Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

GIÁO TRÌNH TIẾNG VIỆT (dành cho sinh viện cao đẳng tiểu học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 106 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI

GIÁO TRÌNH
(Lƣu hành nội bộ)

TIẾNG VIỆT
(Dành cho sinh viện cao đẳng tiểu học)

Tác giả: Đặng Lê Thủy Tiên

Năm 2017
1


MỤC LỤC
Chƣơng 1: ĐẠI CƢƠNG VỀ TIẾNG VIỆT VÀ NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI.. 4
1. Đại cƣơng về Tiếng Việt ................................................................................................... 5
1.1. Nguồn gốc của Tiếng Việt ............................................................................................... 5
1.2. Đặc điểm loại hình tiếng Việt ........................................................................................... 9
2. Ngữ âm tiếng Việt hiện ................................................................................................... 11
2.1. Khái quát về ngữ âm học ............................................................................................... 11
2.2 .Âm tiết tiếng Việt ........................................................................................................... 13
2.3. Âm vị tiếng Việt ............................................................................................................. 18
3. Vấn đề chính âm, chính tả tiếng Việt .......................................................................... 21
Chƣơng 2: TỪ VỰNG NGỮ NGHĨA TIẾNG VIỆT ....................................................... 23
1. Khái quát về từ vựng và từ vựng học............................................................................ 23
1.1. Khái niệm về từ vựng ..................................................................................................... 23
1.2. Khái niệm về từ vựng học .............................................................................................. 24
2. Từ tiếng Việt .................................................................................................................... 25
2.1. Từ tiếng Việt .................................................................................................................. 25


2.2. Cấu tạo của từ tiếng Việt ................................................................................................ 27
2.3.Nghĩa của từ và các hiện tượng trong trường nghĩa........................................................ 30
Chƣơng 3: NGỮ PHÁP TIẾNG VIỆT.............................................................................. 53
1. Từ loại tiếng Việt............................................................................................................. 53
1.1. Khái niệm và tiêu chuẩn phân loại ................................................................................. 53
1.2. Hệ thống từ loại tiếng Việt ............................................................................................. 55
2. Cụm từ tiếng Việt ............................................................................................................ 61
2.1. Khái niệm ....................................................................................................................... 61
2.2. Phân loại cụm từ ............................................................................................................. 62
3. Câu tiếng Việt .................................................................................................................. 68
3.1. Khái niệm ....................................................................................................................... 68

2


3.2. Phân loại câu ................................................................................................................... 69
4. Đoạn văn .......................................................................................................................... 78
4.1. Khái niệm ....................................................................................................................... 78
4.2. Cấu trúc của đoạn văn .................................................................................................... 78
5. Văn bản ............................................................................................................................ 81
5.1. Khái niệm ....................................................................................................................... 81
5.2. Kết cấu của văn bản ....................................................................................................... 81
CHƢƠNG 2 : PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT ....................................................... 84
1. Các phong cách ngôn ngữ chức năng ........................................................................... 84
1.1. Phong cách hành chính ................................................................................................... 84
1.2. Phong cách khoa học ...................................................................................................... 84
1.3. Phong cách báo chí ......................................................................................................... 85
1.4. Phong cách chính luận .................................................................................................... 86
1.5. Phong cách sinh hoạt ...................................................................................................... 86
1.6. Phong cách văn chương.................................................................................................87

2. Những phƣơng tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt ..................................................... 88
2.1. Tu từ vựng ...................................................................................................................... 89
2.2. Tu từ ngữ nghĩa .............................................................................................................. 91
2.3.Tu từvựng........................................................................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................ 106

3


LỜI NÓI ĐẦU
Tiếng Việt là tài liệu được biên soạn để phục vụ cho việc học tập, giảng dạy của
giảng viên và sinh viên cao ngành đẳng Tiểu học. Tài liệu cung cấp những kiến thức
cơ bản về tiếng Việt như từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm và phong cách học tiếng Việt
Giáo trình được biên soạn dựa trên để cương chi tiết học phần Tiếng Việt đã được
Hội đồng khoa học và Đào tạo nhà trường thông qua.
Tài liệu không chỉ phục vụ cho việc học tập, giảng dạy học phẩn Tiếng Việt mà còn
là một tài liệu tham khảo trong quá trình kiến tập, thực tập và giảng dạy sau này của
sinh viên.
Mặc dù đã hết sức cố gắng, song do biên soạn lần đầu, giáo trình không tránh khỏi
những thiếu sót. Kính mong đồng nghiệp và bạn đọc đóng góp ý kiến để giáo trình
được hoàn thiện hơn.

4


Chƣơng 1: ĐẠI CƢƠNG VỀ TIẾNG VIỆT VÀ NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI
1. Đại cƣơng về Tiếng Việt
1.1.

