Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Trình bày tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng này trong vấn đề bảo vệ độc lập chủ quyền của Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.55 KB, 12 trang )

MỤC LỤC


ĐẶT VẤN ĐỀ
Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, người Cha của các lực lượng
vũ trang nhân dân đã sớm thấy được giá trị to lớn của vấn đề “tự do, độc lập”
của dân tộc. Nghiên cứu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đấu tranh cách
mạng, về giải phóng dân tộc, về bảo vệ Tổ quốc..., thấy toát lên tư tưởng sâu sắc
của Người về “bảo vệ độc lập,chủ quyền”.Vậy tư tưởng độc lập, tự do của Hồ
Chí Minh cụ thể ra sao và việc vận dụng tư tưởng này trong vấn đề bảo vệ độc
lập chủ quyền của Việt Nam ra sao, nhóm em xin lựa chọn đề tài nghiên cứu số
2: “Trình bày tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng
này trong vấn đề bảo vệ độc lập chủ quyền của Việt Nam hiện nay.”. Do kiến
thức lí luận và thực tiễn còn nhiều hạn chế nên bài viết vẫn còn một số thiếu sót,
kính mong quý thầy cô góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn. Chúng em xin
chân thành cảm ơn.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A.
I.

TƯ TƯỞNG ĐỘC LẬP TỰ DO CỦA HỒ CHÍ MINH
KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG ĐỘC LẬP TỰ DO CỦA HỒ CHÍ
MINH

Độc lập, tự do là những phạm trù nền tảng của việc hình thành một quốc
gia mà ở đó con người tìm kiếm được đời sống thông thường của mình, đời sống
phát triển của mình và hạnh phúc của mình. Độc lập là sự toàn vẹn của lãnh thổ
và toàn vẹn về các giá trị của dân tộc. Tự do tức là người ta có thể phát triển hết
năng lực vốn có của mình. Tự do là quyền phát triển, tự do không phải chỉ đơn
thuần là quyền chính trị. Tự do mà gắn liền với độc lập tức là tự do gắn liền với
sự cư trú của người dân trên chính lãnh thổ của họ 1.


Hồ Chí Minh khẳng định độc lập, tự do là các quyền thiêng liêng, bất khả
xâm phạm của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong đó có dân tộc Việt
Nam ta. Người viết: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân
tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” và “Tự do cho
đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là
1 />
c/
2


tất cả những điều tôi hiểu”.Bởi vì đối với một dân tộc mất nước, nô lệ thì cái
quý nhất trên đời là độc lập, tự do. Theo Người có độc lập, tự do mới có chủ
quyền quốc gia và quyền lựa chọn con đường phát triển của dân tộc; hơn nữa
được sống làm dân tự do của một nước độc lập là niềm hạnh phúc to lớn nhất
của mỗi người và của cả một dân tộc. Niềm hạnh phúc ấy luôn là thiêng liêng và
bất khả xâm phạm đối với tất cả các dân tộc đặc biệt đối với dân tộc Việt Nam.
Vì dân tộc ta đã phải trải qua hơn nghìn năm Bắc thuộc, ngót trăm năm đô hộ
của thực dân Pháp và đi qua hai cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa đế quốc xâm
lược để giành lấy độc lập, tự do thực sự.
Độc lập, tự do còn là khát vọng lớn lao nhất của dân tộc Việt Nam, mà
người đại diện tiêu biểu nói lên khát vọng ấy là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người
đã từng nói: “Tôi chỉ có một ham muốn tột bậc, ham muốn là làm sao cho nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.” 2. Khát vọng độc lập, tự do được hun
đúc từ linh khí của đất nước và các giá trị truyền thống tạo nên sức mạnh to lớn
để dân tộc ta nhấn chìm tất cả bè lũ cướp nước và bè lũ bán nước.
Hồ Chí Minh không chỉ nhân danh Tổ quốc hay chủ nghĩa xã hội, hay một
lí tưởng trừu tượng nào đó để coi thường lợi ích cụ thể của những người cụ thể.
Ở Hồ Chí Minh, lòng yêu tổ quốc bao giờ cũng gắn chặt chẽ với lòng thương
yêu nhân dân. Thông thường Người dùng cả hai khái niệm ấy trong sự thống

