Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TIẾNG nói PHÊ PHÁN HIỆN THỰC xã hội TRONG THƠ nôm hồ XUÂN HƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.02 KB, 12 trang )

TIẾNG NÓI PHÊ PHÁN HIỆN THỰC XÃ HỘI
TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG

(Nguyễn Thị Ngọc Lan –
Lớp Sư phạm Ngữ văn K36
Đại học Quy Nhơn)

Xã hội Việt Nam vào thời Xuân Hương sống cực kì hỗn loạn. Đó là thời kỳ
chế độ phong kiến trên con đường thoái trào của mình đã bộc lộ hết những mặt trái
của nó. Bao nhiêu giềng mối trong xã hội đều bị lật tung, đảo lộn; những thói xấu
của giai cấp thống trị từ vua chúa đến quan lại, từ quân tử đến thầy tu; những hủ
tục, tệ nạn trong xã hội… đều hiện lên một cách rõ nét nhất nhưng suy cho cùng nó
vẫn ngự trị và vẫn đủ khả năng kiềm toả mọi sự phản ứng. Chúng vẫn cố khoác lấy
tấm màn rách mướp hòng che mắt mọi người cũng như chính bản thân mình. Cái
xã hội ấy không chờ đợi cũng không ngờ tới một người phụ nữ như Xuân Hương
lên tiếng phê phán, tố cáo. Nữ thi sĩ đã đến với những bước đi dứt khoát, mạnh bạo
và cất lên tiếng nói phê phán hiện thực xã hội một cách sâu cay, đồng thời vỗ vào
mặt xã hội ấy một tràng cười đầy mỉa mai, hằn học.
1. Vạch trần bộ mặt của những kẻ đạo đức giả
Rất nhiều tác phẩm thơ Nôm của bà đã lên tiếng đả kích, phê phán, vạch trần
bản chất xấu xa, giả dối của giai cấp thống trị và của những kẻ đại diện cho giáo lí
phong kiến. Họ là mẫu người lí tưởng của xã hội phong kiến với vẻ ngoài thanh


cao, đạo mạo, mang trong mình sứ mệnh truyền bá đạo thánh hiền, gìn giữ kỉ
cương xã hội. Thế nhưng xã hội suy đồi, kỉ cương phép tắc không còn thì họ chỉ là
những kẻ khoác áo quân tử mà thôi, thực chất họ cũng mang cái thân xác phàm tục
và háo danh, háo sắc hơn bất cứ ai. Xuân Hương đã nhìn thấu cái bản chất dâm ô,
truỵ lạc của bọn vua chúa, quân tử đằng sau lớp áo đạo đức ấy. Đối với nữ sĩ,
những vị tự xưng là hiền nhân, quân tử kia chỉ là cái hư danh, đứng trước vẻ đẹp
của một người thiếu nữ thì họ cũng chỉ là những kẻ phàm tục nhất trong những kẻ


phàm tục:
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc biếng cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở, ở không xong
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Nhà thơ đã vẽ nên bức tranh thiếu nữ nằm chơi giữa mùa hè, vì gió mát “hây hẩy”
nên đã thiếp đi lúc nào không hay khiến lược cài trên tóc cũng bị sổ ra lỏng lẻo,
yếm thì trễ xuống dưới ngực, để lộ ra thân thể tuyệt đẹp nửa kín nửa hở. Tình cờ đi
qua, nhìn thấy cảnh xuân trước mắt, vị quân tử kia cũng nổi lên cái ham muốn
phàm tục, nhưng đã mang danh quân tử rồi nên nào dám làm gì, chỉ có thể lén lút


