Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Luận văn Thực trạng Bảo hiểm y tế tự nguyện ở Việt nam và các giải pháp hoàn thiện để phát triển potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.02 KB, 43 trang )



1



Luận văn
Thực trạng Bảo hiểm y tế tự
nguyện ở Việt nam và các giải pháp
hoàn thiện để phát triển


2
Lời nói đầu

Đảm bảo khả năng tài chính cho việc chi trả viện phí và các khoản chi
phí khác trong quá trình khám chữa bệnh là một việc rất quan trọng đối với
tất cả mọi người trong xã hội, trong trường hợp họ không may mắc phải rủi
ro về sức khoẻ. Bảo hiểm y tế ra đời đã đảm nhiệm được công việc đó, với
hai hình thức tự nguyện và bắt buộc Bảo hiểm y tế đã góp phần rất lớn vào
công tác chăm sóc sức khoẻ của mọi người trong xã hội.
Để hiểu rõ thêm về thực trạng cũng như tình hình triển khai của nhánh
Bảo hiểm y tế tự nguyện ở nước ta hiện nay, em đã chọn đề tài: “Thực
trạng Bảo hiểm y tế tự nguyện ở Việt nam và các giải pháp hoàn thiện
để phát triển”. Đề tài gồm các phần sau:

Phần I: Khái quát chung về Bảo hiểm y tế.
Phần II: Thực trạng Bảo hiểm y tế tự nguyện ở Việt nam hiện nay.
Phần III: Các giải pháp nhằm phát triển loại hình Bảo hiểm y tế tự nguyện ở
Việt nam hiện nay.


Trong khuôn khổ đề án môn học, cũng như sự khó khăn về tìm kiếm
nguồn tài liệu (số liệu) của Bảo hiểm y tế, chắc chắn đề tài chưa thể đi sâu
vào phân tích cặn kẽ thực trạng cũng như đưa ra các giải pháp để nhằm phát
triển loại hình này. Em hy vọng rằng trong quá trình thực tập cũng như viết
chuyên đề thực tập em sẽ có thể làm rõ hơn nội dung này.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo: PGS.TS.hồ sĩ sà đã
giúp đỡ em hoàn thành đề án này!


3


4




I. Sự cần thiết và tác dụng của Bảo hiểm y tế.
1. Sự cần thiết:
Trong cuộc sống hàng ngày con người luôn luôn gặp phải những rủi ro
trong đó phải kể đến rủi ro về sức khoẻ như: ốm đau, bệnh tật. Điều này đã
dẫn đến việc xuất hiện các chi phí về khám chữa bệnh mà mọi người không
thể xác định được trước (mang tính đột xuất), vì vậy dù lớn hay nhỏ các chi
phí này đều gây khó khăn cho ngân quỹ của gia đình, mỗi cá nhân đặc biệt
với những người có mức thu nhập thấp. Trong trường hợp gặp rủi ro về sức
khoẻ, không những nó làm giảm thu nhập của bản thân, mà còn tác động sấu
đến sức khoẻ của người đó. Do vậy đời sống của họ càng thêm khó khăn.
Để khắc phục những rủi ro trên cũng như ổn định vể mặt tài chính trong
trường hợp không may mắn gặp phải rủi ro về sức khoẻ, người ta đã sử dụng
nhiều biện pháp khác nhau. Trong đó Bảo hiểm y tế là biện pháp tốt nhất để

mọi người có thể khắc phục được những rủi ro trên. Được ra đời vào cuối
thế kỷ XIX Bảo hiểm y tế ngày càng phát triển và cho đến nay nó đã tỏ rõ là
một biện pháp không thể thiếu trong đời sống của con người với việc khắc
phục những rủi ro về mặt sức khoẻ.
2. Tác dụng:
Bảo hiểm y tế ra đời có những tác dụng thiết thực sau:
Phần I:
Khái quát chung về
Bảo hiểm y tế


5
Thứ nhất: Giúp những người tham gia Bảo hiểm y tế khắc phục những
khó khăn về mặt kinh tế khi họ bất ngờ bị ốm đau, bệnh tật bởi vì trong quá
trình điều trị bệnh chi phí phát sinh rất tốn kém, mặt khác thu nhập của bản
thân người đó lại bị giảm tử đó ảnh hưởng đến ngân quỹ của gia đình.
Thứ hai: Góp phần giảm gánh nặng cho Ngân sách của Nhà nước. Các
nước trên thế giới thường có các khoản chi từ Ngân sách cho hệ thống y tế.
Nhưng các khoản chi này thường không đáp ứng được nhu cầu khám chữa
bệnh đặc biệt ở các nước đang phát triển. Để khắc phục tình trạng này Chính
phủ các nước thường thực hiện các biện pháp như: Thu viện phí, kêu gọi
nguồn viện trợ trong và ngoài nước Nhưng các giải pháp này thường
không hiệu quả khi mức sống của dân cư tại các nước này thường là thấp,
nên sự phụ thuộc vào nguồn ngân sách của công tác y tế thường vấn là lớn.
Do vậy Bảo hiểm y tế là biện pháp tốt nhất để giảm gánh nặng cho ngân
sách của chính phủ.
Thứ ba:
Bảo hiểm y tế góp phần nâng cao chất lượng và thực hiện sự công bắng
xã hội trong khám chữa bệnh. Sự đóng góp vào quỹ Bảo hiểm y tế đã góp
phần hỗ trợ cho ngân sách y tế, từ đó ngành y tế có thể có điều kiện để trang

bị cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại để phục vụ các đối tượng khám chữa bệnh
tốt hơn.
Thứ tư:
Bảo hiểm y tế nâng cao được tính cộng đồng và gắn bó mọi thành viên
với xã hội. Cũng như các loại hình Bảo hiểm khác tức là trong Bảo hiểm y tế
cũng áp dụng quy luật số lớn, việc này góp phần gắn bó các thành viên trong
xã hội và tính cộng đồng được nâng cao.


