SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“ Tìm hiểu nội dung và phương pháp
dạy học phép nhân, phép chia các số tự
nhiên theo sách giáo khoa Toán lớp 3”.
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Trọng tâm và hạt nhân của chương trình tốn ở Tiểu học là nội
dung Số học. Trong đó phép nhân, phép chia các số tự nhiên là nội dung cơ
bản, quan trọng trong nội dung số học. Bởi vì, nhiệm vụ trọng yếu của mơn
tốn Tiểu học là hình thành cho học sinh kĩ năng tính tốn – một kĩ năng rất
cần thiết trong cuộc sống, lao động và học tập của học sinh. Vì vậy giáo viên
cần tìm hiểu, nghiên cứu để dạy tốt cho học sinh bộ môn này.
2. Để dạy tốt nội dung phép nhân, phép chia các số tự nhiên: trước
hết giáo viên cần nắm được bản chất Toán học của những kiến thức này. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy có khơng ít giáo viên Tiểu học khơng nắm vững bản
chất Tốn học của phép nhân, phép chia các số tự nhiên. Như chúng ta đã
biết: “ có kiến thức tốn học cơ bản của chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học
về kiến thức đối với giáo viên. Cụ thể, giáo viên Tiểu học phải: Hiểu đúng
đắn các khái niệm, định ngyhĩa Tốn học; có khả năng chứng minh các quy
tắc, cơng thức, tính chất Tốn học được dạy ở Tiểu học dự tren Yóan học hiện
đại; có khả năng giải bài tập tốn ở Tiểu học tốt ( thể hiện ở khả năng phân
tích tìm tịi lời giải, khả năng trình bày bài một cách logic, chặt chẽ và có khả
năng khai thác bài tốn sau khi giải)…
Do vậy cần giúp giáo viên Tiểu học nắm được bản chất toán học
của phép nhân, phép chia các số tự nhiên.
3. Hơn nữa hiện nay chương trình sách giáo khoa mới ở Tiểu học
đang được đưa vào sử dụng trong tồn quốc. Sách giáo khoa Tốn ở Tiểu học
có rất nhiều đổi mới về cấu trúc nội dung, cách thể hiện nội dung nhằm đổi
mới phương pháp dạy học. Rất nhiều giáo viên tiểu học vẫn chưa cập nhật
2
vấn đề này, dẫn đến việc dạy học Toán ở Tiểu học nói chung, việc dạy nội
dung phép nhân phép chia các số tự nhiên nói riêng vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học.
Vì vậy, cần giúp hiáo viên nắm được cấu trúc nội dung của phép
nhân, phép chia các số tự nhiên trong chương trình Tốn tiểu học, nội dung
và cách thể hiện nội dung phép nhân, phép chia các số tự nhiên. Bên cạnh đó
giáo viên cũng nắm được phương pháp dạy học các nội dung này theo hướng
đổi mới về phương pháp dạy học Toán. Điều này giúp cho việc dạy học phép
nhân, phép chia các số tự nhiên đạt chất lượng cao hơn.
4. Vì những lý do trên, đồng thời để nâng cao trình độ chun mơn,
nghiệp vụ sư phạm cho bản thân mình, tơi đã chọn đề tài:
“ Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học phép nhân, phép
chia các số tự nhiên theo sách giáo khoa Tốn lớp 3”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học phép nhân, phép chia
các số tự nhiên theo sách giáo khoa Toán lớp 3.
3
A. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẪN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Để giúp giáo viên Tiểu học hiểu rõ hơn cơ sở của việc lựa chọn và sắp
sếp các nội dung về phép nhân, phép chia các số tự nhiên, đồng thời giúp giáo
viên biết được định hướng của việc lựa chọn và tận dụng các phương pháp
dạy học đối với các nội dung phép nhân, phép chia các số tự nhiên tơi xin
trình bày tóm tắt các vẫn đề sau:
-
Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học
-
Một số vấn đề về phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học
I. Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học:
1. Tri giác:
- Tri giác mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và tri giác mang
tính khơng chủ định.
- Khi tri giác, sự phân tích một cách có tổ chức và sâu sắc ở học
sinh lớp đầu còn yếu.
- Ở đầu cấp, tri giác của trẻ thường gắn với hành động, hoạt động
thực tiễn của trẻ.
- Tính xúc giác thể hiện rõ khi tri giác: những gì trực quan, rực rỡ,
sinh động thường dễ gây được ấn tượng tích cực cho trẻ và được trẻ tri giác
tốt hơn.