nhìn, thèm nhỏ dãi nhưng cứ dùng dằng mãi, ở thì không dám làm gì mà đi thì
không đành. Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rõ cái ý nghĩ đen tối lén lút của họ.
Xuân Hương đã cho chúng ta thấy một bộ mặt giả dối sau lớp áo mũ chỉnh tề
của những hiền nhân, quân tử. Một mặt, tác giả vẽ nên cảnh Đèo Ba Dội cheo leo,
hoang sơ nhưng rất sống động: Một đèo, một đèo, lại một đèo/ Khen ai khéo tạc
cảnh cheo leo/ Cửa son đỏ loét tùm hum nóc/ Hòn đá xanh rì lún phún rêu/ Lắt lẻo
cành thông cơn gió thốc/ Đầm đìa lá liễu giọt sương reo. Mặt khác, nữ sĩ lại khiến
chúng ta liên tưởng ngay tới một bức tranh khác, bức tranh cơ thể người phụ nữ.
Chính nét nghĩa thứ hai này đã có tác dụng thể hiện rõ ý phê phán của bà đối với
những bậc hiền nhân quân tử đạo mạo kia. Bà đã mát mẻ kính nể họ nhằm chế giễu
họ: Hiền nhân quân tử ai là chẳng/ Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo (Đèo Ba
Dội). Đứng trước cảnh đẹp ấy, liệu có mấy ai không muốn trèo? Cho dù là hiền
nhân quân tử đi chăng nữa thì họ cũng chỉ là con người, mà đã là con người thì tất

có cái ham muốn của con người, chớ có tỏ ra đạo mạo rằng ta đây là quân tử, ta
không có cái ham muốn phàm tục của những kẻ tiểu nhân bởi tác giả đã nhìn thấu
bản chất của họ rồi.
Ngay đến cả vua chúa cũng không ngoại lệ: Hồng hồng má phấn duyên vì
cậy/ Chúa dấu vua yêu một cái này (Vịnh cái quạt I). Cái này ở đây ai cũng hiểu
rõ đó không chỉ là cái quạt mà đó còn là cái bộ phận kín đáo trên cơ thể người phụ
nữ. Từ việc mô tả cái quạt nhưng cũng là mô tả một cái gì khác mà ai cũng hiểu:
Chành ra ba góc da còn thiếu/ Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa (Vịnh cái quạt II) và
bóc trần bộ mặt giả dối của vua chúa, hiền nhân với thói dâm dục: Yêu đêm chưa
phỉ lại yêu ngày (Vịnh cái quạt I). Xuân Hương đã dùng chính cái mà họ yêu


thích nhất, cái trần tục nhất đặt lên đầu, lên mặt họ: Mát mặt anh hùng khi tắt gió/
Che đầu quân tử lúc sa mưa rồi còn cất giọng giễu cợt: Nâng niu ướm hỏi người
trong trướng/ Phì phạch trong lòng đã sướng chưa? (Vịnh cái quạt II).
Bên cạnh những hiền nhân quân tử ấy, tác giả còn lớn tiếng phê phán đám
nho sĩ dốt nát, những cậu ấm con quan suốt ngày huênh hoang, vênh váo, học
không ra gì mà cứ đòi làm thơ, ghẹo gái. Trong con mắt của bà, chúng chỉ là một lũ
ngẩn ngơ, một đám dốt nát lại còn lên mặt. Xuân Hương xưng chị và mắng chúng
một cách không thương tiếc:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa
(Mắng học trò dốt I)
Ấy thế mà cái “lũ ngẩn ngơ” ấy lại còn dám dắt nhau đến cửa chiền rồi đề thơ lảm
nhảm lên đó: Dắt díu đưa nhau đến cửa chiền/ Cũng đòi học nói nói không nên. Và
bà chị Xuân Hương của chúng ta đâu có để yên cho chúng được tự tác, lên mặt. Bà
chỉ thẳng mặt chúng mà mắng: Ai về nhắn bảo phường lòi tói/ Muốn sống đem vôi
quét trả đền (Mắng học trò dốt II).