nhất. Làm như vậy, hẳn là do Người luôn nhấn mạnh đến con người. Người từng
nói, nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập
cũng không có nghĩa lí gì. Như vậy, theo Hồ Chí Minh độc lập và tự do là hai
vấn đề luôn luôn tồn tại cùng nhau không thể tách rời.
Hồ Chí Minh xác định: có độc lập mới có tự do, có giành được độc lập
dân tộc mới có điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và mang lại tự do, hạnh
phúc thật sự cho nhân dân. Trong Tuyên ngôn độc lập, tư tưởng ấy đã thể hiện sự
gắn bó các quyền dân tộc cơ bản với các quyền cơ bản của con người. Người đã
hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của các hệ tư tưởng cũ, đã khẳng định một cách

2 Hồ Chí Minh toàn tập.NXB chính trị quốc gia.tập 12. Trang 517

3


hùng hồn rằng ngọn cờ độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa xã hội là ngọn
cờ bảo vệ nhân quyền và các quyền lợi chân chính của con người.
II.
1.

CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐỘC LẬP TỰ DO CỦA HỒ
CHÍ MINH
Những giá trị truyền thống của dân tộc

Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị
truyền thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc Việt Nam, trở thành tiền đề
tư tưởng, lý luận xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là truyền
thống yêu nước, kiên cường, bất khuất; là tinh thần tương thân tương ái, lòng
nhân nghĩa, ý thức cố kết cộng đồng; là ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn,
thử thách; là trí thông minh, tài sáng tạo, quý trọng hiền tài, khiêm tốm tiếp thu

tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa dân tộc.
Trong những giá trị đó , chủ nghĩa yêu nước truyền thống là tư tương tình
cảm cao quý, thiêng liêng nhất, là cội nguồn của trí tuệ sáng tạo và là lòng dũng
cảm của người Việt Nam, cũng là chuẩn mực đạo đứa cơ bản của dân tộc. Chính
sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc giục Nguyễn Tất Thành quyết chí ra
đi tìm đường cứu nước, tìm kiếm những gì hữu ích cho cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước sẽ biến thành lực lượng vật chất thực sự khi
nó ăn sâu vào tiềm thức, vào ý chí và vào hành động của mỗi con người. Chính
từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã đức kết chân lý: “ Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi nó kết thành một làn sóng vô cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
bán nước và cướp nước” . Chính những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam đó một phần hình thành tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh,
trong đó có tư tưởng độc lập tự do.
2.

Các quyền dân tộc cơ bản của dân tộc ghi trong tuyên ngôn của các nước
dân tộc tư sản

Hồ Chí Minh đã tìm hiểu tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mĩ, tuyên
ngôn dân quyền và nhân quyền 1791 của cách mạng Pháp, và tiếp nhận những
nhân tố có giá trị trong hai bản tuyên ngôn bất hủ đó như quyền bình đẳng,
4


quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Người khẳng định:
“Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Qua những bản tuyên ngôn đó,
Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao thành quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền

sung sướng và quyền tự do.”3. Hơn nữa Người còn tìm mọi cách để hiện thực
hóa các quyền đó trên thực tế trong xã hội Việt Nam. Tự do của cả dân tộc thì
phải trả bằng máu mới có, còn tự do của mỗi một con người trong quốc gia ấy
thì phải trả bằng mồ hôi nước mắt. Khi đã giành độc lập thì phải làm cho dân bớt
khổ, mọi người tôn trọng lẫn nhau. Hồ Chí Minh ngay sau khi giành độc lập,
Người đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, hũ gạo cứu đói, bình dân học
vụ... Những phong trào này đã khắc phục được nhiều khó khăn của người dân
trong hoàn cảnh đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn. Người còn đặt các mối
quan hệ ngoại giao để các nước công nhận nền độc lập của nước ta, làm cơ sở
phát triển quyền tự do của con người.
III.

