hương, đất nước; mãi mãi là niềm tự hào
của dân tộc và của bao thế hệ cộng đồng cư dân người Quảng Bình. Chính môi
trường khắc nghiệt, không gian văn hóa đa dạng cùng với những biến động lịch
sử đã đào luyện, hun đúc và sản sinh ra các thế hệ danh nhân kiệt xuất. Với
những đóng góp trong công cuộc đánh giặc, giữ nước, Hoàng Kế Viêm đã trở
thành một danh nhân quân sự tiêu biểu và đóng vai trò to lớn trong phong trào
đấu tranh vũ trang của nhân dân ta nửa cuối thế kỷ XIX.
Hoàng Kế Viêm còn tên là Hoàng Tá Viêm, tự Nhật Trường,
hiệu Tùng An, sinh ngày 21 tháng 7 Canh Thìn - Minh Mạng nguyên niên,
(dương lịch ngày 29 tháng 8 năm 1820) tại dinh trấn quan Cai bộ Hoàng Kim
Xán, trấn Bình Hòa, nay là tỉnh Khánh Hòa. Ông người làng Văn La, tổng Văn
Đại, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.
“Tuy nhiên, tuổi thơ dịu dàng êm ả đã không dài với ông vì năm 13 tuổi
Hoàng Kế Viêm đã mồ côi cha. Sau khi cha mất, Hoàng Kế Viêm về sống và
học tập ở quê hương (thôn Văn La - xã Lương Ninh - huyện Quảng Ninh - tỉnh
Quảng Bình). Văn La - đất địa linh nhân kiệt, là một trong 8 làng quê văn vật
nổi tiếng của tỉnh Quảng Bình đã ảnh hưởng không nhỏ tới tư tưởng và nhân
cách về sau của Hoàng Kế Viêm.
Những năm tháng sống ở quê nhà giúp Hoàng Kế Viêm thấu hiểu và

cảm thông sâu sắc với cuộc sống của nhân dân lao động. Những truyền thống
tốt đẹp của gia đình và quê hương đã tác động, hun đúc lên nhân cách cao đẹp
của Hoàng Kế Viêm. Chính cuộc đời và sự nghiệp của ông cũng đã góp phần
làm vẻ vang thêm truyền thống của quê hương, dân tộc. Cho dù cuộc kháng
chiến của nhân dân ta ở thế kỉ XIX không thành công nhưng những trang sử
hào hùng nhất của dân tộc giai đoạn này đều gắn liền với tên tuổi của Hoàng Kế
Viêm” [12; 131].
9


Ông vốn nổi tiếng thông minh, năm 1843, Hoàng Kế Viêm được vua
Thiệu Trị chọn làm Phò mã cho Công chúa Hương La. Mối lương duyên này là
sợi dây thứ hai ràng buộc Hoàng Kế Viêm với triều Nguyễn bên cạnh nghĩa vụ
của nhà nho.
Sau khi đỗ đạt rồi được bổ làm quan trải qua tám triều vua (từ Thiệu Trị
đến Đồng Khánh), Hoàng Kế Viêm đã giữ nhiều chức vụ, cai quản nhiều địa
phương với các công việc khác nhau. Năm 1846, thời vua Thiệu Trị, Hoàng Kế
Viêm được phong chức Lang trung bộ Lại. Dưới thời vua Tự Đức năm 1852,
Ông được sung chức Án sát tỉnh Ninh Bình1, rồi Bố Chỉnh tỉnh Thanh Hóa
(1854)2, Tuần phủ Hưng Yên (1859)3, Hộ Lý Tổng đốc An Tĩnh (1863), tháng
10 năm 1870 được sung chức Thống đốc quân vụ đại thần Lạng - Bằng - Ninh Thái. Năm 1887, ông nhận chức Hữu Trực kỳ - Yên Phủ kinh lý Đại sứ.
Trong suốt quảng thời gian phò vua trị nước, Hoàng Kế Viêm đã có
nhiều công lao trong việc mở mang kinh tế, phát triển giao thông, thủy lợi, giữ
vững trật tự xã hội. Dù xuất thân là con trai Thượng thư triều Gia Long, thân
làm Phò mã của vua Minh Mạng, nhưng Hoàng Kế Viêm là một vị quan suốt
đời sống thanh liêm, tận tụy với nhân dân. Mặt khác, với Hoàng Kế Viêm là
một nhà nho song ông không chịu ngu trung mà luôn biết đặt lợi ích của muôn
dân trăm họ lên trên hết, đó là lý do khiến Hoàng Kế Viêm trở thành “Người
phản biện của xã hội” lúc bấy giờ.
Trong hai thập kỉ 40 và 50 của thế kỉ XIX, khi nguy cơ thực dân Pháp

xúc tiến việc xâm lược Việt Nam hiện hữu; vì thiếu nhân tài, triều đình Nguyễn
đã buộc phải bỏ lệnh cấm các Phò mã tham chính. Một năm sau khi công chúa
Hương La qua đời, Hoàng Kế Viêm được bổ dụng vào chức quan nhỏ trong
triều với hàm Quang Lộc tự khanh. Từ năm 1845 về sau, cuộc đời Hoàng Kế
Viêm thăng trầm, chìm nổi gắn liền với triều Nguyễn và vận mệnh đất nước
trước nanh vuốt của chủ nghĩa thực dân Pháp. Tài năng của Hoàng Kế Viêm đã
được thể hiện song cũng bị triều đình kìm chế không ít. Khởi đầu sự nghiệp từ
1. Chức quan thứ 2 của một tỉnh nhỏ.
2. Chức quan thứ 2 của một tỉnh lớn.
3. Chức quan đầu tỉnh nhỏ