Đối tượng mà bà lên án, đả kích sâu cay nhất vẫn là bọn quan thị và sư mô.
Rõ ràng, trong xã hội phong kiến Việt Nam thời ấy, các sư thầy thật thì ít mà sư hổ
mang thì nhiều. Nhà thơ thấy được tất cả những mặt trái ấy nên bà căm ghét cả
chùa lẫn sư. Nữ sĩ nhìn ra được “sư” ở đây không còn là những người dứt bỏ hồng
trần, tâm thanh tịnh, tu thân mà là những kẻ lòng còn đầy tạp niệm, đội lốt sư tăng


để ăn của dân đến mức béo tròn: Một sư đầu trọc ngồi khua mõ/ Hai tiểu lưng tròn
đứng giữ am (Hang Thánh Hoá). Không những thế, chúng còn lười biếng khiến
cho sinh hoạt nhà chùa uể oải bê tha: Quán sứ sao mà cảnh vắng teo/ Hỏi thăm sư
cụ đáo nơi neo?/ Chày kình, tiểu để suông không đấm/ Tràng hạt, vãi lần đếm lại
đeo/ Sáng banh không kẻ khua tang mít/ Trưa trật nào ai móc kẽ rêu (Chùa Quán
Sứ).
Trước cái cảnh chùa không ra chùa, sư chẳng ra sư đó, Hồ Xuân Hương đã
thẳng tay mà đánh vào bộ mặt giả đạo đức của họ: Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta/
Đầu thì trọc lốc áo không tà (Sư hổ mang) rồi cất giọng giễu cợt: Tu lâu có lẽ lên
sư cụ/ Ngất nghểu toà sen nọ đó mà! (Sư hổ mang). Bà còn châm biếm sâu cay
vào tận bộ mặt hoang dâm của chúng:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
(Sư hoang dâm)
Ngoài việc khinh ghét và đả kích những kẻ bất lương núp bóng nhà Phật,
Xuân Hương cũng không ngần ngại gì mà tha cho lũ quan thị vì hám chức hám
danh mà vứt bỏ đi “cái xuân tình”, sống trái lẽ tự nhiên. Bà mỉa mai, châm biếm
thậm chí là văng tục, chửi thẳng vào mặt chúng: Rúc rích thây cha con chuột nhắt/
Vo ve bét mẹ cái ong bầu/ Đố ai biết được vông hay trốc/ Còn kẻ nào hay cuống
với đầu (Quan thị).
2. Lên án chế độ đa thê phong kiến



Trong xã hội phong kiến Việt Nam xưa luôn có một quan niệm là “trai năm
thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng” - một quan niệm cực kì bất bình đẳng
đối với người phụ nữ. Không những thế “Chế độ ấy lại được củng cố bằng những
học thuyết sai lạc do những nguỵ nho phụ hoạ và xuyên tạc, càng ngày càng đẩy
phụ nữ xuống địa vị thấp kém đến mất cả nhân cách, mất cả tinh thần tự chủ và
đan vị độc lập!” [6, 340].
Bước chân vào con đường làm lẽ thì không thể tránh khỏi những tủi nhục,
Xuân Hương đã trải nghiệm sâu sắc điều đó nên bà đã vì mình và bao nhiêu phụ nữ
mang thân phận lẽ mọn khác lên tiếng tố cáo chế độ đa thê phong kiến. Đó là một
tiếng chửi mạnh bạo, đầy căm phẫn: Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng/ Chém cha cái
kiếp lấy chồng chung (Làm lẽ). Cũng là một kiếp nữ nhi nhưng sao trớ trêu thay
người thì “đắp chăn bông” còn kẻ thì phải chịu cảnh “lạnh lùng”, và Xuân Hương
hiểu rõ vì đâu mà có cảnh bất công như vậy. Chính là vì họ lấy chồng chung nhưng
người ta làm chính còn bà và bao nhiêu người phụ nữ khác cùng chung số phận với
bà lại làm vợ lẽ, làm vợ bé, không có tiếng nói, chịu cảnh ghẻ lạnh. Bà căm phẫn
cái kiếp lấy chồng chung ấy, cái kiếp đã đầy đoạ bà trong sự cô đơn, tủi nhục.
Tiếng chửi của bà chính là một lời nguyền rủa hủ tục phong kiến.
Không dừng lại ở đó, sau khi cất lên tiếng chửi đầy tức giận với chế độ đa
thê, với kiếp chung chồng ấy, Xuân Hương còn vạch rõ những bất công của phận
làm lẽ: Năm thì mười hoạ hay chăng chớ/ Một tháng đôi lần có cũng không. Trong
hôn nhân, điều quan trọng nhất trong đời sống vợ chồng là chuyện chăn gối, ấy thế
nhưng hôn nhân của Xuân Hương vốn đã là một cuộc hôn nhân bất công thì tất yếu
đời sống vợ chồng của nàng cũng như bao người làm lẽ khác cũng sẽ không công