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG ĐỘC LẬP TỰ DO CỦA
HỒ CHÍ MINH

Trong hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí
Minh, "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" là một luận điểm mang tầm chân lý,
một chân lý bất hủ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và giá trị thời đại sâu sắc. Tư
tưởng độc lập, tự do đó của Hồ Chí Minh không phải hình thành ngay một lúc
mà đã trải qua quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện theo từng chặng
đường hoạt động cách mạng của Người, theo sự phát triển của Đảng và cách
mạng Việt Nam.
Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã được các
đồng minh thắng trận long trọng thừa nhận, dưới tên ký Nguyễn Ái Quốc, thay
mặt cho những người Việt Nam yêu nước, Người gửi đến Hội Nghị hòa bình
Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm đòi quyền bình đẳng
về chế độ pháp lí và các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân Việt Nam.
Đây là hình thức thử nghiệm đầu tiên của Hồ Chí Minh về sử dụng pháp lí tư sản
để đấu tranh với chủ nghĩa tư bản, đế quốc. Tuy nhiên, bản yêu sách đã không
3 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, tr 555


5


được các tên trùm đế quốc để ý. Nhưng điều quan trọng người rút ra được bài
học vô giá là “muốn giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông
cậy vào lực lượng của bản thân mình”.
Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng và trong lời kêu gọi sau
khi thành lập Đảng, Người đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là “đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Nam hoàn toàn độc
lập”. Như vậy, tư tưởng độc lập tự do đã phát triển thêm một bước trở thành mục
tiêu chính trị của Đảng. Tháng 5 năm 1941, Hồ Chí Minh về nước chủ trì Hội
nghị trung ương 8 của Đảng, viết thư kính cáo đồng bào, chỉ rõ trong lúc này
quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Người chỉ đạo thành lập Mặt trận
Việt Nam độc lập đồng minh ra báo Việt Nam độc lập, thảo 10 chính sách của
Việt Minh trong đó mục tiêu đầu tiên là “cờ treo độc lập nền xây bình quyền”.
Sau Cách mạng tháng Tám, trong Tuyên ngôn độc lập Người trịnh trọng
tuyên bố trước quốc dân đồng bào và trước thế giới: “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn
thể dân tộc việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. Đến thời điểm này thì độc lập tự do đã
trở thành hiện thực.
Tư tưởng độc lập tự do đã được phát triển trong cuộc kháng chiến chống
Pháp và hoàn thiện trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cuộc kháng chiến chống
Pháp toàn quốc bùng nổ thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc,
Người ra lời kêu gọi “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Qua đó có thể thấy độc lập tự
do thực sự đã trở thành quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh leo thang ra miền
Bắc,Chủ tịch Hồ Chí Minh lại đưa ra một chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời

đại : “không có gì quý hơn độc lập,tự do”. Được sự cổ vũ tinh thần đó, nhân dân
ta ở hai miền Nam Bắc đã kiên cường chiến đâu, hy sinh, buộc Mỹ Phải kí hiệp
định Pari, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, phải chấp nhận
điều 1 của chương I nói về các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam:
“Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập ,chủ quyền ,thống nhất ,toàn vẹn
6


lãnh thổ của nước Việt Nam như hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam đã
công nhận.’’
Tóm lại , “Không có gì quý hơn độc lập,tự do” không chỉ là tư tưởng mà
còn là lẽ sống,là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh .Đó là lý do chiến đấu,
là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập ,tự
do của Việt Nam ,đồng thời cũng là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp
bức trên toàn thế giới.
IV.

Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG ĐỘC LẬP TỰ DO CỦA HỒ CHÍ MINH

Tư tưởng độc lập tự do là tư tưởng có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và giá trị
thời đại sâu sắc. Đây vừa là tư tưởng vừa là lẽ sống, là một giá trị to lớn trong
học thuyết cách mạng Của Hồ Chí Minh.
Thứ nhất, độc lập tự do là quyền dân tộc, quyền con người, là vấn đề đầu
tiên và thiêng liêng, là xuất phát điểm đối với mọi dân tộc bị áp bức trên toàn
thế giới, trên con đường đi tới phồn vinh và hạnh phúc.
Thứ hai, Một dân tộc không thể có được độc lập, tự do, nếu dân tộc ấy
không tự đứng lên để giải phóng cho mình, nếu dân tộc ấy không biết tự cứu lấy
mình, không có con đường đấu tranh đúng.
Thứ ba, khi độc lập, tự do bị xâm phạm thì cả dân tộc phải kiên quyết
đứng lên chiến đấu đến cùng để giữ vững và bảo vệ nền độc lập và tự do ấy. Thể

hiện ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do trong những ngày đầu kháng chiến
chống xâm lược. Ý chí "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" đã thực sự là động
lực tinh thần to lớn thôi thúc lớp lớp các thế hệ người Việt Nam lên đường chiến
dấu chống kẻ thù của độc lập, tự do, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ "chấn
động địa cầu", làm nên Đại thắng mùa Xuân vĩ đại năm 1975, thu giang sơn về
một mối, giành hoàn toàn độc lập, tự do cho dân tộc, tạo tiền đề đưa cả nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội.
B.
1.

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG TRONG VẤN ĐỀ BẢO VỆ ĐỘC LẬP CHỦ
QUYỀN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong vấn đề bảo vệ độc lập
chủ quyền ở Việt Nam hiện nay
7


Chủ quyền lãnh thổ, độc lập - tự do... là những phạm trù rất thiêng liêng,
gắn liền với khái niệm Tổ quốc trong mỗi người dân đất Việt. Độc lập chủ quyền
của Tổ quốc là tài sản vô giá của cả dân tộc, lớp lớp các thế hệ cha ông phải đổ
bao xương máu mới có được, mọi người đều phải có trách nhiệm giữ gìn nghiêm
ngặt, bảo vệ vẹn toàn. Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc đã sớm thấy
được giá trị to lớn của vấn đề “tự do, độc lập” của dân tộc. Tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về đấu tranh cách mạng, về giải phóng dân tộc, về bảo vệ Tổ
quốc toát lên tư tưởng sâu sắc của Người về “bảo vệ chủ quyền, an ninh biên
giới quốc gia”.
Quán triệt quan điểm mang tính nguyên tắc của Hồ Chí Minh “Dĩ bất
biến, ứng vạn biến” của Người, cần thấm nhuần quan điểm có tính nguyên tắc chủ quyền biển, đảo là lợi ích quốc gia - thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là cái
“bất biến”. Chủ tịch Hồ Chí Minh, từng thay mặt quốc gia Việt Nam, tuyên bố
“Nhân dân chúng tôi thành thực mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng

tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng
nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”; toàn thể nhân
dân Việt Nam “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải”
để giữ vững chủ quyền quốc gia. Trước tình hành vi ngang ngược của các thế
lực thù địch, Đảng và nhà nước ta đã xác định vững chắc lập trường kiên quyết
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của đất nước, kiên quyết đấu tranh bằng mọi hình
thức, bằng mọi giải pháp hòa bình. Mặt khác cái “vạn biến” là phải linh hoạt,
khôn khéo trong đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ; đã cảnh giác
trước những hành động, lời nói mưu toan hạ thấp giá trị chủ quyền biển, đảo;
hoặc làm suy giảm lòng tự tôn dân tộc, tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết
dân tộc; hoặc làm phân tán ý chí quyết tâm, tư thế sẵn sàng đấu tranh bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ của quân và dân cả nước.
2.