10


một quan văm, Hoàng Kế Viêm cũng đã thể hiện được tài năng trên lĩnh vực
chính trị và quân sự. Tuy nhiên với những đóng góp to lớn cho lịch sử dân tộc,
Hoàng Kế Viêm xứng đáng được suy tôn là một danh thần văn võ song toàn.
Ngày 6 tháng 6 năm 1884, triều đình Huế đã ký với Pháp hiệp ước
Patơnốt bao gồm 19 khoản, xác định rõ hơn địa vị bảo hộ của Pháp trên toàn
cõi Bắc và Trung Kỳ, biến nhà nước phong kiến thành công cụ tay sai trong
nền đô hộ thuộc địa. Nội bộ triều đình Huế phân hóa thành hai phe gồm chủ
hòa và chủ chiến. Phe chủ chiến do Tôn Thất Thuyết cầm đầu. Để tiếp tục
chống Pháp phe chủ chiến đã phế lập vua và đưa Ưng Lịch lên ngai vàng với
niên hiệu Hàm Nghi. Được sự phò giúp của Tôn Thất Thuyết và lực lượng của
phe chủ chiến tại triều đình Huế nên Hàm Nghi có tinh thần kháng chiến rất
cao.
Ngày 5 tháng 7 năm 1885, triều đình Huế dưới sự chỉ huy của Tôn
Thất Thuyết đã mở cuộc tấn công quân Pháp ngay tại kinh thành Huế nhưng
thất bại. Kinh đô thất thủ, Tôn Thất Thuyết phải đưa vua Hàm Nghi xuất bôn ra
các tỉnh phía Bắc, xuống dụ Cần Vương, phát động phong trào chống Pháp trên

khắp cả nước, tạo thành phong trào Cần Vương và được các văn thân sĩ phu yêu
nước ở các địa phương miền Trung và miền Bắc ủng hộ sôi nổi. Ngày 6 tháng 7
năm 1885, Hàm Nghi tới Quảng Trị.
Ngày 9 tháng 7 năm 1885 Hàm Nghi rời tỉnh thành Quảng Trị lên tới
Sơn Phòng (Tân Sở) ngày 12 tháng 7 năm 1885.
“Ngày 20 tháng 7 năm 1885 Hàm Nghi đến Bảo Đài thuộc xã Thủy
Ba giáp ranh tỉnh Quảng Bình” [11; 256]
Ngày 22 tháng 7 năm 1885 Hàm Nghi trở về phủ Cam Lộ (Quảng Trị)
rồi theo đến Lao Bảo qua Lào để ra phía Bắc và vượt đèo Phú Gia về Hà Tĩnh
vì ở Hà Tĩnh không an toàn Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi vượt đèo Tân
Ấp vào lập đại bản doanh ở Tuyên Hóa. Ngày 19 tháng 7 năm 1885, Pháp đã
cho 5 chiến hạm đánh chiếm Động Hải (Đồng Hới) nhằm chặn đường ra Bắc
của Nhà vua. Cùng lúc quan Pháp đã tổ chức ‘chiến dịch’ hành quân từ Ninh
Bình đánh vào Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình.

11


Sau khi De Courcy bị triệu hồi về Pháp ngày 27 tháng 1 năm 1886,
Paul Bert được cử sang cai trị hai xứ Trung - Bắc Kỳ, mở đầu chế độ quan văn
thay chế độ quan võ. Paul Bert cho rằng, cuộc vây đuổi của người Pháp không
những không đàn áp được phong trào mà còn như lửa đổ thêm dầu. Do đó, Paul
Bert quyết định sử dụng triều đình Đồng Khánh vào cuộc chinh phục bằng phủ
dụ. Tháng 6 năm 1886, Paul Bert bắt buộc Đồng Khánh phải thân chinh ra
Quảng Bình phủ dụ vua Hàm Nghi về Huế. Trong suốt ba tháng ở Quảng Bình,
dù Đồng Khánh ra sức thực hiện đủ âm mưu với một bộ máy tùy tùng hết sức
đồ sộ nhưng cũng không thu được kết quả gì trong việc phủ dụ vua Hàm Nghi.
Cuối cùng, Đồng Khánh đành phải trở về Huế. Sự bất lực của Đồng Khánh làm
cho Paul Bert nghĩ ra một nước cờ cao tay hơn, đó là cưỡng bức những nhân vật
từng chống lại Pháp đứng ra phủ dụ Cần Vương.

Khi phong trào Cần Vương nổ mạnh mẽ ở Quảng Bình, tên thực của dân
Paul Bert xảo quyệt đã tìm cách lợi dụng uy tính của Hoàng Kế Viêm để giải
giáp lực lượng Cần Vương nên đã xúi tên vua bù nhìn Đồng Khánh phong cho
ông làm An Phú sứ Hữu Trực Kỳ đi chiêu dụ nghĩa quân Cần Vương.
Năm 1887, dưới sự giật dây của người Pháp, vua Đồng Khánh phục hồi
chức tước cho Hoàng Kế Viêm, xuống dụ buộc Hoàng Kế Viêm nhận chức An
Phú sứ Hữu Trực Kỳ đi phủ dụ các toán quân Cần Vương ở Quảng Bình. Tuy
nhiên, Hoàng Kế Viêm đã lợi dụng vị trí đó để ngầm giúp đỡ quân Cần Vương
và hạn chế sự rình rập của quân Pháp và tay sai đối với nhân dân Quảng Bình
cách khéo léo bằng việc đòi Pháp phải cấp cho ông 500 quân lính và 500 khẩu
súng kiểu mới. Đây là một trong những kế sách khôn ngoan của ông nhằm mục
đích từ chối khéo công việc mà thực dân Pháp và triều đình bắt ông làm. Thực
dâp Pháp vẫn nghi ngờ ông không những không đáp ứng nguyện vọng của
Hoàng Kế Viêm mà còn ra lệnh cho vua Đồng Khánh triệu hồi ông về lại Kinh.
Kết quả là chỉ trong vòng 8 tháng giằng co khá gay gắt, Pháp đã thất bại.
Trong suốt cuộc đời mình, Hoàng Kế Viêm lúc nào cũng thể hiện một
tấm lòng yêu nước mãnh liệt, tinh thần quyết tâm chống giặc ngoại xâm bảo vệ
độc lập dân tộc. Hoàng Kế Viêm là một người có tinh thần yêu nước chống
Pháp quyết liệt, có tấm lòng thương dân sâu sắc. Trên chiến trường ông luôn là
12


một vị tướng có tài, cương quyết tiêu diệt kẻ thù; đối với nhân dân luôn quan
tâm chăm sóc đến đời sống.
Với 24 năm làm quan văn, trong đó có 19 năm làm võ tướng, được
phong nhiều chức vụ quan trọng nhưng khi về hưu, ruộng lộc điền Hoàng Kế
Viêm nhận là cồn hoang Thế Lộc và xin khẩn hoang làm ruộng tư quanh cồn
Thế Lộc, một cồn đất nước mặn bốn bề, cách hói cách sông. Chính điều đó
càng làm tỏa sáng thêm nhân cách cao đẹp của một bậc chính nhân quân tử,
luôn luôn sống khiêm nhường, giản dị, không màng tới danh lợi của Hoàng Kế

