HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
TRỊNH VIỆT THANH
ĐỀ ÁN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ
CÁC LOẠI ÁN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN
KHÁNH TỈNH NINH BÌNH GIAI ĐOẠN 2015 – 2020
Người thực hiện: Trịnh Việt Thanh
Lớp: Cao cấp lý luận Chính tại chức khóa 6 – Tỉnh Ninh Bình
Đơn vị công tác: Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình
Chức vụ: Chánh án
Người hướng dẫn khoa học: Thạc sỹ Phạm Thị Hải Yến
Ninh Bình, tháng 3 năm 2015
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do xây dựng đề án.
Xét xử là hoạt động mang tính chất đặc thù của Tòa án, là chức năng riêng
của Tòa án. Ngoài Tòa án ra không một cơ quan, đơn vị nào được thực hiện chức
năng xét xử. Kết quả hoạt động xét xử của Tòa án có trách nhiệm pháp lý rất cao
đối với bị cáo, các đương sự. Hậu quả pháp lý là rất nghiêm trọng đối với những
người bị kết án như: Tước một số quyền nhất định về vật chất cũng như tinh thần
của họ thậm chí cả tính mạng. Vì vậy việc giải quyết bất kỳ một vụ án nào được
coi là chất lượng thì phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt các quy định của pháp
luật cả về luật nội dung lẫn luật hình thức.
Hoạt động xét xử của Tòa án nhằm giải quyết mọi tranh chấp, xử lý mọi
hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong xã hội phải đúng với pháp luật, phù hợp
với lẽ công bằng và bảo đảm kỷ cương phép nước mà Hiến pháp và pháp luật quy
định. Những người tiến hành tố tụng phải tuân thủ pháp luật trong việc áp dụng
pháp luật, đồng thời không trái với ý chí và nguyện vọng của nhân dân như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tại Hội nghị học tập của ngành cán bộ Tư pháp
năm 1950: "Trong công tác xét xử phải công bằng, liêm khiết, trong sạch, như thế
cũng chưa đủ, không thể giới hạn hoạt động của mình trong khung Tòa án. Phải
gần dân, hiểu dân, giúp dân, …"
Hoạt động xét xử của Tòa án được Đảng và Nhà nước xác định là một
nhiệm vụ trọng tâm trong tình hình hiện nay nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân; góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội để phát triển kinh tế; củng cố nâng cao lòng tin của nhân dân vào
Đảng, Nhà nước. Để công tác xét xử có chuyển biến rõ nét về chất, tạo cơ sở
vững chắc cho công cuộc cải cách tư pháp, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 08NQ/TW ngày 02-01-2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới”. Thông qua việc triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết, đã tạo ra
được một số chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp, các ngành từ
Trung ương đến địa phương về tính cấp thiết và yêu cầu khách quan của việc đẩy
mạnh cải cách tư pháp; ngày 02-6-2005 Bộ Chính trị đã ban hành tiếp Nghị quyết
49-NQ/TW “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Nghị quyết 49NQ/TW của Bộ Chính trị là sự kế thừa, phát triển lên một tầm cao mới Nghị
quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác tư pháp. Nghị quyết 49-NQ/TW
thể hiện quyết tâm sâu sắc của Đảng ta cải cách cơ bản, sâu rộng nền tư pháp
nước nhà. Nghị quyết 49-NQ/TW nêu rõ: “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây
dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân”.
Trong bối cảnh chung đó, hệ thống toà án của tỉnh Ninh Bình nói chung,
toà án Huyện Yên Khánh nói riêng cũng phải đối mặt với không ít những khó
khăn, bất cập. Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định song xét cả về chủ
quan và khách quan, có thể khẳng định rằng Toà án nhân dân Huyện Yên Khánh
chưa thể theo kịp những yêu cầu đặt ra trong cải cách tư pháp hiện nay. Chính vì
vậy nghiên cứu những vấn về lý luận và thực tiễn nhằm tìm ra những giải pháp
tích cực giúp Toà án nhân dân huyện Yên Khánh bắt kịp và đáp ứng yêu cầu của
cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay là vấn đề cần thiết.
Qua nghiên cứu hai nghị quyết trên có nhiều quy định mới liên quan đến
chức năng nhiệm vụ của hệ thống Toà án. Chính vì những lẽ trên tôi chọn đề tài
"Nâng cao chất lượng xét xử các loại án tại Tòa án nhân dân huyện Yên
Khánh, tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2015-2020" làm đề án tốt nghiệp.
2. Giới hạn của đề án.
Đề án là sự kết hợp giữa kiến thức đã được học tập tại Học viện chính trị
khu vực I, với kinh nghiệm thực tế của bản thân trong thời gian công tác làm việc
tại Tòa án huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2010-2015 để đề xuất một
số giải pháp cơ bản trong việc giải quyết, xét xử các loại án nhằm nâng cao hiệu
quả, đáp ứng được nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước giao cũng như yêu cầu nhiệm
vụ của địa phương, phù hợp với nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân trong sự
nghiệp đổi mới đất nước cũng như sự nghiệp phát triển kinh tế, ổn định tình hình
chính trị, trật tự an toàn xã hội tại huyện Yên Khánh trong giai đoạn 2015-2020.
Đề án phân tích cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và quan điểm của Đảng, Nhà
nước về công tác giải quyết xét xử các loại án; Khái quát thực trạng, phân tích kết
quả giải quyết án trên địa bàn huyện Yên Khánh giai đoạn 2010-2015 chỉ ra được
những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân tồn tại. Từ đó đề xuất một số giải pháp cụ
thể nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết các loại án tại Tòa án nhân dân
huyện Yên Khánh, tình Ninh Bình giai đoạn 2015-2020.
B. NỘI DUNG XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1. Cơ sở/ căn cứ xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học:
Vị trí vai trò của Tòa án:
Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam quy định bộ máy Nhà nước
gồm 04 loại cơ quan: Cơ quan quyền lực Nhà nước, Cơ quan hành chính Nhà
nước, Cơ quan Viện kiểm sát và Cơ quan xét xử (Toà án nhân dân). Mỗi cơ quan
đều có chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động và thẩm quyền khác nhau.
Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, các cơ quan của bộ máy Nhà
nước có tính độc lập tương đối, nhưng hoạt động trong một chỉnh thể thống nhất,
phối hợp chặt chẽ với nhau, nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ
chung của bộ máy Nhà nước.
Nghị quyết Đại biểu toàn quốc lần thứ IX cuả Đảng Cộng sản Việt nam và
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và Tư pháp". Cơ quan Toà án và Viện kiểm sát
là các cơ quan được Quốc hội phân công trực tiếp thực hiện quyền Tư pháp và
được gọi là cơ quan thuộc hệ thống Tư pháp. Toà án là một loại cơ quan nhà
nước. Toà án nhân dân có một vị trí đặc biệt quan trọng. Nhà nước thông qua Toà
án thực hiện quyền Tư pháp của mình. Ở nước ta trong hệ thống các cơ quan Tư
pháp, Toà án nhân dân là khâu trọng yếu, cơ bản, là bộ phận không thể thiếu được
của Bộ máy nhà nước.
Ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công, thành lập ra nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà, Đảng và Nhà nước ta đã khẩn trương xây dựng và kiện toàn bộ
máy nhà nước trong đó có Toà án, là công cụ sắc bén của nhà nước công nông
đầu tiên ở Đông nam Á để bảo vệ thành quả cách mạng non trẻ, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước và của nhân dân. Xuất phát từ nhiệm vụ chiến lược đó, Chủ tịch
Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ký sắc lệnh số 33/SL ngày
13/9 1945 thành lập các Toà án quân sự ở cả ba miền: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam
Bộ với nhiệm vụ : "Toà án quân sự sẽ xử tất cả các người nào phạm vào một việc
gì có phương hại đến nền độc lập của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà" và
sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán.
Tháng 4/1946, Quốc hội khoá I kỳ họp thứ II đã thông qua Hiến pháp 1946, trong
đó có 7 điều quy định việc tổ chức bộ máy và các nguyên tắc hoạt động của Toà
án nhân dân.
