Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tình hình bảo hiểm y tế tự nguyện ở việt nam và các giải pháp để phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.02 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA Y

BÀI THU HOẠCH MODULE QUẢN LÝ BỆNH VIỆN
VÀ MODULE KINH TẾ Y TẾ

TÌNH HÌNH BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN
Ở VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN

NGUYỄN QUỐC HUY
MSSV: 125272045

Tp.HCM, 08/2017



LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô trong bộ môn Quản lý bệnh viện - Kinh
tế y tế Khoa Y - Đại học quốc gia TP.Hồ Chí Minh trong thời gian qua đã tận tình
hướng dẫn chúng em trong môn học. Các thầy, cô không chỉ cung cấp kiến thức,
những vấn đề mới ở trong nước và quốc tế mà còn giúp chúng em nêu bật lên các vấn
đề nổi cộm trong vấn đề Quản lý bệnh viện và Kinh tế y tế nước ta hiện nay. Đây là bộ
môn mà không có nơi nào có thể dạy em ngoài Khoa Y - Đại học quốc gia TP.Hồ Chí
Minh.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến thầy Nguyễn Thế Dũng, người chủ nhiệm bộ
môn tận tình cũng như là người thầy đã không tiếc thời gian, công sức để đứng lớp
giảng dạy, hướng dẫn chúng em từng chút từng chút một, từ những vấn đề to lớn nhất
đến những vấn đề chi tiết nhất của môn học, của cuộc đời hành nghề y.
Với vốn kiến thức bản thân còn hạn chế và nhận thức chưa đạt đến độ sâu sắc
nhất định, chắc chắn khó tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình làm bài thu hoạch


này. Kính mong nhận được sự cảm thông cùng những ý kiến đóng góp quý báu từ các
thầy, cô.

Người viết bài thu hoạch

3


MỤC LỤC

4


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên bảng

Trang

5


CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU
Con người phải có sức khỏe thì mới có thể thực hiện được các hoạt động
sống phục vụ cho bản thân và cộng đồng. Một xác hội phát triển thì trước tiên phải
có những con người khỏe mạnh xây dựng lên. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng
khỏe mạnh. Khi đó việc đảm bảo tài chính cho việc chi trả viện phí và các khoản chi
phí khác trong quá trình khám chữa bệnh là một việc rất quan trọng. Những rủi ro
về sức khỏe đưa đến các chi phí mà mọi người không thể xác định được trước
(mang tính đột xuất), vì vậy dù là nhỏ hay lớn thì những chi phí này đề gây khó
khăn cho kinh tế của mỗi gia đình, đặc biệt là những người có thu nhập thấp. Thêm

vào đó, bệnh tật còn làm giảm sức lao động, làm giảm thu nhập của cá nhân, do vậy
đời sống của họ càng thêm khó khăn.
Chính vì thế, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều triển khai Bảo hiểm y tế
nhằm giúp đỡ và tạo ra sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe đối với người bệnh.
Với hai hình thức tự nguyện và bắt buộc, Bảo hiểm y tế đã góp phần lớn và công tác
chăm sóc sức khỏe của mọi người trong xã hội.
Việc bảo hiểm y tế ra đời mang lại những tác dụng thiết thực sau:
- Giúp người tham gia Bảo hiểm y tế khắc phục những khó khăn về mặt kinh
tế khi họ gặp những rủi ro bất ngờ về sức khỏe vì trong quá trình khám và điều trị
phát sinh ra các chi phí rất tốn kém và thu nhập của bản thân cũng bị giảm làm ảnh
hưởng đến kinh tế của gia đình.
- Nâng cao tính cộng đồng và gắn bó mọi người trong xã hội. Giống như đa
phần các loại hình Bảo hiểm khác, Bảo hiểm y tế cũng áp dụng quy luật số đông,
chính điều này góp phần vào việc gắn kết mọi người, nâng cao tính cộng đồng.
- Góp phần nâng cao chất lượng và thực hiện sự công bằng xã hội trong khám
chữa bệnh. Sự đóng góp vào quỹ Bảo hiểm y tế đã góp phần hỗ trợ cho ngân sách y
tế. Vì thế ngành y tế có điều kiện để trang bị cơ sở vật chất đầy đủ phục vụ cho các
đối tượng, nâng cao chất lương khám chữa bệnh.
- Góp phần làm giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước. Một số nước trên
thế giới có các khoản từ Ngân sách cho y tế. Tuy nhiên, khoản chi này thường
không áp dụng với các nước đang phát triển. Để khắc phục tình trạng này, nhà nước
thường áp dụng nhiều phương pháp khác như: Thu viện phí, kêu gọi viện trợ,…
Nhưng các biện pháp này thường không mang lại hiệu quả nhiều do thu nhập của
người dân còn thấp. Vì thế, Bảo hiểm y tế là biện pháp tốt nhất để giảm gánh nặng
cho Ngân sách Nhà nước.
Ở Việt Nam, Bảo hiểm y tế đã được thực hiện từ năm 1992 và đạt được nhiểu
kết quả nhưng vẫn còn tồn tại rất nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Tại Đại hội Đang IX đã đưa ra mục tiêu tiến tới Bảo hiểm y tế toàn dân. Để đạt
được mục tiêu này, phải từng bức tăng nhanh số đối tượng tham gia, đặc biệt là Bảo
hiểm y tế tự nguyện. Trong suốt gần 30 năm qua, Bảo hiểm y tế đã khẳng định tính

đúng đắn của một chính sách xã hội, phù hợp với tiến trình đổi mới đất nước, góp
phần đảm bảo sự công bằng trong khám, chữa bệnh, người lao động, người sử dụng

6


lao động và người dân nói chung ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về sự cần thiết
của Bảo hiểm y tế, cũng như trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội.
Để hiểu rõ về thực trạng triển khai Bảo hiểm y tế tự nguyện ở nước ta hiện
nay, em chọn chủ đề: “Tình hình Bảo hiểm y tế tự nguyện ở Việt Nam và các giải
pháp hoàn thiện để phát triển”. Bài thu hoạch gồm những phần sau:
1. Lý luận chung về Bảo hiểm y tế.
2. Tình trạng Bảo hiểm y tế tự nguyện ở Việt Nam.
3. Đề xuất các giải pháp phát triển để hoàn thiện Bảo hiểm y tế tự nguyện ở
Việt Nam.