6
Qua những tác dụng trên ta thấy vai trò của Bảo hiểm y tế là rất quan
trọng trong quá trình chăm sóc sức khoẻ của các thành viên trong xã hội.
3. Đối tượng Bảo hiểm y tế.
Khi người tham gia Bảo hiểm y tế gặp rủi ro về sức khoẻ như: ốm đau,
bệnh tật thì sẽ được cơ qua Bảo hiểm y tế chi trả các khoản chi phí, mức
chi trả phụ thuộc vào mức mà người tham gia đóng góp.
Do vậy đối tượng Bảo hiểm y tế là sức khoẻ của người được Bảo hiểm.
4. Đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế.
Thông thường ở các nước người ta đều chia các đối tượng tham gia ra
làm hai loại cụ thể:
Loại 1: Đối tượng tham gia bắt buộc.
Với loại hình này đối tượng tham gia là bắt buộc được quy định trong
các văn bản pháp luật của mỗi nước. Cụ thể ở Việt nam đối tượng tham gia
bắt buộc được quy định cụ thể ở điều 2 trong Nghị định 58/1998/NĐ-CP ban
hành ngày 13/08/1998 của chính phủ.
Loại 2: Đối tượng tham gia tự nguyện.
Với loại hình tự nguyện đối tượng tham gia là tự nguyện không bắt
buộc, tức là mọi người có nhu cầu đều có thể tham gia (trừ một số đối tượng
cá biệt khác). Cụ thể ở Việt nam đối tượng tham gia tự nguyện được quy
định ở điều 22 của nghị định 58/1998/NĐ-CP trên.

5. Phạm vi Bảo hiểm y tế.
Bảo hiểm y tế là hoạt động nhằm thanh toán chi phí y tế cho người tham
gia theo nguyên tắc cân bằng thu chi nguồn quỹ. Về nguyên tắc mọi người
dân trong xã hội đều có quyền tham gia nhưng thực tế Bảo hiểm y tế không


7
chấp nhận Bảo hiểm thông thường cho người tham gia mắc bệnh nan y nếu
không có thoả thuận gì thêm.
Đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế khi gặp rủi ro về sức khoẻ đều được
thanh toán chi phí khám chữa bệnh với nhiêu mức khác nhau tuỳ thuộc vào
phạm vi tham gia của mỗi người cũng như “mức độ thiệt hại” mà họ phải
gánh chịu.
Tuy nhiên Bảo hiểm y tế sẽ từ chối chi trả trong những trường hợp
người tham gia tự huỷ hoại bản thân, trong tình trạng say cũng như nhiều
trường hợp khác tuỳ thuộc vào quy định của mỗi nước khác nhau. Cụ thể ở
Việt nam được quy định trong điều 10 của nghị định 58/1998/NĐ-CP của
chính phủ.
Ngoài ra mỗi Quốc gia còn có những chương trình chăm sóc sức khoẻ
Quốc gia khác nhau. Cơ quan Bảo hiểm y tế cũng không có trách
nhiệm đối với những người được Bảo hiểm y tế nếu họ khám chữa những
bệnh thuộc chương trình này.
6. Các phương thức Bảo hiểm y tế.
Căn cứ vảo mức độ thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho người có
thẻ Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm y tế được phân ra thành các phương thức sau:
Thứ nhất: Bảo hiểm y tế trọn gói
Theo phương thức này cơ qua Bảo hiểm y tế sẽ chịu trách nhiệm về mọi
chi phí y tế thuộc phạm vi Bảo hiểm y tế cho người được Bảo hiểm y tế.
Thứ hai: Bảo hiểm y tế trọn gói, trừ các cuộc đại phẫu thuật
Phương thức này cơ quan Bảo hiểm y tế sẽ chịu trách nhiệm về mọi chi

phí y tế thuộc phạm vi Bảo hiểm y tế, trừ các chi phí y tế cho các cuộc đại
phẫu thuật (theo quy định của cơ quan y tế).


8
Thứ ba: Phương thức Bảo hiểm y tế thông thường
Theo phương thức này trách nhiệm của cơ quan Bảo hiểm y tế được
giới hạn tương xứng với trách nhiệm và nghĩa vụ của người được Bảo hiểm
y tế.
Tuỳ thuộc vào điều kiện phát triển của mỗi nước mà thực hiện một hoặc
hai hay cả ba phương thức trên, đồng thời mỗi phương thức lại có các hình
thức tham gia khác nhau.
Ví dụ: Phương thức Bảo hiểm y tế thông thường có hai hình thức tham
gia bảo hiểm là: Bắt buộc và tự nguyện.
Thông thường ở các nước ngèo thường thực hiện phương thức Bảo
hiểm y tế thông thường, và ở nước ta cũng vậy.
7. Nguồn quỹ Bảo hiểm y tế.
Quỹ bảo hiểm y tế là một quỹ tài chính có quy mô phụ thuộc vào số
lượng các thành viên tham gia Bảo hiểm y tế đóng góp và mức độ đóng góp
của các thành viên. Với mục đích nhân đạo không vì mục đích kinh doanh
quỹ Bảo hiểm y tế chủ yếu được hình thành từ hai loại nguồn chính sau:
-> Người sử dụng đóng góp
-> Người lao động đóng góp
Việc quy định tỷ lệ đóng góp vào nguồn quỹ của các bên phụ thuộc vào
từng giai đoạn lịch sử của mỗi Quốc gia.
Cụ thể ở Việt nam với đối tượng tham gia bắt buộc việc đóng góp (được
quy định trong điều lệ Bảo hiểm y tế) bằng 3% tổng quỹ lương hoặc tổng
thu nhập, trong đó người sử dụng lao động đóng 2/3, người lao động đóng
1/3 vào quỹ Bảo hiểm y tế nếu còn tham gia lao động. Những người nghỉ