4
2. Chú ý:
Chú ý có chủ định cịn yếu, chú ý khơng chủ định phát triển. Những
gì mang tính mới mẻ, rực rỡ, bất ngờ, khác thường dễ dàng lôi cuốn sự chú ý
của học sinh.
3. Trí nhớ:
- Trí nhớ trực quan – hình tượng phát triển hơn trí nhớ từ ngữ lơgic.
- Ghi nhớ máy móc chiếm ưu thế
- Học sinh khơng xác định được mục đích ghi nhớ, khơng biết tổ
chức việc ghi nhớ có ý nghĩa.
- Những thông tin mà học sinh được tiếp xúc từ nhiều giác quan sẽ
giúp các em ghi nhớ nhanh hơn và nhớ lâu hơn.
4. Tư duy:
- Tư duy cụ thể mang tính chất hình thức, dựa vào đặc điểm của đồ
dùng trực quan
- Học sinh thường dự vào những đặc điểm bề ngồi của sự vật, hiện
tượng để khái qt hố.
- Hoạt động phân tích – tổng hợp cịn sơ đẳng, chủ yếu được tiến
hành khi tri giác trực tiếp các đối tượng trực quan.
* Kết luận
5
Từ những đặc điểm trên của học sinh Tiểu học về q trình nhận
thức, khi dạy học Tiểu học nói chung và dạy học Tốn nói riêng, giáo viên
cần:
- Quan tâm đến việc sử dụng đồ dùng trực quan khi dạy hình thành
kiến thức cho trẻ. Vì hình dạng, kiểu cách, màu sắc… của đồ dùng trực quan
dễ gây sự chú ý cho trẻ, giúp trẻ tri giác tốt, dễ nhớ và nhớ lâu.
Tuy nhiên những đặc điểm trên của học sinh tiểu học cũng lưuu ý
giáo viên không nên quá lạm dụng đồ dùng trực quan. Vì hình ảnh, màu sắc
lồ loẹt của nó dễ lơi cuốn học sinh làm các em quên nhiệm vụ học tập của
mình. Hơn nữa, sử dụng trực quan quá nhiều sẽ không phát triển được trí
tưởng tượng, khả năng liên tưởng khái quát của học sinh.
- Tổ chức cho trẻ hoạt động. Vì khi tham gia hoạt động trẻ có điều
kiện tri giác bằng nhiều giác quan: mắt – nhìn, tai – nghe, miệng – nói, tay –
thao tác… Đây là cơ sở để tưu duy và ghi nhớ kiến thức.
- Giáo viên phải tạo cho học sinh tâm thế để ghi nhớ, hướng dẫn thủ
thuật ghi nhớ, chỉ ra những điểm quan trọng, có ý nghĩa để học sinh ghi nhớ.
- Việc trẻ ghi nhớ máy móc tốt là điều kiện để giáo viên dạy học
sinh học thuộc các bẳng nhân, chia. Đây là cơ sở để giáo viên tổ chức cho học
sinh học thuộc các bảng tính bằng cách đọc nhiều lần.
II. Một số vấn đề về phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học
1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học mơn tốn ở Tiểu học
6
“ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vàp thựuc tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh.”
2. Yêu cầu cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học là:
“ Dạy học dựa trên cơ sở tổ chức các hoạt động học tập của học
sinh. Thông qua hoạt động học tập này, học sinh được phát huy tính tích cực,
chủ động trong học tập, tự trải nghiệm khám phá, phát hiện vấn đề và tự
chiếm lĩnh kiến thức.”
3. Thực hiện định hướng trên trong việc dạy bài mới và dạy thực
hành luyện tập, giáo viên cần:
Trong dạy bài mới: Giúp học sinh:
- Tự phát hiện và giải quyết các vấn đề của bài học.
- Tự chiếm lĩnh tri thức mới
- Hướng dẫn học sinh cách thức phát hiện, chiếm lĩnh tri thức.
- Thiết lập được mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức đã
học.
- Thực hành, rèn luyện cách diễn đạt thông tin bằng lời, bằng ký
hiệu.
Trong dạy bài thực hành luyện tập: Giáo viên cần tổ chức và động viên
mọi học sinh tham gia vào hoạt động thực hành luyện tập.
7
- Giúp học sinh nhận ra kiến thức mới học và quy trình vân dụng
các kiến thức đó trong các dạng bài tập khác nhau.