Thực hiện việc cải cách Tư pháp, Chủ Tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ban hành sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy Tư pháp và
luật tố tụng. Theo sắc lệnh này thì tổ chức Toà án bao gồm: Toà án sơ cấp (Toà án
cấp huyện) và Toà án đệ nhị cấp (Toà án cấp Tỉnh). Vào thời điểm này Chính
phủ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng để kiện toàn và tăng cường hiệu lực
của Toà án. Đặc biệt tại kỳ họp thứ I Quốc hội khoá II ngày 14/7/1960 đã thông
qua Luật tổ chức Toà án nhân dân. Đây là một Luật tổ chức Toà án đầu tiên của
Nhà nước ta quy định tất cả các hoạt động của Toà án đều phải tuân theo pháp
luật. Đồng thời có những thay đổi quan trọng như: Toà án không còn trực thuộc
Hội đồng Chính phủ mà chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội, Hội đồng nhân
dân. Hệ thống Toà án được hình thành từ Trung ương đến địa phương. Toà án
hoạt động theo nguyên tắc: Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; Toà án
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc xét xử của Toà án có Hội thẩm
nhân dân tham gia và quyết định theo đa số. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm
1960 còn tăng thẩm quyền cho Toà án nhân dân cấp huyện: Sơ thẩm những vụ án
dân sự, sơ thẩm những vụ án hình sự có thể phạt tù từ hai năm trở xuống.
Sau khi hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, đất nước thống nhất tại
kỳ họp thứ VII Quốc hội khoá VI đã thông qua bản Hiến pháp mới - Hiến pháp
1980. Trên cơ sở đó Luật tổ chức Toà án nhân dân mới cũng được Quốc hội
thông qua ngày 03 tháng 7 năm 1981 và được sửa đổi bổ sung ngày 22/ 12/ 1988
đã tiếp tục nâng cao vị trí, vai trò của Toà án trong hệ thống các cơ quan tư pháp.
Cơ cấu tổ chức của Tòa án đã được thành lập các Toà án chuyên trách như Toà
hình sự, Tòa dân sự (ở Toà án nhân dân Tối cao và Toà án nhân dân Tỉnh, Thành
phố trực thuộc Trung ương). Đồng thời Toà án nhân dân cấp huyện đã được mở
rộng thẩm quyền về hình sự đối với những vụ án có mức phạt tù từ bảy năm trở
xuống.
Hiến pháp 1992 ra đời và trên cơ sở đó bổ sung một số điều của Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân đã mở rộng thẩm quyền của Toà án và thành lập thêm các
Tòa chuyên trách khác nằm trong hệ thống Toà án nhân dân như: Toà Kinh tế,
Toà Lao động, Toà Hành chính (ở Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân Tỉnh,
Thành phố Trực thuộc Trung ương). Cùng với sự việc thành lập các Toà án
chuyên trách khác thì chế độ bổ nhiệm Thẩm phán của Chủ tịch nước đã thay thế
cho chế độ bầu cử Thẩm phán trước đây. Trên cơ sở Hiến pháp 1992 đã được sửa
đổi bổ sung năm 2001, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá X đã thông qua Luật Tổ
chức Tòa án ngày 02/4/2002. Điều 17 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002
quy định: "Toà án nhân dân Tối cao quản lý các Toà án địa phương về mặt tổ
chức có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương" 1. Điều 40
Luật tổ chức Tòa án quy định: "Thẩm phán các Toà án nhân dân địa phương, Toà
án Quân sự khu vực do Chánh án Toà án nhân dân Tối cao bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức theo đề nghị của các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán”. Điều
này đã làm cho công tác quản lý và công tác xét xử của Toà án được đảm bảo
hiệu quả hơn và thống nhất hơn.
Hoạt động xét xử của Tòa án nhằm giải quyết mọi tranh chấp, xử lý mọi
hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong xã hội phải đúng với pháp luật, phù hợp
với lẽ công bằng và bảo đảm kỷ cương phép nước mà Hiến pháp và pháp luật quy
định. Những người tiến hành tố tụng phải tuân thủ pháp luật trong việc áp dụng
pháp luật, đồng thời không trái với ý chí và nguyện vọng của nhân dân như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tại Hội nghị học tập của ngành cán bộ Tư pháp
năm 1950: "Trong công tác xét xử phải công bằng, liêm khiết, trong sạch, như thế
cũng chưa đủ, không thể giới hạn hoạt động của mình trong khung Tòa án. Phải
gần dân, hiểu dân, giúp dân, …"
Tiêu chí để đánh giá chất lượng xét xử của Tòa án nhân dân.
1
Với nội dung khái niệm đã nêu ở trên có thể hiểu rằng các tiêu chí đánh giá
chất lượng xét xử bao gồm yếu tố việc xét xử phải đúng người, đúng tội, đúng
quy định của pháp luật. Cụ thể:
Thứ nhất: Yếu tố xét xử đúng người, dúng tội (đối với án hình sự)
Xét xử đúng người: Tại Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Chỉ
người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự”. Nghĩa là chỉ người nào do cố ý hay vô ý thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội và đủ các yếu tố cấu thành tội phạm đã được quy định trong Bộ
luật hình sự thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự và chịu hình phạt. Còn những
người tuy có thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng không có đủ các yếu
tố cấu thành tội phạm ( Khách thể của tội phạm, khách quan của tội phạm, chủ
thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm ) chưa được quy định trong Bộ
luật hình sự thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự và chịu hình phạt. Có như
vậy mới đảm bảo việc xét xử không oan sai người vô tội.
Xét xử đúng tội: Phải căn cứ vào những quy định của Bộ luật hình sự về mặt
khách quan của từng loại tội và ý thức chủ quan của người phạm tội để xem xét,
đánh giá bị cáo phạm tội gì. Nghĩa là phải định tội danh đúng với hành vi phạm
tội của bị cáo. Việc định tội đúng với hành vi phạm tội là cơ sở pháp lý vững chắc
và là tiền đề cho việc quyết định hình phạt đúng pháp luật. Việc định tội danh
đúng có ý nghĩa quyết định đối với việc đánh giá đúng về mặt pháp lý và chính trị
xã hội hành vi phạm tội của bị cáo, đối với quyết định hình phạt. Vì luật hình sự
quy định hình phạt đối với từng loại tội đều dựa trên cơ sở đánh giá tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội tương ứng. Việc định tội danh
sai sẽ dẫn đến quyết định hình phạt không tương xứng với tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã được thực hiện trong thực tế và
đương nhiên hình phạt đó hoặc là quá nặng hoặc là quá nhẹ đối với bị cáo. Như
vậy không có tác dụng răn đe người phạm tội cũng như phòng chống tội phạm.
Thứ Hai: Yếu tố xét xử đúng pháp luật.
Đối với các loại vụ án yêu cầu xét xử đúng pháp luật là yếu tố quan trọng
trước hết để đánh giá chất lượng xét xử của Tòa án. Vì đối với từng loại án cụ thể
đều có luật điều chỉnh riêng. Căn cứ vào đó mà xác định cho đúng quan hệ pháp
luật cần điều chỉnh, mức độ và trách nhiệm pháp lý của từng loại quan hệ pháp
luật. Tránh tình trạng hình sự hóa quan hệ dân sự, hành chính hóa quan hệ hình
sự dẫn đến làm oan sai người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Trong mỗi loại án có
quy định mức độ và trách nhiệm pháp lý cụ thể để buộc các đối tượng liên quan
phải chấp hành: Cụ thể như vụ án hình sự Tòa án lựa chọn hình phạt để tuyên bố
với bị cáo, bị điều chỉnh bởi hệ thống hình phạt đã được quy định trong Bộ luật
Hình sự. Tòa án không được quyết định đối với bị cáo những hình phạt mà không
được quy định trong Bộ luật Hình sự. Các loại hình phạt chính và hình phạt bổ
sung được quy định trong Bộ luật Hình sự như sau:
- Hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ trục
xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình
- Hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân,
tịch thu tài sản, phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính, trục xuất khi
không áp dụng là hình phạt chính.
Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và
có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình phạt bổ sung (Điều 28 của Bộ luật Hình sự
1999).
Phần các tội phạm cụ thể thì các loại hình phạt và mức hình phạt đã được
quy định rất cụ thể, rõ ràng ở từng điều khoản trong Bộ luật Hình sự, đây là
những bảo đảm pháp lý cho việc tuân theo nguyên tắc pháp chế XHCN khi quyết
định mức hình phạt, tức là xét xử đúng pháp luật.