7


CHƯƠNG II: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
1. Một số nguyên tắc cơ bản trong Bảo hiểm y tế
1.1. Quy luật số đông.
Hoạt động bảo hiểm tạo ra được một "sự đóng góp của số đông vào sự bất
hạnh của số ít" trên cơ sở quy tụ nhiều người có cùng rủi ro thành cộng đồng nhằm
phân tán hậu quả tài chính. Số người tham gia càng đông, tổn thất càng phân tán
mỏng, rủi ro càng giảm thiểu ở mức độ thấp nhất thể hiện ở mức phí bảo hiểm phải
đóng là nhỏ nhất đủ để mỗi người đó không ảnh hưởng gì quan trọng đến hoạt động
sinh hoạt sản xuất của mình. Hoạt động theo quy luật số đông, đó là nguyên tắc cơ
bản nhất của bảo hiểm [7].
Một mẫu đủ lớn có thể tính toán được xác suất tương đối chính xác khả năng

xảy ra trong thực tế của một biến cố. Quy luật này giúp cơ quan bảo hiểm xác định
xác suất tủi ro nhận bảo hiểm. tính phí và quản lý quỹ dự phòng chi trả, đồng thời
cũng là điều kiện để đạt được tác dụng phân tán rủi ro [8].
1.2. Chia sẻ tổn thất.
Bảo hiểm y tế là một cơ chế trong đó số đông cá nhân đóng góp thành nên
quỹ Bảo hiểm y tế.
Phí đóng góp Bảo hiểm y tế là một khoản tiền nhỏ so với phúc lợi mà người
nhận Bảo hiểm y tế nhận được
Chia sẻ rủi ro dựa trên cơ sở là tất cả phần đóng góp quỹ Bảo hiểm y tế để có
thể đủ để chi phí cho những người hưởng quyển lợi khi xảy ra ốm đau [8].
1.3. Có đóng có hưởng và không hoàn lại.
Người tham gia Bảo hiểm y tế đóng theo thu nhập của mỗi người theo quy
định của Luật Bảo hiểm y tế, hưởng theo chi phí thực tế khi không may bị ốm đau
phải đến các cơ sở khám chữa bệnh để khám và điều trị bệnh.
Cụ thể, với đối tượng tham gia bắt buộc việc đóng góp bằng bằng 3% tổng
quỹ lương hoặc tổng thu nhập, trong đó người sử dụng lao động đóng 2/3, người lao
động đóng 1/3 vào quỹ Bảo hiểm y tế nếu còn tham gia lao động. Những người nghỉ
hưu, mất sức lao động tham gia Bảo hiểm y tế bắt buộc sẽ đóng góp 3% mức lương
hưu hoặc mức trợ cấp mất sức lao động vào quỹ Bảo hiểm y tế [8].
Nếu không đi khám chữa bệnh trong thời gian thẻ có giá trị sử dụng thì
không được hoàn lại phí đã đóng.
2. Tác dụng của Bảo hiểm y tế.
Bảo hiểm y tế có nhiều hình thức tổ chức ở các quốc gia khác nhau nhưng có
chung những tác dụng sau [3], [6]:
Thứ nhất: Giúp người tham gia Bảo hiểm y tế khắc phục những khó khăn về
kinh tế khi bất ngờ gặp những rủi ro về sức khỏe. Chi phí khám chữa bệnh dù lớn
hay nhỏ đểu ảnh hưởng rất lớn đến mỗi con người. Thêm vào đó, bệnh tật làm giảm
sức lao động cũng như giảm thu nhập bản thân. Trong khi đó, chi phí phát sinh từ
khám chữa bệnh ngày càng tăng làm ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế gia đình.
8



Nhờ có Bảo hiểm y tế mà người bệnh yên tâm điều trị bởi họ đã được san sẻ chi phí
khám chữa bệnh từ xã hội, từ những người tham gia Bảo hiểm y tế. Họ sẽ nhanh
chóng ổn định được cuộc sống, yên tâm lao động để tăng thu nhập, làm giàu cho
bản thân và xã hội.
Thứ hai: Tăng tính cộng đồng, công bằng trong khám chữa bệnh.
Bảo hiểm y tế là sự phân phối lại sự đóng góp giữa những người tham gia.
Khi tham gia Bảo hiểm y tế, người bệnh được chi trả theo quá trình điều trị riêng
của tường người chưa không phân biệt giàu nghèo, địa vị xã hội. Bảo hiểm y tế hoạt
động theo cơ chế số đông, có đóng có hưởng. Quỹ Bảo hiểm y tế được cơ quan Bảo
hiểm y tế quản lý chặt chẽ để tránh tình trạng tiêu cực, đảm bảo quyền lợi của người
tham gia Bảo hiểm y tế. Hơn nữa, sau khi tham gia Bảo hiểm y tế thì mọi người bất
kể giàu nghèo đều được khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở y tế.
Do đó đảm bảo được công bằng xã hội.
Thứ ba: Góp phần tăng chất lượng khám chữa bệnh và quản lý y tế. Sự thiếu
hụt ngân sách y tế đã không đảm bảo cho nhu cầu khám chữa bệnh. Số lượng và
chất lượng cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngành y tế không những không theo kịp
sự phát triển của nhu cầu khám chữa bệnh của người dân mà còn bị giảm sút. Vì thế
việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh là mục tiêu hàng đầu của Bảo hiểm y tế.
Thông qua việc đóng góp và quỹ Bảo hiểm y tế sẽ hỗ trợ ngân sách y tế, nhằm cải
thiện và nâng cao chất lượng phục vụ của ngành y.
Thứ tư: Góp phần giảm gánh nặng cho nhân sách nhà nước.
Một số quốc gia trên thế giới thường có các khoản chi từ nhân sách nhà nước
cho hệ thống y tế. Tuy nhiên ở những quốc gia đang phát triển, khoản chi này
thường không có hoặc có nhưng không đáp ứng được nhu cầu phát triển ngành y tế.
Để giải quyết được vấn về này, Chính phủ các nước đã thực hiện nhiều biện pháp
như: thu viện phí của người đến khám chữa bệnh, kêu gọi tài trợ,… Tuy nhiên, đôi
khi những giải pháp này lại gặp trở ngại từ mức sống của người dân. Vì vậy, Bảo
hiểm y tế là biện pháp hiệu quả nhất để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà

nước, khắc phục sự thiếu hụt về tài chính, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày
càng tăng của người dân.
3. Nguồn quỹ Bảo hiểm y tế.
Quỹ Bảo hiểm y tế là một quỹ tài chính có quy mô phụ thuộc vào số lượng
các thành viên tham gia Bảo hiểm y tế đóng góp và mức độ đóng góp của các thành
viên. Với mục đích nhân đạo không vì mục đích kinh doanh, quỹ Bảo hiểm y tế chủ
yếu được hình thành từ hai nguồn chính sau:
- Người sử dụng đóng góp.
- Người lao động đóng góp.