- Giúp học sinh thực hành, luyện tập theo khả năng của mình. Chấp
nhận thực tế: có những học sinh làm ít hơn hay nhiều hơn số lượng bài tập
đưa ra.
- Tạo ra sự hỗ trợ, giúp đỡ nhau giữa các đối tượng hợc sinh
- Khuyến khích học sinh tự kiểm tra kết quả thực hành luyện tập
- Tập cho học sinh thói quen khơng thoả mãn với bài làm của mình,
với các cách giải mã đã có.
Tóm lại, cần thơng qua các hoạt động thực hành, luyện tập làm cho các
em thấy học không chỉ để biết, để thuộc mà còn để làm, để vận dụng.
4. Giới thiệu một số phương pháp dạy học thường được sử dụng
trong dạy học Toán ở Tiểu học:
Căn cứ vào đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học, đặc điểm
ccá kiến thức Toán học và phương pháp nhận thức Toán học, các phương
pháp dạy học thường được sử dụng trong dạy học Toán ở Tiểu học gồm:
phương pháp trực quan, phương pháp thực hành – luyện tập, phương pháp gợi
mở – vấn đáp, phương pháp giảng giải – minh hoạ.
Bên canh đó, để thực hiện định hướng đổi mới phương pháp dạy
học Toán ở Tiểu học, hiện nay người ta chú trọng sử dụng các phương pháp
dạy học theo phương hướng phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo của người
học (các phương pháp này gọi chung bằng thuật nhữ “phương pháp tích
cực”.)
8
CHƯƠNG II: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÉP
NHÂN, PHÉP CHIA CÁC SỐ TỰ NHIÊN TRONG SÁCH GIÁO
KHOA TOÁN LỚP 3
I. Mục tiêu dạy học phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3
Giúp học sinh:
- Học thuộc các bảng tính nhân 6, 7, 8, 9; bảng chia 6, 7, 8, 9.
- Hoàn thiện bảng nhân, bảng chia.
- Biết tính nhẩm trong phạm vi các bảng tính hoặc trong các trường
hợp đơn giản, thường gặp về nhân, chia.
- Biết thực hiện phép nhân số có 2, 3, 4, 5 chứ số có 1 chữ số; phép
chia số có 2, 3, 4, 5 chữ số cho số có 1 chữ số (chia hết hoặc chia có dư)
- Biết tính giá trị các biểu thức số có đến hai dấu phép tính (hoặc
khơng có dấu ngoặc).
- Biết tìm một thành phần chưa biết trong phép tính.
* Thơng qua việc dạy học phép nhân, phép chia ở lớp 3 giúp học sinh:
- Phát triển khả năng tư duy: so sánh, lựa chọn, phân tích, tổng hợp,
trìu tượng hố, khái qt hố.
- Diễn đạt ngắn gọn, rõ ràng thơng tin.
- Tập phát hiện, tìm tịi, chiếm lĩnh kiến thức mới.
9
- Chăm chỉ, cẩn then, tự tin, hứng thú trong học tập và thực hành
toán.
II. Nội dung dạy học phép nhân, phép chia các số tự nhiên trong
chương trình tốn lớp 3
Phép tính
Biểu
thức
- Củng cố các bảng nhân với 2, 3, 4,
5 (tích khơng q 50).
-
Bài
tập
Tính
- Giải
giá trị của các các bài tập
biểu thức số có dạng
- Lập các bảng nhân với 6, 7, 8, 9
(tích khơng q 100) và các bảng chia cho
6, 7, 8, 9 (số bị chia khơng q 100)
hai dấu phép
tính,
x, biết a : x =
b (với a, b là
các số trong
phạm vi đã
học)
- Nhân, chia ngồi bảng:
+ Nhân số có 2, 3, 4, 5 chữ số với số
có 1 chữ số (có nhớ khơng q 2 lần liên
tiếp và tích khơng q 100 000).
+ Chia số có 2, 3, 4, 5 chữ số cho số
có 1 chữ số ( chia hết và chia có dư)
-
“ Tìm
hoặ
khơng có dấu
- Hồn thiện các bảng nhân và các ngoặc
bảng chia.
có
Thực hành tính nhẩm, chủ yếu
trong phạm vi các bảng tính: nhân số trịn
nghìn với số có 1 chữ số (không nhớ); chia
10
số trịn nghìn, trịn chục nghìn cho số có 1
chữ số và chia hết.
