Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật trong trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.37 KB, 41 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TRẦN THỊ SÁU

BÀI GIẢNG

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT TRONG TRƯỜNG THPT
(Dành cho sinh viên ngành GDCT)

Quảng Bình, năm 2017


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO
DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG (4t LT, 1TL)
1.1.Khái niệm và đặc điểm của giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật
cho học sinh trong trường trung học phổ thông
Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu về khái niệm GDPL được
sử dụng phổ biến hiện nay, khái niệm Giáo dục đạo đức, GDPL được tiếp
cận theo hướng phát huy năng lực hoạt động thực tiễn của đối tượng giáo
dục. Theo đó, giáo dục pháp luật là hoạt động thực tiễn xã hội thực hiện sự
tác động một cách thường xuyên, hệ thống lên đối tượng giáo dục nhằm
trang bị kiến thức, xây dựng thái độ, niềm tin pháp luật một cách đúng đắn
đồng thời giáo dục kỹ năng thích ứng cũng như xử lý các tình huống trong
cuộc sống theo pháp luật, thúc đẩy mọi công dân tự giác và chủ động thực
hiện nghiêm minh pháp luật.
Từ sự phân tích cơ sở lý luận về giáo dục và giáo dục pháp luật cho học


sinh trong trường trung học phổ thông, luận án đưa ra kết luận: Giáo dục
pháp luật cho học sinh trong trường trung học phổ thông là quá trình tác động
một cách có mục đích, có kế hoạch tới học sinh thông qua hệ thống phương
pháp sư phạm của nhà giáo, tập thể sư phạm, các tổ chức chính trị - xã hội
trong nhà trường nhằm trang bị tri thức pháp luật, xây dựng ý thức và tình
cảm pháp luật đúng đắn, rèn luyện cho các em thói quen, kỹ năng thực hiện
hành vi theo những chuẩn mực pháp luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát
triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân.
Đặc điểm của giáo dục pháp luật cho học sinh trong trường trung học
phổ thông
Theo Luật Giáo dục năm 2005, THPT là cấp học cao nhất trong hệ
thống giáo dục phổ thông, có vai trò bồi đắp, phát triển nhân cách cho thế hệ
trẻ, trang bị những tri thức và những kỹ năng phổ thông cơ bản về chính trị,
tư tưởng, pháp luật, khoa học, văn học, nghệ thuật, hướng nghiệp tạo nền
tảng để các em tiếp tục học cao hơn, học nghề hoặc tham gia lao động, sản
xuất, thực hiện trách nhiệm của bản thân đối với gia đình và đất nước. Do
giáo dục trong nhà trường luôn mang tính mục đích, phản ánh các chức
năng, nhiệm vụ của hệ thống giáo dục nên quá trình GDPL cho học sinh
trong trường THPT có những đặc trưng riêng về đối tượng, chủ thể, hình


thức, phương pháp giáo dục.
Về đối tượng GDPL, lứa tuổi học sinh THPT là thời kỳ chuyển tiếp
giữa trẻ con (học sinh trung học cơ sở) với người lớn (sinh viên). Các em có
khả năng tư duy, sáng tạo, tích cực, nhạy bén và năng động trong học tập
cũng như các hoạt động giao tiếp nhưng cũng là độ tuổi phức tạp, nhạy cảm,
dễ bị tổn thương và dễ bị tác động bởi điều kiện xã hội. Do vậy, muốn đạt
được chất lượng GDPL cao, chủ thể GDPL phải nghiên cứu và nắm chắc
đặc điểm đối tượng giáo dục của mình, phải thiết kế và thực hiện những tác

động sư phạm phù hợp, xây dựng nội dung và lựa chọn hình thức, phương
pháp giáo dục khoa học.
Chủ thể tiến hành GDPL cho học sinh trong trường THPT rất phong
phú, vừa có cán bộ chuyên trách vừa bao gồm những người, những tổ chức
làm công tác giáo dục, đó là các nhà quản lý, cán bộ tư vấn, giáo viên môn
Giáo dục công dân (GDCD), giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm, Đoàn
thanh niên. Đây là lực lượng lao động trí tuệ có chất lượng cao trong xã hội.
Nội dung GDPL cho học sinh trong trường THPT bao gồm: Một là,
giáo dục pháp luật cung cấp những kiến thức mang tính lý luận về nhà nước
và pháp luật. Hai là, giáo dục những chuẩn mực cơ bản của pháp luật như
dân chủ, công bằng, bình đẳng, công lý, tự do...Ba là, những kiến thức pháp
luật cơ sở thuộc những lĩnh vực quan trọng trong đời sống xã hội liên quan
trực tiếp đến đời sống vật chất và tinh thần, lao động và học tập của học sinh.
Bốn là, những kỹ năng thực hiện những chuẩn mực pháp luật. Đặc điểm nổi
bật về nội dung GDPL cho học sinh trong trường THPT so với các cấp học khác
là kiến thức pháp luật mang tính đại cương, gắn với đặc điểm tâm lý tuổi mới
lớn và phù hợp với yêu cầu của xã hội. Kiến thức mang tính gợi mở, kích thích
tư duy và hướng tới không chỉ hình thành, củng cố mà còn phát triển những
phẩm chất cơ bản của một công dân mẫu mực. Trên nền tảng đó công tác GDPL
thực hiện nhiệm vụ cung cấp phương pháp tiếp cận nội dung pháp luật cụ thể
cho học sinh khi các em có nhu cầu.
Hình thức GDPL cho học sinh trong trường THPT được tiến hành chủ yếu
thông qua dạy học chính khóa môn GDCD và các hoạt động GDPL ngoài giờ lên
lớp. Ngoài ra, GDPL cho học sinh còn được lồng ghép qua hoạt động dạy học các
môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội khác trong nhà trường. So với hình thức
GDPL nói chung và hình thức GDPL cho các đối tượng cụ thể khác như cán bộ,
công chức, phụ nữ, nông dân... nói riêng thì hình thức GDPL cho học sinh THPT
phong phú, sâu sắc, đặc biệt GDPL qua dạy học môn GDCD là hình thức mang
tính đặc thù, chỉ có thể được thực hiện trong trường học.
Phương pháp GDPL cho học sinh trong trường THPT được tiếp cận



liên ngành giữa khoa học pháp lý và khoa học sư phạm, do đó phương pháp
GDPL bao gồm hệ thống phương pháp thuyết phục; hệ thống phương pháp
tổ chức hoạt động nhằm hình thành kỹ năng, kỹ xảo, hành vi và thói quen
thực hiện pháp luật; hệ thống phương pháp kích thích hoạt động và điều
chỉnh hành vi và hệ thống phương pháp dạy học môn GDCD. Phương pháp
dạy học môn GDCD chủ yếu là phương pháp thuyết trình, phương pháp
đàm thoại, phương pháp trực quan, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp
thảo luận nhóm, phương pháp động não, phương pháp đóng vai, phương pháp
dự án. Đặc điểm chung về phương pháp GDPL cho học sinh trong trường
THPT so với phương pháp GDPL cho các đối tượng ở các cấp học khác là
sự phóng khoáng, nhấn mạnh tư duy phản biện và tăng cường năng lực hoạt
động thực tiễn cho học sinh.
1.2. Mục đích, vai trò của giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật cho
học sinh trong trường trung học phổ thông
Mục đích của công tác giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật cho học
sinh trong trường trung học phổ thông
Mục đích của công tác GDPL cho học sinh trong trường THPT trước
hết trang bị kiến thức pháp luật cho các em. Sự hiểu biết là cơ sở, là nền
tảng giúp học sinh biết cách hành động phù hợp với các chuẩn mực đặt ra.
Đồng thời hoạt động GDPL còn nhằm nâng cao ý thức, bồi dưỡng niềm tin
và tình cảm pháp luật cho học sinh. Bên cạnh đó, GDPL còn hướng tới hình
thành ở các em động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật. Đặc biệt
GDPL rèn luyện cho học sinh những kỹ năng cơ bản nhằm ứng xử đúng
pháp luật những tình huống trong đời sống xã hội, nhờ đó phát triển năng
lực, giúp các em biết tự do hành động trong hành lang pháp lý, biết sử dụng
pháp luật để bảo vệ mình và lựa chọn, quyết định cho mình cách ứng xử tích
cực trước muôn nẻo đường của cuộc sống.
Vai trò của giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật đối với việc hình