9
hưu, mất sức lao động tham gia Bảo hiểm y tế bắt buộc sẽ đóng góp 3%
mức lương hưu hoặc mức trợ cấp mất sức lao động vào quỹ Bảo hiểm y tế.
Đối với hình thức Bảo hiểm y tế tự nguyện quỹ Bảo hiểm y tế được thu
của những người có nhu cầu bảo hiểm sức khoẻ đồng thời được hạch toán
riêng và được chi trả cho các chi phí khám, chữa bệnh, thanh toán cho đại lý
Bảo hiểm y tế và chi cho công tác quản lý.
Ngoài ra quỹ Bảo hiểm y tế còn được sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước,
các tổ chức xã hội đóng góp. mặt khác trong quá trình hoạt động nguồn quỹ
nhàn rỗi còn được sử dụng cho đầu tư bằng cách mua cổ phiếu, trái phiếu do
kho bạc Nhà nước phát hành hay của các Ngân hàng Thương mại, nhằm bảo
đảm sự tăng trưởng, cũng như khả năng chi trả của quỹ Bảo hiểm y tế khi
cần thiết.
Việc sử dụng nguồn quỹ thì tuỳ thuộc vào mỗi nước mà có quy định
khác nhau. ở Việt nam 91,5% được dành cho quỹ khám, chữa bệnh; trong đó
dành 5% lập quỹ dự phòng khám chữa bệnh. 8,5% cho chi phí quản lý
thường xuyên của hệ thống Bảo hiểm y tế của Việt nam theo quy định trong
nghị định 58/1998/NĐ-CP ngày 13/08/1998 của chính phủ.
8.Một vài nét về bảo hiểm y tế ở Việt Nam:
Bảo hiểm y tế thực tế đã góp phần rất lớn vào công tác chăm sóc sức
khoẻ và thực hiện công bằng xã hội trong việc khám chữa bệnh cho mọi
người dân trong xã hội. Để hiểu rõ hơn về Bảo hiểm y tế Việt nam ta xem
xét quá trình ra đời của ngành này.
a. Trước năm 1992.
Trước năm 1992 ở nước ta chưa có Bảo hiểm y tế, sự chăm sóc sức
khoẻ cho mọi người dân trong xã hội được Nhà nước bao cấp và chi từ Ngân


10

sách, đồng thời việc chăm sóc sức khoẻ này chủ yếu được thực hiện cho bộ
phận cán bộ công nhân viên chức Nhà nước.
Do tốc độ phát triển của nền kinh tế ta trong trong thời kỳ này là rất trì
trệ, cũng như chịu ảnh hưởng của hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống
Pháp. Vì vậy ngân sách của nước ta trong thời kỳ này là rất hạn hẹp. Điều
này tác động xấu đến công tác chăm sóc sức khoẻ cho mọi người dân trong
xã hội, mặt khác tỷ lệ tăng dân số của nước ta trong thời kỳ này cũng khá
cao, dẫn đến nhu cầu khám chữa bệnh cũng như chăm sóc sức khoẻ của mọi
người dân trong xã hội tăng cao và trở nên bức xúc.
Từ các vấn đề nảy sinh ở trên việc tìm một giải pháp để giải quyết là
hết sức cần thiết và Bảo hiểm y tế Việt nam ra đời trên cơ sở sự cần thiết
khách quan đó.
b. Từ năm 1992 đến nay.
Cùng với sự sửa đổi bổ sung hiến pháp, năm 1992 Nghị định
229/HĐBT ngày 15 tháng 8 năm 1992 của Hội Đồng Bộ Trưởng ban hành
điều lệ Bảo hiểm y tế Việt nam. Bảo hiểm y tế Việt nam chính thức đi vào
hoạt động và thực hiện theo điều lệ ban hành kèm Nghị định này. Nghị định
47/CP đã sửa đổi một số điều của điều lệ Bảo hiểm y tế liên quan đến mức
đóng góp của người tham gia.
Trong quá trình thực tế triển khai thực hiện Nghị định trên cho thấy có
những điểm cần điều chỉnh bổ sung cho phù hợp. Do đó các quy đinh cũ đã
được thay thế bằng điều lệ Bảo hiểm y tế ban hành kèm Nghị định số
58/1998/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 1998 của Chính phủ. Điều lệ ban
hành kèm Nghị định này có kế thừa điều lệ cũ và có hai điểm mới so với
Nghị định 229/HĐBT của Hội Đồng Bộ Trưởng ban hành ngày 15 tháng 8
năm 1992. Hai điểm đó là:


11
+ Người tham gia phải cùng thanh toán chi phí khám chữa bệnh (cụ thể

mức thanh toán là 20% tổng chi phí khám chữa bệnh). Mức thanh toán này
không qua 6 tháng lương.
+ Bổ sung thêm đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế bắt buộc.
Và cho đến nay Bảo hiểm y tế vẫn thực hiện theo điều lệ ban hành kèm
Nghị định này.
ở trên là vài nét về quá trình phát triển của Bảo hiểm y tế Việt nam. Để
hiểu rõ hơn phần nào về sự phát triển của Bảo hiểm y tế ở Việt nam ta xem
xét thực trạng của nhánh Bảo hiểm y tế tự nguyện hiện nay.






Cùng với sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước về cơ chế quản lý
nền kinh tế, từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay ngành y tế cũng đã có
những bước đổi mới quan trọng về cơ chế, chính sách quản lý y tế. Nghị
định 229/HĐBT ngày 15 tháng 8 năm 1992 của Hội Đồng Bộ Trưởng (nay
là Chính phủ) và Nghị định 58/1998/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 1998 của
Chính phủ đã ban hành điều lệ Bảo hiểm y tế nhằm mở rộng đối tượng tham
gia Bảo hiểm y tế, huy động sự đóng góp của các bên tham gia để chi cho
việc khám chữa bệnh.
Phần II:
Thực trạng Bảo hiểm y tế tự nguyện
ở Việt nam hiện nay.


