Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Giáo trình triết học trong khoa học tự nhiên và phương pháp dạy học phần triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 100 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)

TRIẾT HỌC TRONG KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC PHẦN TRIẾT HỌC
Tác giả: Th.s Lương Thị Lan Huệ

Năm 2017

1


LỜI NÓI ĐẦU
---*&*--Nhấn mạnh mối quan hệ khăng khít không thể tách rời của triết học và khoa học
tự nhiên, đương thời A.Anhxtanh đã viết: “Các khái quát hóa triết học cần phải dựa trên
kết quả khoa học”. Thực tiễn cho thấy, sự phát triển của khoa học tự nhiên và những vấn
đề do nó đã đặt ra buộc giới khoa học phải lý giải chúng dưới góc độ triết học. Trong
các tác phẩm của Ăngghen cũng từng khẳng định các phát minh khoa học tự nhiên đặc
biệt là ba phát minh khoa học tự nhiên thế kỷ XIX (Học thuyết Bảo toàn và chuyển hóa
năng lượng, học thuyết Tiến hóa, học thuyết Tế bào) đã ảnh hưởng rất lớn đến việc xác
lập thế giới quan duy vật biện chứng của CácMác và Ăngghen. Ông viết: “Nhờ ba phát
hiện vĩ đại đó và nhờ những thành tựu lớn lao khác của khoa học tự nhiên, mà ngày nay
chúng ta có thể vạch ra những nét lớn, không những mối liên hệ giữa các sự vật hiện
tượng của tự nhiên trong những lĩnh vực khác nhau mà cả mối liên hệ giữa các lĩnh vực
khác nhau ấy, và do đó trình bày một bức tranh tổng quát của toàn bộ tự nhiên, coi như
một chỉnh thể cố kết, dưới một hình thức khá có hệ thống bằng các tài liệu do chính khoa
học tự nhiên thực nghiệm cung cấp cho”. Do đó, để nghiên cứu sâu bản chất triết học
Mác-Lênin không thể không nghiên cứu giá trị khoa học tự nhiên với tính cách là cơ sở,


tác động qua lại, ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển triết học Mác-Lênin. Nghiên
cứu triết học trong khoa học tự nhiên sẽ giúp cho giảng viên, giáo viên giảng dạy triết
học tốt hơn, sâu sắc hơn.
Phải nói rằng, đây là học phần đang mới mẻ, tài liệu tham khảo để giảng dạy và
nghiên cứu còn hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu của môn học. Nhằm đáp ứng nhu
cầu học tập, nghiên cứu của sinh viên đồng thời nghiên cứu để hiểu sâu hơn nội dung
học phần, chúng tôi đã biên soạn bài giảng “Triết học trong khoa học tự nhiên và
phương pháp giảng dạy Triết học”. Bài giảng gồm có 4 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về triết học trong khoa học tự nhiên
Chương 2: Một số chuyên đề triết học trong khoa học tự nhiên
Chương 3: Tổng quan về phương pháp giảng dạy triết học ở trường THPT
Chương 4: Soạn và thực hành giảng dạy triết học ở trường THPT
Mặc dù đã cố gắng để thâu tóm nội dung bài giảng một cách đô đọng, hệ thống và
khoa học nhất, tuy nhiên không thể tránh khỏi sai sót cần chỉnh sửa và bổ sung. Rất
mong nhận được ý kiến phản hồi từ các sinh viên và giảng viên để bài giảng hoàn thiện
hơn.
Tác giả

Lương Thị Lan Huệ

2


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRIẾT HỌC TRONG KHOA HỌC
TỰ NHIÊN................................................................................................................2

1.1. Những vấn đề triết học của khoa học tư nhiên................................................2
1.2. Vai trò của khoa học tự nhiên đối với sự phát triển của triết học..................11
1.3. Khả năng tiên đoán của triết học trong lĩnh vực của khoa học tự nhiên.......18
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TRIẾT HỌC TRONG KHTN............ ......28
2.1. Triết học trong sinh học.................................................................................28
2.2. Triết học trong toán học.................................................................................36
2.3. Triết học trong vật lý học..............................................................................44
CHƯƠNG 3: TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ...............................................................49
3.1. Nguyên tắc giảng dạy triết học......................................................................49
3.2. Phương pháp giảng dạy nguyên lý, quy luật triết học...................................54
CHƯƠNG 4: SOẠN VÀ THỰC HÀNH GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG..................................................................................58
4.1. Quan niệm về thiết kế bài dạy học.......................................................................58
4.2. Các bước thiết kế bài dạy học môn triết học ở trường trung học phổ thông......59
4.3. Soạn giáo án và tổ chức giảng dạy cho sinh viên..........................................64

3


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRIẾT HỌC TRONG KHOA
HỌC TỰ NHIÊN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC CỦA KHOA HỌC TỰ NHIÊN
1.1.1. Triết học và triết học tự nhiên
Vào thời kỳ cổ đại, khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước Công
nguyên, triết học đã xuất hiện ở ba trung tâm văn minh nhất của nhân loại đó là Ấn
Độ, Trung Quốc và Hy Lạp cổ đại.
Theo tiếng Ấn Độ cổ xưa, thuật ngữ triết học có tên gọi là Darsana, có ngiax
là con đường chiêm ngưỡng, suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.Trong
triết học Trung Quốc thuật ngữ triết học được gọi là “tri xuế’ có nghĩa là học cách

dùng trí tuệ để truy tìm bản chất của sự vật.Trong tiếng Hy Lạp, thuật ngữ triết học
bắt nguồn từ chữ “Philosophia”. Từ Philosophia được hình thành từ sự ghép nối
của hai từ “Philos’ là yêu mến và “Sophia” là sự thông thái. Vì thế lý giải theo từ
gốc thì triết học có nghĩa là yêu mến sự thông thái. Tuy nhiên lý giải theo từ gốc
như vậy chưa nêu lên được nội hàm của khái niệm Triết học. Bởi vì nó không chỉ
ra được đối tượng, nội dung, chức năng và nhiệm vụ của triết học.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì triết học là hệ thống tri thức lý
luận chung nhất của con người về thế giới về vị trí của con người trong thế giới đó.
Triết học chỉ ra đời khi hội tụ đầy đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, trong xã hội đã xuất hiện sự phân công lao động, tách lao động trí
óc ra khỏi lao động chân tay, đã có sự phân hoá giai cấp rõ rệt. Trong lịch sử phát
triển của xã hội loài người thì đây chính là thời kỳ chuyển biến từ chế độ từ chế độ
xã hội công xã nguyên thuỷ sang xã hội chiếm hữu nô lệ. ở thời kỳ này một số
người lao động trí óc thuộc tầng lớp chủ nô chuyên tìm cách lý giải nghiên cứu các
hiện tượng tự nhiên và xã hội. Họ đưa ra những nhận định khái quát, trừu tượng có
hệ thống mang tính lý luận. Đây là cơ sở tự nhiên, xã hội của sự nẩy sinh triết học.
4