thành, phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông
Thời Trung Quốc cổ đại, Mạnh Tử đã chỉ ra rằng con người sinh ra vốn
tính thiện, ông khẳng định lòng trắc ẩn, sự hổ thẹn, sự cung kính, tính
tốt...con người ai cũng có. Giáo dục làm cho chúng phát triển, tức là thông
qua sự tác động của giáo dục để khôi phục những bản tính tốt đẹp đó. Quan
điểm của Tuân Tử thì cho rằng tính người vốn ác, mắt thích màu sắc, tai
thích âm thanh, miệng thích mùi vị, lòng dạ thích cái lợi, xương thịt thích
được an nhàn, vui vẻ. Vì vậy, ông rất coi trọng giáo dục, khẳng định giáo


dục sẽ biến đổi tính tình, dựa vào lễ nghĩa, phép tắc, qui phạm, tập tục của
xã hội để giáo hóa, cải biến tính ác vốn có của con người. Về nội dung này
Kant, nhà triết học Đức đã nói "Con người chỉ có thể trở thành người là nhờ
giáo dục. Con người là những gì được giáo dục tạo nên". Cũng với ý nghĩa
chú trọng giáo dục, C.Mác nhấn mạnh: "Con người vốn là sản phẩm của
hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó con người đã biến đổi là sản phẩm của
những hoàn cảnh khác và của một nền giáo dục đã thay đổi". Chủ tịch Hồ
Chí Minh thì khẳng định tầm quan trọng hàng đầu của giáo dục trong chiến
lược con người, bởi giáo dục đào tạo nên chất người, nên nhân tài. Trong
Nhật ký trong tù, Người viết: "Hiền dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do
giáo dục mà nên". Như vậy, dù tiếp cận ở góc độ nào giáo dục cũng đóng
vai trò chủ đạo trong việc hình thành, phát triển nhân cách con người và
trong tác động to lớn đó, GDPL có vị trí đặc biệt quan trọng.
Theo học thuyết Mác Lênin, nhân cách là tổ hợp thái độ, thuộc tính
riêng trong quá trình hoạt động của con người với tự nhiên, xã hội và bản
thân, là toàn bộ những năng lực và phẩm chất xã hội - sinh lý - tâm lý của cá
nhân tạo thành một chỉnh thể đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự
khẳng định, tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình. Nhân cách con người
bộc lộ trong hành động, thông qua các quan hệ ứng xử của con người với tự
nhiên, xã hội và bản thân. Nhân cách được hình thành và phát triển qua một

quá trình lâu dài. Tuy nhiên, giai đoạn học sinh phổ thông được coi là giai
đoạn quan trọng và có tính quyết định. Vai trò tác động của của GDPL đến
quá trình hình thành và phát triển nhân cách học sinh phổ thông thể hiện ở
những mặt sau:
Thứ nhất, giáo dục pháp luật cung cấp hệ thống tri thức pháp luật cho
học sinh, giúp các em hiểu được điều hay lẽ phải, nhận biết được những
chuẩn mực tốt đẹp về lòng nhân ái, sự công bằng, bình đẳng, dân chủ, lòng
khoan dung, biết yêu cái đẹp, cái chân chính, biết đấu tranh với cái xấu và
trong những tình huống cụ thể các em biết nên và cần ứng xử như thế nào
cho phù hợp với đạo lý làm người. Giáo dục pháp luật hướng học sinh đến
với cái thiện, năng lực tự chủ, sự khiêm nhường, tinh thần trách nhiệm đối
với bản thân, gia đình và cộng đồng. Sự hiểu biết pháp luật đặt nền móng


xây dựng nhân sinh quan, thế giới quan khoa học định hướng nhận thức và
hoạt động thực tiễn của các em. Bên cạnh đó, GDPL, thông qua hoạt động
cụ thể can thiệp, tác động đến các yếu tố khác như gia đình, môi trường xã
hội, hoạt động cá nhân nhằm tạo sự thuận lợi cho quá trình phát triển nhân
cách.
Thứ hai, giáo dục pháp luật tổ chức nhiều loại hình hoạt động giao tiếp
bổ ích nhằm phát huy những phẩm chất và năng lực cá nhân, xây dựng
những động cơ đúng đắn cho các em khi tham gia hoạt động xã hội. Không
những thế, GDPL còn hướng dẫn các em lựa chọn các hoạt động phù hợp
với khả năng của bản thân cũng như yêu cầu của pháp luật, qua đó các em
biết tự khẳng định mình và vươn tới sự hoàn thiện. Đặc biệt, GDPL luôn coi
trọng xây dựng các mối quan hệ giao tiếp tích cực giữa thầy trò, giữa bạn bè
với nhau, giữa học sinh và người lớn, điều chỉnh hành vi ứng xử của các em
trong nhà trường, gia đình và xã hội phù hợp với các chuẩn mực pháp luật.
Thứ ba, giáo dục pháp luật hướng tới phát triển năng lực, phẩm chất
học sinh. Giáo dục pháp luật giúp học sinh hiện thực hóa khả năng của các

em về trí tuệ, khả năng thích ứng, hòa nhập trong cuộc sống, khả năng thể
hiện bản sắc của mình, hành động có mục đích, chủ động, tích cực, hiệu
quả. Qua hoạt động GDPL bồi dưỡng cho các em đầy đủ phẩm chất của
công dân. Đó là phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, tinh
thần thượng tôn pháp luật, sống có lý tưởng, khát khao vươn lên xây dựng
đất nước giàu mạnh.
Thứ tư, giáo dục pháp luật giúp học sinh biết định hướng đúng và trân
trọng những giá trị cuộc sống. Giá trị đối với mỗi người trong cuộc sống
không chỉ tạo nên danh dự, nhân phẩm của họ mà còn có ý nghĩa như là sợi
dây níu giữ họ không bị quá đà hoặc lao xuống dốc. Trong sự biến động
phức tạp của xã hội, sự tác động mạnh mẽ của những mối quan hệ nhiều
chiều, sự du nhập của lối sống bên ngoài, GDPL giúp học sinh nhìn nhận
đúng đắn những giá trị đích thực của cuộc sống, hình thành quan điểm, lối
sống lành mạnh, hiện đại của con người mới XHCN.
Tóm lại, giáo dục pháp luật thực chất là giáo dục về những giá trị cao
đẹp, về "chân, thiện, mỹ", giáo dục cách xử sự vì lợi ích chung của cộng