Như vậy: Các biện pháp nhân, chia ngoài bảng được xây dựng trên
cơ sở những kiến thức và kỹ năng về: cấu tạo thập phân của số; tính chất phân
phối của phép nhân và chia đối với phép cọng; các bảng nhân, chia; quan hệ
giữa nhân và chia. Do đó mỗi khi học mỗi biện pháp tính nên ơn lại các tính
chất liên quan để xây dựng nó.
Yêu cầu cơ bản để dạy các biện phép nhân, phép chia ngoài bảng
và chủ yếu là nắm được thuật tính và thực hành tính thơng thạo. Vì vậy
phương pháp chung được sử dụng là giáo viên hướng dẫn và thực hiện trực
tiếp trên ví dụ cụ thể. Từ đó khái quát thành các bước thực hiện.
III. Một số lưu ý về phương pháp dạy học các nội dung về phép
nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3
Qua việc tìm hiểu nội dung , phương pháp dạy học các nội dung về
phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3, tôi thấy: Để dạy tốt các nội
dung này, giáo viên cần lưu ý những điều sau:
1. Về việc dạy giai đoạn chuẩn bị:
Trước khi học phép tính mới (phép nhân, phép chia) học sinh đều
có giai đoạn chuẩn bị. Đây là cơ sở cho việc hình thành kiến thức mới, cầu
nối giữa kiến thức đã học và kiến thức sẽ học. Vì vậy, khi dạy học các bài học
trong giai đoạn này, giáo viên cần chuẩn bị tốt kiến thức cho học sinh để làm
cơ sở vững chắc cho các em học những kiến thức mới tiếp theo. Cụ thể là:
11
- Học sinh được học bài “Tổng của nhiều số” trước khi học bài
“Phép nhân”. ở đây học sinh được tính tổng các số hạng bằng nhau. Giáo
viên phải lưu ý để nhận ra các tổng này đều có các số hạng bằng nhau để giúp
học sinh học bài phép nhân, tính kết quả của các phép nhân trong các bẳng
nhân (nhất là các bảng nhân đầu tiên).
- Học sinh được học bài “Phép nhân” và các bài về Bảng nhân
trước khi học bài “Phép chia” và các bài về Bảng chia. Giáo viên lưu ý học
sinh phải thuộc bảng nhân để làm cơ sở học các bảng chia, vì các bảng chia
đều được xây dựng từ các bảng nhân tương ứng.
- Việc nhân chia trong bảng thành thạo cũng là cơ sở để học sinh
học tốt nhân, chia ngoài bảng.
2. Về việc sử dụng đồ dùng trực quan trong từng giai đoạn lập
bảng nhân, bảng chia:
Kĩ thuật chung của nhân, chia trong bảng là: Học sinh thao tác trên
các tấm bìa có các chấm trịn. Vì vậy, sử dụng đồ dùng trực quan ở đây là rất
quan trọng. Tuy nhiên mức độ trực quan không giống nhau ở mỗi giai đoạn:
- Ở lớp 3 (học kỳ I): học sinh tiếp tục học các bảng nhân, bảng chia
6, 7, 8, 9. Lúc này các em đã có kinh nghiệm sử dụng đồ dùng học tập (các
miếng bìa với số chấm tròn như nhau), đã quen và thành thạo với cách xây
dựng phép nhân từ những miếng bìa đó. Hơn nữa, lên lớp 3 trình độ nhận
thức của học sinh phát triển hơn trước (khi học lớp 2) nên khi hướng dẫn học
sinh lập các bảng nhân hoặc bảng chia, giáo viên vẫn yêu cầu học sinh sử
dụng các đồ dùng học tập nhưng ở một mức độ nhất định, phải tăng dần mức
độ khái quát để kích thích trí tưởng tượng, phát triển tư duy cho học sinh.
Chẳng hạn:
12
Giáo viên khơng cùng học sinh lập các phép tính như ở lớp 2 mà
chỉ nêu lệnh để học sinh thao tác trên tấm bìa với các chấm trịn để lập 3, 4
phép tính trong bảng, các phép tính cịn lại học sinh phải tự lập dựa vào phép
đếm thêm hoặc dựa vào các bảng nhân đã học.