9


Bảng 1.1. Mức đóng phí Bảo hiểm y tế ở một số nước [8].
Quốc gia

Tỉ lệ phí bảo
hiểm y tế/Tổng
thu nhập (%)

Trách nhiệm đóng phí Bảo hiểm y tế (%)
Người lao động

Chủ sử dụng
lao động

Ngân sách
Nhà nước

Đức


13,2

6,6

6,6

0

Pháp

19,7

6,9

12,8

0

Anh

Kinh phí Bảo hiểm y tế do Ngân sách Nhà nước cấp, mức thuế do
Quốc hội quy định

Mỹ
Canada
Nhật bản

8,5


4,25

4,25

0

Hàn Quốc

8,4

4,2

4,2

0

Singapore

6-8

3-4

3-4

0

Thailand

4,5


1,5

1,5

1,5

Philippines

2,5

1,25

1,25

0

Trung Quốc

11

1

5

5

Ở Việt Nam, với đối tượng tham gia bắt buộc việc đóng góp bằng 3% tiền
lương cấp bậc, chức vụ, hệ số chênh lệch bảo lưu (nếu có) ghi trong hợp đồng lao
động và các khoản phụ cấp khu vực, đắt đỏ, chức vụ, thâm niên trong đó người sử
dụng lao động có trách nhiệm đóng 2%, người lao động đóng 1%. Những người

nghỉ hưu, mất sức lao động tham gia Bảo hiểm y tế bắt buộc sẽ đóng góp 3% mức
lương hưu hoặc mức trợ cấp mất sức lao động vào quỹ Bảo hiểm y tế [1].
Đối với hình thức Bảo hiểm y tế tự nguyện quỹ Bảo hiểm y tế được thu của
những người có nhu cầu bảo hiểm sức khoẻ đồng thời được hạch toán riêng và được
chi trả cho các chi phí khám, chữa bệnh, thanh toán cho đại lý Bảo hiểm y tế và chi
cho công tác quản lý.
10


Ngoài ra quỹ Bảo hiểm y tế còn được sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước, các
tổ chức xã hội đóng góp. mặt khác trong quá trình hoạt động nguồn quỹ nhàn rỗi
còn được sử dụng cho đầu tư bằng cách mua cổ phiếu, trái phiếu do kho bạc Nhà
nước phát hành hay của các Ngân hàng Thương mại, nhằm bảo đảm sự tăng trưởng,
cũng như khả năng chi trả của quỹ Bảo hiểm y tế khi cần thiết.
Việc sử dụng nguồn quỹ thì tùy thuộc vào mỗi nước mà có quy định khác
nhau. Ở Việt Nam, dành 91,5% cho quỹ khám, chữa bệnh, trong đó dành 5% lập
quỹ dự phòng khám, chữa bệnh. Dành 8,5% cho chi quản lý thường xuyên của hệ
thống Bảo hiểm y tế Việt Nam theo dự toán hàng năm được cấp có thẩm quyền phê
duyệt và chế độ chi tiêu của Nhà nước quy định [1], [2], [6].
4. Mô hình tổ chức thực hiện Bảo hiểm y tế ở một số nước trên Thế giới [8].
4.1. Mô hình Bismark.
- Cơ chế:
Quỹ được hình thành từ sự đóng góp của cộng đồng người tham gian Bảo
hiểm y tế và giới chủ, độc lập với ngân sách Nhà nước và được tổ chức thực hiện
theo các quy định của Pháp luật về Bảo hiểm y tế.
- Đại diện:
+ Cộng hòa liên bang Đức.
+ Cộng hòa Áo.
+ Hungary.
+ Đan Mạch.

+ Thụy Sĩ.
+ Vương quốc Bỉ.
+ Tây Ban Nha.
4.2. Mô hình Beverige.
- Cơ chế:
Quỹ Bảo hiểm y tế là một bộ phận cấu thành của ngân sách Nhà nước, chịu
sự tác động, chi phối của chính sách tài chính của Quốc gia đó. Phí Bảo hiểm y tế
được thu vào ngân sách Nhà nước như một sắc thuế, sau đó được Chính phủ phân
bổ cho cách vùng, các địa phương phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân.
- Đại diện:
+ Anh.
+ Canada.
+ Mỹ.
4.3. Mô hình tổ chức cùng quản lý.
- Cơ chế:
11


Quỹ Bảo hiểm y tế được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, chủ
sở hữu lao động và ngân sách Nhà nước cho một số nhóm đối tượng. Quỹ độc lập
tương đối với ngân sách Nhà nước, được ngân sách Nhà nước bảo trợ và quản lý
bởi một hội đồng gồm đại diện các bên tham gia Bảo hiểm y tế. Đây là mô mình
phổ biến ở các nước đang phát triển.
- Đại diện:
+ Pháp.
+ Nhật Bản.
+ Hàn Quốc.
+ Thái Lan.
Bảng 1.2. So sánh một số mô hình Bảo hiểm y tế trên Thế giới [8].
Mô hình

Bismark

Beveridge

Cùng quản lý

5. Đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế.
Thông thường, người ta thường chia đối tượng tham gia là hai loại cụ thể [6]:
Loại 1: Đối tượng tham gia bắt buộc.
Với loại hình này đối tượng tham gia là bắt buộc được quy định trong các văn
bản pháp luật của mỗi nước. Ở Việt Nam, đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế bắt buộc
bao gồm:
- Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước, kể cả
các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang; các tổ chức kinh tế thuộc cơ quan hành
chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội; Các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung; Các cơ quan, tổ chức
nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp các Điều ước Quốc tế mà
12


Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác; Các đơn
vị, tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên.
- Cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp; Người
làm việc trong các cơ quan Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội; Cán bộ xã, phường, thị
trấn, hưởng sinh hoạt phí hàng tháng; Người làm việc trong các cơ quan dân cử từ
Trung ương đến cấp xã, phường.
- Người đang hưởng chế độ hưu trí, hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng
do suy giảm khả năng lao động.
- Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật.
- Các đối tượng bảo trợ xã hội được Nhà nước cấp kinh phí thông qua Bảo hiểm

xã hội.
Loại 2: Đối tượng tham gia tự nguyện.
Với loại hình tự nguyện, đối tượng tham gia là tự nguyện không bắt buộc, tức là
mọi người có nhu cầu đều có thể tham gia (trừ một số đối tượng cá biệt khác). Cụ thể
ở Việt Nam, ảo hiểm y tế tự nguyện được áp dụng với mọi đối tượng trong xã hội, kể
cả người nước ngoài đến làm việc, học tập, du lịch tại Việt Nam.
Chính phủ khuyến khích việc mở rộng và đa dạng hóa các loại hình Bảo hiểm y
tế tự nguyện, đồng thời khuyến khích Hội chữ thập đỏ, các Hội từ thiện, tổ chức quần
chúng, tổ chức kinh tế của Nhà nước và tư nhân đóng góp để mua thẻ Bảo hiểm y tế
cho người nghèo. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quan tâm, tạo điều kiện
thuận lợi để nhân dân địa phương được tham gia Bảo hiểm y tế tự nguyện.

13


CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY.
1. Đối tượng tham gia.
Đối tượng tham gia hình thức Bảo hiểm y tế tự nguyện ở nước ta theo Luật
Bảo hiểm y tế bao gồm [4]:
- Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn theo quy định
của pháp luật về cán bộ, công chức.
- Người lao động nghỉ việc đang hưởng chế độ ốm đau theo quy định của
pháp luật về bảo hiểm xã hội do mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài
ngày do Bộ Y tế ban hành.
- Học sinh, sinh viên đang theo học tại các nhà trường trừ những người tham
gia Bảo hiểm y tế theo đối tượng khác.
- Người thuộc hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm
nghiệp.
- Thân nhân người lao động làm công hưởng lương theo quy định của pháp

luật về tiền lương, tiền công; xã viên hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể.
Tuy nhiên có chia lại thành ba đối tượng chính sau [6]:
- Học sinh – Sinh viên.
- Nông dân và người có nhu cầu.
- Bảo hiểm y tế cho người nghèo.
1.1. Đối tượng Học sinh – Sinh viên.
1.1.1. Sự cần thiết của Bảo hiểm y tế cho Học sinh – Sinh viên.
Phần lớn dân số nước ta thuộc đối tượng tham gia tự nguyện, trong đó đối
tượng Học sinh – Sinh viên là đối tượng được Đảng và Nhà nước quan tâm triển
khai ngay từ năm 1995. Học sinh – Sinh viên là những thành viên sẽ làm chủ đất
nước sau này, do vậy việc đảm bảo sức khỏe cho đối tượng này là rất quan trọng.
Tuổi học trò là giai đoạn phát triển cả về thể lực và trí lực, có sức khỏe tốt các em
mới học tập tốt và phát triển một cách toàn diện. Mặt khác, tỉ lệ Học sinh – sinh
viên nghèo là khá lớn nên có một biện pháp đảm bảo tài chính cho họ khi không
may gặp phải rủi ro về bệnh tật là rất quan trọng [5].
Tham gia Bảo hiểm y tế, học sinh - sinh viên được quản lý về sức khoẻ, được
giải quyết kịp thời các rủi ro ốm đau, tai nạn trong thời gian học tập ở trường. Nếu
các em không may mắc bệnh phải nằm viện điều trị thì cha mẹ các em không yên
tâm làm việc và phải nghỉ việc để chăm sóc cho các em. Như vây cha mẹ các em
mất phần thu nhập, thêm vào đó là chi phí khám chữa bệnh sẽ làm cho kinh tế gia
đình gặp khó khăn. Có Bảo hiểm y tế thì chi phí khám chữa bệnh này sẽ được chia
sẻ với nhiều người, do vậy cha mẹ các em sẽ giảm được gánh nặng rất lớn . Đó
chính là sự ưu việt của Bảo hiểm y tế Học sinh - Sinh viên. Bảo hiểm y tế Học sinh
- Sinh viên thực sự tạo điều kiện cho y tế trường học hoạt động phù hợp với mục
tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh - sinh viên, trong đó có giáo dục thể chất, hơn
14


thế nữa còn giáo dục tính nhân đạo, tính cộng đồng cho học sinh ngay từ khi còn
ngồi trên ghế nhà trường. Như vậy Bảo hiểm y tế học sinh – sinh viên thực sự cần

thiết đối với việc khôi phục, củng cố mạng lưới y tế nhằm phục vụ sức khoẻ ban
đầu, cũng như chữa bệnh cho học sinh tại các cơ sở y tế.
1.1.2. Thực tiễn triển khai.
Bảo hiểm y tế Học sinh - Sinh viên đã thực sự góp phần quan trọng trong
việc thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho
nhân dân nói chung và Học sinh - Sinh viên nói riêng.
Bảng 2.1. Số lượng Học sinh – sinh viên tham gia Bảo hiểm y tế [6].
Năm học

Số Học sinh – sinh viên Tốc độ tăng (%)
tham gia (người)

Tỉ lệ so với tổng
số đối tượng tham
gia tự nguyện (%)

1997

3.072.921

92,53

1998

3.460.540

12,61

90,72


1999

3.396.400

- 1,85

93,03

2000

3.294.830

- 2,99

79,65

Qua bảng số liệu cũng như biểu đồ trên cho ta thấy đối tượng tham gia Học
sinh - Sinh viên có xu hướng giảm qua các năm. Cụ thể năm 1999 so với năm 1998
giảm 1,85%; năm 2000 so với năm 1999 giảm 2,99%.
Mặt khác tỷ lệ đối tượng tham gia của loại đối tượng Học sinh – Sinh viên so
với tổng số đối tượng tham gia tự nguyện cũng có xu hướng giảm. Cụ thể năm 1997
là 92,53% đến năm 1998 còn 90,77%, năm 2000 còn 79,65%.
Việc sử dụng 35% kinh phí Bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên để lại ở một số
nơi là sai mục đích ví dụ như: xây dựng trường học... Đấy là những khoản chi
không thuộc vào số phí để lại điều này nó dẫn đến công tác chăm sóc sức khoẻ ban
đầu ở trường học là rất sơ sài. Do vậy không kích thích được sự tham gia của học
sinh - sinh viên [5].
1.2. Đối tượng tham gia là nông dân.
1.2.1. Sự cần thiết của Bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân.
Nước ta là nước nông nghiệp nên nông dân chiếm đại bộ phận trong dân số.