Nguồn gốc của Tiếng Việt


1.1.1. Những quan điểm khác nhau về tiếng Việt
-

Khái niệm Tiếng Việt chỉ có thể dùng để trỏ tiếng Việt từ khi nó bắt đầu tách ra khỏi

nhóm Việt-Mường chung cách đây khoảng một nghìn năm, nghĩa là từ khi bắt đầu có cách
phát âm Hán-Việt và tiếng Việt đã có đủ 6 thanh điệu. Không nên dùng khái niệm tiếng
Việt đối với những giai đoạn phát triển trước đó.
-

Theo quan niệm truyền thống, khái niệm tiếng Việt dùng để chỉ các nhóm ngôn ngữ

nguồn gốc của nó. Ví dụ: khi tìm hiểu nền văn minh Văn Lang, Âu Lạc… người ta phải
tính đến thời đại các vua Hùng cách đây khoảng 4000 năm. Thứ tiếng Việt nguyên thủy đó
chắc chắn không phải là thứ tiếng Việt ngày nay.
1.1.2. Quá trình hình thành tiếng Việt
-

Tiếng Việt của người Việt vốn có chung nguồn gốc với các thứ tiếng khác ở Đông

Nam Á. Nó thuộc họ Nam Á. Họ Nam Á là một họ ngôn ngữ khá lớn, bao gồm những ngôn
ngữ được phân bố trên một khu vực rộng lớn, bao gồm phần đông bắc Ấn Độ, một phần
Miến Điện, vùng Nam Trung Quốc, một phần Malaixia, phần lớn Cămpuchia và phần lớn
Việt Nam.
-

Theo các nhà khoa học, cách đây khoảng 6000 năm, khu vực rộng lớn này vẫn còn

nói chung một thứ ngôn ngữ gọi là ngôn ngữ Nam Á hay Nam Phương. Cùng với thời gian,

các ngôn ngữ họ Nam Á dần dần tách ra thành những nhóm riêng biệt. Đầu tiên là nhóm
Munđa ở đông bắc Ấn Độ và nhóm Mèo-Dao ở phía nam Trung Quốc ngày nay.
-

Các ngôn ngữ Nam Á có chung những đặc điểm:

+ Có hệ thống ngữ pháp cơ bản giống nhau, ví dụ: khung ngữ pháp của tiếng Việt, Khmer,
Lào, Thái… không khác nhau mấy;

5


+ Có cách cấu tạo từ giống nhau;
+ Có hình thức lặp, láy giống nhau;
+ Cách luân phiên giống nhau.
-

Vào những thiên niên kỉ tiếp theo, các tiếng Nam Á chung dần dần tách ra thành các

nhóm riêng biệt: Nhóm Munđa ở đông bắc Ấn Độ và nhóm Mèo-Dao ở phía Nam Trung
Quốc ngày nay tách ra trước tiên, sau đó có các đợt di dân của những bộ tộc nói tiếng Tạng
Miến xuống địa bàn Mianma ngày nay thúc đẩy sự tách riêng một số ngôn ngữ như tiếng
Khasi chẳng hạn.
-

Vào khoảng trên 4000 năm trước, tiếng Nam Á chung do sự tiếp xúc với tiếng Hán-

Tạng và các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ châu Đại Dương (tiếng Papua), đã tách ra thành ba
dòng chính:
+ Dòng Đồng-Thái, gồm các ngôn ngữ phân bố ở phần phía nam sông Trường Giang;

+ Dòng Mã Lai-Nam Đảo, gồm các ngôn ngữ phân bố ở phần cực nam Đông Nam Á tiền
sử;
+ Dòng Môn-Khơme, bao gồm các ngôn ngữ phân bố ở vùng cao nguyên trung phần Đông
Nam Á tiền sử (cao nguyên Cồ rạt ở Thái Lan, cao nguyên Bôlôven ở Lào và cao nguyên
khu Bốn cũ (Thanh Hóa, Nghệ An) của Việt Nam). Tiếng Việt được tách ra từ dòng ngôn
ngữ này. Do đó, tổ tiên xa xưa của tiếng Việt là tiếng Môn-Khơme, bao gồm hàng trăm
ngôn ngữ phân bố thành 3 vùng lớn: Bắc Mon-Khmer, Nam Mon-Khmer và Đông MonKhmer.
-

Từ tiếng Đông Mon-Khmer tách ra một ngôn ngữ gọi là proto Việt-Katu. Sau một

thời gian, ngôn ngữ này lại tách ra làm hai là Katu và proto Việt Chứt. Tổ tiên trực tiếp của
người nói tiếng Việt ngày nay là các bộ tộc người nói tiếng proto Việt Chứt này. Các cư
dân nói tiếng proto Việt Chứt lúc đầu (hơn 4000 năm trước) sống ở vùng trung du và sơn
cước (vùng Thượng Lào và bắc khu Bốn cũ), về sau di chuyển xuống vùng đồng bằng Bắc
Bộ ngày nay. Do sự tiếp xúc với các ngôn ngữ Tày-Thái, tiếng proto Việt Chứt thay đổi để