Đối với các vụ án dân sự: Sau khi Tòa án nhân dân thụ lý, giải quyết cần
phải nghiên cứu, xem xét kỹ đó là loại quan hệ pháp luật dân sự nào như: Hợp
đồng mua tài sản; hợp đồng vay nợ, thừa kế … và các án khác cũng vậy, để áp
dụng điều luật nào làm căn cứ quyết định trách nhiệm pháp lý.
Vì vậy khi giải quyết các vụ án phải nghiên cứu kỹ toàn bộ hồ sơ vụ án một
cách thống nhất, toàn diện, đầy đủ và các tình tiết khác của vụ án để xác định sự
thật khách quan của vụ án để từ đó ra bản án, quyết định đảm bảo chất lượng xét
xử như đã nêu ở trên. Các yếu tố xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định của
pháp luật có mối quan hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời nhau, đảm bảo
cho hoạt động xét xử của Tòa án có chất lượng.
Nhân tố con người làm công tác xét xử cũng là một yếu tố quan trọng, có
tính chất quyết định cho hoạt động xét xử của Tòa án có chất lượng, bao gồm đội
ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Tòa án. Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân là những người được Nhà nước giao cho thẩm quyền xét xử nên họ phải
là những người “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư”. Thư ký Tòa án là người
giúp việc cho Thẩm phán và là nguồn bổ sung để bổ nhiệm Thẩm phán. Vì vậy
họ phải có chuyên môn nghiệp vụ, được đào tạo nghề và có bản lĩnh nghề nghiệp
vững vàng, có ý thức và trình độ pháp luật cao, có kinh nghiệm và có sự hiểu biết
xã hội, có trình độ lý luận cũng như phương pháp khoa học tốt. Đặc biệt là phải
có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt, liêm chính, chí công vô tư để bảo vệ pháp
chế XHCN.
Chất lượng xét xử: Chất lượng xét xử của Tòa án là khái niệm để đánh giá
kết quả công tác xét xử của Tòa án. Tuy nhiên trong các văn bản quy phạm pháp
luật cũng như thực tiễn nghiên cứu khoa học pháp lý, chưa được đặt ra một cách
đầy đủ và cụ thể mang tính khoa học về chất lượng xét lượng của Tòa án nhân
dân nói chung và Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng. Song trong hoạt động
thực tiễn của hệ thống Tòa án cũng như phong trào thi đua hàng năm thì vấn đề
chất lượng xét xử các loại án được xem là một nội dung cơ bản, là tiêu chí quan
trọng để đánh giá năng lực chuyên môn của từng cá nhân Thẩm phán trực tiếp
tham gia xét xử các loại án. Nếu trong một năm Thẩm phán tham gia xét xử các
loại án bị hủy hay cải sửa nhiều so với quy định chung của ngành thì ngoài xem
xét lý do án bị hủy hay cải sửa là nguyên nhân chủ quan hay khách quan mà còn
liên quan đến quá trình có nên tiếp tục đề nghị tái bổ nhiệm Thẩm phán nhiệm kỳ
tiếp theo hay không.
Qua nghiên cứu lý luận khoa học pháp lý và thực tiễn công tác xét xử có thể
hiểu: “Chất lượng xét xử là mức độ đạt được về yêu cầu giải quyết các vụ án
phải đảm bảo được nguyên tắc đúng thời gian quy định của pháp luật, xét xử
đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, không để lọt tội phạm, không
làm oan sai cho người vô tội. Đảm bảo tính nghiêm minh, khách quan, vô tư. Bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể và của mọi công dân.
Đảm bảo tính giáo dục, thuyết phục cao, luôn giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội”.
Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì xét xử đúng là đúng luật, đúng
người và đúng tội là cơ bản nhất. Điều đó có nghĩa là đối với xã hội việc xét xử
đúng có sức thuyết phục, ai cũng cảm thấy “thấu tình đạt lý”. Đối với bị cáo, các
đương sự, luật sư bào chữa phải “tâm phục, khẩu phục” trước mọi phán quyết
của Tòa án.
1.2. Cơ sở chính trị/ pháp lý:
1.2.1. Cơ sở chính trị.
Từ năm 2002 đến nay, Bộ Chính trị đã ban hành 02 Nghị quyết riêng về
công tác tư pháp (Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong tình hình hiện nay và Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020). Trong đó, các nội
dung liên quan tới công tác giải quyết, xét xử các loại án nói chung và công tác
xét xử các vụ án hình sự nói riêng bao gồm: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với hoạt động tư pháp, trong đó có công tác xét xử; đổi mới thủ tục tranh luận
tại phiên tòa để nâng cao chất lượng xét xử các loại án, chống oan sai và bỏ lọt
tội phạm; nghiên cứu để có sự phân định hợp lý hơn về thẩm quyền của các Tòa
án; tăng cường công tác xét xử đối với các tội phạm về tham nhũng.
Sau nhiều năm tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ:
Nhiều bộ luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng
hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh
tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Nguyên tắc pháp chế XHCN từng
bước được đề cao và phát huy trên thực tế, công tác phổ biến và giáo dục pháp
luật đã tăng cường đáng kể. Những tiến bộ đó đã góp phần thể chế hóa đường lối
của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của Nhà nước, đẩy
mạnh phát triển kinh tế giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước.
Đảng, Quốc hội đã chỉ đạo đưa vào chương trình xây dựng pháp luật, pháp
lệnh hàng năm nhiều văn bản về công tác Tư pháp giúp việc thực hiện cải cách
Tư pháp đảm bảo đúng tiến độ thời gian. Trên cơ sở đó, các bộ ngành hữu quan
đã chủ trì trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhiều văn bản quan trọng
như: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, được sửa đổi bổ sung năm 2009; Bộ luật
tố dụng dân sự năm 2004, được sửa đổi bổ sung năm 2011; Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014.
Ngày 02/01/2002 Bộ chính trị đã ra Nghị quyết 08/NQ/TW “Về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, công cuộc cải cách tư
pháp đã được cấp ủy Đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện với quyết tâm cao, đạt
được một số kết quả chủ yếu sau đây:
Một là, công tác tư pháp nói chung và cải cách tư pháp nói riêng đã và đang
được triển khai thực hiện theo đúng định hướng, chủ trương của Đảng, bảo đảm
quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan
Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, phát
huy dân chủ, tăng cường pháp chế, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân và thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước.
Hai là, để tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của các cấp, các
ngành, của nhân dân và của toàn xã hội về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công
tác tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong sự
nghiệp đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ Nghị quyết
08-NQ/TW đã dẫn tới sự chuyển biến đồng bộ và sự đề cao trách nhiệm của hệ
thống chính trị, của các ngành, các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với công tác tư
pháp. Những chủ trương, định hướng đúng đắn về cải cách tư pháp đã tác động
trực tiếp tới kết quả giải quyết từng vụ việc cụ thể.
Ba là, đã tạo cơ sở cho việc cải cách tư pháp đồng bộ và toàn diện ở những
giai đoạn tiếp theo.
Bốn là, các cơ quan tư pháp, các ngành ở cả Trung ương và địa phương đã
có sự phối kết hợp chặt chẽ, quán triệt và thực hiện đúng đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về cải cách tư pháp. Mối quan hệ phối hợp giữa các
ngành bước đầu đã được thể hiện hóa bằng pháp luật, bằng quy chế phối hợp trên
cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành do pháp luật quy định.
Năm là, các cơ quan tư pháp Trung ương trên cơ sở chương trình trọng tâm
công tác tư pháp hàng năm đã kịp thời đề ra các chương trình, kế hoạch hành
động của ngành mình. Tập trung chỉ đạo thống nhất để thực hiện rõ hiệu quả. Cấp
ủy, chính quyền và các cơ quan tư pháp ở địa phương trên cơ sở các nhiệm vụ
cải cách tư pháp được giao đã chủ động tổ chức thực hiện và thực hiện sáng tạo,
phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương.
Ngày 24/5/2005 Bộ chính trị đã ra Nghị quyết số 48-NQ/TW “Về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020” quan điểm chỉ đạo như sau:
Một là, thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể
hóa các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam của dân, do dân, vì dân; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, phát triển văn hóa xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh.