Viêm. Bên cạnh tài năng quân sự, tài năng của ông còn thể hiện trên các lĩnh
vực kinh tế, chính trị qua thời gian làm quan trị nhậm tại các tỉnh như giải quyết
nạn đói, vỡ đê và an dân ở Hưng Yên năm 1856. Dù ở cương vị nào thì Hoàng
Kế Viêm cũng luôn luôn thể hiện tài năng ‘kinh bang tế thế’ của mình. Làm
quan ở nhiều địa phương, ông đặc biệt quan tâm đến đời sống nhân dân nên dân
được an cư lạc nghiệp và cuộc sống ổn định. Cuộc đời Hoàng Kế Viêm đã khắc
họa nên trước mắt chúng ta nhân cách của một con người vì nước vì dân theo
chủ nghĩa “trug quân ái quốc”. Hoàng Kế Viêm không chỉ là một vị tướng tài
ba, một nhà nho chính trị lão luyện mà còn là người có những đóng góp nhất
định về văn hóa.
Ông đã để lại khá nhiều tác phẩm có giá trị về quân sự, đạo đức, văn
học và sử học như:
1. Tri thiết sơn phòng sư nhi tấn: Tổng kết việc củng cố an ninh vùng biên
cương kết hợp tăng gia sản xuất.
2. “Tiên công sử, biệt lục” (lịch sử về cụ Hoàng Kim Xán)
3. Thầm cơ yếu ngữ: sách giáo khoa quân sự cho bộ binh
4. “Bạt gia huấn ca” (bia khắc lời bạt của Ông và văn bia gia huấn ca của họ
Hoàng). Bia này hiện còn, đó là di cảo duy nhất của Ông còn để lại.
5. “Khổn y lục” (chép về công chúa Hương La)
6. “An phủ trấp lược” ( Đây là bản “ký sự” về công việc An phủ của Ông)
7. “Chi chi thi thảo” (tập thơ)
8. “Vân vân văn tập” (tập bài văn)

13


Hai tập Chi chi thi thảo và Vân vân văn tập là những tuyển tập văn, thơ
được Hoàng Kế Viêm sáng tác của Ông từ khi ra làm quan cho đến khi qua đời.
Về cuối đời, Hoàng Kế Viêm vẫn giữ được sự thanh bạch của một vị quan
thanh liêm, sự khiêm nhường của một nhà nho nặng lòng đối với nhân dân và

đất nước. Ông từ chối mọi chức tước, bổng lộc của vua ban để sống một cuộc
sống gần gũi với dân chúng. Tên tuổi của Hoàng Kế Viêm xứng đáng được ghi
vào lịch sử với trang hào hùng chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Ông là một
biểu tượng cao đẹp cho tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập tự do, ý chí tự
cường và tinh thần dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của
dân tộc. Cuộc đời Hoàng Kế Viêm để lại nhiều bài học quý cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ Quốc hôm nay.

14


CHƯƠNG II VAI TRÒ CỦA HOÀNG KẾ VIÊM TRONG TIẾN
TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM CẬN ĐẠI
2.1. Đóng góp của Hoàng Kế Viêm trên cương vị là một quan văn
Khi nguy cơ thực dân Pháp xúc tiến việc xâm lược Việt Nam hiện hữu; vì
thiếu nhân tài, triều đình Nguyễn đã buộc phải bỏ lệnh cấm các phò mã tham
chính. Một năm sau khi công chúa Hương La qua đời, Hoàng Kế Viêm được bổ
dụng vào chức quan nhỏ trong Triều. Từ năm 1845 về sau, cuộc đời Hoàng Kế
Viêm thăng trầm, chìm nổi gắn liền Triều Nguyễn và vận mệnh đất nước trước
nanh vuốt của chủ nghĩa thực dân Pháp. Tài năng của Hoàng Kế Viêm đã được
thể hiện song cũng bị Triều đình kìm chế không ít. Tuy nhiên với những đóng
góp to lớn cho lịch sử dân tộc, Hoàng Kế Viêm xứng đáng được suy tôn là một
Danh thần văn võ song toàn” [12; 131].
Khởi đầu sự nghiệp từ một quan văn, Hoàng Kế Viêm cũng đã thể hiện
được tài năng trên lĩnh vực kinh tế và chính trị. Ở những nơi khó khăn triều
đình Nguyễn thường điều ông tới giải quyết và ông đã không phụ lòng dân
chúng cũng như sự ủy thác của Triều đình. Năm 1852, Hoàng Kế Viêm làm Án
sát Ninh Bình. Ra đến đấy, khảo sát bộ máy, thấy hơi cồng kềnh, quan lại làm
việc không hiệu quả, Hoàng Kế Viêm đã tâu xin giảm bớt nha lại, được vua phê
chuẩn. Làm việc ở Ninh Bình 2 năm, năm 1854, ông được điều về làm Bố

Chính Thanh Hóa (vốn quê hương gốc của triều Nguyễn). Khi làm Bố Chính ở
Thanh Hóa, có xảy ra sự cố do sự hiểu nhầm của nhà vua. Đó là vụ án về quế,
nghi có liên quan đến Bố Chính Thanh Hóa, Hoàng Kế Viêm. Tuy là Phò mã
nhưng những việc liên quan đến tham nhũng nhà vua không nhẹ tay. Vì vậy,
vua ra lệnh cho Bộ Hình truy xét từ các hộ trưởng hộ bóc quế cho đến các quan
đầu tỉnh là Tôn Thất Hạt và Hoàng Kế Viêm. May cho ông là Đặng Huy Trứ đã
phát hiện được vụ buôn lậu quế. Do đó, số lượng quế hảo hạng phải nộp hàng
năm của Thanh Hóa về triều đình không đủ hạn ngạch. Vụ án buôn lậu quế
được xử, Hoàng Kế Viêm được giải oan. Nhà vua ra lệnh thu hồi việc giao cho
Bộ Hình xét, và còn sửa oan bằng cách thăng Hoàng Kế Viêm lên chức Tuần
Phủ Hưng Yên. Năm 1859, lũ lụt xảy ra và hậu quả vỡ đê sông Hồng, ông được
15