đồng xã hội và lợi ích mỗi người trong cái chung đó. Mục đích cuối cùng
của GDPL trong trường THPT chính là mài sáng cái tâm, gọt giũa cái đức,
củng cố những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam, góp phần tạo
nên những con người nhân văn, con người xã hội luôn khát khao vươn tới sự
hoàn thiện.
Vai trò của giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật đối với việc nâng
cao kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông
Giáo dục pháp luật cũng như giáo dục nói chung không chỉ hướng vào
mục tiêu tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
mà còn hướng tới mục tiêu phát triển đầy đủ giá trị của mỗi cá nhân giúp
con người có năng lực để cống hiến, đồng thời có năng lực để sống một
cuộc sống có chất lượng và hạnh phúc. Đó là cuộc sống tự do hành động

trong hành lang pháp lý, biết sử dụng pháp luật để bảo vệ mình và lựa chọn,
quyết định cho mình cách ứng xử tích cực trước muôn nẻo đường của cuộc
sống.
Có nhiều quan điểm khác nhau về kỹ năng sống (life skills) và mỗi
quan niệm được diễn đạt theo cách khác nhau. Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
cho rằng kỹ năng sống là những kỹ năng mang tính tâm lý xã hội và kỹ năng
về giao tiếp được vận dụng trong tình huống hằng ngày để tương tác một
cách hiệu quả với người khác và giải quyết tốt những vấn đề, những tình
huống của cuộc sống hằng ngày. Theo tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo
dục (UNESCO) của Liên hợp quốc thì kỹ năng sống là năng lực cá nhân để
thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Như
vậy, có thể thấy so với quan niệm của WHO thì UNESCO đã đưa ra cách
tiếp cận đầy đủ và chính xác hơn, thể hiện kỹ năng sống bao hàm cả năng
lực (tổng hòa của kiến thức, thái độ, hành vi) và khả năng tâm lý xã hội. Đó
là khả năng nhận biết, áp dụng hiểu biết đó để giải quyết tối ưu những vấn
đề của cuộc sống và được thể hiện qua khả năng ứng xử đúng đắn, phù hợp
khi tương tác với người khác hoặc trong những tình huống khác nhau của
môi trường xã hội. Trên phương diện đó kỹ năng sống gồm kỹ năng chung
thể hiện qua kỹ năng nhận thức, kỹ năng đương đầu với xúc cảm, kỹ năng
xã hội và kỹ năng cụ thể thể hiện trong việc đối diện và ứng phó với những


vấn đề khác nhau trong đời sống xã hội như:
+ Vệ sinh, vệ sinh thực phẩm, sức khỏe, dinh dưỡng
+ Các vấn đề về giới, giới tính, sức khỏe sinh sản
+ Ngăn ngừa và chăm sóc người bệnh HIV/AIDS
+ Phòng, chống rượu, ma túy, thuốc lá, trò chơi điện tử...
+ Ngăn ngừa thiên tai, rủi ro và bạo lực
+ Hòa bình và giải quyết xung đột
+ Gia đình và cộng đồng

+ Giáo dục công dân
+ Bảo vệ thiên nhiên và môi trường
+ Phòng tránh buôn bán trẻ em và phụ nữ...
Vai trò của giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật trong việc đấu
tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm trong nhà trường và
xã hội
Con người với đặc điểm sinh học của mình luôn có khuynh hướng phát
triển, tuy nhiên để trở thành một chủ thể có năng lực, có phẩm chất đạo đức,
bản lĩnh chính trị, ý thức pháp luật cao thì phải thông qua quá trình giáo dục
và tự giáo dục. Cùng với việc trang bị kiến thức, giáo dục kỹ năng xử lý tình
huống pháp luật, GDPL cho học sinh THPT còn nâng cao tính tích cực và
trách nhiệm của các em trong việc đấu tranh chống các hành vi vi phạm
pháp luật trong nhà trường và xã hội. Điều đó được thể hiện ở những khía
cạnh sau:
Trước hết, với hệ thống những kiến thức pháp luật cơ bản về những
lĩnh vực quan trọng mà các em đã được lĩnh hội qua hoạt động GDPL giúp
các em biết và hiểu cũng như nắm được yêu cầu của xã hội đối với vấn đề
đặt ra, nhận thức được ý nghĩa tích cực của hành vi pháp luật, từ đó tự giác
thực hiện nghiêm minh pháp luật. Trong thực tế rất nhiều trường hợp học
sinh vi phạm pháp luật, thậm chí hành vi rất nghiêm trọng như cướp tài sản,
bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, hiếp dâm... nhưng các em không hề biết
mình đang phạm tội. Vốn kiến thức ít ỏi về cuộc sống và sự thiếu hụt kiến
thức pháp luật đã dẫn đến những hành vi lệch chuẩn, lạc lối. Do đó, với mục
đích trang bị kiến thức, giáo dục, nâng cao nhận thức pháp luật cho học sinh


THPT, GDPL ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật của học sinh.
Bên cạnh đó, khi nhận thức sâu sắc ý nghĩa to lớn của việc thực hiện
pháp luật, các em biết đấu tranh với những hành vi vi phạm của bạn bè và
người khác. Tội phạm học đường và bạo lực xã hội ở nước ta đang gia tăng

một cách nhanh chóng mà chưa có biện pháp hữu hiệu để kiểm soát, ngăn
chặn. GDPL là hoạt động có ý nghĩa chiến lược nhằm phòng ngừa tội phạm
đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc đấu tranh chống những
hành vi vi phạm pháp luật của bạn bè, của thầy cô giáo và người khác. Giáo
dục cho các em sự công bằng, thái độ không khoan nhượng đối với những
hành vi sai trái, có tinh thần đấu tranh nhằm loại bỏ những hiện tượng tiêu
cực trong xã hội. Đây là vấn đề vô cùng khó khăn, bởi lẽ quyết định lựa
chọn cách ứng xử nhiều khi là cả một quá trình đấu tranh nội tâm quyết liệt.
Giáo dục pháp luật củng cố niềm tin cho các em khi quyết định làm điều
chính nghĩa.
Vai trò của giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong việc xây dựng văn hóa pháp lý
GDPL có mối quan hệ mật thiết với văn hóa nói chung và văn hóa pháp
lý nói riêng, đó là bộ phận cấu thành của văn hóa nhưng có tính độc lập
tương đối. GDPL cũng như giáo dục nói chung bảo tồn, sáng tạo và phát
triển văn hóa và văn hóa pháp lý. Theo từ điển Luật học, văn hoá pháp lí là
toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần mang tính pháp lí do nhà nước và
nhân dân tạo ra. Do pháp luật có một vị trí đặc biệt trong đời sống của một
quốc gia, có quan hệ mật thiết với cuộc sống con người, gắn liền hữu cơ với
những phạm trù có vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần của một cá nhân
như công bằng, lẽ phải, công lí, dân chủ, tự do nên ở mỗi con người, nhìn từ
nhiều góc độ, có mối quan tâm đặc biệt đối với pháp luật, đời sống pháp luật
của xã hội làm hình thành những quan niệm, nhận thức, có khi được khái
quát thành lý luận về những giá trị của pháp luật. Đồng thời, quá trình này
cũng hình thành thói quen, ham muốn, thích thú được sống và làm việc theo
Hiến pháp, pháp luật và dần dần được nâng lên thành lí tưởng, thành nhân
sinh quan pháp luật. Yếu tố này luôn có tính văn hoá và giá trị văn hoá cao,
đặc thù ở một bộ phận, có khi lan tỏa trong cả cộng đồng dân cư, trở thành