Thứ hai, trình độ nhận thức nói chung, tư duy trừu tượng và khái quát của
con người nói riêng phải đạt đến một trình độ nhất định. Bởi vì sự phản ánh thế
giới vào trong đầu óc của con người với tính cách là triết học không còn dừng lại ở
sự mô tả tự phát trực tiếp, giản đơn, rời rạc, bề ngoài mà phải là sự phản ánh chủ
động , tích cực, tự giác, một hệ thống những quan niệm chung có tính quy luật của
sự vật hiện tượng. Những quan niệm như thế không thể hình thành ngay khi con
người mới xuất hiện mà phải qua một quá trình tích luỹ tri thức, tư duy con người
đạt đến trình độ khái quát hoá, trừu tượng hoá, đủ sức tách bản chất của sự vật ra
khỏi sự vật cụ thể, lấy cái chung từ trong những sự vật riêng lẻ. Chính những điều
kiện thực tiễn xã hội và nhận thức đó là những nhân tố dẫn đến sự xuất hiện triết
học với tính cách là một hình thái ý thức xã hội mang tính khái quát, trừu tượng

cao.
Ngay từ khi ra đời, triết học đã có những đặc điểm riêng biệt. Đặc điểm
chính của triết học là ngay từ khi mới ra đời nó là hệ thống những quan điểm
chung nhất của con người về thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy), lý giải sự vận
động, phát triển của sự vật hiện tượng. Nó có những đặc điểm riêng biệt. Trước hết
nó là một hình thái ý thức xã hội cổ xưa nhất của nhân loại và quan trọng nhất. Bởi
vì đây là một hình thái ý thức xã hội xuất hiện sớm nhất trong lịch sử nhận thức
của con người. Nó là sự tổng hợp những quan niệm chung nhất của con người về
thế giới và về vai trò của con người trong thế giới đó. Vì vậy triết học tác động
mạnh mẽ nhất và hiệu quả nhất đối với việc xác định phương hướng và giải pháp
cho con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Vai trò tác động ấy của triết
học ngày càng tăng lên cùng với quá trình phát triển tri thức của nhân loại. Triết
học tồn tại mãi mãi trong đời sống của con người.
Triết học khác với các hình thái ý thức khác ở chỗ: Nó xem xét thế giới
trong một chỉnh thể nhằm xác định bản chất, những quy luật vậ động và phát triển
của thế giới, từ đó vạch ra con đường, phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới.
Kể từ khi xuất hiện cho đến nay, triết học tập trung giải quyết vấn đề cơ bản
lớn của nó là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức . Điều này đã được
5


Ăngghen khẳng định: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học đặc biệt là triết học
hiện đại đó là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Sở dĩ vấn đề mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức được xác định là vấn đề cơ bản của triết học, bởi vì tất cả các sự
vật và hiện tượng chúng ta gặp trong đời sống hằng ngày hoặc là những sự vật hiện
tượng tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người, hoặc là những hiện tượng
tồn tại trong ý thức tinh thần con người. Đó là hai lĩnh vực “vật chất” và “tinh
thần”. Hai phạm trù triết học này rộng nhất, quan trọng nhất làm cơ sở nền tảng
cho sự hình thành mọi tư tưởng triết học khác. Hơn nữa hai phạm trù này lại có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau, tồn tại không tách rời

nhau khiến cho một nhà triết học nào cũng đều tìm hiểu giải quyết mối quan hệ
giữa chúng. Việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo khuynh
hướng nào sẽ quyết định việc giải quyết tất cả vấn đề khác trong triết học theo
khuynh hướng đó. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được xác định là
vấn đề cơ bản của triết học bởi lẽ việc giải quyết mối quan hệ đó sẽ là tiêu chuẩn
để phân biệt giữa các trường phái, trào lưu, quan điểm triết học trong lịch sử thuộc
loại duy vật hay duy tâm.
Vấn đề cơ bản của triết học có cấu trúc phức tạp nhưng ở góc độ khái quát
nó được thể hiện ở hai mặt: Mặt thứ nhất giữa vật chất và ý thức thì cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Mặt thứ hai, con người có khả
năng nhận thức được thế giới hay không? Tuỳ theo cách giải quyết khác nhau về
mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học mà các học thuyết được chia thành hai
trào lưu chính đó là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật khẳng định rằng trong mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức thì vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất tồn tại khách quan
độc lập với ý thức của con người và đóng vai trò quyết định đối với ý thức. Còn ý
thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người. Trong lịch sử vận
động và phát triển của chủ nghĩa duy vật được chia thành ba hình thức nối tiếp
nhau đó là chủ nghĩa duy vật cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
6


Đối lập với cách giải quyết của chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm cho
rằng, trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì ý thức là cái có trước, vật chất
là cái có sau, ý thức đóng vai trò quyết định vật chất. Trong quá trình tồn tại và
phát triển chủ nghĩa duy tâm chia thành hai hình thức thể hiện đó là chủ nghĩa duy
tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Hai cách giải quyết vấn đề cơ bản
của triết học trên đều xuất phát từ một nguyên thể hoặc là vật chất hoặc là tinh
thần.Vì vậy, chúng được gọi là các trường phái nhất nguyên luận. Bên cạnh đó còn

có trường phái nhị nguyên luận, cho rằng cả hai nguyên thể vật chất và ý thức cùng
tồn tại song song với nhau không có cái nào có trước hay có sau, không cái nào
quyết định cái nào. Về thực chất đây không phải là một cách thức mới mà là một
khuynh hướng muốn dung hoà hai khuynh hướng. Cho nên trong lịch sử thực tiễn
của triết học nhị nguyên luận đều rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Sự phân định cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo hai khuynh
hướng duy vật và duy tâm không phải là sự tuỳ tiện mà ẩn nấu sâu sa vấn đề hệ tư
tưởng lẫn vấn đề lợi ích giai cấp, các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Khuynh
hướng duy vật trong triết học là khuynh hướng tư tưởng của những lực lượng , các
giai cấp tiến bộ, cách mạng trong xã hội. Khuynh hướng đó có mối quan hệ chặt
chẽ với khoa học cụ thể . Ngược lại khuynh hiướng duy tâm là khuynh hướng tư
tưởng của các lực lượng và các giai cấp lạc hậu, phản tiến bộ trong xã hội. Các giai
cấp lực lượng này đã sử dụng triết học duy tâm để mê hoặc quần chúng nhằm cũng
cố địa vị thống trị , bảo vệ lợi ích giai cấp của họ. Chính vì vậy, khuynh hướng duy
tâm thường có mối quan hệ chặt chẽ với tôn giáo và mang tính phản cách mạng.
Khi giải quyết mặt đề thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học tức là con
người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan hay không. Trong lịch sử
triết học có hai quan điểm khác biệt nhau đó là khuynh hướng khẳng định và
khuynh hướng phủ định. Khuynh hướng khẳng định cho rằng con người có khả
năng nhận thức được thế giới khách quan (khả tri), còn khuynh hướng phủ định
cho rằng con người không có khả năng nhận thức được thế giới khách quan (bất
khả tri). Những trào lưu khuynh hướng triết học đối lập nhau luôn luôn đấu tranh
7


với nhau, phủ định lẫn nhau. Cuộc đấu tranh này diễn ra hết sức phức tạp gay gắt,
quyết liệt trong lịch sử triết học tạo nên động lực cho sự vận động và phát triển của
triết học.
Bằng việc khái quát từ thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của giai
cấp vô sản chống lại sự áp bức, bất công của giai cấp tư sản ở thế kỷ XIX, nhờ sự

kế thừa phát triển sáng tạo các trào lưu triết học đặc biệt là triết học cổ điển Đức,
chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp và Anh, kinh tế chính trị cổ điển Anh và các
phát minh khoa học thời đó mà triết học Mác-Lênin đã ra đời. Triết học MácLênin đã thống nhất được tính lý luận và thực tiễn, tính cách amngj và khoa học,
sáng tạo. Vì vậy, triết học Mác-Lênin chẳng những là hệ tư tưởng khoa học tiên
tiến nhất của thời đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là công cụ để
nhận thức và cải tạo thế giới. Chỉ có triết học Mác-Lênin với chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử mới trang bị cho con người thế giới quan
đúng đắn trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.
Ngoài ra, triết học Mác-Lênin còn giải quyết một cách khoa học về các vấn
đề không gian, thời gian,, vận động, các quy luật cơ bản của triết học, lý luận nhận
thức, hình thái kinh tế xã hội, vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhà nước và
cách mạng , ý thức xã hội và vấn đề con người. Vì vậy, triết học Mác-Lênin được
xem là một môn khoa học nghiên cứu đúng đắn những quy luật chung nhất của tự
nhiên-xã hội và tư duy và về vai trò của con người trong thế giới đó.
Giới tự nhiên tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người, thường
xuyên tác động vào các giác quan của con người buộc con người phải nhận thức và
lý giải nó. Vì thế cùng với sự ra đời và phát triển của nhận thức thì khái niệm “triết
học tự niên” cũng nảy sinh và vận động trong lịch sử. Về bản chất triết học tự
nhiên là một hình thái ý thức xã hội nghiên cứu những quy luật vận động và phát
triển của thế giới tự nhiên với tính cách là một chỉnh thể. Tuy nhiên trong lịch sử
vận động và phát triển tư tưởng riết học của nhân loại có nhiều quan niệm khác
nhau về triết học tự nhiên.