Hai là, phát huy cao độ nội lực, tích cực chủ động hội nhập quốc tế, thực
hiện đầy đủ cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc
gia và định hướng XHCN.
Ba là, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; Kết hợp hài hòa bản
sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp
luật.
Bốn là, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng,
hoàn thiện về tổ chức thi hành pháp luật.
Năm là, tiến hành đồng bộ với quá trình cải cách hành chính, cải cách tư
pháp, với những bước đi vững chắc, coi trọng số lượng và chất lượng, có trọng
tâm, trọng điểm; dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành
của pháp luật.
Đặc biệt ngày 02/6/2005 Bộ chính trị đã ra Nghị quyết số 49-NQ/TW “Về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Nghị quyết đã đưa ra các quan điểm
chỉ đạo đối với công tác cải cách tư pháp như sau:
- Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm sự
ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do
dân, vì dân; quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa
các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
- Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội, bảo vệ vững chắc tổ quốc; gắn với đổi mới công tác lập pháp, cải cách
hành chính.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách tư
pháp, các cơ quan tư pháp và các cơ quan bổ trợ tư pháp phải đặt dưới sự giám
sát của các cơ quan dân cử và nhân dân.
- Cải cách tư pháp phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành
tựu đã đạt được của nền tư pháp XHCN Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc những
kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động
hội nhập quốc tế, đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai
- Cải cách tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm,
trọng điểm với những bước đi vững chắc.
Nghị quyết cũng nêu lên phương hướng trong chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 như sau:
- Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân và vì dân; hoàn thiện các thủ tục tố dụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ,
dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
- Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa
học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó
xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa
mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức
danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm về chính trị, phẩm chất
đạo đức chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng
loại cán bộ, tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh.
- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát
của các cơ quan dân cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư
pháp.
2.2.2. Cơ sở pháp lý.
- Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án.
Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử
của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Như vậy chỉ có Tòa án mới có quyền “Nhân danh Nhà nước” để xét xử các
vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, hành chính và lao động.
Ngoài Tòa án ra không có một cơ quan Nhà nước nào có chức năng xét xử. Tòa
án nhân dân thực hiện chức năng xét xử nhân danh Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo
vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Chính bằng
hoạt động xét xử Tòa án đã góp phần giáo dục công dân trung thành với tổ quốc,
tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhân
dân.
Khi thực hiện chức năng xét xử, Tòa án phải căn cứ vào các quy định của
pháp luật, cả pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng. Tòa án thực hiện chức năng
xét xử của mình bằng việc ra bản án, quyết định. Các bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải tôn trọng,
nghiêm chỉnh chấp hành.
Hoạt động xét xử của Tòa án có một vai trò và ý nghĩa to lớn trong hệ thống
các cơ quan Nhà nước. Tòa án nhân danh Nhà nước giải quyết đến cận cùng mọi
tranh chấp trong xã hội. Bản án, quyết định của Tòa án là quyết định cuối cùng,
thay thế tất cả các quyết định giải quyết của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức
xã hội khác. Chính vì vậy thông qua hoạt động xét xử của Tòa án mà kỷ cương
phép nước được giữ vững, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được đảm
bảo.
Ngoài chức năng xét cử ra, theo quy định của Pháp luật nước ta, trong quá
trình giải quyết các vụ án về dân sự, kinh tế, hành chính và lao động, thì Tòa án
còn có một chức năng nữa đó là “Người trung gian” tham gia vào việc hòa giải
giữa các bên đương sự với nhau trước khi mở phiên tòa, vì hòa giải là nguyên tắc
bắt buộc đối với Tòa án (trừ một số trường hợp luật quy định không phải hòa
giải). Trong quá trình hòa giải giữa các bên đương sự với nhau ngoài vai trò là
người trung gian phân tích, hướng dẫn, giải thích pháp luật cho các bên đương sự
hiểu được việc đúng sai của mình mà có ý nghĩa hết sức quan trọng được thực
hiện nhằm mục đích phát huy truyền thống đoàn kết, tương thâm tương ái trong
cộng đồng dân cư, nâng cao kết quả giải quyết những tranh chấp trong nhân dân.
Đồng thời làm tốt hòa giải sẽ hạn chế những tốn kém về tiền bạc, thời gian của
Nhà nước, công sức cán bộ Nhà nước cũng như của công dân, hạn chế được
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp.
- Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.
Tòa án là cơ quan trong bộ máy Nhà nước thuộc hệ thống các cơ quan tư
pháp, cho nên hoạt động của Tòa án cũng phải tuân thủ những nguyên tắc hoạt
động chung của bộ máy Nhà nước như: Nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc
tập trung dân chủ, nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và
nguyên tắc Pháp chế XHCN…
Tuy nhiên với chức năng của mình là cơ quan xét xử nên nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Tòa án mang tính chất đặc thù riêng và được quy định ngay từ
trong Hiến pháp 1946.
Hiến pháp năm 2013 cũng như Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đều
quy định những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân
như sau:
Một là, “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân.
Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”. Thực tiễn công tác xét xử
của Tòa án đã chứng minh rằng: Sự tham gia của Hội thẩm vào công việc xét xử
của Tòa án là rất cần thiết giúp cho Tòa án xét xử công minh, chính xác, khách
quan và phát huy tác dụng giáo dục của phiên tòa. Nguyên tắc này còn khẳng
định vị trí, vai trò của Hội thẩm trong việc xét xử sơ thẩm bất kỳ một vụ án nào
thuộc thẩm quyền của Tòa án đều phải có Hội thẩm tiến hành xét mới xử được.
Tại điều 185 - Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Hội đồng xét xử sơ
thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất
nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội
thẩm.
Đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức
cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm…”.
Hai là, “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” (Điều 103 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014).
Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong tổ chức hoạt động của Tòa án,
bắt nguồn từ nguyên tắc pháp chế XHCN, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của
Thẩm phán và Hội thẩm cũng như bảo đảm cho việc xét xử được khách quan,
toàn diện, đúng pháp luật, không một cơ quan tổ chức hoặc cá nhân nào được can
thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Giữa
Thẩm phán và Hội thẩm cũng không có sự ràng buộc lẫn nhau trong quá trình
giải quyết các vấn đề của vụ án. Khi xét xử Hội thẩm và Thẩm phán có quyền
ngang nhau trong việc giải quyết các vấn đề của vụ án. Tuy nhiên “Độc lập”
trong quá trình xét xử của Tòa án không có nghĩa là thoát ly sự lãnh đạo của
Đảng, vì Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, không những Đảng
lãnh đạo đường lối xét xử của Tòa án mà còn kiểm tra, giám sát hoạt động của
Tòa án thông qua các tổ chức Đảng và đoàn thể quần chúng, đồng thời đấu tranh
chống mọi sự can thiệp trái phép vào hoạt động xét xử của Tòa án.
Ba là, “Tòa án nhân dân xét xử công khai trong trường hợp đặc biệt … Tòa
án nhân dân có thể xét xử kín”.
Việc Tòa án xét xử công khai, một mặt đảm bảo cho nhân dân thực hiện
quyền kiểm tra, giám sát đối với hoạt động xét xử của Tòa án; Mặt khác phát huy
được tác dụng giáo dục nâng cao hiểu biết pháp luật của nhân dân thông qua
phiên tòa. Đồng thời việc xét xử công khai của Tòa án còn nhằm mục đích tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật đối với nhân dân nhằm phòng ngừa và chống
tội phạm cũng như các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số là sự thể hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân.
Bốn là, Quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo. Bị cáo có thể tự bào
chữa, hoặc nhờ người bào chữa cho mình…” (Điều 132 – Hiến pháp 1992).
Nguyên tắc này là thể hiện tính dân chủ và nhân đạo xã hội chủ nghĩa của
pháp luật nước ta. Điều 11 – Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ
luật này”.
Năm là, “Tòa án nhân dân đảm bảo công dân nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc
mình trước Tòa án”. Nguyên tắc này đảm bảo quyền bình đẳng cho mọi công dân
trước pháp luật, không phân biệt thành phần dân tộc, khi tham gia tố tụng có
quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này cần
phải có phiên dịch.