12
Việc này đã làm thay đổi cơ bản chính sách khám chữa bệnh từ bao cấp
sang hạch toán. Sự thay đổi này đã đưa lại những kết quả hết sức to lớn,

không những đã mở rộng thêm quyền được khám chữa bệnh rộng rãi hơn,
đảm bảo tốt công tác khám chữa bệnh cho nhân dân mà còn giảm được gánh
nặng cho Ngân sách của Nhà nước.
Hoạt động của sự nghiệp Bảo hiểm y tế đã thực sự là một yếu tố tích
cực góp phần vào việc thực hiện có hiệu quả mục tiêu công bằng và tiến bộ
xã hội trong công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân của Đảng và Nhà
nước ta.



Để hiểu rõ hơn về Bảo hiểm y tế tự nguyện ở Việt nam hiện nay ta đi
vào xem xét từng phần sau:
I. Hệ thống các văn bản pháp quy ở nước ta.
Kể từ khi ra đời cho đến nay Nhà nước ta, các Bộ ngành đã có khá
nhiều các văn bản pháp quy như các Nghị định của chính phủ, các Thông tư
liên bộ và các văn bản khác. Điều này đã góp phần rất lớn vào công tác
chăm sóc sức khoẻ của nhân dân ở nước ta trong thời gian vừa qua. Tuy
nhiên bên cạnh những mặt được đó, còn tồn tại những mặt chưa được như:
hệ thống các văn bản còn chồng chéo do vậy ảnh hưởng đến quá trình triển
khai thực hiện, ngoài ra do có quá nhiều văn bản như vậy làm cho những
người trực tiếp thực hiện chính sách gặp rất nhiều khó khăn trong công việc
của mình.
Hơn nữa việc quy định không chi tiết trong mỗi văn bản pháp quy như
vậy sẽ dẫn đến người thực hiện chính sách khó triển khai. Ví dụ: việc quy


13
định hộ nghèo được cấp thẻ Bảo hiểm y tế tại thông tư số: 05/1999/TTLB -
BLĐTBXH - BYT - BTC của liên Bộ lao động thương binh xã hội, Bộ y tế,
Bộ tài chính do quy định không chi tiết về chuẩn hộ nghèo được cấp thẻ Bảo

hiểm y tế nên dẫn đến một số địa phương thực hiên sai, hay không cấp được
thẻ đúng cho đối tượng, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người
đáng ra được hưởng, cũng như chính sách chăm sóc sức khoẻ cho người
nghèo của Đảng và Nhà nước ta.


II.tình hình triển khai:
1. Đối tượng tham gia.
Đối tượng tham gia của hình thức Bảo hiểm y tế tự nguyện ở nước ta
gồm 3 loại chính sau:
+ Học sinh - Sinh viên.
+ Nông dân và người có nhu cầu.
+ Bảo hiểm y tế cho người ngèo.
a. Đối tượng tham gia là Học sinh - Sinh viên.
a11. Sự cần thiết phải Bảo hiểm y tế cho Học sinh - Sinh viên.
Học sinh - sinh viên là những thành viên sẽ làm chủ đất nước sau này,
do vậy việc đảm bảo sức khoẻ cho đối tượng này là rất quan trọng để họ có
thể an tâm trong việc học tập của mình tại nhà trường. Mặt khác tỷ lệ Học
sinh - Sinh viên ngèo là khá lớn nên có một biện pháp bảo đảm tài chính cho
họ khi không may gặp phải rủi ro về bệnh tật là rất quan trọng.


14
Tham gia Bảo hiểm y tế, học sinh - sinh viên được quản lý về sức khoẻ,
được giải quyết kịp thời các rủi ro ốm đau, tai nạn trong thời gian học tập ở
trường, với loại hình này gia đình học sinh tham gia Bảo hiểm y tế an tâm
hơn nếu không may con họ phải điều trị tại các cơ sở y tế, vì các chi phí dù
lớn đến bao nhiêu cũng được bảo hiểm y tế chi trả. Đó chính là sự ưu việt
của Bảo hiểm y tế Học sinh - Sinh viên. Bảo hiểm y tế Học sinh - Sinh viên
thực sự tạo điều kiện cho y tế trường học hoạt động phù hợp với mục tiêu

giáo dục toàn diện cho học sinh - sinh viên, trong đó có giáo dục thể chất,
hơn thế nữa còn giáo dục tính nhân đạo, tính cộng đồng cho học sinh ngay
từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Như vậy Bảo hiểm y tế học sinh - sinh
viên thực sự cần thiết đối với việc khôi phục, củng cố mạng lưới y tế nhằm
phục vụ sức khoẻ ban đầu, cũng như chữa bệnh cho học sinh tại các cơ sở y
tế.
Hơn nữa thực tiễn triển khai cho thấy Học sinh, Sinh viên là loại đối
tượng tham gia nhiều nhất trong nhánh Bảo hiểm y tế tự nguyện ở nước ta
(Số liệu năm 2000 cho thấy có 3294830 Học sinh - Sinh viên tham gia
chiếm 79,66% so với tổng đối tượng tham gia tự nguyện là 4136221 người),
cũng như sự thiết thực của loại hình này đối với Học sinh - Sinh viên. Nên
Bảo hiểm y tế cho Học sinh - Sinh viên là một tất yếu khách quan trong
công tác chăm sóc sức khoẻ của nhân dân cũng như tiến tới thực hiện chính
sách Bảo hiểm y tế toàn dân của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới.
a1. Thực tiễn triển khai loại hình này.
Sau 5 năm thực hiện Bảo hiểm y tế Học sinh - Sinh viên; theo hướng
dẫn của liên Bộ Giáo Dục và Đào tạo - Y tế, nhìn chung Bảo hiểm y tế Học
sinh - Sinh viên đã thực sự góp phần quan trọng trong việc thực hiện tốt chủ
trương xã hội hoá công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân nói
chung và Học sinh - Sinh viên nói riêng. Để thấy rõ hơn thực trạng của loại
đối tượng này ta xem xét bảng thống kê số liệu sau:


15

Năm
Chỉ tiêu
1997

1998 1999 2000

Học sinh - Sinh viên (người)
Tốc độ tăng (%)
Chiếm tỷ lệ (%)
3.072.921
-
92.53
3.460.540
12,61
90,77
3.396.400
-1,85
93,03
3.294.830
-2,99
79,65


(Nguồn: Chuyên đề Kinh tế Bảo hiểm ; (*): So với tổng số đối tượng
tham gia tự nguyện).
Nhận xét:
Qua bảng số liệu cũng như biểu đồ trên cho ta thấy đối tượng tham gia
Học sinh - Sinh viên có xu hướng giảm qua các năm. Cụ thể năm 1999 so
với năm 1998 giảm 1,85%; năm 2000 so với năm 1999 giảm 2,99%.
Mặt khác tỷ lệ đối tượng tham gia của loại đối tượng Học sinh - Sinh
viên so với tổng số đối tượng tham gia tự nguyện cũng có xu hướng giảm.
Cụ thể năm 1997 là 92,53% đến năm 1998 còn 90,77%, năm 2000 còn
79,65%.
Ngoài ra việc sử dụng 35% kinh phí Bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên
để lại ở một số nơi là sai mục đích ví dụ như: xây dựng trường học Đấy là
những khoản chi không thuộc vào số phí để lại điều này nó dẫn đến công tác

chăm sóc sức khoẻ ban đầu ở trường học là rất sơ sài. Do vậy không kích
thích được sự tham gia của học sinh - sinh viên.


16
Trên là một số thực trạng vấn đề còn tồn tại đối với đối tượng tham gia
là học sinh - sinh viên trong loại hình Bảo hiểm y tế tự nguyện ở nước ta
hiện nay.
b. Đối tượng tham gia là nông dân.
b1. Sự cần thiết phải thực hiện Bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân.
ở nước ta nông dân chiếm đại bộ phận trong dân số. Do vậy trong quá
trình thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc thực hiện chính
sách Bảo hiểm y tế toàn dân không thể thiếu được đối tượng này. Mặt khác
triển khai Bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân sẽ mang lại công bằng và
hiệu quả trong công tác chăm sóc sức khoẻ toàn dân.
Hơn nữa thực hiện Bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân sẽ nâng cao
được tính cộng đồng và trách nhiệm của mỗi thành viên trong xã hội, cũng
như nguồn quỹ của Bảo hiểm y tế sẽ đảm bảo được công tác cân bằng thu
chi (khi đối tượng này được mở rộng) thêm nữa nông dân là đối tượng có
thu nhập thấp, do vậy việc thực hiện Bảo hiểm y tế cho họ sẽ giúp họ chi trả
những khoản chi phí khám chữa bệnh phát sinh khi họ không may mắc phải
bệnh tật mà với họ những khoản chi phí này thường lớn hơn khả năng chi trả
của họ. Do vậy đảm bảo cho cuộc sống của họ diễn ra được bình thường.
b2. Thực trạng của việc thực hiện loại hình này.
Để hiểu rõ thực trạng của loại hình này ta xem xét bảng sau:
Năm
Chỉ tiêu
1997 1998 1999 2000
Số lượng tham gia
(người)

116.884 142.958 123.842 124.580



17
Tốc độ tăng (giảm) (%) - 22,31 -13.37 0.60
Chiếm (%) (so với tổng) 3,63 3,75 3,39 3,01
(Nguồn: Tạp chí bảo hiểm y tế - Chuyên đề kinh tế bảo hiểm).
Nhận xét:
Theo bảng số liệu trên ta thấy số Nông dân tham gia Bảo hiểm y tế tự
nguyện còn rất ít (so với dân số nước ta hơn 75% là Nông dân).
Ngoài ra tốc độ tăng qua các năm không cao mà còn có xu hướng thụt
lùi.
Loại đối tượng này còn chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng số đối tượng tham
gia tự nguyện.
Theo em sở dĩ có những điều trên là do sự nhận thức trong Nông dân về
Bảo hiểm y tế, cũng như những quyền lợi mà họ được hưởng khi tham gia là
rất kém, thậm chí một số nơi họ không hiểu gì về Bảo hiểm y tế.
Ngoài ra nhiều tỉnh chưa triển khai loại hình này hay triển khai nhưng
do công tác tuyên truyền kém nên không thu được hiệu quả.
Một trong những tỉnh triển khai thành công nhất chính sách này là tỉnh
Hải Phòng điển hình trong năm 1998 tỉnh đã có 61.500 nông dân tham gia
Bảo hiểm y tế chiếm gần 50% tổng số đối tượng tham gia loại hình này
trong cả nước. Với hai mức đóng phí 40 nghìn đồng và 70 nghìn đồng/năm.
Cơ quan Bảo hiểm y tế ở đây đã phối hợp tốt với các cơ sở y tế thực hiện
tốt công tác khám chữa bệnh cho nông dân có thẻ, đồng thời đẩy mạnh công
tác tuyên truyền cho nông dân. Do vậy đã thu được kết quả rất tốt trong khi
triển khai loại hình.