8


Ở thời kỳ cổ đại, triết học tự nhiên là một hình thái ý thức dung hợp tất cả
những tri thức con người về thế giới. Tức là mọi sự hiểu biết của con người về tự
nhiên-xã hội và tư duy. Lúc đó chưa có sự phân định những tri thức nào là tri thức
khoa học tự nhiên, tri thức nào là khoa học xã hội.. Triết học tự nhiên được mệnh

danh là khoa học của các khoa học bao hàm trong đó mọi tri thức của con người về
thế giới như toán học, vật lý học, hoá học, đạo đức học, mỹ học...Chính vì thế mà
trong thời kỳ cổ đại, triết học tự nhiên thường được người Hy Lạp cổ đại cho là vật
lý học hay siêu hình học.
Đặc trưng nổi bật của triết học tự nhiên ở giai đoạn này là lý giải có tính
biện chứng, tự phát, ngây thơ, mộc mạc về thế giới tự nhiên.
Thời kỳ trung cổ , dưới sự tác động và chi phối của chủ nghĩa kinh viện,
thần học những nội dung chủ yếu của triết học tự nhiên đã có sự thay đổi căn bản
theo khuynh hướng duy tâm thần bí.
Thời kỳ phục hưng cùng với những phát minh vĩ đại có tính chất mở đường
của Copecnich về hệ nhật tâm (trái đất quay xung quanh mặt trời) đã khiến những
tư tưởng đúng đắn về tự nhiên trước đây được phục hồi, phổ biến và phát triển.
Triết học tự nhiên thời kỳ này được trang bị kiến thức khoa học tự nhiên nên nó
mang tính biện chứng và duy vật sâu sắc. Chẳng hạn về tính vô hạn của thế giới tự
nhiên và tính vô số những thế giới tạo nên giới tự nhiên (Bruno) hay tư tưởng về
trùng hợp của các mặt đối lập trong cái vô cùng lớn và vô cùng bé của Nicolai
Cuda.
Từ thế kỷ XVII, một loạt các lĩnh vực của khoa học tự nhiên như toán học,
vật lý học, cơ học rồi đến sinh học dần tách ra khỏi triết học tự nhiên và trở thành
khoa học độc lập. Trong sự vận động và phát triển giữa các khoa học đó vẫn có
mối liên hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát
triển.
Bước sang thế kỷ XVIII, trong triết học của phái khai sáng, triết học tự nhiên
đã nêu lên mối quan hệ phổ biến giữa các ngành khoa học này và đã có khuynh
hướng phát triển mạnh mẽ sâu rộng hơn so với trước đó.
9


Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, triết học tự nhiên của Seelinh đã đóng
một vai trò to lớn. Mặc dù vẫn dựa trên cơ sở duy tâm nhưng ông đã nêu lên những

tư tưởng thống nhất giữa các lực lượng của tự nhiên. Bên cạnh đó có một số nhà
triết học theo trào lưu duy tâm của những nhà vật lý học đã không bác bỏ được chủ
nghĩa duy vật cũng không chứng minh được mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy tâm
với thế giới tự nhiên. Khi nhận xét những đặc điểm chung của triết học tự nhiên
thời kỳ này, trong tác phẩm “Lut Vich Phobach và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức’ Ăngghen đã viết rằng: Triết học đó chỉ có thẻ làm nhiệm vụ cung cấp
một bức tranh bao quát về thế giới nhưng đồng thời đưa ra nhiều điều vô lý nhưng
không thể nào khác thế được.
Như vậy, chúng ta thấy ngay từ khi mới xuất hiện với tính cách là một hình
thái ý thức xã hội, triết học tự nhiên đã dung hợp tất cả những tri thức của con
người về thế giới. Nó bao gồm tất cả các bộ môn khoa học có tham vọng là khoa
học của các khoa học . Trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử tư tưởng
nhận thức nhân loại nội dung của triết học tự nhiên đã bị phân hoá biến đổi, khi thì
duy vật khi thì duy tâm phản khoa học. Thành thử triết học tự nhiên tuy có một số
giá trị nhất định nhưng đã bộc lộ sự ngưng trệ, ốm yếu già nua cần phải thay thế
một thứ triết học khác tiến bộ hơn đáp ứng với sự phát triển của triết học.
Triết học Mác-Lênin là đỉnh cao nhất trong sự phát triển của tư tưởng triết
học nhân loại. Nó là kết quả của sự kế thừa những giá trị tư tưởng tiến bộ triết học
và các khoa học khác đồng thời còn là sản phẩm của trí tuệ thiên tài của CácMác,
Ăngghen và Lênin. Vì vậy mà triết học Mác-Lênin mới trang bị được cho con
ngươi thế giới quan đúng đắn và phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải
tạo thế giới. Triết học Mác-Leenin bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với đời sống thực
tiễn xã hội, liên hệ chặt chẽ với các khoa học đặc biệt là khoa học tự nhiên.
1.1.2. Khoa học và khoa học tự nhiên
Khoa học là một hiện tượng xã hội xuất hiện sớm trong lịch sử nhận thức
của loài người. Nó phát sinh trong thời kỳ chuyển biến từ chế độ cộng sản nguyên

10



thuỷ sang chế độ chiếm hữu nô lệ, khi có sự phân công lao động tách lao động trí
óc ra khỏi lao động chân tay.
Khi trả lời cho câu hỏi “Khoa học là gì?” nhà triết học Arixtot cho rằng ‘Khoa học
là sự xác định đối tượng”. Quan niệm như vậy chưa vạch ra được bản chất của
khoa học mà chỉ phần nào nêu ra được mục đích, nhiệm vụ của khoa học. Nhà triết
học Hêgnh cho rằng ‘Khoa học thể hiện như một vòng tròn, căn cứ đơn giản bằng
cách trung gian hoá , vả lại vòng tròn này cũng đồng thời là một vòng tròn của các
vòng trong khác...những vòng khâu của dây chuyền này thể hiện như một khoa học
riêng biệt”. Quan niệm này nêu lên được mối liên hệ giữa các khoa học mà chưa
nêu lên được bản chất của khoa học. Nà duy vật không triệt để người Pháp là
Benray lại quả quyết: “Khoa học thahf quả của nhận thức trí tuệ chỉ dùng để đảm
bảo cho chúng ta chi phối được thế giới tự nhiên. Nó chỉ cho chúng ta biết được
cách sử dụng sự vật nhưng không nói gì hết về bản chất sự vật”. Quan niệm này
chỉ nêu ra được vai trò tác dụng của khoa học nhưng chưa nêu lên được bản chất
của khoa học thậm chí còn phủ nhận bản chất của khoa học.
Cho đến nay vẫn còn có sự tranh cải, chưa thống nhất về nội hàm khái niệm khoa
học. Gần đây các giáo trình triết học Mác-Leenin thường sử dụng khái niệm khoa
học của tác giả Lê Hữu Nghĩa đó là “Khoa học là một hệ thống những tri thức
được khái quát từ thực tiễn và được kiểm nghiệm bởi thực tiễn, phản ánh dưới
dạng logic trừu tượng những thuộc tính, kết cấu , những mối liên hệ bản chất,
những quy luật của tự nhiên xã hội và bản thân con người. Điều ghi nhận ở định
nghĩa này là tác giả đã khẳng định ‘khoa học là một hệ thống những tri thức chân
thực về thế giới” tức là tác giả đã đề cập đến phần nào bản chất của khoa học và
phạm vi của nó ‘phản ánh các quy luật tự nhiên-xã hội và tư duy”. Từ sự phân tích
trên, chúng ta thấy khoa học có những đặc trưng cơ bản sau:
- Khoa học với tính cách là một hệ thống những tri thức, hình thái ý thức xã
hội phản ánh bản chất của thế giới khách quan nhưng đồng thời lại ở bên ngoài thế
giới đó. Nghĩa là đối tượng của khoa học là các quy luật vận động của cả tự nhiên,