Do vậy trong quá trình thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc thực
hiện chính sách Bảo hiểm y tế toàn dân không thể thiếu được đối tượng này. Mặt
khác triển khai Bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân sẽ mang lại công bằng và
hiệu quả trong công tác chăm sóc sức khoẻ toàn dân.
Hơn nữa thực hiện Bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân sẽ nâng cao
được tính cộng đồng và trách nhiệm của mỗi thành viên trong xã hội, cũng như
nguồn quỹ của Bảo hiểm y tế sẽ đảm bảo được công tác cân bằng thu chi (khi đối
tượng này được mở rộng) thêm nữa nông dân là đối tượng có thu nhập thấp, do vậy
15


việc thực hiện Bảo hiểm y tế cho họ sẽ giúp họ chi trả những khoản chi phí khám
chữa bệnh phát sinh khi họ không may mắc phải bệnh tật mà với họ những khoản
chi phí này thường lớn hơn khả năng chi trả của họ. Do vậy đảm bảo cho cuộc sống
của họ diễn ra được bình thường.
1.2.2. Thực tiễn triển khai.
Bảng 2.2. Số lượng tham gia Bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân [6].
Năm

Số lượng người Tốc độ tăng (giảm) Tỉ lệ so với tổng (%)
tham gia (người)
(%)

1997

116.884

1998

142.958


22,31

3,75

1999

123.842

-13,37

3,39

2000

124.580

0,06

3,01

3,63

Theo bảng số liệu trên ta thấy số lượng nông dân tham gia Bảo hiểm y tế còn
rất ít, chiếm tỉ lệ nho với tổng số đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế tự nguyện.
Ngoài ra, tốc độ tăng qua các năm không cao mà còn có xu hướng thụt lùi.
Sở dĩ có những điều trên là do sự nhận thức của nông dân về Bảo hiểm y tế,
cũng như quyền lợi mà họ được hưởng khi tham gia là rất kém, thậm chí một số nơi
họ còn không hiểu gì về Bảo hiểm y tế.
Một trong những tỉnh triển khai thành công nhất chính sách này là tỉnh Hải

Phòng điển hình trong năm 1998 tỉnh đã có 61.500 nông dân tham gia Bảo hiểm y
tế chiếm gần 50% tổng số đối tượng tham gia loại hình này trong cả nước. Với hai
mức đóng phí 40 nghìn đồng và 70 nghìn đồng/năm. Cơ quan Bảo hiểm y tế ở đây
đã phối hợp tốt với các cơ sở y tế thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh cho nông
dân có thẻ, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho nông dân. Do vậy đã thu
được kết quả rất tốt trong khi triển khai loại hình.
1.3. Các đối tượng khác mang tính chất nhân đạo – Bảo hiểm y tế cho người nghèo.
1.3.1. Sự cần thiết của Bảo hiểm y tế cho người nghèo.
Hỗ trợ người nghèo khám chữa bệnh miễn phí thông qua cấp thẻ Bảo hiểm y
tế là một giải pháp quan trọng góp phần xoá đói giảm nghèo bền vững, thực hiện
công bằng xã hội nói chung và chăm sóc sức khoẻ người nghèo nói riêng khi mà
người nghèo hầu như thiếu mọi nguồn lực để vươn lên, hoà nhập phát triển cùng
cộng đồng.
Mặt khác việc thực hiện Bảo hiểm y tế cho người nghèo còn thể hiện được
bản chất tốt đẹp của nước ta là một nước Xã Hội Chủ Nghĩa, luôn đặt con người vào
trung tâm của sự phát triển xã hội. Hơn nữa chính sách này thực hiện tốt sẽ có tác
động tích cực đến sự ổn định chính trị từ đó tác động tốt đến sự phát triển kinh tế ở
nước ta.

16


1.3.2. Thực tiễn triển khai
Chủ Nghĩa Xã hội luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển xã
hội. Điều này được thể hiện qua hệ thống chính sách xã hội mang đầy tính nhân
văn, nhân bản và cách mạng sâu sắc.
Đầu tiên là chính sách khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo: Người
nghèo sẽ được miễn viện phí khi khám chữa bệnh. Bên cạnh đó, ngành y tế khuyến
khích các cơ sở y tế khám chữa bệnh miễn phí cho người thuộc diện người nghèo
mà chưa có thẻ Bảo hiểm y tế, với những giải pháp đó, người quá nghèo sẽ được

khám chữa bệnh không mất tiền với sự hỗ trợ của Nhà nước và xã hội [9].
Tiếp đến nữa là chính sách khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo theo
hình thức cấp thẻ Bảo hiểm y tế: Khi chính sách cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho người
nghèo được ban hành, các địa phương, cơ sơ tổ chức triển khai kịp thời, năm 1999
mới có 34 tỉnh, thành phố mua và cấp được 688.826 thẻ Bảo hiểm y tế cho người
nghèo, chiếm 6,5% so với tổng số người nghèo trong cả nước, thì đến năm 2000 đã
có 44 tỉnh, thành phố cấp được 1.111.578 thẻ tăng 61% so với năm 1999, nâng tỷ lệ
số người nghèo được cấp thẻ Bảo hiểm y tế lên 13,8%. Theo báo cáo của các địa
phương đến tháng 9/2001 đã có 48 tỉnh, thành phố đã hoàn thành các thủ tục cần
thiết để có thể cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho khoảng 1.750.000, người nghèo tăng 57%
so với năm 2000, nhưng mới đạt 13% người nghèo được cấp thẻ Bảo hiểm y tế so
với tổng số người nghèo theo chuẩn hộ nghèo công bố ngày 1/11/2000 của Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội [9].
Từ kinh nghiệm thực hiện khám chữa bệnh cho người nghèo thông qua việc
cấp thẻ Bảo hiểm y tế không mệnh giá (thanh toán sau, theo kết quả khám chữa
bệnh cho người nghèo) ở một số tỉnh trước đây, do khó khăn về nguồn lực, tỷ lệ hộ
nghèo cao, một số tỉnh trước đây thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho người
nghèo theo giấy chứng nhận hộ đói nghèo đã lựa chọn phương thức cấp thẻ Bảo
hiểm y tế không mệnh giá.
Nhìn chung việc thực hiện khám chữa bệnh cho người nghèo theo phương
thức cấp thẻ Bảo hiểm y tế có xu hướng ngày càng phát triển và nhận được sự quan
tâm của cấp uỷ Đảng, Chính quyền các cấp ở địa phương cùng với sự phối hợp giữa
các ngành có liên quan được đồng bộ hơn, tuy nhiên tốc độ triển khai còn chậm
chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu.
2. Cơ quan Bảo hiểm y tế.
2.1. Hệ thống quản lý Bảo hiểm y tế.
Cơ quan Bảo hiểm y tế Việt Nam được tổ chức theo hệ thống dọc và quản lý
thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Điều này được biểu hiện:
- Ở Trung ương: Bảo hiểm y tế Việt Nam trực thuộc Bộ y tế.
- Ở cấp tỉnh: Bảo hiểm y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Bảo

hiểm y tế ngành trực thuộc thuộc Bảo hiểm y tế Việt Nam.
- Ở cấp huyện, quận, thành phố, thị xã thuộc tỉnh tổ chức chi nhánh Bảo hiểm
y tế trực thuộc Bảo hiểm y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
17