18
Ngoài Hải Phòng ra các tỉnh, thành phố khác hầu như triển khai loại
hình này rất kém hiệu quả, không thu hút được nông dân tham gia.
c. Các đối tượng khác mang tính chất nhân đạo - Bảo hiểm y tế cho
người nghèo.
c1. Sự cần thiết.
Hỗ trợ người nghèo khám chữa bệnh miễn phí thông qua cấp thẻ Bảo
hiểm y tế là một giải pháp quan trọng góp phần xoá đói giảm nghèo bền
vững, thực hiện công bằng xã hội nói chung và chăm sóc sức khoẻ người
nghèo nói riêng khi mà người nghèo hầu như thiếu mọi nguồn lực để vươn
lên, hoà nhập phát triển cùng cộng đồng.
Mặt khác việc thực hiện Bảo hiểm y tế cho người nghèo còn thể hiện
được bản chất tốt đẹp của nước ta là một nước Xã Hội Chủ Nghĩa, luôn đặt
con người vào trung tâm của sự phát triển xã hội. Hơn nữa chính sách này
thực hiện tốt sẽ có tác động tích cực đến sự ổn định chính trị từ đó tác động
tốt đến sự phát triển kinh tế ở nước ta.
c2. Thực trạng của việc triển khai loại hình này cho người nghèo ở
nước ta hiện nay.
Như trên ta thấy với bản chất tốt đẹp của Chủ Nghĩa Xã Hội luôn đặt
con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển xã hội. Điều này được thể
hiện qua hệ thống chính sách xã hội mang đầy tính nhân văn, nhân bản và
cách mạng sâu sắc.
Đầu tiên là chính sách khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo:
Nghị định 95/CP ngày 27/08/1994 của Chính phủ đã quy định người
nghèo sẽ được miễn viện phí khi khám chữa bệnh. Bên cạnh đó, ngành y tế
khuyến khích các cơ sở y tế khám chữa bệnh miễn phí cho người thuộc diện
người nghèo mà chưa có thẻ Bảo hiểm y tế, với những giải pháp đó, người


19

quá nghèo sẽ được khám chữa bệnh không mất tiền với sự hỗ trợ của Nhà
nước và xã hội.
Tiếp đến nữa là chính sách khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo
theo hình thức cấp thẻ Bảo hiểm y tế:
Điều này được quy định tại thông tư số 05/1999/TTLB-BLĐTBXH-
BYT-BTC ngày 29/01/1999 của liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Bộ y tế, Bộ tài chính.
Khi chính sách cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho người nghèo được ban hành,
các địa phương, cơ sơ tổ chức triển khai kịp thời, năm 1999 mới có 34 tỉnh,
thành phố mua và cấp được 688.826 thẻ Bảo hiểm y tế cho người nghèo,
chiếm 6,5% so với tổng số người nghèo trong cả nước, thì đến năm 2000 đã
có 44 tỉnh, thành phố cấp được 1.111.578 thẻ tăng 61% so với năm 1999,
nâng tỷ lệ số người nghèo được cấp thẻ Bảo hiểm y tế lên 13,8%.
Theo báo cáo của các địa phương đến tháng 9/2001 đã có 48 tỉnh, thành
phố đã hoàn thành các thủ tục cần thiết để có thể cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho
khoảng 1.750.000, người nghèo tăng 57% so với năm 2000, nhưng mới đạt
13% người nghèo được cấp thẻ Bảo hiểm y tế so với tổng số người nghèo
theo chuẩn hộ nghèo công bố ngày 1/11/2000 của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội.
Năm 2001 nhiều tỉnh, thành phố đã mở rộng diện người nghèo được trợ
cấp thẻ Bảo hiểm y tế như thành phố Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh thực hiện
100%; Phú Yên, Đà Nẵng 80%; Ninh Thuận, Nghệ An 50%; Hà Tây 40%;
Bình Định, Lâm Đồng 36%; và nhiều địa phương khác đã tích cực triển khai
khám chữa bệnh Bảo hiểm y tế tại trạm y tế xã.
Từ kinh nghiệm thực hiện khám chữa bệnh cho người nghèo thông qua
việc cấp thẻ Bảo hiểm y tế không mệnh giá (thanh toán sau, theo kết quả


20
khám chữa bệnh cho người nghèo) ở một số tỉnh trước đây, trong năm 2001,

do khó khăn về nguồn lực, tỷ lệ hộ nghèo cao, một số tỉnh trước đây thực
hiện khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo theo giấy chứng nhận hộ
đói nghèo đã lựa chọn phương thức cấp thẻ Bảo hiểm y tế không mệnh giá
(các tỉnh: Phú Yên, Hoà Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Lai Châu).
Nhìn chung việc thực hiện khám chữa bệnh cho người nghèo theo
phương thức cấp thẻ Bảo hiểm y tế năm 2001 có xu hướng ngày càng phát
triển và nhận được sự quan tâm của cấp uỷ Đảng, Chính quyền các cấp ở địa
phương cùng với sự phối hợp giữa các ngành có liên quan được đồng bộ
hơn, tuy nhiên tốc độ triển khai còn chậm chưa đáp ứng được đầy đủ nhu
cầu.
Qua những số liệu trình bày ở trên cho thấy, nhiều tỉnh, thành phố đã
nghiêm túc thực hiện thông tư liên Bộ, triển khai sớm và cố gắng đạt mức
quy định là phát hành thẻ Bảo hiểm y tế cho 30% số người nghèo nhất.
Nhưng hiện nay còn có 17 tỉnh, thành phố đến nay vẫn chưa tổ chức việc
cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho người nghèo đó là: Yên Bái, Sơn La, Hoà Bình,
Quảng Ninh, Thanh Hoá, Quảng Trị, Khãnh Hoà, Kon Tum, Lai Châu, Long
An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang,
Tuyên Quang.
(Nguồn: Tạp trí Bảo hiểm y tế).
Tình hình khám chữa bệnh của người nghèo theo chế độ Bảo hiểm y
tế:
Người nghèo có thẻ Bảo hiểm y tế được khám chữa bệnh theo đúng quy
định hiện hành của Nhà nước, bình đẳng như các đối tượng có thẻ Bảo hiểm
y tế bắt buộc và không phải thực hiện cùng chi trả. Mặc dù mệnh giá của thẻ
Bảo hiểm y tế người nghèo so với mức đóng bình quân Bảo hiểm y tế bắt
buộc chỉ bằng 25%, song do quỹ Bảo hiểm y tế thực hiện theo nguyên lý:


21
Người có mức đóng cao giúp người có mức đóng thấp, vì vậy người nghèo

có thẻ Bảo hiểm y tế khi khám bệnh nội trú hay điều trị nội trú đều được
hưởng thụ và cung cấp dịch vụ y tế theo bệnh lý, ngang bằng giữa những
người cùng có thẻ Bảo hiểm y tế thuộc đối tượng khác khi đi khám chữa
bệnh.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ năm 2000 có khoảng 600.000 lượt
người nghèo khám chữa bệnh ngoại trú, bằng 55% số thẻ đã phát hanh, với
chi phí trên 10,7 tỷ đồng; bình quân chi phí một lần khám chữa bệnh ngoại
trú khoảng 18.000 đồng. Đã có 55.000 lượt người nghèo đến điều trị nội trú
tại các tuyến, bằng khoảng 6% số người nghèo có thẻ Bảo hiểm y tế, tổng
chi phí đã thanh toán cho các cơ sở khám chữa bệnh là 13,8 tỷ đồng, bình
quân chi phí một đợt điều trị nội trú là 250.000 đồng.
Phân tích số liệu thống kê trên và so sánh với số liệu tương ứng của thẻ
Bảo hiểm y tế bắt buộc ta dễ dàng nhận thấy: chi phí cho một lần khám chữa
bệnh ngoại trú và một đợt điều trị nội trú của người nghèo tương đương và
có phần cao hơn một chút so với chi phí bình quân của thẻ Bảo hiểm y tế bắt
buộc, song tỷ lệ số đợt đi khám chữa bệnh của người nghèo lại thấp hơn
nhiêu so với tỷ lệ đi khám chữa bệnh của thẻ Bảo hiểm y tế bắt buộc (Bảo
hiểm y tế bắt buộc khám chữa bệnh ngoại trú 180%, điều trị nội trú là 12%).
Điều này có thể giải thích bằng việc: Người nghèo thực sự ốm đau, không
thể làm việc được mới đi khám chữa bệnh; nhiều người nghèo chưa hiểu đầy
đủ quyền lợi của người có thẻ Bảo hiểm y tế trong những năm đầu; nơi cung
cấp dịch vụ còn xa nơi cư trú của người nghèo.
Đến thời điểm hiện tại hệ thống Bảo hiểm y tế Việt Nam đã phối hợp
với ngành y tế địa phương tổ chức khám chữa bệnh cho người có thẻ Bảo
hiểm y tế tại tuyến y tế xã và đã triển khai ở 3.292 xã trên tổng số gần
11.000 xã trong cả nước. Như vậy bộ phận người nghèo có thẻ Bảo hiểm y
tế đã được chăm sóc sức khỏe ngay từ tuyến cơ sở. Đây là mô hình mang lại


22

hiệu quả thiết thực đối với công tác chăm sóc sức khoẻ cho người có thẻ
Bảo hiểm y tế nói chung, cho người nghèo có thẻ Bảo hiểm y tế nói riêng.
Bảo hiểm y tế Việt Năm đang tiếp tục mở rộng việc đưa công tác khám chữa
bệnh về các xã, phường còn lại trong những năm tới.
Những khó khăn, tồn tại trong tổ chức thực hiện:
Mặc dù việc thực hiện thông tư 05 đã đạt được những kết quả bước đầu,
thể hiện được sự cố gắng rất lớn của các cấp uỷ Đảng, Chính quyền và các
ngành có liên quan ở các địa phương, song kết quả đạt được chưa như mong
muốn và trong quá trình tổ chức thực hiện hệ thống Bảo hiểm y tế Việt Nam
còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc.
Hiện nay vẫn còn 17 tỉnh, thành phố chưa tổ chức thực hiện thông tư
05, đồng thời một số tỉnh thực hiện nhưng tỷ lệ rất thấp. Theo thông báo
của Chính phủ phần kinh phí được bố trí đủ để mua 4 triệu thẻ Bảo hiểm y
tế cho người nghèo mỗi năm. Đến nay mới phát hành được trên 25% số thẻ
theo kế hoạch, nếu so sánh với tổng số người nghèo thì số người nghèo được
cấp thẻ Bảo hiểm y tế còn quá thấp. Nguyên nhân của tình trạng này là:
- Kinh phí để mua thẻ Bảo hiểm y tế là nguyên nhân cơ bản ở hầu hết
các địa phương. ở một số tỉnh, thành phố năm 1999 và năm 2000 không cấp
thẻ Bảo hiểm y tế cho người nghèo phần lớn là các tỉnh nghèo, các tỉnh khó
khăn thuộc khu vực miền núi, quỹ bảo đảm xã hội không đủ chi tiêu cho các
yêu cầu trợ cấp xã hội tại địa phương nên không thể có kinh phí để mua thẻ
Bảo hiểm y tế cho người nghèo, một số địa phương chưa thật sự quan tâm
bố trí đúng mức nguồn bảo đảm xã hội để mua thẻ Bảo hiểm y tế cho người
nghèo.
- Việc bình xét lựa chọn người nghèo theo quy định hướng dẫn tại
thông tư 05 là căn cứ vào khả năng tài chính được nhà nước bố trí, song trên
thực tế nhiều địa phương gặp không ít khó khăn, lúng túng trong việc bình