điều ra làm Tuần vũ Hưng Yên. Với chức quan đầu tỉnh, ông tấu trình vua xin
trích ngân khố và lương thực trả công cho người đắp đê thay cho huy động công
ích để dân có ăn qua cơn đói và huy động được nhân dân kịp thời. Do có nhiều
công lao to lớn 1 “nhờ sự khéo léo của Hoàng Kế Viêm, nhân dân tỉnh Hưng Yên
khắc phục nạn đói, ngăn chặn được giặc cướp, ổn định được cuộc sống”2 .
Năm 1862, ông cùng với Án sát sứ Nguyễn Túc Trưng, phân tích tác dụng,
lợi hại, bày tỏ ý kiến không tán thành việc ký hòa ước Nhâm Tuất, chấp nhận
cho Pháp được tự do buôn bán và giảng đạo ở nước ta. (Châu bản triều Tự Đức,
Hưng Yên, NXB Văn học, năm 2003, tr. 103). Từ Bố chính, ông được cử giữ
chức Tuần phủ Hưng Yên. Sau một thời gian đi về các địa phương, Hoàng Kế
Viêm dâng sớ tâu: “Năm nay sửa đắp đê, công việc phiền phức nặng nề, 3
huyện thuộc hạt ấy (Hưng Nhân, Diên Hà, Thần Khê), nhiều lần bị nước lụt,
dân tình còn quẫn bách, hơn nữa giá gạo lại đắt, tiền kẽm ở kho Tĩnh hiện chứa
số ít có. Về dân phu số công làm đê năm nay xin phát nửa tiền, nửa gạo cho
dân ăn dùng được dư đủ 3.
Vua cho làm như thế.

Năm 1863, Hoàng Kế Viêm được vua điều động vào làm Hộ Lý Tổng
đốc An - Tĩnh ( 2 tỉnh Nghệ An - Hà Tĩnh). Vừa đặt chân đến Nghệ An, Ông đã
tâu vua xin cho đào kênh Thiết Cảng – nối liền đường thủy giữa 2 tỉnh Thanh
Hóa - Nghệ An. Công trình đào kênh Thiết Cảng giúp việc thông thương thủy
bộ Thanh - Nghệ, đã từng được Cao Biền thời Đường và Hồ Quý Ly đầu thế kỉ
XV đã huy động bao công sức của nhân dân đào đắp nhưng đành bó tay khi qua
dãi Thần Vũ (giữa Diễn Châu và Nghi Lộc, Hưng Nguyên) ví vướng phải mỏ
sắt. Tuy nhiên đến khi Hoàng kế Viêm tổ chức thì công trình khó khăn đó được
hoàn thành. Thành công của công trình là nhờ ông chỉ huy sâu sát và biết lắng
nghe ý kiến của nhân dân đồng thời ông còn mời người tài giỏi là Nguyễn
Trường Tộ hiến trí hiến mưu nên mới có được thành quả đó.
....................................................................................
1. Xem Hoàng Công Khanh, Cưỡi sóng đạp gió, NXB Thành phó HCM, năm 2001, tập I, trang 243
2. Gia phả họ Hoàng Văn La.
3. Quốc sứ quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục, Sđd, tập VII, trang 702.

16


Ngẫm trong lời ông viết thư mời Nguyễn Trường Tộ và lời Nguyễn
Trường Tộ khi tiếp kiến Hoàng Kế Viêm mà thấy tấm lòng yêu nước, thương
dân và thái độ coi trọng hiền tài của ông: “Tôi ngày đêm suy nghĩ, thấy rằng
phải có người hiểu biết như tiên sinh thì việc phá cảng, đào kênh mới giảm
được phí tổn và thành công… Hiện tôi đang thị sát công việc tại xã Kim Khê,
xin mời tiên sinh đến đây cùng nhau xem xét, bàn luận… Được biết tiên sinh
đau chân, tôi đã bảo Tri phủ Hưng Nguyên điều động phu cáng để tiên sinh đỡ
vất vả…”1.
1. Gặp Hoàng Kế Viêm tại công trường đào sông Thiết Cảng, Nguyễn
Trường Tộ bày tỏ: “Ngài đã tìm thấy mối lợi lớn cho nhân dân và hết
lòng lo toan làm lợi cho dân, cho nước, lẽ nào tôi lại không giúp một tay,

không góp một phần công sức nhỏ mọn của mình vào công việc…” 2. Hai
ông cùng nhau
bám sát công trình, ra sức động viên nhân dân, trả công lao động đúng đắn,
khen thưởng công bằng nên chỉ vài tháng, con kênh thông dòng. Nhân dân
Nghệ An rất hoan hỉ.
Có thể nói, đây là điểm sáng, là thành công nổi bật của Hoàng Kế Viêm
trong thời kì làm quan văn với tài “kinh bang tế thế”, “tí quốc hộ dân”. Qua việc
xử lý công việc đã chứng tỏ Hoàng Kế Viêm là một nhân cách lớn, một con
người mẫn cán do đó ông dần trở thành một vị trọng thần giữ vai trò rường cột
của triều đình, được vua Tự Đức tin tưởng, trọng dụng.
Để cứu đói và cũng để có nhân công tu sửa đê điều, nông dân khởi phải
phiêu tán bỏ ruộng hoang, Ông tâu vua xin trả tiền công đắp đê của dân bằng
nửa tiền gạo mà không huy động công ích như các tỉnh khác. Vua y cho.
Tháng 7 năm 1863, ông được cử chức thự Tổng đốc An – Tĩnh. Năm đó,
ông đã bắt 16 tên mưu nghịch thông nhau với giặc ở trong hạt và những tên
giặc đó bị trừng trị rất nghiêm khắc. Đối với việc truyền giáo, Hoàng Kế Viêm
_________
1. Thanh Đạm, Nguyễn Trường Tộ , Nxb Nghệ An 1991. Tr.193
2. Sđ d, Tr.191