VD: Khi hướng dẫn học sinh tự lập Bảng nhân 6, giáo viên yêu cầu
học sinh sử dụng các tấm bìa, mỗi tấm bìa có 6 chấm trịn để lập các phép
tính:
6x1=6
6 x 2 = 12
6 x 3 = 18
Sau đó cho học sinh nhận xét để từ 6 x 2 = 12 suy ra được 6 x 3 =
18. Cụ thể là: Với 3 tấm bìa
Học sinh nêu : “6 được lấy 3 lần, ta có 6 x 3”
Mặt khác cũng từ 3 tấm bìa này ta thấy 6 x 3 chính là 6 x 2 + 6
Vậy 6 x 3 = 6 x 2 + 6 = 18
Bằng cách như vậy, học sinh có thể khơng dùng tấm bìa mà vẫn tự tìm
được kết quả của phép tính:
6 x 4 = 6 x 3 + 6 = 24
6x5=6x4+6…
Hoặc dựa trên bảng nhân đã học:
6 x 4 = 4 x 6 = 24
13
6x5=5x6…
Như vậy, giáo viên cần lưu ý sử dụng đồ dùng trực quan hợp lý,
đúng mức để không chỉ giúp học sinh nắm được kiến thức mà còn phát triển
tư duy.
3. Về phương pháp nhân, chia ngoài bảng:
Phương pháp chủ yếu được sử dụng là làm mẫu trên các ví dụ cụ
thể. Từ đó phương pháp hướng dẫn học sinh cách đặt tính và tính. Đối với
những trường hợp cần lưu ý như: phép chia có chữ số 0 ở thương, ước lượng
thương chưa hết, nhớ khi nhân chưa đúng … giáo viên thường đưa ra các bài
tập dưới dạng Test để lưu ý học sinh cách làm đúng.
Tóm lại: Với nội dung về phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở
lớp 3, để hình thành kiến thức mới cho học sinh thì phương pháp chủ yếu là
trực quan kết hợp làm mẫu; để rèn kỹ năng thì phương pháp chủ yếu là thực
hành – luyện tập. Tuy nhiên, trong quá trình học sinh thực hành luyện tập,
giáo viên phải tăng dần mức độ, yêu cầu, độ khó của bài tập; tạo điều kiện
cho học sinh tự huy động kiến thức sẵn có để làm bài; đồng thời rèn cho học
sinh khả năng tự kiểm tra, đánh giái mình và đánh giá lẫn nhau.
Như vậy, khi sử dụng phương pháp dạy học phép nhân, phép chia
số tự nhiên ở lớp 3 người ta đã quan tâm đến đặc điểm nhận thức của học sinh
(tư duy cụ thể phát triển hơn tư duy trừu tượng, tri giác bằng nhiều giác
quan…) và đã có sử dụng các phương pháp dạy học kích thích tư duy trừu
tượng, khả năng so sánh, khái quát hoá, tổng hợp hoá … cho học sinh.
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG DẠY HỌC PHÉP NHÂN, PHÉP
CHIA CÁC SỐ TỰ NHIÊN Ở LỚP 3
14
Qua thực tế tìm hiểu tình hình dạy học phép nhân, phép chia cho
học sinh lớp 3 ở trường Tiểu học tôi rút ra một số nhận xét sau:
I. Vấn đề giảng dạy của giáo viên
Quan điểm của giáo viên về cấu trúc nội dung chương trình để rèn
luyện kĩ năng thực hiện phép nhân, chia các số tự nhiên cho học sinh là rất
phù hợp. Các bài học về phép nhân, phép chia được sắp xếp liền mạch, bài nọ
là cơ sở cho bài kia, phù hợp cho cả giáo viên và học sinh trong quá trình
luyện tập.
Nhiều giáo viên cho rằng:
- Nội dung rèn luyện kỹ năng thực hiện tính nhẩm phép nhân, chia
trong bảng là rất quan trọng vì nó khơng chỉ giúp củng cố kiến thức mới mà
cịn rất thuận lợ cho q trình dạy nhân, chia ngồi bảng. Thiếu kỹ năng nhân
nhẩm tốt thì học sinh sẽ rất khó khăn trong việc học phép chia đặc biệt là chia
ngồi bảng (chia viết). Chính vì vậy họ cho rằng: nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm
của việc dạy phép nhân, chia ở lớp 3 là giúp học sinh có kỹ năng thực hiện tốt
nhân, chia trong bảng. Phép nhân, phép chia là dạng phép tính mới, khó đối
với học sinh cho nên phải coi trọng công tác hình thành khái niệm phép tính,
cách thực hiện phép tính.