một bộ phận không thể tách rời của văn hoá dân tộc. Văn hoá pháp lí là một
bộ phận cấu thành của một nền văn hoá dân tộc. Văn hóa pháp lí bao gồm
hệ thống pháp luật, ý thức pháp luật (đó chính là tư tưởng pháp luật và tâm
lí pháp luật) thể hiện ở tri thức pháp luật, thói quen, lối sống theo pháp luật,
nghệ thuật vận dụng pháp luật trong đời sống hàng ngày. Xuất phát từ mối
quan hệ giữa GDPL và văn hóa pháp lý, vai trò nâng cao trình độ văn hóa
pháp lý cho học sinh THPT của GDPL được thể hiện:
Một là, giáo dục pháp luật nâng cao hiểu biết pháp luật, hình thành ý
thức, thúc đẩy hành vi văn hóa và văn hóa pháp lý cho các em học sinh.
Hoạt động GDPL đem lại cho các em sự hiểu biết cơ bản về pháp luật, giáo
dục tình yêu pháp luật cho các em. Sự kết hợp thống nhất giữa tri thức, tình
cảm và hành vi của mỗi học sinh đối với pháp luật là giá trị văn hóa mà
GDPL mang lại. Văn hóa pháp lý thể hiện trình độ ý thức pháp luật của một
xã hội, chất lượng hệ thống pháp luật hiện hành và đặc biệt là tính ổn định
của trật tự pháp luật trong nước. Người có văn hóa pháp lý nghĩa là người có
trình độ kiến thức pháp luật, có thái độ tôn trọng đối với pháp luật, xử sự
phù hợp pháp luật, có sự đánh giá và phản ứng đúng đắn đối với các hành vi
vi phạm pháp luật của các chủ thể khác. Điều đó chỉ có thể được hình thành
và phát triển trên cơ sở GDPL.
Hai là, nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa và có nền kinh tế được xác định là nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Tuy vậy, phần đông dân cư đã và đang gắn bó với nền sản xuất nhỏ,
nông nghiệp lạc hậu, manh mún, phân tán với những tập tục phức tạp, rườm
rà, do vậy ý thức pháp luật của nhiều người dân còn thấp, một bộ phận lớn
dân cư chưa có thói quen sống và làm việc theo pháp luật, thậm chí có một số
người còn xem pháp luật như là một sự trói buộc, thường tìm cách trốn tránh,
bất tuân pháp luật, một số khác lại coi trọng "tình" hơn "lý" nên thay vì lấy luật
pháp làm căn cứ để ứng xử thì dựa vào ý chí chủ quan của bản thân. Nhìn lại
lịch sử chúng ta thấy thái độ xem nhẹ pháp luật đã hình thành và phát triển từ
rất lâu, từ 1000 năm Bắc thuộc người dân đã có ý thức phản kháng với những

quy tắc, luật lệ bị áp đặt vào nước ta. Thời kỳ phong kiến, rồi đến hơn một thế
kỷ đô hộ của thực dân và sự xâm lược của đế quốc, pháp luật trở thành phương


tiện áp bức, bóc lột nên người dân lao động luôn tìm mọi cách để trốn tránh
pháp luật. Bên cạnh đó, tính cục bộ của cộng đồng làng xã với việc tuân thủ
nghiêm những tập tục đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân và được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong truyền thống pháp lý đó, pháp luật
nhiều lúc đã bị bỏ lại phía sau. Để nâng cao ý pháp luật cho thế hệ trẻ, xây
dựng và phát triển nền văn hóa pháp lý Việt Nam, GDPL cho học sinh THPT
là phương thức hữu hiệu;
Ba là, nền văn hóa nước ta cũng như các nền văn hóa khác đều có
những đặc trưng riêng và trong nền văn hóa luôn tồn tại song song giữa cái
tinh hoa và cái lạc hậu. GDPL với vai trò lưu truyền và phát triển văn hóa
tiến hành giáo dục học sinh cách thức sàng lọc, lựa chọn các giá trị văn hóa
đích thực phù hợp với các chuẩn mực pháp luật, loại bỏ những hành vi sai
trái, đi ngược với những giá trị pháp luật, qua đó phát triển văn hóa pháp lý
trong nhà trường;
Bốn là, giáo dục pháp luật cho học sinh là phương thức hiệu quả giúp
các em tiếp cận công lý. Hiểu biết pháp luật, tiếp cận tích cực những công
cụ pháp luật hỗ trợ, bảo vệ bản thân và người khác trong mọi tình huống
không chỉ là nhu cầu của học sinh phổ thông cũng như của tất cả mọi thành
viên trong xã hội hiện đại mà còn là nét đẹp của văn hóa.
Tóm lại, pháp luật là biểu hiện của văn minh và phát triển. Tôn trọng
pháp luật là văn minh, văn hóa, là tôn trọng con người, tự tạo ra cái đẹp, cái
tốt trong cuộc sống. Chính vì vậy, học sinh PTTH được giáo dục sâu sắc
tính nhân văn chứa đựng trong việc tuân thủ pháp luật, giáo dục về ý nghĩa
to lớn của pháp luật đối với cuộc sống con người khi nó được tôn trọng và
thực thi. Mục tiêu “vì con người và phát huy nhân tố con người” đặt ra nhu
cầu trong giáo dục nhân cách văn hóa hôm nay và ngày mai chứa đựng nội

dung GDPL.
Thảo luận, trao đổi: - So sánh giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật cho
học sinh trong trường Trung học phổ thông
- So sánh giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật cho học sinh
trong trường Trung học phổ thông với hoạt động giáo dục đạo
đức, giáo dục pháp luật cho học sinh ở trường trung học cơ sở


và ở trường tiểu học.
ch-¬ng 2
NỘI DUNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(10t LT, 5t TL)
2.1. Khái niệm và yêu cầu về nội dung giáo dục đạo đức và giáo dục
pháp luật cho học sinh trong trường trung học phổ thông
Nội dung giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật là những vấn đề quan
trọng bao gồm những kiến thức mang tính lý luận về nhà nước và pháp luật,
những chuẩn mực cơ bản của pháp luật như dân chủ, công bằng, bình đẳng,
công lý, tự do, những kiến thức pháp luật cơ sở thuộc những lĩnh vực quan
trọng trong đời sống xã hội liên quan trực tiếp đến đời sống vật chất và tinh
thần, lao động và học tập của học sinh và những kỹ năng thực hiện những
chuẩn mực pháp luật.
2.2. Nội dung giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật cho học sinh trong
trường trung học phổ thông
Nội dung là một trong những thành tố quan trọng, quyết định đến chất
lượng hoạt động GDPL. Theo lý luận GDPL nội dung GDPL được chia
thành ba mức độ. Mức độ thứ nhất là những nội dung pháp luật tối thiểu cho
mọi công dân; mức độ thứ hai là những nội dung pháp luật mở rộng và
chuyên sâu theo nhu cầu ngành nghề; mức độ thứ ba là những nội dung
pháp luật chuyên ngành cho những người hành nghề pháp luật. Cũng như

GDPL nói chung quá trình GDPL cho học sinh THPT bắt đầu bằng việc xác
định những kiến thức nào cần thiết cho hiện tại và tương lai các em. Xuất
phát từ nhu cầu và đặc điểm của học sinh PTTH, nội dung GDPL bao gồm:
Một là, giáo dục pháp luật cung cấp những kiến thức cơ bản về nhà
nước và pháp luật. Nội dung này gồm những hiểu biết, những thông tin cơ
bản về bản chất nhà nước, vai trò của nhà nước và pháp luật đối với đời
sống xã hội nhằm trang bị cho học sinh vốn kiến thức quan trọng xác định
địa vị pháp lý của học sinh - công dân, mối quan hệ giữa nhà nước và công
dân, qua đó giáo dục tinh thần trách nhiệm của học sinh đối với vận mệnh
của đất nước;


Hai là, giáo dục những chuẩn mực cơ bản của pháp luật như dân chủ,
công bằng, bình đẳng, công lý, tự do...giúp học sinh hiểu và thực thi những
chuẩn mực quan trọng trong cuộc sống, nhận thức sâu sắc ý nghĩa của
những chuẩn mực đó đối với sự phát triển của xã hội;
Ba là, trang bị những kiến thức pháp luật cơ bản thuộc những lĩnh vực
quan trọng trong đời sống xã hội liên quan trực tiếp đến đời sống vật chất và
tinh thần, lao động và học tập của học sinh như lĩnh vực chính trị (Bộ máy
nhà nước), lĩnh vực kinh tế (Luật doanh nghiệp, các đạo luật về thuế), lĩnh
vực văn hóa - xã hội (Luật Di sản văn hóa, Luật giáo dục, Luật Bảo vệ môi
trường, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật tài nguyên nước, Luật Phòng
3.1 chống ma túy, Luật phòng chống HIV/AIDS, pháp luật về ứng xử có văn
hóa, pháp luật phòng chống tệ nạn xã hội, phòng chống bạo lực, pháp luật
giao thông, pháp luật về khai thác và sử dụng Internet), quan hệ quốc tế
(Các điều ước quốc tế...). Đặc biệt giúp các em nắm được quyền và nghĩa vụ
cơ bản của mình trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quyền
tự do dân chủ, tự do cá nhân do Hiến pháp và các đạo luật qui định cũng
như cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
Bốn là, giáo dục kỹ năng sống theo những chuẩn mực pháp luật. Nội