11



xã hội và tư duy. Đó là sự phản ánh thế giới chứ không phải là chính bản thân thế
giới đó.
- Hệ thống tri thức được coi là khoa học bao gồm toàn bộ những hiểu biết cụ
thể và đa dạng của con người về thế giới đó. Đó là các khái niệm, phạm trù, quy
luật được tập hợp thành một chỉnh thể có tính lôgic, hệ thống.
- Hệ thống những tri thức được coi là khoa học phải là những tri thức đúng
đắn, chân thực. Nghĩa là các tri thức đó phẩn ánh đúng đắn những hình thái vận
động của tự nhiên, xã hội và tư duy. Những tri thức ấy khái quát từ thực tiễn và
được thực tiễn kiểm nghiệm tính chân thực của nó.
Từ những đặc điểm như vậy, chúng ta khẳng định rằng: “Khoa học là một hệ
thống tri thức chân thực phản ánh dưới dạng trừu tượng và khái quát những thuộc
tính, những quy luật vận động phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Kể từ khi tách khỏi triết học tự nhiên để trở thành các khoa họcđộc lập, các
khoa học tự nhiên có lịch sử vận động và phát triển riêng biệt. Trong sự vận động
và phát triển đó nó có mối quan hệ khăng khít với các khoa học cụ thể trong đó có
triết học.
Khi đề cập đến bản chất của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng
khẳng định: “Khoa học tự nhiên là một hệ thống những tri thức của con người về
các quy luật vận động và phát triển của giới tự nhiên.” Hệ thống các tri thức đó
được thể hiện ở ở trong các bộ môn khoa học cụ thể như Sinh học, Vật lý học, Cơ
học, Hoá học...So với các khoa học khác thì khoa học tự nhiên có tốc độ phát triển
rất mạnh mẽ. Theo các số liệu thống kê thì cứ năm năm thì số lượng tri thức các
khoa học lại tăng lên gấp đôi. Đứng trước sự tăng trưởng và phát triển đó buộc con
người phải tìm các hệ thống hoá, phân loại các ngành khoa học và mối liên giữa
chúng nhằm vận dụng một cách có hiệu quả.
1.1.3. Vấn đề triết học của khoa học tự nhiên
Trong những năm gần đây, trên các tạp chí ấn phẩm triết học, số lượng công trình
nghiên cứu những vấn đề triết học của khoa học tự nhiên ngày một tăng. Các hội

nghị, hội thảo, xênina về những vấn đề này được tổ chức đều đặn ở từng nước
12


trong phạm vi quốc tế. Nhiều nước trong các trường đại học, các viện triết học đã
hình thành và phát triển mạnh mẽ các chuyên ban với đội ngũ đông đảo các cán bộ
chuyên về lĩnh vực này. Ở nước ta, trong mấy năm gần đây lĩnh vực này cũng bắt
đầu được chú ý.
Việc tăng cường nghiên cứu những vấn đề triết học trong khoa học tự nhiên
không phải do tùy hứng hay do tính thời trang mà đó là quy luật phát triển tất yếu
của tri thức khoa học, do sự tiến bộ mạnh mẽ của khoa học và do yêu cầu khách
quan của cả triết học và khoa học tự nhiên. Sự cộng tác nghiên cứu giữa các nhà
triết học và các nhà khoa học tự nhiên đã mang lại kết quả thiết thực alf nhiều công
trình có chất lượng cao được xuất bản. Việc nghiên cứu những vấn đề triết học của
khoa học tự nhiên, khái quát những kết quả của nó không chỉ góp phần phát triển
triết học mà còn thúc đẩy cả khoa học tự nhiên tiến lên. Điều này không phải chỉ
bây giờ mới được thừa nhận rộng rãi. Chẳng hạn, đương thời A.Anhxtanh đã viết:
“Các khái quát hóa triết học cần phải dựa trên các kết quả của khoa học. Tuy nhiên
một khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng thường rất ảnh hưởng đến
sự phát triển tiếp tục của tư tưởng khoa học khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều
phương hướng phát triển có thể có”. Mặt khác chính sự phát triển của khoa học tự
nhiên và những vấn đề do nó đặt ra buộc giới khoa học (cả triết học và khoa học tự
nhiên) phải lý giải chúng về mặt triết học. Vậy thế nào là những vấn đề triết học
trong khoa học tự nhiên?
Khái niệm “những vấn đề triết học của khoa học tự nhiên” được dùng rộng
rãi trong khoa học chúng ta. Nội dung khái niệm này đang ngày càng được làm
chính xác thêm. Song nói như thế không có nghĩa rằng chỉ đến những năm gần đây
người ta mới bắt đầu nghiên cứu những vấn đề triết học của khoa học tự nhiên.
Ngay từ thời mình Ăngghen đã phân tích những vấn đề triết học của vật lý, hóa
học thiên văn học, toán học, thiên văn học, nhân học. Toàn bộ cuốn biện chứng của

tự nhiên của Người dành cho việc nghiên cứu những vấn đề triết học quan trọng
nhất của khoa học tự nhiên thời đó và phát triển lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Mục đích của Ăngghen là vạch ra các đặc tính và những quy luật quan
13


trọng nhất của vận động và phát triển dựa trên các tài liệu của khoa học tự nhiên,
đồng thời Ăngghen cũng cúng nghiên cứu đề xuất những tư tưởng làm cơ sở
phương pháp luận cho việc nghiên cứu các khoa học cụ thể, khắc phục những thiếu
sót mà các nhà khoa học tự nhiên thời đó mắc phải. Sức mạnh của tư duy biện
chứng đã giúp Ăngghen trong khi khái quát và phân tích những thành tựu của khoa
học tự nhiên thời đó, đưa ra những tiên đoán thiên tài mà về sau khoa học tự nhiên
hoàn toàn xác nhận.
Tiếp tục sự nghiệp của Ăngghen, trong “chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán”, V.I.Lênin đã phân tích những vấn đề vô cùng quan trọng do
kho học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đều thế kỷ XX đặt ra. Trong cuốn sách đánh dấu
cả một thời đại này, Lênin đã cho chúng ta một mẫu mực về cách phân tích những
vấn đề triết học của vật lý học nói riêng và khoa học tự nhiên nói chung mà không
sa vào việc kể lại các thành tựu khoa học cụ thể cũng như không sa vào lối tư biện
của triết học tư biện tự nhiên. Khi vật lý học hiện đại đã đề ra một loạt vấn đề mới
mà chủ nghĩa duy vật biện chứng phải giải quyết, khi các đại biểu của chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán cố tình làm cho người ta tin rằng, cuộc khủng hoảng của
bức tranh cơ học về thế giới chính là sự đỗ vỡ của toàn bộ thế giới quan duy vật thì
Lênin với tư cách là nhà triết học đã phân tích những vấn đề mới ấy, đã khái quát
những thành tựu của khoa học tự nhiên (chủ yếu là vật lý học) rút ra những kết
luận về thế quan nhận thức luận, phương pháp luận quan trọng bảo vệ vững chắc
những nguyên lý cơ bản của triết học Mác, vạch ra con đường giải thoát khủng
hoảng cho vật lý học.Trong khi khái quát và phân tích toàn diện những thành tựu
mới nhất của khoa học tự nhiên, Lênin không những chỉ xem xét lại, bổ sung các
khía cạnh mới của phạm trù triết học truyền thống như vật chất, vận động, không