17


mật tâu là người Tây dương truyền giáo, dân sĩ phần nhiều không muốn tuân
theo. Xin nói với họ cho mươi năm nữa thì ổn thỏa hơn. Suốt thời gian làm
quan các tỉnh Nam Định, Thanh Hóa, Hưng Yên, Nghệ - Tĩnh tài năng của có
điều kiện được thể hiện. Vì vậy, ông được vua tin cẩn, phàm những việc quan
trọng trong nước, vua thường hỏi ý kiến ông.
“Năm 1864, khi triều đình tâu vua: Hoàng Kế Viêm là người mẫn cán,
lâm cơ bàn cãi có thể khiến người nghe theo. Xin triệu về cho tư đi nói

chuyện, kiêm thương thuyết cả việc đi sứ nữa. Vua đáp: dân tỉnh Nghệ An
lương giáo ghét nhau rất gay gắt, không thể giải hòa được (…). Vả lại, triều
đình làm việc cốt phải hợp lòng dân, tất phải có viên quan giỏi dẫn bảo vài ba
năm mới có thể làm cho dân hồi tâm bỏ lòng ngờ hoặc…” 1
Vào năm 1865, có lệ cấm ngặt thuốc phiện; dân đã mắc thành nghiện,
cấm cũng khó chừa. Trước tình hình trên, có ý kiến tâu trình bỏ lệ cấm mà chỉ
đánh thuế. Vua Tự Đức hỏi Hoàng Kế Viêm, ông dứt khoát nói: “thuốc phiện
lưu truyền độc hại cho bản thân người ta và trong nước ta, không nên bỏ điều
cấm” 1. Ý kiến ông được vua nghe theo.
Năm 1866, vì ốm ông xin nghỉ, lại xin nhục quế để chữa bệnh. Vua rất
chân tình mà dụ rằng: “Đang lúc nhiều việc này, tất phải có người am hiểu,
người nên cố gượng, trẫm từ trước tới nay lòng coi bầy tôi như mình, phàm có
các thuốc quý báu đều để ban cho các thuân huân, hiền thần, lương lại, không
chỉ để sung làm đồ dùng mà thôi, nhưng các quan phần nhiều câu nệ sợ hãi,
không dám lấy tình thực hỏi xin, rất trái ý trẫm, nay ngươi xét biết lòng Trẫm,
dẫu cắt râu cũng chẳng tiếc, huống chi là thuốc” 2.Vua cho ông quế 4 thanh,
sâm 5 chỉ, rồi sai thị vệ đi ngựa trạm đen cho để chữa gấp cho chống khỏi.
Nhân cách lớn của Hoàng Kế Viêm còn biểu hiện ở thái độ ngay thẳng, cương
trực và lòng dũng cảm, dám dâng sớ can gián vua khi trở về kinh năm 1870.
Trong “Sớ Gián chi cần du”, ông đã không ngần ngại phân tích tác hại của việc
ham thích thú vui chơi săn bắn của vua Tự Đức với thái độ phê phán: “Nến cứ
bốn năm ngày một lần đi chơi, vài ba hôm xông pha mưa sương sóng gió, xa thì
1

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Sđd, tập VII, trang 702.

18


nên nghĩ đến việc Lê Văn Thịnh (thời Lý), gần thì việc biến Đoàn Trưng, đều

đáng đề phòng! Huống chi, Nam Kỳ như thế, Bắc Kỳ như thế, hạn hán, lụt lội,
thiên tai mất mùa chẳng nơi nào không có, vui săn bắn chim chóc mà khuây
khỏa được chăng?… Mỗi lần xa giá vua đi đâu, đằng trước đằng sau dân phải
trốn tránh, đã hại việc buôn, lại hại việc nông, quân sĩ theo hầu, đói phải rên,
rét sinh ốm, làm lụy đến đức, há chẳng nhiều rồi ư! Há chẳng người nói không
đáng lo, trời ra tai họa không đáng sợ sao? (…) chăm lo nhiều thì việc được
chỉnh đốn, việc được chỉnh đốn thì trời theo, nước thịnh, dân yên, họa ngoại
xâm không đáng lo ngại nữa. Qua đó, ông đã tỏ bày tấm lòng lo nước thương
dân và ý thức trách nhiệm của mình.
2.2. Đóng góp của Hoàng Kế Viêm trên cương vị là một quan võ
Xuất thân trong gia đình nhà Nho, Hoàng Kế Viêm được học hành chu
đáo. Sau khi đỗ đạt rồi được bổ làm quan trải qua tám triều vua (từ triều Thiệu
Trị đến triều Đồng Khánh) kinh qua nhiều chức vụ cai quản nhiều địa phương
làm được nhiều việc như trị an mở mang kinh tế, thủy lợi. Tuy nhiên từ khi trở
thành một võ tướng ông đã có những đóng góp rất quan trọng trên lĩnh vực
quân sự. Tài năng của Hoàng Kế Viêm về quân sự được bộc lộ khi ông đảm
nhận chức vụ Thống đốc Tam Tuyên rồi Bắc Kỳ Thống đốc quân vụ Đại thần
(1870 – 1884).
Trong khi thực dân Pháp đang mở rộng đánh chiếm các tỉnh Nam Kỳ, thì
ở Bắc Kì, tình hình ngày càng phức tạp bởi sự có mặt của các toán phỉ ở nhiều
địa phương là tàn quân “ Thái Bình Thiên Quốc” từ Trung Quốc tràn sang. Các
lực lượng này thường xuyên quấy phá, cước bóc, tranh giành địa bàn hoạt động
khiến đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Triều đình phải nhờ quân Thanh
phối hợp để tiểu trừ các quân giặc cướp mà chúng vẫn hoành hành. Năm 1868,
tên cầm đầu Ngô Côn bị tiêu diệt, nhưng dư đảng của y chia thành 3 toán, với
hiệu cờ khác nhau: Hoàng Sùng Anh (hiệu Cờ Vàng); Bàn Văn Nhị, Lương
____________
1. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Sđd, tập VII, trang 898.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Sđd, tập VII, trang 1054.