- Hệ thống bài tập để rèn luyện kỹ năng thực hiện phép nhân, phép
chia như vậy là cần thiết. Tuy nhiên, các dạng bài tập còn chưa phong phú về
nội dung cũng như hình thức. Vì vậy một số giáo viên cho rằng nên cho thêm
dạng bài tập tính nhanh.
Tất cả những giáo viên được hỏi đều trao đổi với chúng tôi đầy đủ
về những lý do, thắc mắc cũng như tầm quan trọng của việc rèn luyện kỹ
năng thực hiện phép nhân, phép chia.
15
Trên cơ sở những nhận thức của giảo viên như trên, tìm hiểu về
phương pháp dạy học để rèn luyện kỹ năng thực hiện phép nhân, phép chia
cho học sinh, tôi rút ra một số ưu nhược điểm của giáo viên trong quá trình
giảng dạy như sau:
1. Ưu điểm:
Các giáo viên đều nhận thấy được tầm quan trọng của việc dạy học
nội dung phép nhân, phép chia các số tự nhiên; nắm được chương trình, định
hướng chung về phương pháp dạy học các nội dung này. Vì vậy:
a) Giáo viên đã sử dụng phương pháp trực quan (nhất là trong giai
đoạn đầu), giảng giải – minh hoạ, gợi mở – vấn đáp khi hình thành khái niệm
phép tính; khi thành lập các bảng tính; hướng dẫn học sinh làm bài tập để
định hướng cho học sinh làm bài.
b) Giáo viên thường xuyên sử dụng phương pháp Thực hành luyện
tập trong quá trình rèn luyện kỹ năng thực hiện phép nhân, phép chia các số
tự nhiên cho học sinh. Điều này rất thuận lợi cho cả giáo viên và học sinh:
giáo viên khơng phải giảng nhiều, cịn học sinh có điều kiện tự rèn luyện kỹ
năng cho mình.
c) Giáo viên bám sát và theo dõi từng bước thực hiện tính của học
sinh, có biện pháp sửa sai kịp thời.
d) Một số giáo viên có những điều chỉnh, phân tích rất kỹ, mở ra
các hướng mới đối với bài tập rèn luyện kỹ năng tính đưa ra trong sách giáo
khoa (chẳng hạn dạy qua các trị chơi). Trong q trình giảng dạy giáo viên
biết lựa chọn bài tập hợp lý tuỳ theo đối tượng học sinh.
2. Nhược điểm:
16
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, khi dạy học để rèn luyện kỹ năng
nhân, chia cho học sinh lớp 3, về phía giáo viên cịn một số tồn tại như sau:
a) Một số giáo viên không nắm được bản chất Toán học của các nội
dung về phép nhân, phép chia các số tự nhiên nên cịn máy móc trong giảng
dạy các nội dung này. Giáo viên chưa chú ý phân tích và khai thác triệt để
mục tiêu mỗi bài tập rèn luyện kỹ năng tính cho học sinh.
b) Việc dạy học theo định hướng đổi mới chưa được nhiều giáo
viên chú trọng:
- Trong quá trình hình thành các phép toán nhân, chia ngay sau khi
giảng giải và hỏi - đáp, giáo viên thường rút ra cơng thức phép tốn nhưng ít
chú ý đến việc cho học sinh nhắc lại hoặc tự rút ra kiến thức mới:
VD: Trong những bài về nhân, chia ngoài bảng, sau khi đã cho học
sinh thấy:
1427
2407
4
3
00
601
4281
07
x
3
Nhiều giáo viên không cho học sinh tự củng cố lại: cách đặt tính như
thế nào? thực hiện phép nhân, chia theo thứ tự ra sao?... Vì thế học sinh rất dễ
mắc sai lầm khi thực hiện tính, đặc biệt là đối với những phép chia có số 0 ở
thương.
Chỉ qua một số ví dụ trong bài mới thì học sinh rất khó nắm bắt
được khái niệm phép tốn, cách đặt phép tốn, cách đặt tính, cách tính… nên
17
học sinh thường làm sai. Do đó, giáo viên càn thường xuyên củng cố lại kiến
thức trong suốt quá trình học sinh thực hành luyện tập.
- Nhiều giáo viên cho học sinh luyện tập với khơng khí buồn tẻ, do
đó có nhiều dạng bài tập lặp lại mà giáo viên khơng đổi mới các hình thức
chữa bài chủ yếu chữa bài một cách đơn điệu: học sinh đứng đọc bài làm
hoặc lên bảng làm bài và lớp chữa. Vì vậy, khơng kích thích được hứng thú
học tập của học sinh.