gian, thời gian, nhân quả… mà còn đưa vào những khái niệm mới ví dụ phạm trù
phản nahhs với tư cách là đặc tính phổ biến nhất của vật chất. Phạm trù này cho
đến nay vẫn có ảnh hưởng to lớn đói với khoa học.
Trung thành với những nguyên tắc do Ăngghen và Lênin nêu lên, các nhà
triết học và khoa học tự nhiên Mácxit đứng trên lập trường Mácxit đang nghiên
14


cứu và phát triển chúng một cách sáng tạo. Tuy nhiên không phải mọi người đã
hoàn toàn nhất trí với nhau về đối tượng và nội dung của “vấn triết học của khoa
học tự nhiên” nói riêng và “ những vấn đề triết học của khoa học cụ thể” nói
chung. Có ý kiến coi những vấn đề triết học của khoa học tự nhiên chính là những
vấn đề lý luận chung của khoa học tự nhiên. Ý kiến này hoàn toàn không đúng, vì
không phải mọi vấn đề lý luận của khoa học tự nhiên đều là vấn đề triết học. Việc
đánh đồng hai loại vấn đề này không khỏi dẫn đến chỗ những công trình gọi là
“Những vấn đề triết học của khoa học tự nhiên” thực chất là trình bày lại các giả
thuyết và kết quả của một khoa học nào đó. Một loại ý kiến khác coi những vấn đề
triết học của khoa học tự nhiên là sự minh họa đơn giản tác động của các quy luật
của phép biện chứng trong lĩnh vực khoa học ự nhiên. Những người quan niệm
như vậy thường cố gắng tìm những đẫn chứng rút ra từ khoa học tự nhiên, so sánh
chúng với các phạm trù, quy luật của phép biện chứng. Quan niệm như vậy không
chính xác.
Muốn xác định thế nào là những vấn đề triết học của khoa học tự nhiên thì
trước hết phải thừa nhận rằng đó không phải là vấn đề khoa học chuyên môn thuần
túy. Những vấn đề đó không thể giải quyết được bằng các phương pháp phạm trù,
khái niệm…nói chung là bằng các phương tiện của một chuyên môn riêng lẻ. Song
những vấn đề đó cũng không phải là những vấn đề triết học thuần túy. Những vấn
đề triết học của khoa học tự nhiên nằm ở biên giới của khoa học tự nhiên và của
triết học, chúng nảy sinh cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên, đặc biệt là
khoa học tự nhiên phát triển đến giai đoạn cao. Việc giải quyết chúng không chỉ có

tác dụng tích cực, giá trị thúc đẩy, giá trị gợi mở đối với khoa học tự nhiên mà còn
có tác dụng và giá trị đối với cả triết học nữa. Việc giải quyết triết học của khoa
học tự nhiên đồng thời phải đạt được hai mục đích lớn:
Một là, góp phần giải thích đúng đắn nội dung những phát minh mới của
khoa học, mở đường cho khoa học tự nhiên tiếp tục phát triển như Anhxtanh đã
nói, tức là giải quyết những tình huống có vấn đề nảy sinh trong khoa học tự nhiên
trên lập trường của triết học Mác-Lênin.
15


Hai là, góp phần làm phong phú thêm hệ thống khái niệm, phạm trù của
khoa học tự nhiên và của triết học, góp phần nghiên cứu những quy luật chung nhất
của tự nhiên xã hội và tư duy đồng thời góp phần giải quyết vấn đè cơ bản của triết
học.
Một vấn đề được coi là vấn đề triết học của khoa học tự nhiên khi giải quyết
xong phải đáp ứng được những yêu cầu đó. Xác định như vậy, theo chúng tôi, sẽ
tránh được cả hai khuynh hướng mở rộng tùy tiện và thu hẹp quá mức những vấn
đề triết học của khoa học tự nhiên, đồng thời coi hệ thống các vấn đề ấy là hệ
thống mở, nghĩa là chúng có thể thay đổi tùy thuộc vào trình độ phát triển, vào nhu
cầu giải quyết của khoa học tự nhiên và vào trình độ phát triển của các phạm trù
triết học.
Xuất phát từ quan niệm như vậy và dựa vào tư tưởng nổi tiếng của Lênin về
sự thống nhất của phép biện chứng, lôgíc và lý luận nhận thức (“Trong Tư bản,
Mác áp dụng lôgíc, phép biện chứng và lý luận nhận thức không cần ba từ: đó là
cùng nột cái duy nhất của chủ nghĩa duy vật…”), chúng ta có thể nêu một cách
khái quát những nhóm vấn đề triết học của khoa học tự nhiên như sau:
1. Nghiên cứu và vạch ra những quy luật chung của sự tổ chức, sự vận động
và sự phát triển của các hệ thống vật chất khác nhau. Mức độ khái quát của các quy
luật này đương nhiên không thể cao như các quy luật chung của chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Đây chính là khía cạnh biện chứng khách quan, hay có thể gọi theo

cách thông thường là khía cạnh bản thể luận. Song ở đây cần chú ý là không tách
rời và tuyệt đối hóa mặt khách quan khỏi mặt biện chứng, mặt lôgic và mặt nhận
thức.
2. Nghiên cứu chức năng và vai trò của khoa học tự nhiên trong việc phát
triển lực lượng sản xuất, trong việc làm thay đổi quan hệ con người, tự nhiên xã
hội trong điều kiện cách mạng khoa học hiện nay, nghiên cứu ảnh hưởng của môi
trường xã hội đối với việc phát minh và tiếp nhận phát minh, nghiên cứu cuộc đấu
tranh tư tưởng biểu hiện trong khoa học tự nhiên, tóm lịa là nghiên cứu khía cạnh
xã hội của khoa học tự nhiên.
16


3. Vạch ra tính quy luật của nhận thức khoa học, xây dựng các lý thuyết và
các khái niệm. Đây chính là khía cạnh nhận thức luận. Sự chú ý được tập trung chủ
yếu vào quan hệ giữa tri thức khoa học chuyên môn với khách thể được nó phản
ánh, vào việc xem xét tính chân lý và chính xác của tri thức vào mối quan hệ biện
chứng giữa cái khách quan và cái chủ quan.
4. Nghiên cứu lôgic và và phương pháp luận của sự nhận thức khoa học tự
nhiên, nghiên cứu sự vận động và phát triển của các khía niệm và lý thuyết cơ bản
của nó, quan hệ của các khái niệm và lý thuyết ấy với các khái niệm và lý thuyết
của các khoa học khác.
Đây là bốn nhóm vấn đề cơ bản trong số những vấn đề triết học của khoa
học tự nhiên hiện đại. Mỗi nhóm vấn đề ấy có rất nhiều vấn đề chuyên biệt. Đồng
thời, trong các ngành khoa học khác nhau, số lượng tính chất và mức độ các vấn đề
được đặt ra cũng không giống nhau. Do vậy từng nhà khoa học tự nhiên hoặc nhà
triết học tùy theo khuynh hướng, hứng thú và khả năng có thể chọn một số vấn đề
nào đó để nghiên cứu. Những cần nhớ rằng khi khi tiếp cận và nghiên cứu từng
loại vấn đề ấy, nhất thiết phải có quan điểm toàn diện, phải xuất phát từ nguyên lý
của Lênin về sự thống nhất giữa biện chứng, logic và lý luận nhận thức để tránh sự
phiến diện. Thí dụ nghiên cứu nhận thức luận trong mức độ nhất định sẽ giúp tránh