dung này nhằm hướng đến mục tiêu phát triển đầy đủ và tự do giá trị của
mỗi cá nhân học sinh, giúp các em có năng lực để cống hiến và có năng lực
để tạo dựng một cuộc sống văn minh và hạnh phúc.
Đặc điểm nổi bật về nội dung GDPL cho học sinh PTTH là kiến thức
pháp luật mang tính đại cương, đơn giản, dễ hiểu và phù hợp nhu cầu của
các em ở hiện tại và tương lai. Qua nội dung đó công tác GDPL phải thực
hiện được nhiệm vụ cung cấp phương pháp tiếp cận nội dung pháp luật cụ
thể cho các em khi các em có nhu cầu đồng thời hình thành ở các em những
phẩm chất cơ bản của một công dân mẫu mực. Nội dung pháp luật được
chuyển tải đến học sinh thông qua giảng dạy chính khóa môn GDCD và qua
hoạt động GDPL ngoài giờ lên lớp. Ngoài ra, một số nội dung GDPL còn
được tích hợp ở môn Địa lý, Lịch sử, Ngữ văn.
Phần thứ nhất được quy định ở Chương trình phổ biến, giáo dục pháp
luật từng thời kỳ của Chính phủ; Đề án "Nâng cao chất lượng phổ biến, giáo


dục pháp luật trong nhà trường"; Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo; Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật hàng năm của Bộ Giáo dục và
Đào tạo; Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật hàng năm của UBND tỉnh
và kế hoạch của các Sở Giáo dục và Đào tạo. Nội dung này được xác định
gồm quyền và và nghĩa vụ cơ bản của công dân, lý luận cơ bản về pháp luật
phục vụ cho việc tìm hiểu và thực hiện pháp luật. Trong những năm trước
mắt tập trung GDPL về an toàn giao thông, phòng chống ma túy, bảo vệ môi
trường, qui chế thi cử và các qui định cụ thể liên quan đến cuộc sống và học
tập của học sinh THPT. Phần nội dung này được qui định theo hướng mở để
các trường có thể chủ động thực hiện GDPL theo nhu cầu thực tiễn của học
sinh và địa phương.
Phần thứ hai được cụ thể hóa trong môn Giáo dục công dân THPT.
Chương trình giáo dục phổ thông môn Giáo dục công dân Trung học phổ
thông được ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05

tháng 5 năm 2006 bao gồm những nội dung sau:
Phần 1: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận
khoa học
Phần 2: Công dân với đạo đức
Phần 3: Công dân với kinh tế
Phần 4: Công dân với các vấn đề chính trị xã hội
Phần 5: Công dân với pháp luật
Nội dung dạy học môn GDCD từng lớp được bố trí như sau:
Lớp 10 (1 tiết/tuần x 35 tuần = 35 tiết, bao gồm cả ôn tập và kiểm tra)
Phần 1: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận
khoa học gồm 9 vấn đề:
1. Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng.
2. Thế giới vật chất tồn tại khách quan
3. Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất
4. Nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng
5. Cách thức vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng
6. Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng
7. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức


8. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội
9. Con người là chủ thể của lịch sử và là mục tiêu phát triển của xã hội
Phần 2: Công dân với đạo đức
1. Quan niệm về đạo đức và một số phạm trù cơ bản của đạo đức học
2. Các giá trị đạo đức
2.1.Quan hệ với bản thân (Tự hoàn thiện bản thân)
2.2. Quan hệ với người khác (Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia
đình)
2.3. Công dân với cộng đồng, đất nước, nhân loại
Lớp 11: (1 tiết/tuần x 35 tuần = 35 tiết, bao gồm cả ôn tập và kiểm tra)

Phần 3: Công dân với kinh tế
1. Một số phạm trù và qui luật kinh tế cơ bản
- Công dân với sự phát triển của kinh tế
- Hàng hóa - Tiền tệ - Thị trường
- Qui luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hóa
2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vai trò của Nhà nước và
trách nhiệm của công dân trong lĩnh vực kinh tế
Phần 4: Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội
1. Một số lý luận về chủ nghĩa xã hội
- Chủ nghĩa xã hội
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
2. Một số chính sách của nhà nước ta
- Chính sách dân số và giải quyết việc làm
- Chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường
- Chính sách giáo dục và đào tạo
- Chính sách quốc phòng và an ninh
- Chính sách đối ngoại
Lớp 12: (1 tiết/tuần x 35 tuần = 35 tiết, bao gồm cả ôn tập và kiểm tra)
Phần 5: Công dân với pháp luật
1. Bản chất và vai trò của pháp luật đối với sự phát triển của
công dân, đất nước và nhân loại


- Pháp luật và đời sống
- Thực hiện pháp luật
- Pháp luật với sự phát triển của công dân
- Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước
- Pháp luật với hòa bình và sự tiến bộ của nhân loại
2. Quyền và nghĩa vụ công dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội

- Công dân bình đẳng trước pháp luật
- Bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo
- Công dân với các quyền tự cơ bản
- Công dân với các quyền dân chủ
Như vậy, nội dung GDPL cho học sinh THPT được thể hiện qua môn
GDCD bao gồm những vấn đề được lồng ghép qua phần đạo đức ở lớp 10.
Ở lớp 11 nội dung pháp luật rất ít được đề cập trong bài dạy, chủ yếu được
tích hợp ở bài 4 (Cạnh tranh trong sản xuất và lưu thông hàng hoa), bài 7
(Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần), bài 9 (Nhà nước XHCN), bài 11
(chính sách dân số và giải quyết việc làm) bài 12 (chính sách tài nguyên và
bảo vệ môi trường), bài 13 (chính sách giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, văn hóa), bài 14 (chính sách quốc phòng và an ninh). Lớp 12 nội
dung pháp luật được trình bày theo 3 nhóm vấn đề:
Nhóm vấn đề thứ nhất gồm những nội dung mang tính lý luận. Đó là
pháp luật với đời sống và thực hiện pháp luật. Trong phần pháp luật với đời
sống nội dung được triển khai gồm khái niệm, đặc trưng của pháp luật, bản
chất của pháp luật, mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo
đức và vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội. Phần thực hiện pháp luật
bao gồm khái niệm, các hình thức và giai đoạn thực hiện pháp luật; vi phạm
pháp luật và trách nhiệm pháp lý.
Nhóm vấn đề thứ hai đề cập đến các chuẩn mực pháp luật, đó là sự
bình đẳng (bình đẳng giữa công dân về quyền và nghĩa vụ, về trách nhiệm
pháp lý, bình đẳng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, trong lao động,
trong kinh doanh; bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo), quyền tự do (quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, chổ ở, an toàn về thư tín, điện tín, điện thoại,
tự do ngôn luận), quyền dân chủ (quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý


nhà nước, quản lý xã hội, quyền khiếu nại, tố cáo).
Nhóm vấn đề thứ 3 đề cập đến vai trò của pháp luật đối với sự phát

triển của công dân (quyền học tập, sáng tạo và phát triển), vai trò của pháp
luật với sự phát triển bề vững của đất nước (đề cập đến pháp luật về phát
triển kinh tế, pháp luật về phát triển văn hóa, pháp luật về phát triển các lĩnh
vực xã hội, pháp luật về bảo vệ môi trường, pháp luật về quốc phòng an
ninh), vai trò pháp luật với hòa bình và sự tiến bộ của nhân loại (Việt Nam
với các điều ước quốc tế).
Hiện nay theo chủ trương đổi mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì môn
GDCD được cấu trúc theo 3 phần:
Nội dung 1: Giáo dục đạo đức (20t)
Nội dung 2: Giáo dục pháp luật (75t)
Nội dung 3: Giáo dục kỹ năng sống (20t)
1.Những kiến thức cơ bản về tổ chức và cơ chế hoạt động của HTCT và
tổ chức nhà nước trên thế giới
2. Những kiến thức cơ bản về tổ chức và cơ chế hoạt động của HTCT và
tổ chức nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
3. Nội dung cơ bản của Hiến pháp và pháp luật nước CHXHCN Việt
Nam
4. Quyền con người và quyền con người quốc tế
5. Quyền và nghĩa vụ công dân
+ Quyền và nghĩa vụ về tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do sáng
tác;
+ Quyền và nghĩa vụ trong bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà
nước, quản lý xã hội;
+ Quyền và nghĩa vụ về khiếu nại, tố cáo
+ Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng
+ Quyền và nghĩa vụ của công dân trong kinh doanh
+ Quyền và nghĩa vụ về lao động;
+ Quyền và nghĩa vụ bảo vệ môi trường
+ Quyền sở hữu tài sản và nghĩa vụ tôn trọng tài sản của người khác
+ Quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc

+ Quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí
6. Điều ước quốc tế trong quan hệ giữa các quốc gia; Kinh tế toàn cầu
và những quy định về thương mại quốc tế
7. Các nguyên tắc và nội dung cơ bản trong quan hệ giữa Việt Nam
và ASEAN
2.3.Nội dung hoạt động giáo dục pháp luật ngoài giờ lên lớp.
Nội dung giáo dục ngoài giờ lên lớp phong phú, bao gồm các nội dung được


quy định trong chương trình theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các
nội dung
Thảo luận (5 tiết): - Xây dựng nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh trong
trường Trung học phổ thông
- Thiết kế chương trình, nội dung môn Giáo dục công dân
theo yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục.
- Xây dựng các tình huống giáo dục đạo đức và tình
huống giáo dục pháp luật
Ch-¬ng 3
HÌNH THỨC, PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO
DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG (10 t LT, 5 t TL)
3.1. Hình thức giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật cho học sinh
trong trường trung học phổ thông
Quá trình GDPL được thực hiện thông qua các dạng hoạt động cụ thể,
đó là các hình thức GDPL. Xuất phát từ nguyên lý giáo dục và GDPL,
GDPL cho học sinh trong trường PTTH được tiến hành chủ yếu bằng hình
thức giảng dạy chính khóa môn GDCD và hoạt động GDPL ngoài giờ lên
lớp. GDCD là môn khoa học xã hội có vai trò to lớn trong việc hình thành
những phẩm chất tốt đẹp của người công dân trong thời đại mới, trực tiếp
hình thành niềm tin, lý tưởng và ý thức và hành vi pháp luật cho các thế hệ

công dân. Đặc biệt GDCD còn giúp phát triển tâm lực, một thành tố cơ bản
và là nội lực của sự phát triển nhân cách học sinh. Qua những giá trị này hun
đúc lòng yêu quê hương, Tổ quốc, sự tự hào dân tộc đồng thời khẳng định
quyền lợi cũng như trách nhiệm của học sinh đối với gia đình và đất nước.
Bồi đắp lòng nhân ái, tinh thần đấu tranh vì lẽ phải, yêu chuộng hòa bình,
chống hành vi bạo lực, làm chủ bản thân và hoàn cảnh cuộc sống. Quá trình
dạy học môn GDCD được xem là con đường hữu hiệu để thực hiện quá
trình GDPL. Trên cơ sở trang bị kiến thức đạo đức, pháp luật hình thành ở
người học nhận thức, quan điểm đúng đắn, qua đó nắm được phương thức
hành vi đạo đức, pháp luật, nắm được các yêu cầu ứng xử vừa phù hợp với


đạo đức xã hội vừa phù hợp với chuẩn mực pháp luật trong các tình huống
khác nhau của đời sống cá nhân và đời sống xã hội. Hoạt động GDPL ngoài
giờ lên lớp là hoạt động được tổ chức ngoài giờ học trên lớp, là sự tiếp nối
bổ sung hoạt động chính khóa và là con đường gắn lý luận với thực tiễn
nhằm nâng cao hiệu quả GDPL. Thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ
học sinh cập nhật, mở rộng kiến thức pháp luật đồng thời luyện tập, rèn
luyện các kỹ năng, tạo cơ hội cho người học giao lưu, hợp tác và phát triển
năng lực bản thân. Đây chính là môi trường tốt để gieo những hạt giống tâm
hồn, nâng cao tinh thần trách nhiệm của học sinh đối với bản thân, gia đình
và cộng đồng, tránh xa và đoạn tuyệt với những tệ nạn xã hội. Các hoạt
động GDPL ngoài giờ lên lớp bao gồm:
+ Lồng ghép vào hoạt động chào cờ đầu tuần, sinh hoạt lớp, các hình
thức hoạt động tập thể;
+ Các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (theo chương trình và chủ
đề do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định);
+ Các hoạt động văn hóa, văn nghệ trong nhà trường.
+ Thảo luận, tọa đàm về các đề tài pháp luật;
+ Sinh hoạt chuyên đề pháp luật;

+ Tổ chức nghe các chuyên gia nói chuyện về pháp luật, xem phim,
xem tiểu phẩm, đọc sách báo về pháp luật;
+ Tổng hợp tình hình thực hiện pháp luật ở địa phương;
+ Sân chơi trí tuệ liên quan đến pháp luật;
+ Hoạt động tình nguyện của Đoàn viên học sinh;
+ Tổ chức, tham gia thi tìm hiểu pháp luật;
+ Tổ chức phong trào tham gia giữ gìn an ninh, trật tự, bảo vệ pháp luật
như Luật giao thông, Luật bảo vệ môi trường...;
+ Tuyên truyền, GDPL qua phương tiện thông tin như báo tường, bản
tin, đài phát thanh, website của nhà trường...
+ Tham quan thực tế, tham dự các phiên tòa...
Giáo dục pháp luật ngoài giờ lên lớp là một hoạt động quan trọng, biến
những kiến thức pháp luật khô cứng thành những nội dung sinh động, dễ
hiểu đồng thời bổ sung những kiến thức pháp luật mới, cần thiết mà trong


chương trình chính khóa chưa đề cập. Không những thế tham gia các hoạt
động GDPL ngoài giờ lên lớp học sinh còn có cơ hội để làm, để nói, để rèn
luyện và khẳng định kỹ năng sống của bản thân với vai trò vừa độc lập vừa
hợp tác. Tất cả những hình thức GDPL trên được tổ chức hợp lý, kết hợp
với nội dung chương trình GDPL chính khóa tác động dần dần lên ý thức
học sinh, chuyển hóa tri thức pháp luật đã lĩnh hội thành niềm tin nội tâm và
nếp sống theo pháp luật. Việc thực hiện các hình thức GDPL không chỉ có
sự tham gia của các giáo viên, tổ chức đoàn trong trường mà còn có sự phối
hợp với Sở Tư pháp, Sở Công an, tỉnh Đoàn, cơ quan truyền thông...
Như vậy, so với hình thức GDPL nói chung và hình thức GDPL cho
các đối tượng cụ thể khác như cán bộ, công chức, phụ nữ, nông dân... nói
riêng thì hình thức GDPL cho học sinh PTTH phong phú, sâu sắc, đặc biệt
dạy học môn GDCD là hình thức GDPL mang tính đặc thù, chỉ có thể được
thực hiện trong các nhà trường.