19


Văn Lợi (hiệu Cờ Trắng). Lưu Vĩnh Phúc (hiệu Cờ Đen). Năm 1870, triều đình
phong Hoàng Kế Viêm làm Thống đốc Quân vụ đại thần bốn tỉnh Lạng - Bình Ninh - Thái, cùng với Tán tương Quân vụ Tôn Thất Thuyết ra Bắc lo việc đánh
dẹp. Suốt 4 năm cầm quân tiểu phỉ (1870 – 1873), ông đã chỉ huy quân qua
nhiều địa phương, đánh thắng nhiều trận lớn, lần lượt tiểu trừ các băng đảng Cờ
Vàng, Cờ Trắng, chinh phục Cờ Đen ở Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang,
Thái Nguyên…góp phần bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân. Mặc dầu
chúng có phối hợp với nhau, nhưng trong ba “giặc cờ”, duy chỉ có Cờ Đen của
Lưu Vĩnh Phúc là mạnh, quân vừa đông vừa tinh nhuệ hơn, quân phong quân
kỷ nề nếp hơn; bản thân Lưu Vĩnh Phúc cũng là một người có bản lĩnh, tôn
trọng nhân dân và nhân nghĩa hơn. Hoàng Kế Viêm đã cảm hóa và thu phục
được thủ lĩnh quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc. Cùng với việc truy quét giặc
cướp, giữ yên trật tự trị an, ông còn hết sức chăm lo phát triển thủy lợi, mở
mang nông nghiệp, giúp nhân dân cải thiện đời sống; gặp lúc thiên tai, mất mùa,
ông đều dâng sỡ xin triều đình cứu đói cho dân. Với công lao to lớn trong việc
đánh tan quân Cờ Vàng, Cờ Trắng và thu phục được quân Cờ Đen, Hoàng Kế
Viêm đã được triều đình phong Đại học sĩ, giữ chức Thống đốc Tam Tuyên, rồi
Tiết chế Quân vụ Bắc Kỳ.
Với tầm nhìn chiến lược, Hoàng Kế Viêm đã đề xuất với triều đình những
biện pháp thiết thực để củng cố an ninh ở biên giới và Bắc Kỳ nhằm đối phó với
âm mưu đánh chiếm Bắc Kỳ của thực dân Pháp. Đến tháng 10 năm 1871,
Hoàng Kế Viêm dâng sớ xin ban hành 9 điều cần phải làm các tỉnh biên giới
như sau: 1. Củng cố thành trì các tỉnh: đào thêm hào, đắp thêm lũy, trồng nhiều
lớp tre gai chung quanh.
2. Chưa nên áp dụng thổ quan đối với các châu huyện vùng biên giới. Để
nguyên các chức tri huyện, tri châu người Kinh nắm giữ, nhưng phải lựa chọn
những thổ ty có năng lực giúp sức làm huyện úy, châu úy, vài ba năm tự sẽ cho
thay thế.

3. Cho lập tổng đoàn, chọn những người khỏe mạnh, trong một tổng hoặc
hợp hai tổng thành một đoàn, cử đoàn trưởng chỉ huy. Khi hữu sự, họ sẽ hỗ trợ,

20


ứng cứu cho nhau. Định lệ thưởng phạt nghiêm minh cho những đoàn có công
hay có tội.
4. Dân biên sống rải rác, phân tán, không thành lực lượng hỗ trợ cho quân
triều đình. Nay xin tập trung dân chúng ở thành làng xóm vào những nơi địa
hình tốt, đắp lũy đất, trong tre gai chung quanh để chống giữ. Ở nơi sản xuất
như đồng ruộng nương rẫy, chỉ dựng nhà tạm, xong vụ gặt, chuyển vào căn cứ
chính. Những làng xóm mới đều cho lập Đoàn Dũng để giữ gìn an ninh.
5. Đặt các đồn biên phòng ở các nơi xung yếu. Đường mòn nào xét thấy
không cần, cho lấp lại. Lấy người địa phương làm quân canh thường trực của
đồn. Ai đi qua biên phòng phải có giấy thông hành. Thương nhân Trung Quốc
đi qua biên phòng phải nốp thuế 30 đồng tiền kẽm đến 1 tiền. Số tiền thu được
cho quân canh đồng hưởng.
6. Tổ chức hai cơ lính chung cho các tỉnh biên giới. Ngoài hai cơ đó ra, còn
cho những người địa phương lập thành đội ngũ, chọn đặt người quản xuất. Mỗi
tỉnh mộ khoảng 300-500 người. Số lính mộ này được hưởng lương tháng và
đóng các tỉnh, do tỉnh điều động.
7. Các tỉnh biên giới phải tự túc lương thực, không phải chuyển gạo từ đồng
bằng lên thượng du nữa. Muốn thế, sau mỗi vụ gặt, các tỉnh phải lo thu mua
thóc gạo của dân để chứa vào kho.
8. Phải có chính sách hậu đãi với quan lại người trung châu được cử đến làm
việc ở biên giới.
9. Phải quản lý chặt việc đi lại, hoạt động của người Trung Quốc.
Bản sớ tâu vua xin ban 9 điều cần làm nơi biên giới thể hiện được tầm
nhìn chiến lược cũng như tư tưởng lấy dân làm gốc của ông. Bản tấu và việc

làm của Hoàng Kế Viêm đa phần đều có tính thiết thực, khả thi và mang lại
hiệu quả, nhất là củng cố quân đội vững mạnh, dẹp yên loạn lạc ở phía Bắc,
giúp cuộc sống dân tình nơi biên giới được ổn định.
Đóng góp của Hoàng Kế Viêm trong thời kỳ chống thực dân Pháp, với
cương vị là Thống đốc Trấn Bắc Đại tướng quân, Hoàng Kế Viêm từng đoạt tới
vị trí rất cao dưới thời phong kiến. Hoàng Kế Viêm được biết đến là một trọng