được hạn chế của sự phân tích bản thể luận, cho phép đánh giá yếu tố tương đối
của tri thức khoa học chuyên môn, tránh được sự tuyệt đối hóa tri thức ấy. Song,
khi nghiên cứu những vấn đề triết học trong các khoa học chuyên môn không thể
chỉ nghiên cứu nhận thức luận thuần túy vì nhất định phải đề cập đến khía cạnh
khách quan, đến lôgic và sự vận động, phát triển của tư tưởng khoa học. Điều quan
trọng khác cũng cần nhận thấy là bản thân nhận thức luận không thể phát triển
thuận lợi nếu không giải quyết các vấn đề thế giới quan liên quan đến các mặt khác
nhau của thế giới bên ngoài. Chẳng hạn một trong những vấn đề nổi lên hiện nay là
vấn đề hình thức hóa các hiện tượng sinh học và các hiện tượng xã hội phức tập,
trong đó có hình thức hóa các quá trình tư duy. Không thể giải quyết vấn đề này
một cách tốt đẹp nếu như không nghiên cứu cấu trúc các hiện tượng sự tương đồng
17


giữa chúng, sự tồn tại các quy luật và đặc điểm chung của các hiện tượng ấy.
Chính trong khi nghiên cứu vấn đề nhận thức luận này mà việc nghiên cứu các vấn
đè bản thể luận liên quan đến các hình thái biểu hiện sự thống nhất trong thế giới
vật chất cũng được xúc tiến.
Tóm lại việc nghiên cứu những vấn đề triết học trong khoa học tự nhiên
không những làm phong phú thêm triết học Mác-Lênin mà còn góp phàn giải quyết
những khó khăn nảy sinh trong khoa học tự nhiên, khái quát và giải thích đúng đắn
những thành tựu mới của nó, ngăn chặn và đề phòng những sai lầm có thể phát
sinh trong sự phát triển của nó.
1.2. VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC TỰ NHIÊN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA TRIẾT HỌC
1.2.1. Tinh thần cách mạng của khoa học tự nhiên hiện đại và những đặc
điểm nhận thức của nó
Những phát hiện lớn lao trong khoa học tự nhiên trước hết là trong vật lý
học vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã mở đầu cho cuộc cách mạng trong khoa
học tự nhiên hiện đại. Càng đi sâu vào thế giới vi mô, các nhà khoa học càng thu

được nhiều bằng chứng xác nhận một cách rực rỡ tiên đoán mà Lênin đã nêu lên
hơn nữa thế kỷ trước khi mới chỉ phát hiện ra êléctron: “Điện tử cũng vô tận như
nguyên tử, tự nhiên là vô tận”. Suốt mấy chục thế kỷ người ta vẫn tin rằng nguyên
tử là hạt vật chất cuối cùng không thể phân chia được nữa. Phát minh ra êléctron
vào năm 1897 đã làm cho nhiều người sửng sốt và nhận ra rằng quan điểm đó là
sai lầm. Tuy vậy, người ta lại cho rằng êléctron hiện nay lại đóng vai trò của
nguyên tử. Vai trò là những viên gạch đầu tiên của lâu đài vũ trụ. Song cũng chỉ
hơn ba chục năm sau cùng với êléctron người ta còn phát hiện ra các cơ bản
khác:Prôtron, nơtron, những hạt cơ bản tạo nên hạt nhân nguyên tử. Đến những
năm 50 số hạt cơ bản cùng các phần hạt của chúng được phát hiện đã lên tới xấp
xỉ 30. Từ đó sự phát hiện ra các hạt mới diễn ra ngày càng dồn dập đến năm 1964
đã lên tới196 và hiện nay là xấp xỉ 300. Bản thân êléctron trước đây tưởng chừng

18


như rất đơn giãn song ngày nay người ta cũng đã thấy rằng đó là một đối tượng cực
kỳ phức tạp.
Cuộc tiến công vào thế giới vi mô vẫn đang được tiếp tục và càng tiến công
vào bề sâu của vật chất con người ngày càng phát hiện ra nhiều điều kỳ quái, lạ
lùng. Cùng với việc tiến công vào thế giới vi mô, khoa học hiện đại cũng mở rộng
cuộc tiến công vào thế giới siêu vi mô và ở đây đang diễn ra cuộc cách mạng
khổng lồ có thể so sánh với cuộc cách mạng do học thuyết Copecnich gây ra.Việc
phóng vệ tinh nhân tạo, các con tàu vũ trụ có mang theo các thiết bị nghiên cứu
khoa học cùng các nhà khoa học làm việc dài ngày trong khoảng vũ trụ đã mở ra
một trang sử mói trong lĩnh vực nghiên cứu này. Những phát minh lớn được thực
hiện trong những năm gần đây trong thiên văn học và thiên văn vật lý học đã
khiến nhiều nhà bác học lỗi lạc trên thế giới như F. Hoilo, Acsumovich cho rằng
rất có thể trong tương lai sẽ dẫn đến cuộc cách mạng mới trong toàn bộ hệ thống tri
thức vật lý.

Cùng với các cuộc tiến công vào bề sâu và bề rộng của vật chất, khoa học
hiện đại cũng tiến công hết sức mạnh mẽ vào lĩnh vực tìm hiểu bản chất của sự
sống. Trong những năm vừa qua, sinh học đã đạt được sự tiến bộ quan trọng, nó
đang tiến thẳng đến sự tổng hợp nhân tạo ra vật chất sống. Những phát minh lớn
này cùng với những phát minh dồn dập trong lĩnh vực sinh học những năm gần đây
đã khiến nhiều người nghĩ rằng mặc dầu hiện nay vật lý học vẫn đang đóng vai trò
thủ lĩnh của khoa học tự nhiên, song vai trò ấy đang có khuynh hướng chuyển sang
sinh học.
Bên cạnh việc phải làm rõ vật chất vận động như thế nào và tiến hóa ra sao,
khoa học tự nhiên hiện đại còn phải giải quyết một vấn đề hết sức quan trọng khác
đó là vật chất suy nghĩ như thế nào? Trong lĩnh vực này vai trò quan trọng vẫn
thuộc về các bộ môn sinh lý hoạt độngt hàn kinh cao cấp, tâm lý học và ngôn ngữ
học. Nhưng sự xuất hiện và phát triển của điều khiển học đã đóng vai trò quan
trọng trong việc giải quyết vấn đề lớn này. Tuy mới tồn tại chưa được bao lâu
nhưng điều khiển học đã giải quyết được nhiều vấn đề khó khăn đã đạt được những
19


thành tựu mà mới cách đây không lâu con người không tưởng tượng được. Với sự
xuất hiện máy tính điện tử và các thiết bị điều khiển khác một số chức năng của
con người đã chuyển sang cho máy móc. Ccá tư tưởng và phương pháp của điều
khiển học đang xâm nhập ngày càng sâu vào các lĩnh vực khác nhau làm biến đổi
phong cách tư duy của các nhà khoa học đến mức nhiều người cho rằng, hiện nay
đang xuất hiện một phong cách tư duy mới: phong cách tư duy điều khiển học.
Như vậy cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên hiện đại đang diễn ra trên
tất cả mọi lĩnh vực không trừ lĩnh vực nào. Nừu cuộc cách mạng khoa học tự nhiên
cuối thế kỷ XIX, còn chưa đụng đến một số lĩnh vực thì đến nay cuộc cách mạng
đó đang tiếp diễn và đụng chạm đến toàn bộ lĩnh vực hkoa học tự nhiên, làm đảo
lộn không chỉ khái niệm và lý thuyết mà còn cả phong cách tư duy phổ biến của
các nhfa khoa học tự nhiên.