Trên đây là những nguyên tắc Hiến định quan trọng nhất đối với hoạt động
xét xử của Tòa án. Ngoài ra còn có nguyên tắc giám sát của cơ quan quyền lực
Nhà nước đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Điều 135 Hiến pháp
1992 quy định: Chánh án TANDTC chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội. Trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
1.3. Cơ sở thực tiễn:
Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh trong giai đoạn 2010-2015, mỗi năm
giải quyết và xét xử khoảng từ 140 đến 160 vụ án các loại, tỷ lệ án tăng theo hàng
năm khoảng 10% đến 15% một năm. Song với sự chỉ đạo lãnh đạo của heej thống
tòa án cấp trên và cấp uỷ địa phương, Toà án nhân dân huyện Yên Khánh đã hoàn
thành và các chỉ tiêu công tác đề ra trong điều kiện kinh tế - xã hội của huyện gặp
rất nhiều khó khăn; đời sống, việc làm của người lao động chưa được cải thiện;
tình hình an ninh, trật tự tuy giữ được ổn định nhưng tiềm ẩn nhiều yếu tố khó
lường; hoạt động tội phạm vẫn diễn ra phức tạp theo chiều hướng tăng; xuất hiện
ngày càng nhiều các loại tội phạm phi truyền thống, tệ nạn cờ bạc, mại dâm, ma
tuý vẫn chưa được đẩy lùi. Trong điều kiện kinh tế- xã hội gặp nhiều khó khăn
và diễn biến phức tạp như vậy, nhưng Toà án nhân dân huyện Yên Khánh nỗ lực
phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ giải quyết và xét xử các loại án, góp phần ổn
định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Nâng cao chất lượng giải quyết xét xử là khái niệm để đánh giá kết quả
công tác xét xử của Toà án. Tuy nhiên trong các văn bản quy phạm pháp luật
cũng như thực tiễn nghiên cứu khoa học pháp lý, chưa được đặt ra một cách đầy
đủ và cụ thể mang tính khoa học về chất lượng của Toà án nhân dân nói chung và
Toà án nhân dân cấp huyện nói riêng. Song trong hoạt động thực tiễn của hệ
thống Toà án cũng như phong trào thi đua hàng năm thì vấn đề chất lượng giải
quyết xét xử các loại án được xem là một nội dung cơ bản, là tiêu chí quan trọng
để đánh giá năng lực chuyên môn của từng cá nhân Thẩm phán trực tiếp tham gia
giải quyết xét xử các loại án. Nếu trong một năm các loại án Thẩm phán tham gia
giải quyết xét xử bị huỷ hay cải sửa nhiều so với quy định chung của ngành thì
ngoài xem xét lý do án bị huỷ hay cải sửa là do nguyên nhân chủ quan hay khách
quan mà còn liên quan đến quá trình có nên tiếp tục đề nghị tái bổ nhiệm Thẩm
phán nhiệm kỳ tiếp theo hay không.
Qua nghiên cứu lý luận khoa học pháp lý và thực tiễn công tác xét xử có
thể hiểu: Chất lượng giải quyết xét xử là mức độ đạt được về yêu cầu giải quyết
các vụ án phải đảm bảo được nguyên tắc đúng thời gian quy định của pháp luật
xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, không để lọt tội phạm,
không làm oan sai cho người vô tội. Đảm bảo tính nghiêm minh, khách quan, vô
tư. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tập thể và của mọi công
dân. Đảm bảo tính giáo dục, thuyết phục cao, luôn giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
Trên tinh thần thực hiện Nghị quyết số 08/NQTW ngày 2/1/2002 của Bộ
chính trị, cũng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2004 thì Tòa án
nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử các tội phạm có mức cao nhất của
khung hình phạt tới 15 năm tù (thay vì 7 năm tù như trước kia). Để thực hiện quy
định này, hàng năm Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với các cơ quan tư pháp
trung ương chỉ đạo các cơ quan tư pháp địa phương lựa chọn các Tòa án có đủ
năng lực giao thực hiện thẩm quyền mới để đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội
xem xét, quyết định cho tăng thẩm quyền. Sau 6 năm thực hiện (2004 – 2009),
cho đến tháng 7 năm 2009 tất cả các Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân
sự khu vực đã thống nhất thực hiện thẩm quyền xét xử theo quy định tại khoản 1
Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự. Qua theo dõi cho thấy, mặc dù khi tăng thẩm
quyền, số lượng các vụ án hình sự mà các Tòa án cấp huyện phải thụ lý, giải
quyết tăng hơn, tính chất của nhiều vụ án phức tạp hơn.
Chất lượng xét xử các vụ án hình sự nói riêng và các loại án khác nói
chung của Tòa án cấp huyện có phần bị hạn chế. Việc tăng thẩm quyền xét xử tuy
có rất nhiều ý nghĩa quan trọng là đảm bảo thực hiện triệt để hơn nguyên tắc hai
cấp xét xử vì khi phần lớn các vụ án hình sự được Tòa án cấp huyện xét xử sơ
thẩm, nếu bản án có kháng cáo hoặc kháng nghị phúc thẩm thì Tòa án cấp tỉnh sẽ
xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Như vậy sẽ làm giảm dần bất hợp lý là cùng tính
chất phúc thẩm nhưng có những vụ án do Tòa án cấp tỉnh xét xử nhưng có vụ án
lại do Tòa án nhân dân tối cao xét xử. Để thực hiện tốt chủ trương tăng thẩm
quyền cho Tòa án cấp huyện thì cần phải tăng cường năng lực cho cấp xét xử này.
Trên thực tế, trong thời gian qua, cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, Thẩm phán của
Tòa án cấp huyện đã được quan tâm, kiện toàn, củng cố nhưng vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu, đến nay đã từng bước khắc phục tình trạng thiếu, yếu ở Tòa án cấp
này.
Trong những năm qua số lượng các loại án đều tăng hơn những năm trước,
chất lượng công tác giải quyết xét xử án cũng có phần hạn chế, nhiều chỉ tiêu
công tác của đơn vị không đạt. Số lượng vụ án có kháng cáo, kháng nghị, bị cấp
trên cải sửa và bị huỷ, bị cải sửa vẫn còn nhiều so với tổng số các vụ án Toà án
đã giải quyết.
Vì vậy để nâng cao chất lượng giải quyết các loại án , Tòa án nhân dân
huyện luôn tạo điều kiện để cán bộ công chức học tập, nâng cao trình độ, cung
cấp đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật đến mỗi Thẩm phán, Thư ký nghiên
cứu phục vụ nhiệm vụ chuyên môn. Tham gia đầy đủ các buổi tập huấn nghiệp
vụ do Tòa án nhân dân cấp trên tổ chức. Mặt khác trong quá trình giải quyết án,
Tòa án luôn quan tâm đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo sát từng vụ việc bằng các
quy định. Trước khi đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ hồ sơ,
báo cáo cụ thể tình tiết vụ việc cũng như hướng giải quyết trước lãnh đạo . Thông
qua đó giúp ngành có biện pháp củng cố, giải quyết kịp thời những vướng mắc,
đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai
hoặc bỏ lọt tội phạm.
Công tác giải quyết các loại án của Tòa án nhân dân huyện cũng còn một
số tồn tại, hạn chế cần khắc phục như: Tỷ lệ giải quyết án tranh chấp dân sự, hôn
nhân và gia đình chưa cao. Nguyên nhân là do mới thụ lý, tính chất phức tạp của
từng vụ án, nhất là các vụ án liên quan đến tranh chấp đất đai, cần phải có thời
gian xác minh, thu thập chứng cứ. Một số đương sự cố tình trốn tránh, gây khó
khăn cho việc giải quyết vụ án. Trong giai đoạn năm 2015-2020, Tòa án nhân
dân huyện tiếp tục thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, kế hoạch, kết luận của
cấp trên, nâng cao chất lượng, đẩy mạnh tiến độ giải quyết, xét xử các loại án đã
thụ lý. Phấn đấu án hình sự đạt tỷ lệ giải quyết 98%; án dân sự- hôn nhân và gia
đình đạt từ 92% trở lên; án kinh doanh, thương mại, hành chính đạt 90%.