21


thần đức độ, một danh tướng tài năng, giàu lòng yêu nước, kiên quyết chiến đấu
chống giặc ngoại xâm vì độc lập dân tộc.
Công lao lừng lẫy nhất của danh thần Hoàng Kế Viêm chính là những
trận chiến với quân Pháp khi chúng kéo quân ra xâm lược miền Bắc với hai trận
thắng ở Ô Cầu Giấy, giết chết hai chỉ huy giặc là F.Garnier (1873) và Henri
Riviere (1883). Tháng 11 năm 1873, thực dân Pháp tấn công thành Hà Nội, mở
đầu cho công cuộc chinh phục Bắc Kỳ lần thứ nhất. Dưới sự chỉ huy của
Nguyễn Tri Phương, quân triều đình đã kiên cường chiến đấu, nhưng cuối cùng
thành Hà Nội thất thủ; một bộ phận lực lượng quân triều đình bí mật rút lui lên
Sơn Tây, gia nhập quân của Thống đốc Hoàng Kế Viêm. Sau khi chiếm được
thành Hà Nội, giặc Pháp nhanhh chóng mở rộng đánh chiếm các tỉnh Hưng
Yên, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định… Trước hành động xâm lược của thực
dân Pháp, mặc dù chưa có lệnh của triều đình, nhưng Hoàng Kế Viêm và Tôn
Thất Thuyết đã chủ động kéo quân từ Sơn Tây về phối hợp với quân của
Trương Quang Đản đóng ở Bắc Ninh để tấn công Hà Nội. Đi theo cánh quân
của Hoàng Kế Viêm lúc đó còn có quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc. Vòng vây
của quân ta ngày càng khép chặt xung quanh Hà Nội, khiến cho Gácniê phải vội
vã kéo quân từ Nam Định về.
Sáng 21 tháng 12 năm 1873, Hoàng Kế Viêm phái Lưu Vĩnh Phúc kéo
quân sát thành Hà Nội để khiêu chiến, nhử địch. Khi đến ô Cầu Giấy, quân

Pháp bị rơi vào chỗ mai phục, quân Cờ Đen do Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy đặt dưới
sự điều khiển của Hoàng Kế Viêm xông lên đánh giáp lá cà, giết chết Gácniê tại
chổ, số quân Pháp còn lại tháo chạy. Thực dân Pháp biết rằng thể chưa chiếm
được Bắc Kỳ nên “xuống thang” ký với triều đình Huế hiệp ước Giáp Tuất (153-1874) gồm 22 điều khoản. Với chiến công đó, Hoàng Kế Viêm cũng được
triều đình thăng chức Hiệp biện Đại học sĩ, tấn phong là Địch Trung tử, vẫn
sung làm Tam Tuyên Quân thứ Thống đốc Đại thần. Hoàng Kế Viêm đề xuất
với triều đình lập Nha sơn phòng Hưng Hóa, lấy đồn Thục Luyện (huyện Thanh
Hóa, tỉnh Phú Thọ ngày nay) làm trụ sở Nha Sơn phòng. Mặc khác Hoàng Kế
Viêm dâng sớ về kinh xin cho Nguyễn Mậu Kiến – một chí sĩ yêu nước và tài
năng về cộng tác với mình ở Sơn phòng Hưng Hóa lo liệu việc luyện tập binh
22


mã, khai khẩn ruộng nương, tích trữ lương thảo làm kế sách kháng chiến lâu
dài.
Năm 1882, thực dân Pháp lại tấn công thành Hà Nội, mở đầu công cuộc
đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai. Tháng 2 năm 1882, Thống đốc Nam Kỳ phái
trung tá Henri Riviere đem quân ra Bắc, đổ bộ lên Hà Nội, đóng quân ở Đồn
Thủy, nâng quân số của Pháp lên 600 tên. Đó là con số gấp 5 lần theo quy định
của hiệp ước Giáp Tuất (1874). Ngày 25 tháng 4 năm 1882, Riviere gửi tới hậu
thư cho Hoàng Diệu cùng một luận điểm như F.Garier 10 năm về trước đã gửi
tối hậu thư cho Nguyễn Tri Phương, đòi Hoàng Diệu phải nộp thành và trâng
tráo hơn đòi Hoàng Diệu cùng phò tá phải đích thân đến trình diện ở hành dinh
của y đúng giờ quy định là 8 giờ sáng. Tuy nhiên, Hoàng Diệu không thèm trả
lời và sẵn sàng tư thế chiến đấu. Các chiến hạm của Pháp nhất loạt nổ súng và
bộ binh Pháp tổng tiến công vào thành. Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu treo mình
tuẫn tiết theo thành. Tuy vậy, ở Bắc Kỳ đội quân đặt dưới quyền Hoàng Kế
Viêm vẫn còn, mặt khác nhân dân Bắc Kỳ đang sôi sục căm phẫn sẵn sàng
đứng lên cầm vũ khí phối hợp giết giặc. Đó là cơ hội để nhà vua phát động dân
để tiếp tục cuộc kháng chiến chống giặc cứu nước. Nhưng không, vua Tự Đức

chỉ phái người ra Hà Nội thương lượng với Pháp đồng thời lệnh cho Hoàng Kế
Viêm lui quân về phủ Hoài Đức, giải tán các Đoàn Dũng xuất hiện ở các tỉnh
Sơn Tây, Nam Định, Bắc Ninh.
Ngày 24 tháng 3 năm 1883, H.Riviere đưa quân ra đánh chiếm Nam
Định. Ở Cầu Giấy, quân Hoàng Kế Viêm án ngữ dọc bờ sông Tô, cánh quân
Trương Quang Đản thì áp sát sông Hồng. Rạng sáng 26 tháng 3 năm 1883,
Hoàng Kế Viêm cho 4.000 quân từ phủ Hoài Đức tiến về Hà Nội, tấn công một
số căn cứ của giặc ở kho thóc trong thành, quân Trương Quang Đản chặn đánh
dọc sông Hồng, pháo kích căn cứ Đồn Thủy.
Để tiến công quân Pháp, Hoàng Kế Viêm đưa quân áp sát Hà Nội, giao
Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy quân Cờ Đen đột nhập vào thành và cho dán yết thị
thách thức Rivie ra vùng Hoài Đức quyết đấu; đồng thời khẩn trương bố trí sẵn
trận địa ứng chiến ở Cầu Giấy. Ông chia lực lượng thành ba cánh, lập trận địa
theo hình vòng cung từ làng Dịch Vọng Tiền sang Dịch Vọng Trung đến Hạ
23