3.2. Phương pháp giáo dục đạo đức và phương pháp giáo dục pháp luật
cho học sinh trong trường trung học phổ thông
Muốn hoạt động giáo dục mang lại kết quả cao không chỉ xác định
đúng, đủ nội dung giáo dục mà còn có cách thức và biện pháp tác động phù
hợp với khả năng tiếp cận của đối tượng. Phương pháp giáo dục là hệ thống
những cách thức tác động của nhà giáo dục đến sự phát triển nhân cách của
thế hệ trẻ. Nghiên cứu lý luận giáo dục cho thấy, phương pháp GDPL cho
học sinh THPT là cách thức, biện pháp tổ chức quá trình giáo dục nhằm
hình thành ở học sinh những phẩm chất đạo đức trong sáng, có tinh thần
thượng tôn pháp luật, có năng lực xử lý hiệu quả các tình huống pháp luật
nảy sinh trong cuộc sống. Phương pháp GDPL cho học sinh trong trường
PTTH không chỉ đa dạng mà còn mang tính sư phạm. Xuất phát từ nguyên
lý GDPL và đặc điểm học sinh THPT, phương pháp GDPL cho học sinh
bao gồm hệ thống phương pháp thuyết phục; hệ thống phương pháp tổ
chức hoạt động nhằm hình thành kỹ năng, kỹ xảo, hành vi và thói quen; hệ
thống phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi; hệ thống
phương pháp dạy học môn GDCD. Thuyết phục là phương pháp tác động
vào nhận thức, tình cảm của con người để hình thành cho họ ý thức và thái


độ đúng đắn phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Đó là dùng các lý lẽ xác
đáng, dùng các dẫn chứng sinh động, dùng các tấm gương tiêu biểu trong
lịch sử và trong thực tế để phân tích, chứng minh, khuyên giải...giúp học
sinh nhận thấy, hiểu và tin, từ đó tuân theo những giá trị pháp luật. Chức
năng của nhóm phương pháp này chủ yếu nhằm hình thành các tri thức đúng
đắn về các chuẩn mực pháp luật, hình thành niềm tin, tình cảm cho học sinh
và thúc đẩy hành vi đúng đắn. Nhóm phương pháp thuyết phục bao gồm
phương pháp khuyên giải, phương pháp tranh luận, phương pháp nêu
gương.
Bản chất của công tác GDPL là quá trình tổ chức cuộc sống, tổ chức

các hoạt động thực tiễn cho học sinh. Vì thế, phương pháp tổ chức hoạt
động nhằm hình thành kỹ năng, kỹ xảo, hành vi và thói quen là phương
pháp GDPL tốt nhất để tập dượt, rèn luyện các hành vi pháp luật trong cuộc
sống cho các em. Nhóm phương pháp này bao gồm phương pháp luyện tập
và phương pháp rèn luyện. Luyện tập là tổ chức cho học sinh thực hiện một
cách đều đặn, có kế hoạch, có hệ thống các hành động nhất định nhằm biến
chúng thành thói quen, thành thuộc tính bền vững của nhân cách. Rèn luyện
là phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục đưa học sinh vào cuộc sống
xã hội để tham gia vào các hoạt động khác nhau nhằm thể nghiệm và thể
hiện ý thức, thái độ, tình cảm của mình đồng thời xâm nhập vào những tình
huống thực tiễn để giải quyết, ứng phó, xây dựng các kỹ năng sống cần thiết
cho bản thân.
Nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi là
nhóm phương pháp tác động vào nhận thức, tình cảm của học sinh nhằm tạo
ra tâm lý phấn chấn, tin tưởng, lạc quan cho đối tượng tích cực tham gia vào
các hoạt động giáo dục đồng thời giúp những học sinh có khuyết điểm nhận
thấy sai sót của mình và tự giác khắc phục, sửa chữa. Đây là phương pháp
có tác dụng thúc đẩy cá nhân học sinh tích cực tham gia các hoạt động có
ích cho tập thể, cho xã hội đồng thời hạn chế những hành vi lệch chuẩn.
Nhóm phương pháp này bao gồm phương pháp khen thưởng, phương pháp
trách phạt, phương pháp thi đua. Phương pháp khen thưởng là biểu thị sự
đánh giá tích cực, sự hài lòng, sự ủng hộ của nhà giáo dục, của nhà trường,


xã hội đối với những hành vi pháp luật đúng đắn, tốt đẹp của học sinh, của
tập thể lớp. Khen thưởng là hình thức ghi nhận, tôn vinh những điều tốt mà
học sinh đã đạt được. Phương pháp trách phạt là phương thức tác động đến
nhân cách học sinh bằng cách biểu lộ thái độ không đồng tình hay sự lên án
của nhà giáo dục, của lớp và nhà trường đối với những hành vi vi phạm, qua
đó tác động đến tình cảm, tâm lý, giúp các em nhận thấy sai lầm, ân hận,

xấu hổ và quyết tâm từ bỏ những hành vi không phù hợp với các chuẩn mực
đạo đức, pháp luật. Phương pháp thi đua khích lệ, kích thích khuynh hướng
tự khẳng định của bản thân hay tập thể, tạo điều kiện và cơ hội cho họ cố
gắng nhiều hơn, phấn đấu đạt được những thành tích tốt. Thi đua được tổ
chức thường xuyên, liên tục trong hoạt động hằng ngày và được chú trọng
hơn vào các dịp lễ hoặc các sự kiện đặc biệt của nhà trường.
Bên cạnh những phương pháp giáo dục trên, GDPL còn được thể hiện
qua phương pháp dạy học môn GDCD. Phương pháp dạy học GDCD là
cách thức hoạt động phối hợp thống nhất của giáo viên và học sinh hướng
tới phát hiện những qui luật của quá trình dạy học môn GDCD, xây dựng hệ
thống các nguyên tắc, hình thức và phương pháp dạy học cụ thể để tổ chức
thành công hoạt động dạy học môn GDCD ở trường THPT [44, tr.20].
Phương pháp dạy học môn GDCD chủ yếu là phương pháp thuyết trình,
phương pháp đàm thoại, phương pháp trực quan, phương pháp nêu vấn đề,
phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp động não, phương pháp đóng vai,
phương pháp dự án.
Như vậy, phương pháp GDPL rất phong phú, mỗi phương pháp đều có
chức năng, thế mạnh riêng, phù hợp với từng đối tượng và hoàn cảnh cụ thể,
tuy nhiên giữa chúng luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung, hỗ trợ
cho nhau. Do đó, khi tiến hành GDPL nhà giáo dục cần lựa chọn và phối
hợp các phương pháp nhằm mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất.
Một số định hướng đổi mới phương pháp GDPL như sau:
Một là, đối với phương pháp thuyết phục cần kết hợp phương pháp
khuyên giải, tranh luận với nêu gương. Căn cứ vào đối tượng và điều kiện
cụ thể mà nhà giáo dục sử dụng các hình thức hợp lý như đối với học sinh,
nhóm học sinh biết rõ các qui định pháp luật nhưng vẫn cố tình hành động


sai thì khuyên răn, khuyên can các em. Trong trường hợp phòng ngừa từ xa
những hành vi vi phạm của những cá nhân riêng lẻ hoặc tập thể lớp nhà giáo