Đánh giá việc vận dụng

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới,
vùng biển, đảo của Tổ quốc, Đảng, Nhà nước ta đã coi trọng và chủ động thiết
lập quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước có chung đường biên giới, vùng biển
đảo với nước ta. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác hội nhập
quốc tế và đối ngoại về quốc phòng, an ninh đã đạt được nhiều thành tựu quan
8


trọng, mang tính đột phá, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng rất
linh hoạt phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Bên cạnh đó, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong vấn đề bảo vệ
độc lập chủ quyền của Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế. Các thế lực thù
địch ra sức phá hoại độc lập tự do của dân tộc ta, luôn kích động chủ trương

“dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia rẽ
nội bộ đảng, nhà nước và nhân dân ta. Nhưng các thế lực thù địch có nhiều thủ
đoạn, Đảng và nhà nước ta vẫn chưa có nhiều biện pháp để ngăn chặn và tiêu
diệt các thế lực đó.
3.

Đề ra phương hướng để vận dụng hiệu quả hơn nữa tư tưởng Hồ Chí
Minh trong vấn đề bảo vệ độc lập chủ quyền của Việt Nam hiện nay

Một là, xây dựng vùng biên giới hòa bình, hữu nghị trên nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Trong tuyên bố về chính
sách ngoại giao của Chính phủ ta gửi chính phủ các nước trên thế giới năm
1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Chính phủ nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào tôn trọng
quyền bình đẳng và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo
vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới"(4). Tư tưởng của Người đã thể hiện rõ
lập trường nhất quán trong chính sách đối ngoại của Chính phủ Việt Nam là tăng
cường tình đoàn kết, hữu nghị nhưng phải tôn trọng độc lập, chủ quyền lãnh thổ
của nhau và mối quan hệ giữa các quốc gia phải bình đẳng, chống sự áp đặt,
cường quyền, nước lớn.
Thực tiễn đã chứng minh, mối quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và ổn
định giữa các nước chỉ được xây dựng khi các bên luôn tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Do vậy, trong quản lý, bảo vệ độc lập, chủ
quyền luôn phải nắm vững và tuân thủ luật pháp quốc tế. Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối đối ngoại của Đảng, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn

4

Thông tin tổng hợp, NXB Thông tin lý luận chính trị, H.1990,tr.114
9



vẹn lãnh thổ trên tinh thần bình đẳng, không áp đặt, không làm phương hại đến
lợi ích quốc gia, tạo ra sự nhất trí cao vì sự ổn định và phát triển bền vững lâu
dài. Đồng thời tích cực nâng cao vị thế của ta trong quan hệ đối ngoại như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Ta có mạnh thì họ mới không đếm xỉa đến, ta yếu thì
ta chỉ là một khí cụ trong tay kẻ khác, dẫu kẻ ấy là đồng minh của ta"(5).
Hai là, giải quyết các vấn đề độc lập dân tộc nhất là vấn đề biên giới và
biển đảo bằng đàm phán, thương lượng. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất yêu chuộng
hòa bình và suốt đời phấn đấu cho hòa bình của các dân tộc trên thế giới. Theo
Người, hòa bình phải gắn với độc lập, tự do và chủ quyền đất nước và kiên trì
quan điểm đối thoại trên cơ sở có tình, có lý để phân giải các mối bất hòa. Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn cho rằng: "Cần có chính sách đúng đắn, phải làm sao vui
lòng được mọi người…"(6) và căn dặn: "Phải nắm vững nguyên tắc cứng rắn với
sách lược mềm dẻo… lạt mềm nhưng buộc chặt''(7).
Thực tiễn biên giới, độc lập chủ quyền của nước ta do lịch sử để lại còn
nhiều vấn đề phức tạp dễ dẫn đến tranh chấp. Giải quyết những vấn đề phải bằng
đối thoại trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau
không những giữ được chủ quyền lãnh thổ mà còn tăng cường được tình đoàn
kết, hữu nghị giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Ngược lại, chính
quan hệ đoàn kết, hữu nghị sẽ tạo ra bầu không khí cởi mở, thông cảm và hiểu
biết lẫn nhau, giúp cho đàm phán giải quyết mọi vấn đề thuận lợi.
Ba là, vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn
nhau để cùng bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và xây dựng biên giới hòa
bình, hữu nghị, hợp tác, ổn định lâu dài. Hợp tác và đấu tranh là hai mặt của
những quan hệ quốc tế trong tình hình mới hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

5

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.2001, tr.10.