Tinh thần cách mạng của khoa học tự nhiên hiện đại không chỉ thể hiện ở
quy mô của cuộc cách mạng đó ngày càng rộng, lĩnh vực mà nó xâm nhập ngày
càng sâu mà còn ở chỗ số lượng tri thức của khoa học tự nhiên hiện đại đang tăng
lên ngày càng nhanh chóng. Số kiến thức của nhân loại đang tăng lên gấp bội.
Người ta tính rằng khoảng 80-90% số kiến thức mà nhân loại có được đã và đang
hình thành trong thời đại chúng ta và hiện nay số kiến thức đó vẫn đang tiếp tục
tăng lên hàng ngày, hàng tháng. Nghiên cứu khoa học đã trở thành một nghề. Số
người nghiên cứu khoa học đang sống chiếm khoảng 90% tổng số người nghiên
cứu khoa học có từ xưa đến nay.
Cùng với sự tăng lên nhanh chóng của số lượng tri thức và của số người làm
công tác nghiên cứu khoa học, trong khoa học hiện đại, số ngành khoa học cũng
tăng lên hết sức nhanh chóng. Đó là kết quả của phân ngành khoa học đang diễn ra
ngày càng sâu sắc. Nhưng cùng với khuynh hướng phân ngành này, trong khoa học
hiện đại lại đang diễn ra một khuynh hướng ngược lại, khuynh hướng hợp ngành.
Đó là khuynh hướng kết hợp các khoa học đang bị phân chia lại thành một hệ
thống tri thức khoa học chung. Dờu hiệu của sự tổng hợp (hợp ngành) khoa học
này là ngày càng xuất hiện những khoa học trung gian giữa các ngành khoa học
20


như: lý hóa, lý sinh, điều khiển học. Các khoa học trung gian là những vòng khâu
liên hệ, những nhịp cầu nối liền các ngành khoa học, các hình thái vận động của
thế giới vật chất với nhau và xóa bỏ tính chất biệt lập vốn có trước kia giữa các
ngành khoa học. Sự ra đời những ngành khoa học mới, nhất là các khoa học liên
ngành đã chứng tỏ rằng con người ngày càng tiếp cận với những đối tượng nghiên
cứu hết sức phức tạp. Để nghiên cứu chúng cần phải kết hợp tri thức của các
ngành khoa học khác nhau thậm chí rất xa nhau. Do đó trong nghiên cứu khoa học
ngày nay đòi hỏi phải có quan điểm tổng thể, phải nhìn sự vật theo nhiều mặt,
nhiều khía cạnh, nhiều lát cắt khác nhau. Chẳng hạn hiện nay có công trình khó mà
xác định được đó là quá trình của vật lý hay sinh học bởi vì nó được bộ môn lý

sinh nghiên cứu. Tình hình đó diễn ra với tất cả các khoa học liên ngành và trở nên
đặc biệt cấp bách trước sự xâm nhập lẫn nhau giữa khoa học tự nhiên và klhoa học
xã hội. Ngày nay cũng như mai sau, việc nghiên cứu khoa học tự nhiên không thể
không có tri thức về con người cũng như việc nghiên cứu con người không thể
không có tri thức khoa học tự nhiên. Vì thế quan điểm tổng thể là một đặc điểm nổi
bật trong nhận thức khoa học của thời đại chúng ta.
Ngày nay khi khoa học càng đi ssaau vào các mức độ cấu trúc khác nhau của
thế giới vật chất thì nó càng gặp các đối tượng có cấu trúc, thuộc tính và quy luật
vận động hết sức phức tạp, có kích thước hoặc quá lớn hoặc quá nhỏ so với các vật
thể thông thường. Vì lẽ đó ở đây giới tự nhiên được chủ thể tiếp nhận không phải
trực tiếp mà là gián tiếp thông qua các khái niệm có mức độ trừu tượng khác nhau.
Chính vì thế trong nhận thức khoa học tự nhiên hiện đại, vai trò hình ảnh trực quan
ngày càng giảm còn vai trò của các hình thức luận toán học, của ngôn ngữ nhân
tạo, và trừu trượng bậc cao ngày càng tăng. Nừu như trong nhiều thế kỷ trước đây
toán học chỉ được sử dụng để miêu tả những kết quả thực nghiệm thì ngày nay
hình thức hóa, mô hình hóa là những công cụ hết sức sắc bén để đi tìm cái mới
trong khoa học, là những đòn bẩy của các phát minh khoa học.
Tóm lại, khoa học tự nhiên hiện đại đang tiếp tục tinh thần của cuộc cách
mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Sự phát triển như
21


vũ bão của nó, những thành tựu kỳ diệu của nó đang làm thay đổi phong cách tư
duy khoa học và đặt ra trước triết học những vấn đề hết sức lớn lao và phức tạp.
1.2.2. Khoa học tự nhiên đối với sự phát triển của triết học trước Mác
Chủ nghĩa Mác-lênin coi triết học cũng như các khoa học tự nhiên là những
hình thái đặc thù của nhận thức khoa học. Triết học ra đời trên cơ sở của sự phát
triển đời sống vật chất, tinh thần của xã hội và . Sự ra đời và phát triển của triết học
có mối quan hệ khăng khít với sự ra đời và phát triển của khoa học tự nhiên.
Ăngghen nói: “Cái thúc đẩy các nhà triết học, hoàn toàn không phải chỉ riêng sức

mạnh của tư duy thuần túy như họ tưởng tượng. Trái lại trong thực tế, cái thật ra đã
thúc đẩy họ tiến lên, chủ yếu là sự phát triển mạnh mẽ ngày càng nhanh chóng và
ngày càng mãnh liệt của khoa học tự nhiên và của công nghiệp”. Triết học được
khoa học tự nhiên cung cấp cho những tài liệu nhận thức về tự nhiên, và mỗi lần có
một phát minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên thì chủ
nghĩa duy vật không tránh khỏi thay đổi hình thức của nó. Luận điểm trên đây của
Ăngghen vạch rõ, về mặt lý luận, quy luật phát triển tiến lên của triết học sát cánh
với khoa học tự nhiên. Khoa học tự nhiên, về phần mình cũng ra đời phát triển trên
cơ sở sự phát triển của đời sống vật chất-kinh tế xã hội, liên hệ chặt chẽ với triết
học và ngay từ đầu đã xây dựng trên cơ sở nhận thức luận duy vật. Khoa học tự
nhiên được triết học cung cấp cho phương pháp nghiên cứu chung những phạm trù,
những hình thức tư duy logics mà bất kỳ khoa học tự nhiên nào cung không thể
thiếu. Với tư cách là thế giới quan, là phương pháp luận chung đó, triết học đã đi
trước khoa học tự nhiên trên nhiều lĩnh vực và bằng tư tưởng chỉ đạo đúng đắn,
bằng những dự kiến thiên tài triết học đã không ngừng vạch đường cho khoa học tự
nhiên tiến lên và giúp cho khoa học tự nhiên phuwong hướng và công cụ nhận thức
để khắc phục những khó khăn trở ngại trên đường đi của mình.
Như vậy, trong suốt quá trình lịch sử ra đời và phát triển của mình, triết học
duy vật và khoa học tự nhiên luôn luôn gắn bó mật thiết với nhau, nương tựa, thúc
đẩy lẫn nhau. Trong lịch sử mỗi hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật đều tương
ứng với một trình độ phát triển nhất định của khoa học tự nhiên. Sự phát triển của
22


khoa học tự nhiên đến một mức nhất định sẽ vạch ra phép biện chứng khách quan
của tự nhiên. Thích ứng với trình độ khoa học tự nhiên hiện đại là triết học duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác. Cụ thể:
Thời kỳ cổ đại Hy Lạp, triết học duy vật mộc mạc và phép biện chứng tự
phát là tương ứng với trình độ ban đầu của khoa học tự nhiên. Hồi bấy giờ những
kiến thức khoa học về tự nhiên dưới hình thức những dự kiến, phát kiến rời rạc