bằng. Không nói đâu xa, việc phải chia chồng với người khác là đã đủ tủi hờn rồi,
mà nào có được chia một cách đồng đều, chỉ có “năm thì mười hoạ” mới được ở
với chồng, thậm chí “một tháng đôi lần” có khi còn không được.

Cam chịu tủi hờn, cô đơn để mong một ngày được chung chăn gối với
chồng, được hưởng cái hạnh phúc ái ân trọn vẹn dù rất thưa thớt, ấy thế nhưng khi
được chồng ghé tới thì cũng không hạnh phúc, ngon lành gì: Cố đấm ăn xôi, xôi lại
hẩm. Cái cảnh ấy còn cay đắng, tủi nhục hơn cả những người đi làm mướn bởi
người ta đi làm mướn họ còn được trả công nhưng những người vợ lẽ thì không
những đã không có công mà còn bị ghẻ lạnh, khinh rẻ: Cầm bằng làm mướn, mướn
không công. Ta thấy người vợ lẽ không chỉ thiệt thòi về mặt vật chất mà còn cả về
tinh thần, đặc biệt là trong tình cảm vợ chồng.
Trải qua cảnh làm lẽ ấy rồi mới cảm hết cái cay đắng của nó, mới chua xót
cho phận mình mà hối hận khi đã lấy chồng để bây giờ đến nông nỗi này: Thân
này ví biết dường này nhỉ/ Thà trước thôi đành ở vậy xong. Nếu biết trước lấy
chồng mà phải khổ sở như thế này, tủi nhục như thế này thì họ - những người vợ lẽ
đã chẳng bao giờ bước vào, chẳng thà họ ở vậy mà tự do, thoải mái về tinh thần
còn hơn cái phận làm lẽ người ta thì chăn ấm nệm êm, cũng chồng mình đấy mà
mình nào được cái quyền êm ấm bên chồng, giường thì vợ lớn giành nhưng việc thì
lại đùn hết cho mình, tối ngủ lạnh cô đơn, sáng lại phải dậy sớm lo việc nhà. Thật
trái ngang thay! Cho nên, kết thúc bài thơ Làm lẽ, Xuân Hương mới cất lên một
tiếng thở dài cho cuộc đời của tất cả chị em lẽ mọn và đưa ra một giải pháp: Thà
trước thôi đành ở vậy xong. Thế mà nào có xong được, lối thoát mà Xuân Hương
đưa ra là hoàn toàn trái với “quy luật tình cảm và quy luật sinh tồn của con


người”. Nó “bộc lộ những bế tắc, những bi kịch trong cuộc đời của người vợ lẽ”,
“phản ánh cực độ nỗi đau khổ của những người phụ nữ không may rơi vào cảnh lẽ
mọn, nỗi đau khổ đời tư của nữ sĩ họ Hồ!” [7, 49].
Với bài thơ Làm lẽ, Xuân Hương lên án gay gắt chế độ đa thê trong xã hội
phong kiến, mỉa mai xã hội, cười vào mặt xã hội nhưng ẩn đằng sau tiếng cười ấy
là cuộc đời bất hạnh của bà, là những khổ đau của bà, đúng như Xuân Diệu nói:
“Trong xã hội cũ, thơ của họ thực chất cũng là máu và nước mắt, mặc cái áo trào
phúng đó thôi” [6, 426].