- Nhiều giáo viên lạm dụng ohương pháp thực hành luyện tập để
rèn luyện kỹ năng tính cho học sinh, yêu cầu học sinh làm nhiều bài tập mà
chưa chú ý đến những khó khăn của học sinh để giảng giải cho các em hiểu.
- Nội dung phép nhân, phép chia số tự nhiên trong Toán 3 là nội
dung mới. Để khắc sâu kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính tốn cho học sinh,
sách giáo khoa đưa ra những dạng bài tập tương tự nhau, đặc biệt là trong các
bài học về nhân, chia trong bảng. Chẳng hạn: các bài học về bảng nhân
thường có 3 dạng bài tập:
+ Tính nhẩm (các phép nhân trong bảng)
+ Tốn có văn (giải bằng một phép tính nhân)
+ Đếm thêm
Nhiều giáo viên chỉ vận dụng lặp lại phương pháp thực hành luyện
tập quen thuộc, không chịu đổi mới phương pháp.
II. Một số thuận lợi và khó khăn, sai lầm học sinh thường gặp khi
học phép nhân, phép chia các số tự nhiên ở lớp 3.
18
1. Thuận lợi:
a) Do các bài học và bài tập về phép nhân, phép chia các số tự
nhiên ở lớp 3 được trình bày một cách khoa học, chính xác; cấu trúc các bài
tương đối giống nhau nên nếu nghỉ học, nhờ vào việc đọc bài và làm bài tập,
học sinh có thể tự rèn luyện kỹ năng tính cho mình.
b) Hết lớp 3 học sinh đã có những kiến, kỹ năng cơ bản nhất về
phép nhân, phép chia; tự mình có thể đặt tính và tính (nhân, chia) số có đến 5
với số có 1 chữ số.
c) Học sinh biết vận dụng kỹ năng nhân, chia vào làm toán: tìm
thành phần chưa biết, tìm giá trị biểu thức, giải tốn có văn…
d) Học sinh có kỹ năng tính nhanh, tính nhẩm các số trịn chục với
số có một chữ số.
2. Khó khăn, sai lầm:
Khi thực hiện các phép tính nhân, chia ở lớp 3 học sinh thường gặp một
số khó khăn, sai lầm sau:
a) Khi nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ số có nhớ 2, 3 …
liên tiếp, học sinh thường chỉ nhớ lần đầu tiên mà quên không nhớ các lần
tiếp theo.
VD:
1719
x
4
4876
19
b) Trong phép nhân có nhớ nhiều hơn 1 (nhớ 2, nhớ 3 …) học sinh
thường chỉ nhớ 1.
VD:
2913
x
4
9652
=> Khắc phục: Đối với 2 lỗi trên, giáo viên cần khắc phục choi học
sinh bằng cách: yêu cầu các em nhẩm thầm trong khi tính (vừa tính, vừa
nhẩm) như phép tính mẫu trong sách giáo khoa và viết số cần nhớ ra lề phép
tính.
c) Lúc đầu khi mới học nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ
số, học sinh còn hay sai trong cách ghi kết quả.
VD:
26
x
3
618
=> Khắc phục: Ở đây, ta cần giải thích cho học sinh rằng: Nếu làm
như vậy thì tích có tới 62 chục, nhưng thực ra chỉ có 7 chục mà thơi. Vì:
- Ở lượt nhân thứ nhất: 3 nhân 6 đơn vị được 18 đơn vị, tức là 1 chục
và 8 đơn vị, viết 8 ở cột đơn vị, còn 1 chục nhớ lại (- ghi bên lề phép tính) để
thêm vào kết quả lượt nhân thứ hai – nhân hàng chục.
20
- Ở lượt nhân thứ hai: 3 nhân 2 chục được 6 chục, thêm một chục đã
nhớ là 7 chục, viết 7 ở cột chục.
Giáo viên cũng có thể một lần nữa khẳng định tính đúng đắn của
phép tính bằng cách: Phân tích từ số 26 = 2 chục + 6 đơn vị và hướng dẫn học
sinh nhân bình thường theo hàng ngang rồi cộng các kết quả lại.
2. Học phép chia
a) Học sinh thường ước lượng thương sai trong phép chia có dư nên
dẫn đến tìm được số dư lớn hơn số chia và lại thực hiện chia số dư đó cho số
chia. Cuối cùng, tìm được thương lớn hơn số chia.