Yên Quyết, sẵn sàng đón đánh quân Pháp. Chiến thắng ô Cầu Giấy lần thứ hai
với cái chết của trung tá Riviere đã làm nức lòng nhân dân cả nước, khơi dậy
một khí thế, cao trào đánh Pháp trên khắc cả nước ta. Trận Cầu Giấy ngày 19
tháng 5 năm 1883 đã làm cho bè lũ thực dân ở Bắc Kỳ lúc bấy giờ rất hoang
mang và lo sợ. Tuy vậy triều đình Huế với tư tưởng chủ hòa đã không tranh thủ
thời cơ củng cố lực lượng tấn công số quân Pháp còn lại ở Bắc Kỳ mà lại vội
vàng cử Vũ Trọng Hợp ra điều đình với Pháp và lệnh cho Hoàng Kế Viêm phải
rút quân làm mạn ngược. Việc làm này của triều đình Huế đã giải nguy cho
quân Pháp đang rất hoang mang lo lắng trước sự tấn công của quân dân Bắc Kỳ.
Với những đóng góp trên lĩnh vực chính trị, kinh tế và quân sự Hoàng Kế
Viêm xứng đáng được vinh danh là một danh nhân của dân tộc ta ở nửa cuối thế
kỷ XIX. Tên tuổi và những cống hiến của Hoàng Kế Viêm cho quê hương, đất
nước cần được khắc ghi vào một trong những trang sử hào hùng chống ngoại

xâm của dân tộc. Khí phách của Hoàng Kế Viêm là biểu tượng ngời sáng về
tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập tự do, ý chí tự cường và dân tộc. Cuộc
đời của Hoàng Kế Viêm để lại cho hậu thế nhiều bài học lịch sử quý giá. Tài
năng, đức độ cùng những cống hiến xuất sắc của ông đối với đất nước mãi mãi
là niềm tự hào và là bài học giáo dục sâu sắc cho các thế hệ. Càng tự hào và
trân trọng danh nhân Hoàng Kế Viêm, chúng ta càng ra sức khai thác, phát huy
di sản tinh thần vô giá đó vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
2.3. Đánh giá những hạn chế của Hoàng Kế Viêm
Việc đàn áp cuộc khởi nghĩa Hoàng Phan Thái của Hoàng Kế Viêm năm
1864; dễ thấy trằng là viên quan của triều đình đứng đầu Trấn Nghệ An - Hà
Tĩnh; ở vào cương vị đó lại là một nhà nho, một Phò mã nên việc đàn áp cuộc
khởi nghĩa Hoàng Phan Thái là một công việc tất yếu không thể chối từ. Việc
đàn áp cuộc khởi nghĩa nay là một trong những hạn chế của Hoàng Kế Viêm và
cũng là hạn chế của gia cấp xuất thân và của chính lịch sử.
Hiệp ước Hác măng (1883) không được Quốc hội Pháp thông qua nên
ngày 6 – 6- 1884, thực dân Pháp buộc triều đình ký một bản hiệp ước mới gọi là
hiệp ước Patenôtre xác định địa vị thống trị của chúng trên toàn cõi nước ta và

24


đòi chút quyền lực cho triều Nguyễn nhằm biến triều đình nâng thành công cụ
tay sai.
Sau hiệp ước Pantenôtre, triều đình Huế đã cách chức Thống đốc Quân
vụ đại thần của Hoàng Kế Viêm, bắt ông phải về Kinh “chờ lệnh sai phái khác”.
Lúc này phong trào kháng Pháp của nhân dân ta nổi lên khắp nơi. Ngay ở trong
nội bộ triều đình Huế có sự phân hóa thành hai phái chủ hòa và chủ chiến kết
quả sự phân hóa này đưa đến cuộc phản công của phái chủ chiến do Tôn Thất
Thuyết cầm đầu. Cuộc phản công ở kinh thành Huế thất bại Tôn Thất Thuyết
đưa vua Hàm Nghi rời khỏi kinh thành ra Quảng Trị; ban dụ chiếu Cần Vương

kêu gọi nhân dân cả nước phò vua chống Pháp. Các văn thân sĩ phu ở Bắc Kỳ
và Trung Kỳ đã hăng hái mộ quân hưởng ứng đưa tới sự xuất hiện của phong
trào Cần Vương từ năm 1885 và kéo dài đến cuối thế kỷ XIX. Trước tình hình
đó thực dân Pháp đã bắt triều đình Huế đưa vua Đồng Khánh lên ngôi vua và tổ
chức cuộc đàn áp phong trào. Phong trào Cần Vương lan rộng ra cả nước. Đặc
biệt, ở Quảng Bình phong trào đã được sự hưởng ứng tích cực của nhân dân và
các sĩ phu yêu nước, nhất là khi vua Hàm Nghi ra Quảng Bình. Tháng 6 - 1886,
ông vua bù nhìn Đồng Khánh đã phải ra Quảng Bình phủ dụ vua Hàm Nghi và
các lãnh tụ phong trào Cần Vương nhưng không thu được kết quả phải quay lại
kinh thành Huế. Thấy được uy tín của Hoàng Kế Viêm đối với tầng lớp văn
thân yêu nước, chính quyền thực dân và triều đình tay sai muốn sử dụng ông để
chiêu dụ nghĩa sĩ Cần Vương. Do đó toàn quyền Paul Bert đã xúi vua Đồng
Khánh phục hồi nguyên hàm Đông các Đại học sĩ và giao cho Hoàng Kế Viêm
chức vụ An phủ sứ Hữu trực kỳ đi chiêu dụ văn thân – Cần Vương từ Quảng
Trị đến Thanh Hóa. Về sự kiện này có nhiều ý kiến khác nhau:
- Loại ý kiến cực đoan cho rằng Hoàng Kế Viêm từ một danh tướng đánh
Pháp trở thành tay sai cho Pháp đàn áp phong trào Cần Vương. Loại ý kiến này
tồn tại khá lâu và từ đó phủ nhận công lao, sự nghiệp và cả nhân cách của một
con người đã có những cống hiến to lớn trong lịch sử.
- Loại ý kiến thứ hai, phân tích hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cho rằng đó là do
“thời thế, thế thời phải thế”, Thông cảm với Hoàng Kế Viêm coi đó là sự chấp
nhận làm An Phủ sứ của Hoàng Kế Viêm do “thời thế” là xác đáng, đó là hoàn
25


×