6

Bác Hồ nói về ngoại giao, Học viện Quan hệ quốc tế, H.1994, tr.27

7

Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ lớn của nền ngoại giao Việt Nam, Nxb CTQG, H.1999, tr.95.
10


đưa ra nguyên tắc: "Sẵn sàng thân thiện, hợp tác chặt chẽ trên nguyên tắc bình
đẳng để ủng hộ lẫn nhau trong sự xây đắp và giữ vững nền độc lập"(8).
Hoạt động đối ngoại giải quyết các mối quan hệ liên quan đến độc lập
chủ quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh và phương châm vừa hợp tác, vừa đấu
tranh là nhiệm vụ rất quan trọng nhằm giữ vững chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc
gia, dân tộc, đồng thời cũng là mục tiêu xây dựng và củng cố biên giới hòa bình,
hữu nghị và bền vững lâu dài.
Độc lập chủ quyền tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn định có thể dẫn tới tranh
chấp, căng thẳng trên những khu vực trọng điểm. Các thế lực thù địch sử dụng
những thủ đoạn nhằm lôi kéo các nước láng giềng gây xung đột biên giới, biển
đảo để tạo cớ can thiệp. Vì vậy, chúng ta phải luôn theo dõi, nắm chắc tình hình,
vận dụng quy luật hợp tác, đấu tranh trong quan hệ quốc tế vào giải quyết các
vấn đề phát sinh trên biên giới đất liền và trên biển với các nước láng giềng theo
đúng luật pháp quốc tế và đảm bảo lợi ích các bên. Giải quyết đúng đắn mối
quan hệ hợp tác và đấu tranh quốc phòng, an ninh sẽ tạo được sự tin cậy lẫn
nhau, tăng điểm tương đồng và hạn chế bất đồng, đó cũng chính là điều kiện,
môi trường cho chúng ta xây dựng biên giới trên đất liền, trên không, trên biển,
đảo hòa bình, hữu nghị và phát triển bền vững lâu dài.
KẾT LUẬN

Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã
khẳng định một chân lý trường tồn: dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Chân lý
đó đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc, đồng thời là một quy luật nội
tại của quá trình xây dựng và phát triển bền vững đất nước. Bảo vệ chủ quyền,
an ninh biên giới quốc gia là trách nhiệm của toàn đảng, toàn quân, toàn dân, của
mọi cấp, mọi ngành, song cần phải có lực lượng nòng cốt, chuyên trách. Chỉ khi
bảo vệ tốt độc lập , tự do chúng ta mới có thể phấn đấu để xây dựng một nhà
nước xã hội chủ nghĩa, của dân , do dân, vì dân.

8

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác biên phòng,
Nxb CTQG, H.2001, tr.286.
11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hội đồng chỉ đạo biên soạn quốc gia các bộ môn khoa học Mác- lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2003.
2. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB chính trị
quốc gia, Hà Nội 2009.
3. Nguyễn Bá Linh, Tư tưởng Hồ Chí Minh- một số nội dung cơ bản, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
4. Nguyễn Mạnh Tường (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh – một số nhân thức
cơ bản, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
5. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia. Hồ
Chí Minh toàn tập.tập 12. NXB chính trị quốc gia.
6. Bác Hồ nói về ngoại giao, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 1994
7. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ lớn của nền ngoại giao Việt Nam, Nxb CTQG,


1.
2.
3.

4.

Hà Nội 1999
Một số trang web:

/> /> />_lap_Tu_Do_Hanh_phuc/

12



×