chưa có hệ thống đang hòa lẫn trong kho tàng các kiến thức về triết học. Những
kiến thức khoa học về tự nhiên lúc này về cơ bản được của Ơclit, lý thuyết về hệ
thống mặt trời của Prôleme, vào những kiến thức sơ đẳng về đại số học…Lúc này
triết học và khoa học tự nhiên chưa có sự phân biệt rõ ràng. Các nhà triết học duy
vật đồng thời cũng là những nhà khoa học tự nhiên, và triết học duy vật mộc mạc,
biện chứng tự phát cổ đại Hy Lạp alf triết học triết nhiên. Nhận thức về triết học và
khoa học tự nhiên đã tạo ra một bức tranh về thế giới, bức tranh tổng quát đầu tiên
về thế giới trong lịch sử nhận thức khoa học coi thế giới như là một chỉnh thể. Ở
đấy mọi cái đều trôi qua, mọi cái đều biến đổi, đều liên hệ tác động và chuyển hóa
lẫn nhau. Không có cái gì là vĩnh viễn, bất biến. Bức tranh về thế giới đầu tiên này
về cơ bản là đúng đắn. Nó được tạo ra trên những dự kiến thiên tài về trạng thái
của các sự vật và hiện tượng xảy ra trong tự nhiên. Nhưng bức tranh mới chỉ nêu
lên hiểu biết về cái toàn thể mà chưa nêu lên những hiểu biết về chi tiết, những
biểu tưởng cụ thể của các sự vật hiện tượng. Nó nêu lên được trạng thái vận động,
liên hệ tác động và chuyển hóa lẫn nhau trong giới tự nhiên nhưng lại không nêu
lên được nguyên nhân của sự vận động, tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện
tượng. Đó là thiếu sót chủ yếu của nó. Nói cách khác bức tranh đã vẽ lên được cái
thế giưois chỉnh thể toàn bộ nhưng chưa đi vào được cái riêng biết, cái đơn nhất.
Sở dĩ như vậy là vì nhận thức triết học cũng như khoa học tự nhiên lúc đó chưa đạt
đến trình độ có thể phân tích mổ xẻ thế giới tự nhiên để tìm hiểu sâu về cái cụ thể
chi tiết.. Phương pháp nhận thức chủ yếu còn dựa vào sự quan sát, trực giác, trực
tiếp làm cho bức tranh thiếu tính chất khoa học chặt chẽ, thiếu khả năng giải thích
sâu7 vào những bộ phận, những chi tiết kết thành bức tranh. Muốn nhận thức thức
23


được những chi tiết ấy cần phải có khả năng phân tích mổ xẻ của khoa học tự
nhiên, trên cơ sở những tài liệu thu thập được phải chọn lọc, phê phán, so sánh, xếp
loại, phân chia các sự vật, hiện tượng thành những hạng mục, những thứ khác
nhau, phải chia tách chúng, tách rời những sự vật riêng lẻ khỏi những mối liên hệ

chung để nghiên cứu từng sự vật một, từng mối liên hệ một, vạch ra được những
mối liên hệ nhân quả, những mối liên hệ bên trong, tất yếu, vạch ra được quy luật
vận động và phát triển của chúng. Những mầm móng của một trình độ như vậy của
khoa học tự nhiên đã bắt đầu xuất hiện từ cuối thời cổ đại Hy Lạp vào thời
Alêxăngđri hay còn gọi là thời kỳ sau cổ điển. Nhưng thời trung cổ Giato giáo
Phương Tây đã kìm hãm nó. Khoa học tự nhiên mới manh nha đã bị rơi ngay vào
ảnh hưởng của giáo hội. Thời trung cổ đã sáp nhập vào thần học tất cả hình thức
khác của hệ tư tưởng. Những tín điều của giáo hội trở thành những yếu tố xuất phát
và bắt buộc của mọi tư duy, toàn bộ nọi dung của triết học khoa học tự nhiên đều
phải gò theo cho phù hợp với lý thuyết của giáo hội. Tình trạng này kéo dài hàng
chục thế kỷ, mãi cho đến thời phục hưng, từ xuối thế kỷ XV khoa học tự nhiên mới
dần thoát khỏi thần học và phát triển mạnh mẽ lên.
Thời kỳ phục hưng, cuối thế kỷ XV như Angghen nói: “đó là thời đại khi mà
giai cấp tư sản đập tan sự thống trị của chế độ phong kiến, đã làm sống lại thời kỳ
cổ đại Hy Lạp, đó là thời đại cần có những người khổng lồ và đã sinh ra những
người khổng lồ về tư tưởng, nhiệt tình, tính cách, khổng lồ về mặt tài năng”. Chính
trong bầu không khí cách mạng sục sôi của thời đại đó, khoa học tự nhiên thông
qua đấu tranh tôn giáo, thần học, chống triết học kinh viện mà phục hồi lại và phát
triển lên với một tinh thần triệt để cách mạng chưa từng thấy. Nó đã phát triển lên
song song với nền triết học đang bừng dậy, ví dụ như những người vĩ đại Bruno
“đưa những người tử tiết của mình lên giàn lửa hoặc vào ngục tối”.
Bằng một hành động cách mạng vĩ đại, khoa học tự nhiên đã công bố Bản
tuyên ngôn độc lập của mình. Đó là việc phát hành tác phẩm vĩ đại của Nicolai
Copecnich: Về sự xoay chuyển của các thiên thể. Nó đã thách thức uy quyền của

24


giáo hoàng, đã tấn công vào sự mê tín của giáo hội. Từ đó khoa học tự nhiên đã
căn bản tự giải phóng mình khỏi thần học và bắt đầu những bước tiến khổng lồ.

Khoa học tự nhiên không còn xem xét thế giới tự nhiên bằng sự quan sát,
trực giác, trực tiếp nữa. Nó đã vận dụng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm,
phương pháp phân tích, phân chia giới tự nhiên toàn bộ thành những bộ phận riêng
lẻ để đi sâu nghiên cứu cái cụ thể chi tiết. Khoa học tự nhiên đi sâu vào phân tích
những cái cụ thể, chi tiết đã bổ sung vào bức trang về thế giới chỗ trống mà các
nhà triết học và khoa học tự nhiên thời cổ đại Hy Lạp không làm được. Nhưng
phương pháp phân tích của khoa học tự nhiên thời kỳ này đã bộc lộ nhược điểm
của nó. Đó là người ta quen xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh tại, cô lập, phiến
diện. Sự vật và hiện tượng được xem xét trong trạng thái yên tĩnh, ở ngoài mọi vận
động, biến hóa, không liên hệ, không vận động. Thói quen xem xét đó từ khoa học
tự nhiên đã được đưa vào triết học, dần biến thành phương pháp tư duy đặc trưng
cho cả thời đại: phương pháp tư duy siêu hình.
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII về căn bản là máy móc, siêu hình. Nó
tương ứng với trình độ khoa học tự nhiên lúc này. Bức tranh về thế giới được tạo ra
theo thế giới quan đó, trên cơ sở những thành tựu như vậy, không thể khác hơn là
một bức tranh máy móc và siêu hình về thế giới. Nó đã thay đổi bức tranh biện
chứng đầu tiên về thế giới trong đó “mọi cái đều trôi qua, mọi cái đều biến đổi”
trong bức tranh về thế giới lần này, “mọi cái đều là tuyệt đối cố định, bất di bất
dịch”. Nếu bức tranh về thế giới thời kỳ cổ đại Hy Lạp là bức tranh tổng quát nói
lên cái chung, cái toàn thể thì bức tranh thời đại này là bức tranh của những cái cụ
thể chi tiết. Ở chỉ có những sự vật cá biệt riêng lẻ mà không có sự liên hệ, ràng
buộc với nhau.
Trình độ lúc này của khoa học tự nhiên đã gây nên tính hạn chế của triết học, thì
đến lượt nó triết học duy vật máy móc, siêu hình với tư cách là phương pháp luận
phổ biến chỉ đạo cho khoa học tự nhiên lại tác động hạn chế trở lại khoa học tự
nhiên. Xuất phát từ quan điểm bất di bất dịch, tuyệt đối của thiên nhiên, từ phương
pháp tư duy xem xét sự vật và hiện tượng trong trạng thái bất động cô lập của
25



×