Trong quá trình xét xử các Thẩm phán cần nâng cao chất lượng tranh tụng
tại phiên tòa theo hướng thực chất, dân chủ, công khai, đúng quy định của pháp
luật, phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị địa phương. Tăng cường xét xử lưu
động tại địa điểm nơi xảy ra tội phạm để tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong
nhân dân. Ra quyết định thi hành án đúng thời hạn đối với 100% số người bị kết
án mà bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, chuyển 100% bản án đến chi cục
thi hành án để thi hành về phần dân sự. Thực hiện tốt việc giải quyết các khiếu
kiện tư pháp thuộc thẩm quyền. Củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy làm việc, nâng
cao hơn nữa trình độ chuyên môn cho đội ngũ công chức tòa án. Tiếp tục đẩy
mạnh “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện
cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội
ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án nhân dân các cấp” và phong trào thi
đua của ngành: “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” với phương châm: “Phải
gần dân, giúp dân, học dân, hiểu dân”. /.
Xuất phát từ tình hình thực tế ở địa phương, đặc điểm đơn vị cấp huyện có
mô hình về tổ chức mỗi Thẩm phán có một Thư ký giúp việc. Về cơ sở vật chất
cần được trang bị đầy đủ về máy vi tính cho từng cán bộ, nhân viên và toàn bộ
các biểu mẫu, văn bản pháp luật được kịp thời cập nhật trên mạng nội bộ. Các
loại án như hình sự, dân sự, kinh doanh - thương mại, hành chính, lao động đều
được lựa chọn những bản án điển hình của từng tội danh, từng loại tranh chấp
làm bản án mẫu cho đơn vị. Đối với các cá nhân từng cán bộ Thẩm phán và Thư
ký, cũng dựa vào những ưu điểm hiện có của đơn vị, soạn thảo lại các bản án
mẫu điển hình đơn vị thành bản án mẫu phù hợp của từng cá nhân tại thư mục
của mình. Ngoài ra, toàn bộ số lượng án phân công, thời gian giải quyết cũng như
toàn bộ công việc phải làm đều được cập nhật tại thư mục riêng và có lịch làm
việc cụ thể cho từng Thẩm phán, Thư ký để tạo điều kiện thuận lợi trong việc
kiểm tra số lượng, chất lượng công việc đã đạt được, kịp thời chấn chỉnh những
sai xót và khắc phục tình trạng bị động trong quá trình giải quyết án. Tránh được
tình trạng chỉ giải quyết những vụ án đơn giản, không đẩy nhanh tốc độ giải
quyết những vụ án phức tạp nên cũng đã hạn chế tối đa số lượng án tồn đọng, quá
hạn.
Quá trình xét xử, các Thẩm phán đã từng bước thay đổi và đặt ra yêu cầu
phải đảm bảo cơ chế tranh tụng tại phiên tòa theo đúng tinh thần của Nghị quyết
số 08/NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Trước yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp, đòi hỏi người Thẩm phán phải
luôn rèn luyện và nâng cao trình độ, nâng cao chất lượng xét xử. Nhận thức được
vấn đề này, các thẩm phán không ngừng học tập, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm
của các Thẩm phán khác và thường xuyên cập nhật, nghiên cứu các văn bản pháp
luật, xem xét, nghiên cứu lại các bản án bị cấp phúc thẩm xét xử hủy, sửa để rút
kinh nghiệm cho bản thân và sửa chữa những yếu kém trong công tác, nâng cao
chất lượng xét xử.
2. Mục tiêu của đề án.
2.1. Mục tiêu chung.
Đề án "Nâng cao chất lượng xét xử các loại án tại Tòa án nhân dân huyện
Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2015-2020" với mục tiêu là nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ về mọi mặt cho đội ngũ Thẩm phán, Thư ký, cán bộ
công chức trong cơ quan Tòa án huyện Yên Khánh và nâng cao nhận thức của
nhân dân về các quy định của pháp luật nói chung làm cho nhân dân khi có các
công việc liên quan đến Tòa án biết được quyền cũng như nghĩa vụ của mình. Để
nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc giải quyết xét xử tốt các
loại án; phấn đấu trong khi giải quyết xét xử các loại án hạn chế được án oan sai,
bỏ lọt tội phạm, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân đồng thời
nâng cao trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc giải
quyết, xét xử các loại án trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
2.2. Mục tiêu cụ thể của đề án.
Đề án nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về vị trí, vai trò và chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của hệ thống Tòa án nói chung, của Tòa án nhân dân
huyện Yên Khánh nói riêng, làm rõ những tồn tại trong việc xét xử của Tòa án
nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn từ năm 2010 - 2015.
Trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp theo cơ sở khoa học, mang tính khả
thi có thể vận dụng trong thực tiễn, nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án
nhân dân huyện Yên Khánh nói riêng và của Tòa án nhân dân cấp huyện trong hệ
thống Tòa án cả nước nói chung.
- Trong thời gian tới phấn đấu xét xử 100% các vụ án hình sự không bị oan
người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và các loại án không để quá thời gian luật
định.
- Án hình sự phấn đấu giải quyết xét xử đạt 98% trở lên.
- Án tranh chấp dân sự giải quyết xét xử đạt 95% trở lên.
- Án Hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, Lao động, hành chính
đạt 97% trở lên.
3. Nội dung thực hiện của đề án.
3.1. Bối cảnh thực hiện đề án.
Khái quát chung: Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính
quyền các cấp, tỉnh Ninh Bình nói chumg, huyện Yên Khánh nói riêng đã có
những chuyển biến tích cực trên tất cả các mặt; kinh tế, xã hội không ngừng phát
triển; tình hình chính trị, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội luôn ổn định
và giữ vững; đời sống nhân dân từng bước được cải thiện và nâng cao; an sinh xã
hội ngày càng được bảo đảm… Cùng với những thành tựu đã đạt được, huyện
Yên Khánh cũng phải đối diện với những mặt trái của cơ chế thị trường, nhất là
từ khi trên địa bàn huyện Yên Khánh có khu công nghiệp Khánh Phú là khu công
nghiệp lớn của tỉnh đầu tư nên có nhiều các công ty, nhà máy đầu tư do vậy có
phần phức tạp về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tình hình tội phạm; các
tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại ngày càng đa dạng về loại việc, giá trị
tranh chấp ngày càng lớn, phức tạp cả về nội dung lẫn hình thức, gây ra nhiều
khó khăn trong hoạt động xét xử, giải quyết các loại án của Tòa án.
Tình hình các loại án của tòa án: Cũng như các Tòa án cấp huyện khác, được
giao nhiệm vụ xét xử theo thẩm quyền mới đối với Tòa án nhân dân huyện Yên
Khánh vừa là cơ hội, vừa là thách thức buộc đơn vị phải nỗ lực vượt qua, bởi vì,
tính chất tội phạm mà đơn vị phải giải quyết sẽ phức tạp hơn trước; đòi hỏi việc
nghiên cứu, áp dụng pháp luật phải cẩn trọng, tỷ mỷ hơn; số lượng công việc năm
sau cao hơn năm trước trong khi biên chế không tăng; thậm chí có những thời
điểm lượng cán bộ được cử đi học lớp trung cấp, cao cấp lý luận chính trị, đào
tạo lớp nghiệp vụ xét xử là tương đối đông, cũng là nguyên nhân làm ảnh hưởng
đến công tác giải quyết xét xử các loại án của đơn vị. Tính trong giai đoạn 2010 –
2015 tình hình các loại án cụ thể như sau:
+ Án hình sự thụ lý trung bình khoảng từ 35 đến 40%, thuộc 35 loại tội được
quy định trong Bộ luật hình sự, hàng năm đối với án hình sự giải quyết xét xử
đều đạt 100% số án thụ lý. Nhìn chung các tội phạm chủ yếu là: Nhóm tội xâm
phạm quyền sở hữu; nhóm tội phạm về ma túy; nhóm tội phạm xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân; tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ; tội chứa mại dâm, tội môi giới mại dâm
là; tội đánh bạc là; nhóm tội phạm về tham nhũng…
+ Án dân sự thụ lý mỗi năm chiếm khoảng từ 15 đến 20% số án thụ lý đã
giải quyết đạt tỷ lệ 95% trở lên, tuy nhiên một số vụ án mà Tòa án tuyên vẫn
chưa rõ ràng, khó thi hành.