Ngoài ra Bảo hiểm y tế còn được Nhà nước cấp kinh phí để xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật; được thực hiện các biện pháp nhằm bảo tồn và tăng trưởng quỹ
Bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật. Đồng thời Chính phủ giao cho Bộ y tế
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về Bảo hiểm y tế. Nội dung của công tác
quản lý bao gồm:
- Xây dựng các chính sách, pháp luật về Bảo hiểm y tế trình cấp trên ban
hành hoặc ban hành theo thẩm quyền.
- Phối hợp với Bộ tài chính và Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương hướng dẫn thực hiện Bảo hiểm y tế tự nguyện.
- Hướng dẫn kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp
luật về Bảo hiểm y tế.
Cơ quan quản lý, giám sát hoạt động của Bảo hiểm y tế Việt Nam là hội đồng
quản lý Bảo hiểm y tế Việt nam, cơ quan này có nhiệm vụ, quyền hạn: chỉ đạo,
giám sát, kiểm tra việc thực hiện quản lý thu chi quỹ Bảo hiểm y tế; phê duyệt
phương án điều hoà quỹ Bảo hiểm y tế trong toàn hệ thống; quyết định các biện
pháp bảo toàn và quyết toán hàng năm của Bảo hiểm y tế; phê duyệt phương án
duyệt tổ chức, đề nghị tách, nhập giải thể các đơn vị thành viên, đề nghị bổ nhiệm
miễm nhiệm Tổng Giám Đốc Bảo hiểm y tế Việt Nam.
2.2. Đội ngũ cán bộ quản lý.
Đội ngũ cán bộ quản lý Bảo hiểm y tế là người trực tiếp điều hành những
chính sách Bảo hiểm y tế. Do vậy nó có ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp Bảo hiểm
y tế ở nước ta.
Với chủ trương chính sách của Đảng là ưu tiên đào tạo cán bộ cho các tỉnh
miền núi vùng cao. Nhưng khi tốt nghiệp xong hầu như sinh viên đều muốn ở các

tỉnh, thành phố lớn hơn là về lại tỉnh mình. Bởi vì khi về tỉnh mình chưa chắc họ đã
xin được việc lam, cũng như không được trọng dụng. Ngoài ra các tiêu cực trong
quá trình quản lý, cũng như trong quá trình tuyển dụng nhân viên cũng ảnh hưởng
đến công tác tuyển chọn đội ngũ phục vụ cho công tác quản lý.
Ngoài ra công tác tổ chức đội ngũ giám định chi phí khám chữa bệnh Bảo
hiểm y tế tại nhiều cơ sở khám chữa bệnh còn chưa hợp lý và không đúng chuyên
môn do thiếu cán bộ, cũng như năng lực chuyên mông không đáp ứng được nhiêm
vụ đặt ra trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc đảm
bảo quyền lợi cho người bệnh có thẻ Bảo hiểm y tế mỗi khi cần đến sự can thiệp
của cán bộ Bảo hiểm y tế.
Tất cả những tồn tại nói trên đang đặt ra những thách thức cho ngành Bảo
hiểm y tế trong quá trình phát triển của ngành.
2.3. Nguồn quỹ Bảo hiểm y tế.
Cũng như bất kỳ một loại hình Bảo hiểm khác để tồn tại và phát triển được
thì phải có nguồn quỹ do các bên tham gia đóng góp. Với mục đích nhân đạo,
không đặt mục đích kinh doanh lên hàng đầu, quỹ Bảo hiểm y tế được hình thành
chủ yếu từ ba nguồn chính là: do người sử dụng lao động, người lao động và người
có nhu cầu tham gia Bảo hiểm đóng góp theo những tỷ lệ, mức nhất định do Nhà
18


nước quy định, do Bảo hiểm y tế tính mức phí (với đối tượng tham gia tự nguyện).
Ngoài ra nguồn quỹ còn được sự hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước cũng như kết quả
đầu tư mang lại.
Quỹ Bảo hiểm y tế với đặc điểm là quỹ ngắn hạn điều này thể hiện rõ nhất
với đối tượng tham gia tự nguyện cứ sau 1 năm hoặc 6 tháng thì người tham gia
phải đóng phí một lần, đồng thời việc chi trả cho người tham gia cũng thường
xuyên được thực hiện trong năm. Do vậy việc đảm bảo cân đối thu chi cho nguồn
quỹ nói chung, nhánh tự nguyện nói riêng là thực sự cần thiết trong quá trình tồn tại
và phát triển.