3. Phê phán những giáo điều phong kiến ràng buộc người phụ nữ
Chế độ phong kiến ở nước ta tồn tại qua nhiều thế kỷ với một nền quân chủ
tập quyền chuyên chế kiểu gia trưởng và một tư tưởng thống trị dựa trên Nho giáo
chính thống, do đó con người sống trong xã hội ấy không tránh khỏi những ràng
buộc bởi những giáo điều cứng nhắc, bảo thủ. Bên cạnh đó, xã hội phong kiến lại
là một xã hội “nam tôn nữ ti” nên tất yếu người phụ nữ là người phải chịu nhiều
bất công và sự ràng buộc nghiêm khắc của giáo điều phong kiến hơn cả. Cụ thể đã
có rất nhiều luật lệ nghiêm cấm người phụ nữ tự do yêu đương, có những mối quan
hệ bất chính trước hôn nhân. Những luật lệ này một mặt làm cho đạo đức kỉ cương
của xã hội được duy trì ổn định, không bị xâm phạm nhưng mặt khác đã đem đến
biết bao cảnh thảm khốc bởi sự trừng phạt nghiêm khắc, thậm chí đến mức tàn bạo
của giáo lí phong kiến đối với những người phụ nữ lỡ dại.
Ở cái xã hội Việt Nam xưa, khi mà chế độ phong kiến còn thống trị, phụ nữ
bị coi khinh như những món đồ chơi và bị xem là vật sở hữu của đàn ông. Với sự


đồng cảm nữ giới của mình, Xuân Hương đã “lượng thứ đối với hạng gái chửa
hoang, dám đưa ra những vần thơ này trước những búa rìu đạo đức đang sắc bén
và trong bầu không khí đang đặc sệt một mùi “khinh nữ” của nho gia” [6, 346].
Xuân Hương đã lí giải nguyên nhân mà những người phụ nữ ấy phạm tội chửa
hoang: Cả nể cho nên hoá dở dang/ Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng? (Không
chồng mà chửa). Sở dĩ họ lầm lỡ và vì họ cả nể, một người con gái yếu mềm vì cả
nể với chàng trai mình yêu đã không đành lòng từ chối đòi hỏi của chàng và vì thế
nên mới dở dang, mới mang danh không chồng mà chửa, bị người đời khinh bỉ,
bêu rếu, bị cho là dâm phụ và còn phải chịu những hình phạt tàn khốc khác. Ấy thế
mà chàng có hiểu cho chăng nỗi niềm của thiếp? Hay là vì lo sợ, vì sĩ diện mà
chàng cũng bỏ thiếp, một người con gái vì quá yêu mà lỡ dại: Duyên thiên chưa
thấy nhô đầu dọc/ Phận liễu sao đà nảy nét ngang? (Không chồng mà chửa).
Chồng còn chưa có mà đã có con, đời người con gái thế là hoá dở dang. Nhưng
người con gái ấy không hề than trách, hối hận, chỉ mong sao người mình yêu nhớ

tới “cái nghĩa trăm năm”, còn cái đứa con kia, cái “mảnh tình một khối” ấy thì
nàng xin mang, nàng chấp nhận cả: Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?/ Mảnh
tình một khối thiếp xin mang (Không chồng mà chửa). Bằng sự cảm thông và
thương xót của mình đối với những cô gái chửa hoang, Xuân Hương không chỉ
nhận thấy và lí giải nguyên nhân của sự lầm lỡ ấy mà bà còn thay họ cất lên một
lời thách thức với toàn bộ giáo điều phong kiến đang tồn tại, đang ràng buộc con
người mà đặc biệt là người phụ nữ: Quản bao miệng thế lời chênh lệch/ Không có,
nhưng mà có, mới ngoan (Không chồng mà chửa).