+ Án hôn nhân và gia đình thụ lý hàng năm khoảng từ 80 đến 100 vụ, nhưng
tỷ lệ hòa giải đoàn tụ vẫn thấp so với yêu cầu.
+ Án kinh doanh thương mại đã thụ lý và giải quyết mỗi năm từ 5 đến 10,
những vụ án đưa ra xét xử khi có kháng cáo vẫn có vụ án bị cấp phúc thẩm cải
sửa.
Nhìn chung việc giải quyết án dân sự, kinh doanh thương mại, hôn nhân
và gia đình, lao động và án hành chính, giai đoạn hiện nay gặp rất nhiều khó
khăn, nguyên nhân thì có nhiều, nhưng chủ yếu và quan trọng nhất vẫn là do sự
phát triển nhanh của nền kinh tế dẫn đến thay đổi cơ cấu và nhận thức xã hội,
quan niệm về gia đình đã có nhiều đổi khác so với trước.
Kinh tế xã hội phát triển, đời sống nhân dân ngày một nâng lên, nhận thức
pháp luật của nhân dân ngày càng sâu rộng. Do vậy việc nâng cao chất lượng giải
quyết các loại án là cần thiết không chỉ đối với Tòa án nhân dân huyện Yên
Khánh nói riêng mà còn có ý nghĩa đối với toàn hệ thống Tòa án nói chung. Để
đạt được mục tiêu chung trong giai đoạn 2015-2020 Tòa án nhân dân huyện Yên
Khánh cần có những mục tiêu cụ thể như : “Phấn đấu phải tuyệt đối không có án
oan sai, không bỏ lọt tội phạm, không có án để quá thời hạn luật định; Đối với án
hình sự hành năm phải xét xử đạt 100% tổng số án thụ lý; Đối với vụ việc dân sự
và các loại án khác giải quyết xét xử đạt từ 96% trở lên”.
3.2. Thực trạng về việc xét xử giải quyết các loại án của Toà án nhân
dân huyện Yên Khánh giai đoạn 2010 - 2015.
3.2.1. Khái quát về Toà án nhân dân huyện Yên Khánh.
Huyện Yên Khánh là một huyện thuần nông, nằm ở phía Đông Nam tỉnh
Ninh Bình, phía Bắc giáp thành phố Ninh Bình, phía Tây và Tây nam giáp huyện
Yên Mô, phía Nam giáp huyện Kim Sơn, phía Đông và Đông Bắc có sông Đáy
bao bọc, là ranh giới tự nhiên với huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Diện tích
tự nhiên toàn huyện là 137,9km2, dân số 143.131 người, mật độ dân số 1.038
người/km2 gồm thị trấn Yên Ninh (huyện lị) và 18 xã.
Trong những năm qua do nền kinh tế thị trường phát triển mạnh, trên địa bàn
huyện Yên Khánh có khu công nghiệp Khánh Phú là khu công nghiệp lớn của
tỉnh nằm trên địa bàn, tập chung nhiều công ty lớn, nhà máy đã và đang đi vào
hoạt động nên lực lượng công nhân trong và ngoài nước tập chung tại đây lao
động sản xuất rất đông. Tình hình an ninh chính trị trên địa bàn trở nên phức tạp,
nhiều lại án phát sinh theo chủ yếu là án về trật tự xã hội, các khiếu kiện về dân
sự cũng phát sinh ngày càng nhiều.
Đơn vị Tòa án nhân dân Huyện Yên Khánh được tái lập từ 1/9/1994. Về cơ
cấu tổ chức khi mới thành lập có 8 biên chế trong đó có 02 Thẩm phán.
Hiện nay Tòa án nhân dân Huyện Yên Khánh có 11 biên chế trong đó 01
Chánh án, 02 phó Chánh án, 02 Thẩm phán, 4 Thư ký, còn lại là các chức danh
khác.
- Về trình độ chuyên môn: Tất cả các Thẩm phán, cán bộ trong cơ quan
đều đã tốt nghiệp Đại học luật:
- Về trình độ chính trị: 01 đồng chí có bằng Cao Cấp Lý luận Chính trị, 01
đồng chí đang theo học lớp Cao Cấp Lý luận Chính trị.
- Về đội ngũ Thẩm phán: Đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân huyện
Yên Khánh có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tương đối vững vàng. Các Thẩm
phán đã có thời gian xét xử lâu năm trong nghề, có nhiều kiến thức thực tiễn và
kinh nghiệm xét xử. Về cơ bản, đội ngũ Thẩm phán của Tòa án nhân dân huyện
đều có lập trường tư tưởng vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, chấp hành
nghiêm chỉnh mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước. Không có Thẩm phán nào mắc sai phạm về phẩm chất đạo đức, vi phạm về
nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp cũng như vi phạm pháp luật.
Trong hoạt động xét xử vẫn còn những tồn tại hạn chế: Tuy đã được đào
tạo cơ bản, nhưng có Thẩm phán chưa chú ý nhiều đến việc tự học tập nghiên cứu
tài liệu để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị nên có
phần hạn chế so với yêu cầu hiện tại. Mặt khác trình độ năng lực nhận thức của
Thẩm phán chưa đồng đều, ý thức trách nhiệm đôi lúc còn chưa cao, tác phong
làm việc đôi khi chưa nghiêm, không khoa học dẫn tới còn để nhiều vụ án kéo
dài, chấp hành kỷ luật chưa nghiêm, còn có hiện tượng đi muộn về sớm …
- Về đội ngũ cán bộ Tòa án:
Hiện nay Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh có 04 Thư ký, 01 biên chế
đánh máy và 01 kế toán, nhưng do tâm huyết với ngành, với chuyên môn nghiệp
vụ, đồng chí đánh máy cũng đã tốt nghiệp Đại học Luật và chưa chuyển ngạch
sang Thư ký .
- Về hội thẩm nhân dân: Số lượng Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân
huyện là 17 đồng chí thì có 12 đồng chí là cán bộ công chức nhà nước và 05 đồng
chí là cán bộ hưu trí.
Những kết quả đã đạt được
Đối với hệ thống Tòa án trên cả nước nói chung, nhiệm vụ trong những
năm qua cũng hết sức nặng nề: Thẩm quyền của các Tòa án tiếp tục được mở
rộng nhất là đối với Tòa án nhân dân cấp huyện, số lượng án phải giải quyết lớn,
nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp đòi
hỏi phải được triển khai thực hiện để phù hợp với quy định của Hiến pháp năm
2013, các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, tinh thần cải cách tư pháp theo chủ
trương của Đảng, trong khi các điều kiện về nhân lực và vật lực của Tòa án nhân
dân các cấp chưa đáp ứng yêu cầu. Nhìn chung, tỷ lệ giải quyết chung các loại vụ
án đạt đạt 95%; án để quá hạn luật định, bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm
phán vẫn còn nhiều; chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa tuy được nâng lên
nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu, công tác hòa giải, đối thoại trong giải quyết các vụ
việc dân sự, hành chính cần phải tiếp tục được tăng cường.
Từ năm 2010 đến năm 2015 Toà án nhân dân Huyện Yên Khánh đã giải
quyết xét xử 674 vô viÖc c¸c lo¹i kÕt qu¶ cô thÓ nh sau:
- Xét xử, giải quyết án hình sự :
Thụ lý giải quyết 201 vụ gồm 589 bị cáo, trong tổng số án hình sự đã thụ
lý, để phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương và tuyên truyền và phổ biến giáo
dục Pháp luật trong nhân dân, Tòa án đã đưa ra xét xử lưu động 34 vụ án hình sự
tại các xã, thị trấn trong huyện.
- Xét xử, giải quyết án tranh chấp dân sự.
Thụ lý 74 vụ án tranh chấp dân sự và 42 việc dân sự, loại án này có 3 loại
việc kiện chủ yếu đó là: Kiện đòi bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, kiện đòi tài
sản và kiện tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất.
- Xét xử, giải quyết án hôn nhân gia đình.
Thụ lý 349 vụ án và 6 việc yêu cầu về hôn nhân gia đình, Toà án đã giải
quyết và xét xử xong 355 vụ. Trong đó Toà án đã xét xử 42 vụ án, công nhận
thuận tình ly hôn 287 vụ, đình chỉ do nguyên đơn rút đơn yêu cầu 12 vụ, hoà giải
đoàn tụ 8 vụ, họp xét đơn yêu cầu 6 việc về hôn nhân gia đình.