23

chọn, có địa phương đến nay vẫn chưa lập được danh sách người nghèo để
cấp thẻ lần đầu; có nhiều địa phương không thể đưa ra bình xét công khai,
mà phải phân bổ chỉ tiêu cho huyện, huyện phân bổ cho xã, xã chỉ chọn
trong mỗi hộ người nghèo 1 đến 2 người thường có sẵn bệnh để đưa vào
danh sách cấp thẻ.
Có địa phương chọn 30% số nghèo nhất trong tỉnh để cấp thẻ cho người
nghèo của những xã này; có địa phương ghi chú bên cạnh danh sách cấp thẻ
các loại bệnh của từng người; có địa phương chỉ cấp thẻ cho những người bị
tàn tật, người già yếu không nơi nương tựa đang được nuôi dưỡng trong các
trung tâm bảo trợ xã hội; có địa phương do bình chọn không chính xác nên
khi nhận thẻ Bảo hiểm y tế về không giám phát cho người nghèo, phải mang
trả lại cơ quan Bảo hiểm y tế.
Việc bình chọn được 30% số người nghèo nhất trong số người nghèo
không có các tiêu thức cụ thể là một khó khăn dẫn đến tình trạng như trên,
ảnh hưởng lớn đến tốc độ và số lượng phát hành thẻ Bảo hiểm y tế cho
người nghèo. ở đây cũng cần nói thêm có hàng chục tỉnh, thành phố đã bố trí
kinh phí và giao kế hoạch cho các ngành chức năng tổ chức thực hiện, song
vì khó khăn trong việc lựa chọn đối tượng cấp thẻ nên đã không đạt kế
hoạch và phải trả lại tiền cho Ngân sách địa phương.
- Nhận thức của các cơ quan chức năng tại địa phương chưa thật đồng
nhất đối với phương thức cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho người nghèo. Có địa
phương tính toán và cho rằng cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho người nghèo cần
khoản kinh phí lớn, trong khi đó cấp sổ khám chữa bệnh miễn phí cho người
nghèo không cần kinh phí hoặc chỉ cần khoản kinh phí không lớn để cấp
thẳng cho các cơ sở khám chữa bệnh vấn đề đặt ra ở đây là lựa chọn phương
thức nào để người nghèo được hưởng đầy đủ quyền lợi khi khám chữa bệnh
từ y tế cơ sở đến các bệnh viện Trung ương, bệnh viện ngoài địa bàn cư trú


24

cũng cần phải nói việc thực hiện các quy định hướng dẫn của Trung ương về
lĩnh vực này ở một số địa phương cũng còn chưa thật nghiêm túc.
b. Cơ quan Bảo hiểm y tế.
b1. Hệ thống quản lỹ Bảo hiểm y tế.
Theo điều 5 Nghị định 58/1998/NĐ-CP ngày 13/08/1998 của Chính phủ
thì cơ quan Bảo hiểm y tế Việt Nam được tổ chức theo hệ thống dọc và quản
lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Điều này được biểu hiện:
- ở Trung ương: Bảo hiểm y tế Việt Nam trực thuộc Bộ y tế.
- ở cấp tỉnh: Bảo hiểm y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và
Bảo hiểm y tế ngành trực thuộc thuộc Bảo hiểm y tế Việt Nam.
- ở cấp huyện, quận, thành phố, thị xã thuộc tỉnh tổ chức chi nhánh Bảo
hiểm y tế trực thuộc Bảo hiểm y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Ngoài ra Bảo hiểm y tế còn được Nhà nước cấp kinh phí để xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật; được thực hiện các biện pháp nhằm bảo tồn và tăng
trưởng quỹ Bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật. Đồng thời Chính phủ
giao cho Bộ y tế thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về Bảo hiểm y tế.
Nội dung của công tác quản lý bao gồm:
- Xây dựng các chính sách, pháp luật về Bảo hiểm y tế trình cấp trên
ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền.
- Phối hợp với Bộ tài chính và Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương hướng dẫn thực hiện Bảo hiểm y tế tự nguyện.
- Hướng dẫn kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp
luật về Bảo hiểm y tế.


25
Bảo hiểm y tế Việt Nam có nhiệm vụ, quyền hạn: tổ chức, triển khai
thực hiện điều lệ Bảo hiểm y tê; quản lý thu chi quỹ Bảo hiểm y tế trong cả
nước: đề xuất các phương án bảo toàn, tăng trưởng quỹ Bảo hiểm y tế và tổ
chức thực hiện sau khi được phê duyệt; in ấn, phát hành và quản lý thẻ Bảo

hiểm y tế; quản lý tổ chức cán bộ công chức, lao động, cơ sở vật chất kỹ
thuật trong toàn hệ thống cơ quan Bảo hiểm y tế theo quy định của Nhà
nước.
Cơ quan quản lý, giám sát hoạt động của Bảo hiểm y tế Việt Nam là hội
đồng quản lý Bảo hiểm y tế Việt nam, cơ quan này có nhiệm vụ, quyền hạn:
chỉ đạo, giám sát, kiểm tra việc thực hiện quản lý thu chi quỹ Bảo hiểm y tế;
phê duyệt phương án điều hoà quỹ Bảo hiểm y tế trong toàn hệ thống; quyết
định các biện pháp bảo toàn và quyết toán hàng năm của Bảo hiểm y tế; phê
duyệt phương án duyệt tổ chức, đề nghị tách, nhập giải thể các đơn vị thành
viên, đề nghị bổ nhiệm miễm nhiệm Tổng Giám Đốc Bảo hiểm y tế Việt
nam.
Có thể nói với hệ thống tổ chức quản lý Bảo hiểm y tế nói trên đã đem
lại những thành công nhất định trong việc quản lý cả hệ thống chăm sóc sức
khoẻ của nhân dân. Nhưng bên cạnh đó còn tồn tại những vấn để như: việc
hướng dẫn thực hiện những chính sách về Bảo hiểm y tế còn nhiều lúng
túng, ví dụ như việc quy định hộ nghèo được cấp thẻ Bảo hiểm y tế Điều
này dẫn đến bỏ xót đối tượng lẽ ra được hưởng, do đó gây bất bình trong
nhân dân. Bên cạnh đó Bảo hiểm y tế đã phối hợp với nhiều bệnh viện ở một
số thành phố lớn để triển khai, cải cách thủ tục hành chính trong khám chữa
bệnh, thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho bệnh nhân Bảo hiểm y tế với
mục tiêu nhanh tróng, thuận tiện đúng quy định tạo ra sự chuyển biến trong
phong cách phục vụ.
b2. Đội ngũ cán bộ quản lý.

×