2.4. Cơ sở khám chữa bệnh.
Thời gian qua, các cơ sở khám, chữa bệnh trên toàn quốc đã có nhiều cố gắng
trong việc thực hiện chính sách về Bảo hiểm y tế, đảm bảo ngày một tốt hơn về
quyền lợi của người tham gia, khẳng định tính đúng đắn chính sách của Đảng và
Nhà nước về bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.
Thời gian qua, các cơ sở khám, chữa bệnh trên toàn quốc đã có nhiều cố gắng
trong việc thực hiện chính sách về Bảo hiểm y tế, đảm bảo ngày một tốt hơn về
quyền lợi của người tham gia, khẳng định tính đúng đắn chính sách của Đảng và
Nhà nước về bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.
Số người tham gia Bảo hiểm y tế tăng trong những năm qua và chủ yếu tập
trung tại các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Điều này dẫn đến số bệnh nhân
đến khám chữa bệnh tại các cơ sở khám chữa bệnh ngày càng nhiều. Do đó tạo nên
gánh nặng cho các cơ sở khám chữa bệnh trong việc đón tiếp cũng như điều trị cho
bệnh nhân có thẻ Bảo hiểm y tế. Tuy gặp khó khăn như vậy, nhưng nhiều nơi đã
thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh với tinh thần "Khám cho hết bệnh nhân, chứ
không hết giờ" với lòng tự giác, nhiệt tình, có chất lượng, luôn đảm bảo đủ thuốc
cho người bệnh. Người bênh được tư vấn chỉ làm các xét nghiệm thật cần thiết,
được sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, song vẫn đảm bảo quyền lợi và hiêu quả chữa
trị. Đến phòng khám người bệnh được đón tiếp, hướng dẫn chu đáo, được giải thích
cặn kẽ, đầy đủ về chế độ Bảo hiểm y tế. Điều này đã góp phần nâng cao uy tín của
chính sách Bảo hiểm y tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được đó còn tồn tại những mặt gây mất uy
tín cho Bảo hiểm y tế như một số bệnh viện do cơ sở vật chất còn hạn chế nên bệnh
nhân có thẻ Bảo hiểm y tế đến khám chữa bệnh không có chỗ ngồi chờ hoặc ngồi
chở trong điều kiện nóng bức, chật chội tạo cho họ cảm giác khó chịu.

19


CHƯƠNG IV: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN ĐỂN PHÁT TRIỂN

BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN.
1. Mở rộng đối tượng tham gia.
1.1. Tăng nhanh đối tượng tham gia.
Do đặc thù cũng như đặc điểm của hoạt đông Bảo hiểm là thực hiện nguyên
tắc số lớn, Bảo hiểm y tế tự nguyện cũng vậy. Do đó để phát triển loại hình này đòi
hỏi phải không ngừng tăng nhanh đối tượng tham gia trong qúa trình phát triển loại
hình, làm được điều này sẽ giúp cho nguồn quỹ Bảo hiểm y tế tự nguyện sẽ tăng
trưởng nhanh và đảm bảo chăm sóc tốt sức khoẻ của người tham gia.
1.2. Nâng cao quyền lợi của người tham gia.
Tâm lý của người tham gia là luôn luôn mong muốn được hưởng dịch vụ
khám chữa bệnh tốt nhất khi họ không may gặp rủi ro về bệnh tật, điều này đặc biệt
đúng với đối tượng tham gia tự nguyện. Do vậy để có thể thuyết phục cũng như mở
rộng được đối tượng tham gia tự nguyện, thì công tác đảm bảo cũng như nâng cao
quyền lợi của người tham gia là đặc biệt quan trọng.
1.3. Giáo dục ý thức của người tham gia thông qua tuyên truyền.
Phần lớn người dân ở nước ta trong thực tế vẫn chưa hiều được đầy đủ về lợi
ích khi tham gia Bảo hiểm y tế. Do vậy nên chăng Bảo hiểm y tế cũng như các cơ
sở y tế thực hiện các biện pháp tuyên truyền sau:
- Chú trọng tới công tác tuyên truyền, hướng dẫn giải thích trực tiếp tại cơ sở
khám chữa bệnh, gắn liền với chủ trương thực hiện cải cách hành chính trong khám
chữa bệnh Bảo hiểm y tế.
- Làm bảng chỉ dẫn, áp phích, tranh cổ động Bảo hiểm y tế tự nguyện.
- Phối hợp với bệnh viện, toạ đàm với Bác sĩ, bệnh nhân, phát tài liệu tuyên
truyền tờ gấp thông báo quyền lợi và trách nhiệm khi khám chữa bệnh.
- Triển khai thực hiện công tác thông tin tuyên truyền đi vào chiều sâu thông
qua hệ thống Tuyên giáo các cấp để từ đó Tuyên giáo các cấp chỉ đạo quần chúng
thực hiện tốt chủ trương chính sách Bảo hiểm y tế.
- Hợp tác chặt chẽ với hệ thống thông cơ quan thông tin đại chúng ở địa
phương, ngành xây dựng đội ngũ công tác viên tích cực cho công tác thông tin
tuyên truyền, có chế độ thù lao đông viên hợp lý, để khuyến khích kịp thời những

cộng tác viên, thông tin viên tích cực đã thực hiên có hiệu quả công tác thông tin
tuyên truyền về Bảo hiểm y tế nói chung nhánh tự nguyện nói riêng.
- Cơ quan Bảo hiểm y tế có kế hoạch tuyên truyền cụ thể theo yêu cầu, nhiệm
vụ từng giai đoạn và cung cấp đầy đủ, kịp thời tài liệu thông tin tuyên truyền cho
các báo trí ở địa phương để tổ chức tốt các chương trình, chuyên mục tuyên truyền
thường xuyên liên tục.
Tiếp tục sử dụng các tác phẩm tranh cổ động Bảo hiểm y tế do Bảo hiểm y tế
Việt Nam chọn gửi, mỗi tỉnh dựng tối thiểu hai panô lớn tại các trung tâm đông dân
cư, sử dụng in trên các tờ rơi, tờ gấp và các ấn phẩm truyền thông phù hợp khác.
20


2. Nâng cao chất lượng phục vụ.
Với cơ sở khám chữa bệnh nên chăng nên thực hiên các biện pháp cải cách
thủ tục hành chính, cải tiến quy trình khám chữa bệnh đối với người có thẻ Bảo
hiểm y tế, giảm bớt mọi thủ tục gây phiền hà cho người bệnh, đón tiếp người bênh
với tinh thần niềm nở, tân tình chăm sóc, tạo điều kiện thuận lợi cho người có thẻ
Bảo hiểm y tế tự nguyện khi đi khám chữa bệnh, không phân biệt đối xử giữa đối
tượng tham gia tự nguyện với các đối tượng khác khi khám chữa bệnh.
Ngoài ra theo em việc nâng cao giáo dục y đức cho người thầy thuốc cũng là
việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở các cơ sở khám chữa bệnh.
3. Sử dụng danh mục thuốc linh hoạt và theo quy định của Nhà nước.
Nhà nước nên có các chính sách sau để kiểm soát được lượng thuốc phục vụ
cho việc khám chữa bệnh Bảo hiểm y tế tự nguyện:
- Thống nhất việc thực hiện danh mục thuốc dùng cho bệnh nhân có thẻ Bảo
hiểm y tế nói chung và nhánh tự nguyện nói riêng.
- Có chính sách kiểm soát được nguồn cung ứng thuốc và thống nhất quản lý
giá thuốc như đa số các quốc gia trên Thế giới, kể cả các quốc gia có nền kinh tế thị
trường phát triển.
- Tăng cường hơn nữa công tác giáo dục y đức và cung cấp cho đội ngũ thầy