- Xét xử, giải quyết án kinh doanh thương mại.
Trong thời gia qua Toà án huyện Yên Khánh đã thụ lý và giải quyết 8 vụ án
kinh doanh thương mại.
- Công tác thi hành án phạt tù:
Trong thời gian qua Toà án đã ra quyết định thi hành 425 bị án (Bao gồm
cả các bị án ở nơi khác uỷ thác về). Trong đó phạt tù giam 62 bị án, phạt tù cho
hưởng án treo 76 bị án, cải tạo không giam giữ 106 bị án, phạt tiền 159 bị cáo, uỷ
thác thi hành án đi nơi khác 22 bị án.
Hoạt động xét xử án hình sự của Toà án luôn đảm bảo về số lượng và chất
lượng. Trước khi xét xử Toà án đã nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án một cách khách
quan, thận trọng và tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Việc xét xử đều đảm bảo
đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Điều đó chứng tỏ rằng đội
ngũ Thẩm phán ngày càng trưởng thành và vững vàng về chuyên môn, đường lối
chỉ đạo án là đúng đắn, sát với thực tế, biết vận dụng, áp dụng pháp luật và tình
hình chính trị ở địa phương vào từng vụ án cụ thể. Do đó việc phán quyết của Toà
án đều đảm bảo, công bằng công minh được quần chúng nhân dân đồng tình ủng
hộ.
Việc giải quyết án dân sự, án hôn nhân và gia đình trên địa bàn Huyện gặp
nhiều khó khăn phức tạp như đường xá đi lại khó khăn. Trình độ dân trí còn chưa
cao. Do đó một số vụ án đương sự (bị đơn thường lẩn trốn không đến Toà án giải
quyết), gây khó khăn cho việc xác minh thu thập chứng cứ, nhưng các Thẩm
phán, Thư ký được giao giải quyết vụ án luôn khắc phục khó khăn, đi cơ sở kịp
thời để giải quyết vụ án đúng luật định. Do vậy việc giải quyết án dân sự, hôn
nhân và gia đình của Toà án nhân dân Huyện trong thời gian qua đã đảm bảo
đúng thủ tục tố tụng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người công dân.
Được quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ và có sức thuyết phục cao.
Án Kinh doanh thương mại, Toà án nhân dân Huyện Yên Khánh đã thụ lý
giải quyết 08 vụ án kinh doanh thương mại, nguyên nhân chủ yếu do suy thoái
của nền kinh tế, dẫn đến việc thực hiện hợp đồng giữa các bên không thực hiện
được, dẫn đến việc khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp.
Đối với công tác Hội thẩm nhân dân: Với 17 Hội thẩm nhân dân, đủ về số
lượng và cơ cấu, thời gian qua luôn được Toà án quan tâm, tạo mọi điều kiện để
hoạt động. Toà án đã mua sắm những tài liệu cần thiết để Hội thẩm nhân dân
nâng cao hiểu biết chuyên môn pháp lý, vận dụng vào xét xử như: Bộ luật hình
sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, luật hôn nhân
và gia đình, luật lao động...và may trang phục thu, đông, xuân cho Hội thẩm nhân
dân để khi tham gia xét xử trang phục phải nghiêm chỉnh, chỉnh tề tạo ra sự uy
nghiêm của ngành Toà án. Đồng thời mọi sơ, tổng kết Hội thẩm nhân dân đều
được mời tham gia. Hàng năm, Toà án thường xuyên tổ chức hội nghị tập huấn
Hội thẩm để nâng cao nghiệp vụ. Do đó phần lớn các Hội thẩm nhân dân tham
gia xét xử đều nhiệt tình và có trách nhiệm cao.
* Tóm lại: Tập thể Toà án nhân dân Huyện Yên Khánh dưới sự lãnh đạo
của Ban Chi ủy và tập thể lãnh đạo là một khối đoàn kết, thống nhất, đội ngũ cán
bộ cũng như Thẩm phán đều có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp chuyên
môn vững vàng, phần nào đã được nâng lên, đáp ứng được yêu cầu của hoạt động
xét xử, hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, cũng như cấp trên giao, góp phần tích cực
cùng các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện tốt cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, luôn giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn Huyện Yên Khánh nói riêng, tỉnh Ninh Bình nói
chung.
3.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong hoạt động xét
xử của Toà án nhân dân huyện Yên Khánh trong thời gian 2010-2015:
Các mặt hạn chế:
- Về chất lượng xét xử của Toà án chưa thực sự được nâng lên thể hiện ở
việc nhận thức và vận dụng pháp luật chưa thống nhất, chưa đúng dẫn tới án còn
bị huỷ, cải sửa.
- Cách điều hành phiên toà và viết bản án còn bộc lộ những sơ xuất nhất
định, cách thẩm vấn, viết án còn dài dòng, chưa tập trung vào những tình tiết cơ
bản của vụ án.
- Việc phối kết hợp với các ngành trong khối nội chính có lúc còn chưa
chặt chẽ, đôi khi còn mang tính cá nhân hoặc sự phối kết hợp còn mang tính "vĩ
mô" nhiều hơn, chủ yếu là giới lãnh đạo quản lý. Chưa có sự phối kết hợp một
cách thực tế, cụ thể và khoa học giữa các Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra
viên một cách thường xuyên, liên tục để đảm bảo các thông tin cần thiết, tạo sự
đồng tâm hiệp lực giữa ba cơ quan Công an, Toà án, Viện kiểm sát.
- Đội ngũ Thẩm phán và Thư ký còn thiếu so với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra,
tòa án huyện Yên Khánh chưa có cán bộ làm công tác tiếp dân riêng, vì vậy còn
phải kiêm nhiệm
- Cở sở vật chất, phương tiện làm việc còn sơ sài, chưa đáp ứng được tình
hình hiện nay.
Nguyên nhân những hạn chế:
+ Nguyên nhân chủ quan:
- Các thiếu sót về công tác xét xử của Toà án trước hết thuộc về đội ngũ
Thẩm phán những người có trách nhiệm chính trong công tác xét xử và giải quyết
các vụ án cũng như lãnh đạo Toà án trong việc đưa ra chủ đường lối xét xử.
- Trình độ năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký chưa đồng đều,
cũng như việc cập nhật các thông tin từ nhiều phía còn bị hạn chế.
- Chưa thường xuyên tổ chức các buổi học tập, nghiên cứu tài liệu, các văn
bản pháp luật mới để cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân kịp thời bổ sung
kiến thức mới, phục vụ cho công tác xét xử.
Còn một số chỉ tiêu công tác chưa đạt yêu cầu các Nghị quyết của Quốc
hội đề ra; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan vẫn còn nhiều;
có cán bộ, công chức trình độ năng lực còn yếu về một số mặt, chưa đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ. Việc thực hiện một số nhiệm vụ trong cải cách tư pháp
còn chậm so với yêu cầu. Những hạn chế này làm ảnh hưởng tới chất lượng công
tác của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh.
Trong giai đoạn tới (2015-2020) Cơ quan Tòa án nhân dân huyện Yên
Khánh cần làm rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan để nghiêm túc rút
kinh nghiệm và sớm đề ra các giải pháp cần khắc phục.
+ Nguyên nhân khách quan:
- Hệ thống pháp luật của nhà nước ta hiện đang trong quá trình hoàn thiện,
nên thường xuyên có sửa đổi, bổ sung. Số lượng các văn bản pháp luật rất lớn và
điều chỉnh ở nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội khác nhau, một số quy định trong một
số văn bản pháp luật chưa phù hợp với thực tiễn là khó khăn lớn trong việc áp
dụng pháp luật cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc cải sửa, huỷ
án...
- Mặc dù theo quy định của pháp luật thì các đương sự phải có trách nhiệm
phải cung cấp các chứng cứ để chứng minh quyền lợi của mình bị xâm phạm.
Trên thực tế các đương sự không làm được như vậy. Mặt khác một số đương sự
(bị đơn) thường cố tình lẩn trốn không đến Toà án, nhằm kéo dài thời gian giải
quyết vụ án gây khó khăn cho công tác thu thập chứng cứ, xác minh giải quyết