dục sử dụng hình thức khuyên nhủ. Giảng giải là phân tích, lập luận, minh
chứng cho học sinh hiểu, hiểu đúng, hiểu đầy đủ những qui phạm pháp luật
hay những vấn đề pháp lý nào đó nhằm thúc đẩy hành vi tích cực của các
em. Áp dụng phương pháp này nhà giáo dục phải linh hoạt và có sự kết hợp
giữa khuyên và giải đồng thời phải trao đổi, trò chuyện tâm tình với các em,
trong trường hợp cần thiết phải gặp riêng học sinh để khuyên bảo, cảm hóa
các em bằng chính tình cảm chân thành của mình. Để phát huy hiệu quả của
phương pháp này nhà giáo dục phải chuẩn bị chu đáo nội dung vấn đề cùng
với những lý lẽ vững chắc và minh chứng cụ thể đồng thời tìm hiểu kỹ đối
tượng học sinh mà mình tiến hành khuyên giải. Phương pháp khuyên giải rất
có hiệu quả đối với lứa tuổi học sinh, đặc biệt khi giáo dục các em những
vấn đề nhạy cảm như tránh xa những hiểm họa từ ma túy, cờ bạc, tình dục,
trò chơi trực tuyến...hay những cám dỗ từ tiền bạc, từ lối sống xa hoa hưởng
thụ. Lắng nghe, nhẹ nhàng khuyên bảo giúp các em thoát khỏi sự khủng
hoảng tâm lý, sự mất cân bằng tinh thần, làm chủ cảm xúc và hành vi của
mình để ứng xử phù hợp sẽ mang lại hiệu quả giáo dục rất lớn. Tranh luận
giúp các em bộc lộ quan điểm của mình, qua đó nhà giáo dục có sự tác động
định hướng phù hợp cần phải được phát huy mạnh mẽ. Tạo cơ hội để các em
lên tiếng, khuyến khích các em tự lập luận vừa để bảo vệ ý kiến của mình
vừa rèn luyện kỹ năng xác định giá trị của cuộc sống. Ví dụ khi giáo dục
cho các em lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc nhà giáo dục có thể nêu hiện
tượng hiện nay ở nước ta học sinh rất thích dùng từ tiếng Anh để thay thế
các từ tiếng Việt trong văn viết, văn nói và cả trong công việc, nhà giáo dục
dùng phương pháp tranh luận để các em bày tỏ quan điểm của mình, qua đó
định hướng nhận thức và hành vi cho các em. Bài học này giáo dục cho học
sinh nhận thấy rằng yêu nước, tự hào dân tộc không chỉ thực hiện nghĩa vụ
quân sự, không chỉ tham gia bảo vệ Tổ quốc, không chỉ giữ gìn trật tự xã
hội...mà còn bằng những hành động thiết thực trong cuộc sống hằng ngày.
Phương pháp thuyết phục còn cho phép nhà giáo dục sử dụng những câu
chuyện cổ tích, câu chuyện đời thường, những bài thơ, ca dao tục ngữ nhằm



khơi gợi những giá trị tốt đẹp và ươm những hạt giống tâm hồn cho các em.
Phương pháp nêu gương cũng mang lại những tín hiệu tích cực từ các em do
đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh thường xây dựng trong mình một hình
mẫu lý tưởng, nếu nhà giáo dục biết hướng các em noi theo hình ảnh tốt đẹp
như người anh hùng trong lịch sử, những nhà bác học, danh nhân hoặc
những tấm gương trong cuộc sống xung quanh như học sinh nghèo, học sinh
khuyết tật học giỏi, học sinh dũng cảm bắt cướp, học sinh cứu bạn, học sinh
làm việc tốt. Sử dụng câu chuyện pháp luật, án xưa tích cũ, ngụ ngôn về
pháp luật, những câu chuyện cổ tích về cách ứng xử con người, về chuẩn
mực làm người...Liên hệ giải thích tính đúng đắn, cao đẹp của các hình
tượng giàu cảm xúc, của các tấm gương, từ đó làm cho học sinh có ấn tượng
mạnh mẽ, sâu sắc và hướng vào những giá trị tốt đẹp. Bên cạnh đó cần nêu
những hành vi, thái độ, tình cảm, quan hệ và sự thể hiện những hành vi tiêu
cực để các em đánh giá, phê phán, phòng tránh. Ví dụ khi tổ chức cho học
sinh tham dự các phiên tòa xét xử nhà giáo dục sử dụng câu chuyện, gương
xấu đó để cùng các em phân tích, mổ xẻ vấn đề và rút ra bài học cho mình.
Phương pháp thuyết phục được áp dụng trong các hoạt động chào cờ, sinh
hoạt lớp, các hội thi tìm hiểu pháp luật, hoạt động tập thể...sẽ phát huy tác
dụng giáo dục rất lớn.
Hai là, đối với các phương pháp tổ chức hoạt động nhằm hình thành kĩ
năng, kĩ xảo, hành vi và thói quen cần đổi mới theo hướng tăng cường hoạt
động luyện tập và rèn luyện cho học sinh thông qua các hoạt động thực tiễn.
Phương pháp tiến hành các hoạt động được thực hiện gồm ba bước. Thứ
nhất, xác định chủ đề, mục tiêu giáo dục của hoạt động. Thứ hai, chuẩn bị
nội dung và hình thức hoạt động. Nội dung cần nhẹ nhàng, gần gũi, không
ôm đồm nhưng có ý nghĩa giáo dục cao. Thứ ba, tổ chức hoạt động. Thông
qua các hoạt động vai trò của học sinh được phát huy, qua đó củng cố, nâng
cao kiến thức pháp luật, rèn luyện kỹ năng thực hành, góp phần nâng cao ý

thức trách nhiệm của học sinh đối với bản thân, gia đình và xã hội. Tùy theo
hình thức GDPL mà xây dựng phương pháp giáo dục phù hợp. Ví dụ thi tìm
hiểu pháp luật có thể tổ chức theo hình thức sân khấu với vai trò chủ động
của học sinh nhằm giúp các em có cơ hội tập dượt, chuẩn bị, quyết định và


chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Phương pháp giáo dục sẽ đặc biệt
hiệu quả khi nhà giáo dục đưa học sinh vào cuộc sống muôn màu, muôn vẻ
đang diễn ra bên ngoài cánh cửa nhà trường. Do vậy, cần tăng cường và đổi
mới phương pháp giáo dục thông qua hình thức hoạt động thực tiễn. Giáo
dục quyền và nghĩa vụ lao động hoặc giáo dục tính tiết kiệm, chống lãng phí
cho học sinh bằng cách đưa các em đến các cơ sở sản xuất, đến các vùng
quê để tham gia lao động ; đưa các em đến trung tâm cai nghiện khi giáo
dục các em sự nguy hiểm của ma túy và phối hợp với cán bộ ở trung tâm
hướng dẫn các em cách phòng, tránh ma túy; thông qua hoạt động giúp đỡ,
chia sẽ những khó khăn với những người bạn kém may mắn của mình ở các
trại trẻ mồ côi, trung tâm khuyết tật giáo dục cho các em lòng nhân ái; đưa
các em đi thăm hỏi, giúp gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với
cách mạng, gia đình có nạn nhân chất độc màu da cam để giáo dục các em
biết yêu Tổ quốc, yêu hòa bình và luôn hành động vì mục tiêu đó; tổ chức
cho các em đến các trường giáo dưỡng và tham gia một số hoạt động giao
lưu với các bạn ở trường để các em hiểu được những con đường, những cám
dỗ có thể dẫn các em đến hành vi vi phạm. Khi muốn học sinh yêu quí thiên
nhiên thì nên tổ chức các buổi đi trồng cây xanh, dọn dẹp làm đẹp vườn hoa,
công viên, bờ biển... Áp dụng phương pháp này nhà giáo dục phải huy động
sự tham gia tích cực của các em học sinh, thiết kế nội dung và cách thức tác
động phù hợp nhằm định hướng giá trị cho các em. Sau mỗi buổi thực tế yêu
cầu các em viết bài hoặc tổ chức trao đổi, thảo luận để các em được nói lên
những cảm xúc của mình, đưa ra ý kiến, đề xuất những ý tưởng hoặc các
biện pháp giải quyết những vấn đề đặt ra. Sự tập dượt này đồng thời còn tạo

cơ hội cho các em trở thành những tuyên truyền viên pháp luật trong cộng
đồng. Cuốn hút các em vào các hoạt động GDPL ngoài giờ, tham gia công
việc cụ thể sẽ giúp các em thể nghiệm một cách sinh động kiến thức pháp
luật, làm phong phú và sâu sắc hơn những hiểu biết của các em về cuộc
sống, đó là là phương thức phát triển hiệu quả nhân cách học sinh.
Thứ ba, đổi mới các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh
hành vi. Đây là nhóm phương pháp có vai trò hỗ trợ đắc lực cho các phương
pháp giáo dục khác đạt hiệu quả cao hơn. Biết khen ngợi, khen thưởng và


×