thuốc đầy đủ, chính xác thông tin khoa học về thuốc không coi thông tin về thuốc từ
các nhà kinh doanh thuốc là nguồn thông tin chủ yếu.
- Ngoài ra ta cũng nên áp dụng việc sử dụng thuốc gốc (thuốc đã hết bản
quyền sáng chế và sản xuất) trong trị bênh như các nước phát triển, việc này sẽ giúp
ta giảm được một khoản chi phí lớn.
4. Xây dụng kiện toàn đội ngũ quản lý.
Với đôi ngũ cán bộ quản lý, Nhà nước cũng như Bảo hiểm y tế cần có chính
sách đào tạo nguồn cán bộ quản lý sao cho đúng chuyên ngành. Bởi vì hiện nay cán
bộ quản lý ở các cấp quản lý hầu như không được đào tạo đúng chuyên ngành. Điều
này ảnh hưởng trực tiếp đến công việc quản lý Bảo hiểm y tế ở các cấp.
Mặt khác cần có chính sách phối hợp giữa nguồn đào tạo và cơ quan Bảo
hiểm y tế, theo em việc này sẽ giúp cho sinh viên chuyên ngành cập nhật nhan
những thay đổi trong chính sách, quy định của Bảo hiểm y tế, cũng như làm quen
với công tác điều hành quản lý cũng như khai thác Bảo hiểm y tế, để từ đó tránh
được bỡ ngỡ cũng như dễ hoà nhập vào công việc sau khi ra trường nhận công tác.
5. Quản lý nguồn quỹ.
Quỹ Bảo hiểm y tế là nguồn sống của chính sách Bảo hiểm y tế nói chung
nhánh tự nguyện nói riêng, do đó nên chăng Nhà nước cũng như Bảo hiểm y tế Việt
nam có chính sách sau để đảm bảo sự cân đối và phát triển của nguồn quỹ:
- Giám sát việc sử dụng quỹ sao cho thực hiện đúng mục đích chi, cũng như
việc quy định một tỷ lệ rõ ràng về việc chi cho quản lý, việc này nên được thực
thống nhất trong toàn hệ thống Bảo hiểm y tế.
21


- Có những chính sách cũng như quy định cụ thể về việc đầu tư tăng trưởng
nguồn quỹ sao cho vừa đảm bảo được sự an toàn cũng như phát triển của nguồn
quỹ.

22



CHƯƠNG V: KẾT LUẬN
Bảo hiểm y tế nói chung cũng như nhánh tự nguyện nói riêng đã thể hiện là
một chính sách ưu việt không thể thiếu được ở nước ta. Với việc thực hiện Bảo
hiểm y tế cho người nghèo đã thể hiện bản chấttốt đẹp của Nhà nước ta. Trong thời
gian qua việc triển khai cấp thẻ cho đối tượng này đã được thực hiên trong nhiều
tỉnh thành phố và có xu hướng tăng. Nhưng còn tồn nhiều vướng mắc trong khâu
triển khai, cũng như một số tỉnh chưa triển khai điều này gây thiệt thòi cho những
đối tượng đáng ra họ được hưởng.
Với loại hình Bảo hiểm y tế cho Học sinh - Sinh viên: loại hình này có số đối
tượng tham gia nhiều nhất trong nhánh tự nguyện, việc thực hiện loại hình này phần
nào đã chăm sóc sức khoẻ cho Học sinh - Sinh viên ngay từ khi còn ngồi trên ghế
nhà trường. Bên cạnh mặt được trên còn tồn tại những mặt hạn chế dẫn đến đối
tượng tham gia có xu hướng giảm qua các năm. Với loại hình Bảo hiểm y tế cho
Nông dân: với loại hình này số đối tượng tham gia có tăng qua các năm, nhưng số
đối tượng tham gia so với số Nông dân ở nước ta thì quả là tỷ lệ này còn rất nhỏ bé.
Điều này theo em do công tác tuyên truyền còn yếu kém dẫn đến sự nhận thức về
Bảo hiểm y tế, cũng như các lợi ích họ nhận được khi tham gia trong Nông dân còn
thấp.
Tóm lại Bảo hiểm y tế tự nguyện đã tỏ rõ là một loại hình không thể thiếu
được trong lộ trình tiến tới Bảo hiểm y tế toàn dân của Đảng và Nhà nước ta. Nhưng
từ thực trạng trên đặt ra cho Bảo hiểm y tế những thách thức mới trong quá trình
phát triển loại hình. Tuy nhiên với bản chất tốt đẹp của Nhà nước, cùng với sự lãnh
đạo của Đảng em tin tưởng rằng Bảo hiểm y tế tự nguyện sẽ hoàn thành tốt nhiệm
vụ cao cả của mình.

23



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị định của Chính phủ số 58/1998/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 1998 ban hành
điều lệ Bảo hiểm y tế.
Truy cập ngày 03-08-2017 từ />2. Những điều cần biết về chính sách BẢO HIỂM Y TẾ.
Truy cập ngày 03-08-2017 từ hiểm y tế/.
3. Hồ Sĩ Sà (2000), “Bảo hiểm y tế”, Giáo trình bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống kê,
trang 80- 90.
4. Công ty Luật Minh Gia (2015), Bảo hiểm y tế tự nguyện.
Truy cập ngày 03-08-2017 từ />5. Lê Thùy Dung (2011), “Đánh giá thực trạng triển khai Đánh giá thự trạ triển BẢO
HIỂM Y TẾ HS - SV tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam”, Luận văn tốt nghiệp.
6. Thực trạng Bảo hiểm y tế tự nguyện ở Việt Nam và các giải pháp hoàn thiện để phát
triển (2012).
Truy cập ngày 02-08-2017 từ />7. Công ty tư vấn Việt Luật (20-11-2015), “Những nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm”.
Truy cập ngày 02-08-2017 từ />8. Đỗ Thu Hà (2017), “Bảo hiểm y tế, luật Bảo hiểm y tế Việt Nam”
9.

Nghị định 95/CP ngày 27/08/1994 của Chính phủ ngày 27-8-1994 về việc
thu một phần viện phí.

Truy cập ngày 03-08-2017 từ php
%20lut/view_detail.aspx?itemid=10282.

24



×