Cùng với việc nữ sĩ bênh vực cho người phụ nữ chửa hoang là sự cảm thông,
cùng cảnh ngộ với những người vợ lẽ mà thốt lên tiếng chửi, nguyền rủa cái chế độ
đa thê vô nhân đạo, cái quan niệm trọng nam khinh nữ cho phép đàn ông có năm
thê bảy thiếp mà phụ nữ thì bị buộc phải giữ trinh tiết, suốt đời thờ một chồng. Có
những người vợ lẽ phải cam chịu đắng cay, không bằng cả kẻ làm mướn: Cố đấm
ăn xôi, xôi lại hẩm/ Cầm bằng làm mướn, mướn không công (Làm lẽ), có những
cô gái vì yêu mà lầm lỡ: Cả nể cho nên hoá dở dang (Không chồng mà chửa)…
Và tất nhiên, trong xã hội “nam tôn nữ ti” ấy, phụ nữ bị xem là vật sở hữu của đàn
ông, họ không được học hành, thi cử, bị ràng buộc, có tài mà không thể làm gì, chỉ
đành nuối tiếc, tức giận, coi thường lũ đàn ông bất tài: Ví đây đổi phận làm trai
được/ Thì sự anh hùng há bấy nhiêu! (Đề đền Sầm Nghi Đống). Tất cả những bi
kịch, những bất công ấy đều xuất phát từ những giáo điều khắt khe, những quan
niệm lạc hậu và những luật lệ tàn nhẫn, vô nhân đạo của chế độ phong kiến đối với
người phụ nữ.
Xuân Hương đồng cảm với họ bao nhiêu thì lại căm ghét chế độ phong kiến
bấy nhiêu. Bà “chống lại tư tưởng “nam tôn nữ ti” bằng những cái nhìn xách mé:
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo/ Kìa đền thái thú đứng cheo leo (Đề đền Sầm
Nghi Đống). Những cách xưng hô trịch thượng: Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ/
Lại đây cho chị dạy làm thơ” (Mắng học trò dốt I). Và tiếng nói phê phán trong
thơ Xuân Hương chính là để giải phóng con người, nhất là người phụ nữ ra khỏi

những tập tục, lễ giáo, đạo đức phong kiến bấy lâu nay vẫn luôn chèn ép họ.
Tóm lại, thơ Nôm Hồ Xuân Hương phê phán hiện thực xã hội ở nhiều mặt
với một thái độ cứng rắn, mạnh bạo; lên án, tố cáo những giáo điều phong kiến


ràng buộc người phụ nữ khiến họ mất tự do, tự chủ của mình, đẩy họ rơi vào bước
đường cùng, chịu nhiều bất hạnh, đau thương. Nhà thơ đã vì họ và vì chính bản
thân mình mà cất lên tiếng nói phản kháng, đấu tranh đòi lại sự tự do, tự giải phóng
mình ra khỏi những bất công, những ràng buộc đè nén bấy lâu nay. Và vì thế,
người ta mới gọi bà là người phụ nữ “nổi loạn” của thời đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên, 2000), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Nguyễn Lộc (1982), Thơ Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học, Hà Nội.
3. Nguyễn Lộc, Đào Thái Tôn, Nguyễn Văn Hanh…(Tuyển chọn và giới
thiệu, 2007), Hồ Xuân Hương - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
4. Lã Nhâm Thìn, Vũ Thanh (Đồng chủ biên, 2015), Giáo trình văn học
trung đại Việt Nam (Tập 2), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
5. Nguyễn Đình Thu (2016), “Vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt
Nam qua bài thơ Bánh trôi nước”, Báo Giáo dục & thời đại, Số 255, tr.1011.
6. Đỗ Lai Thúy (1999), Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.


7. Trương Xuân Tiếu (2002), Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Nôm truyền
tụng của Hồ Xuân Hương (Luận án Tiến sĩ Ngữ văn), Viện Văn học, Hà Nội.
8. Trần Xuân Toàn (2015), Ngôn ngữ văn học dân gian trong thơ Hồ Xuân
Hương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.




×