VD:
89
2
8
431
09
6
3
2
1
Nguyên nhân của lỗi sai này là:
- Do học sinh chưa nắm được quy tắc “số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số
chia”
21
- Học sinh không thuộc bảng nhân, bảng chia, kỹ năng trừ nhẩm để tìm
số dư cịn chưa tốt.
=> Để khắc phục sai lầm này:
- Khi dạy học sinh cách ước lượng thương trong phép chia, cần lưu ý
cho học sinh quy tắc trong phép chia có dư: “số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số
chia”
- Khi dạy về nhân, chia trong bảng, giáo viên cần yêu cầu học sinh phải
học thật thuộc các bảng nhân, bảng hcia trước khi dạy chia viết.
- Dạy cho học sinh làm tính chia phải được tiến hành từ dễ đến khó,
theo từng bước một.
b) Một sai lầm nữa thường thấy ở học sinh khi học chia viết là: Các
em thường quên chữ số “0” trong phép chia có chữ số “0” ở thương.
=> Nguyên nhân và cách khắc phục:
Do học sinh không nắm được quy tắc thực hiện chia viết “có bao
nhiêu lần chia thì có bấy nhiêu chữ số được viết ở thương”. Giáo viên cũng
cần lưu ý học sinh: Chỉ duy nhất trong lần chia đầu tiên là được lấy nhiều hơn
một chữ số ở số bị chia để chia, còn các lần chia tiếp theo lấy từng chữ số để
chia và khi lấy một chữ số để chia thì phải viết được một chữ số ở thương.
Bên cạnh đó, giáo viên cũng lưu ý học sinh nên viết đủ phép trừ ơt
các lượt chia như sau
VD:
816
22
4
016
24
0
Hướng dẫn học sinh cách nhân khi thực hiện phép chia có dư trong mỗi
lượt chia như sau:
VD: 43 : 5 = ?
Cách 1: Đếm ngược từ 43 cho đến khi gặp một tích (hoặc số bị chia)
trong bảng nhân 5 (chia 5) : 43; 42; 41; 40.
40 : 5 = 8
Vậy 43 : 5 = 8 (dư 3)
Cách 2: Tìm số lớn nhất (khơng vượt q 43) trong các tích (số bị
chia) của bảng nhân (chia 5) ta được 40; 40: 5 = 8. Vậy 43 : 5 = 8 (dư 3)
……
Nhìn chung, khi học nội dung về phép nhân, phép chia các số tự
nhiên ở lớp 3, hầu hết học sinh đều nắm được kiến thức có kỹ năng nhân,
chia. Những sai lầm trên đầy chỉ xảy ra với số ít học sinh ở giai đoạn đầu học
về nội dung này. Giáo viên cần lưu ý để có biện pháp giúp đỡ học sinh kịp
thời.
23
B.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài này tôi thấy: Nếu giáo viên Tiểu học nắm vững
bản chất toán học của các mạch kiến thức nói chung, của Số học nói riêng;
nắm được sự thể hiện các nội dung kiến thức đó trong sách giáo khoa thì
chắc chắn việc dạy học sẽ tốt hơn. Vì vậy có hiểu đúng, chính xác kiến thức
thì giáo viên mới truyền thụ cho học sinh kiến thức đúng được.
Hơn nữa, bằng việc tìm hiểu cách sắp xếp nội dung dạy học trong schá
giáo khoa, giáo viên sẽ thấy được mối liên hệ giữ các bài học. Từ đó chú ý
huy động kiến thức học sinh đã có để học bài mới, đồng thời trang bị cho học
sinh những lượng kiến thức cần thiết để làm cơ sỏ học các bài tiếp theo.
Việc nắm được đặc điểm nhận thức của học sinh, các phương pháp dạy
học phép nhân, phép chia các số tự nhiên; định hướng đổi mới phương pháp
dạy học sẽ giúp giáo viên lựa chọn và vận dụng phương pháp dạy học đúng,
hiệu quả và phát huy được tính tích cực trong học tập của học sinh.
Tóm lại, việc tìm hiểu nội dung, phương pháp dạy học tốn nói chung,
nội dung phương pháp dạy học phép nhân, phép chia số tự nhiên nói riêng là
rất cần thiết, là yêu cầu bắt buộc đối với giáo viên Tiểu học.
24