6


trở thành tiếng Tiền Việt Chứt với cơ tầng Mon-Khmer và có sự mô phỏng cơ chế vận hành
Tày-Thái. Quá trình này diễn ra ở thời đại mà sử Việt Nam vẫn gọi là thời đại các vua
Hùng. Dần dần về sau, tiếng Tiền Việt Chứt đi sâu vào quá trình đơn tiết hóa, thanh điệu
hóa và rụng dần các phụ tố để trở thành tiếng Việt Mường chung (khoảng 2700- 2800 năm
trước).
-

Do quá trình tiếp xúc lâu dài với tiếng Hán dưới thời Bắc thuộc, vào khoảng từ thế

kỉ VIII đến thế kỉ XII, tiếng Việt Mường chung ở phía Bắc tách ra làm hai: Bộ phận nằm

sâu ở vùng rừng núi các tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ít bị ảnh hưởng của
tiếng Hán hơn nên bảo lưu yếu tố cũ và trở thành tiếng Mường, còn bộ phận ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ thì do ảnh hưởng của tiếng Hán mà dần dần tách thành tiếng Kinh (tiếng
Việt). Quá trình tách đôi hai ngôn ngữ này bắt đầu khoảng hơn 1000 năm trước. Kể từ lúc
đó, tiếng Việt mới thực sự trở thành một ngôn ngữ độc lập.
1.1.3. Quá trình phát triển của tiếng Việt
a.

Tiếng Việt thời kì cổ đại:

Ở thời điểm này, kho từ vựng tiếng Việt khá phong phú, với những từ cơ bản gốc
Nam Á và một số thuộc gốc Thái hay gốc Mã Lai – Nam Đảo. Về ngữ pháp, trật tự kết hợp
theo cách từ được hạn định đặt trước, từ hạn định đặt sau đã tạo ra cho tiếng Việt một bản
sắc riêng. Về mặt ngữ âm, tiếng Việt thời đó chưa có thanh điệu. Trong hệ thống âm đầu,
ngoài những phụ âm đơn, còn có những phụ âm kép như tl, kl, pl, kr..
Ở thời kì tiếp theo, có sự tiếp xúc ngôn ngữ Việt – Hán. Sự tiếp xúc này diễn ra ngót
một nghìn năm dưới ách thống trị của phong kiến Trung Hoa, trong khuôn khổ một chính
sách đồng hóa quyết liệt và tàn bạo. Nhưng trong thời kì ấy, với sức sống tiềm tàng, sự
chăm lo giữ gìn của nhân dân, tiếng Việt chẳng những không bị mai một mà trái lại vẫn tồn
tại và phát triển không ngừng. Về mặt ngữ âm, tiếng Việt thời nay đã có nhiều biến đổi
trong hệ thống âm đầu và âm cuối, hệ thống thanh điệu xuất hiện. Sự phát triển mới này
khẳng định bản sắc riêng của tiếng Việt, một bản sắc bền vững sẽ được duy trì trong suốt
các giai đoạn sau.

7


b.

Tiếng Việt thời kì từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX


Trong thời kì nước ta bị phong kiến Trung Hoa thống trị, chữ Hán cùng với tiếng
Hán giữ địa vị độc tôn, tiếng Việt chưa có chữ viết. Khi ý thức độc lập, tự chủ và tự cường
của dân tộc lên cao, khi yêu cầu phát triển về văn hóa và kinh tế của đất nước trở nên bức
thiết, cha ông ta sáng chế ra một lối chữ để ghi tiếng Việt, đó là chữ Nôm.
Chữ nôm được xây dựng trên cơ sở chữ Hán. Chữ Nôm có thể hình thành vào
khoảng thế kỉ VIII – IX và bước đầu được sử dụng vào khoảng từ thế kỉ X đến thế kỉ XIII,
khi nhà nước đã bước sang kỉ nguyên độc lập, với các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lí,
Trần lừng lẫy chiến công và rạng ngời văn hóa.
Từ thế kỉ XIII đến thế kí XV đã có thơ văn “quốc âm”, “quốc ngữ” viết bằng chữ
Nôm. Đáng chú ý là Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, thành công lớn đầu tiên trong nền
văn chương viết bằng tiếng Việt, đánh dấu sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ văn
hóa dân tộc.
Từ thế kỉ XV trở về sau, nhất là ở thế kỉ XVIII và XIX, trào lưu văn chương Nôm
phát triển mạnh, tiếng Việt càng có những bước tiến rõ rệt. Một số tác phẩm tiêu biểu như:
Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm...
c.

Tiếng Việt thời kì đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945

Đây là thời kì hiện đại của tiếng Việt, với một lợi khí mới về chữ viết là chữ quốc
ngữ.
Chữ quốc ngữ được đặt ra từ thế kỉ XVII, theo cách dùng chữ cái La tinh ghi âm
tiếng Việt; và suốt mấy trăm năm tiếp theo nó chỉ được dùng trong phạm vi rất hạn chế. Từ
cuối thế kỉ XIX, nhất là từ đầu thế kỉ XX, chữ quốc ngữ được truyền bá rộng rãi.
Ở thời kì này, sự phát triển của tiếng Việt diễn ra mạnh và nhanh, hòa nhịp cùng quá
trình biến đổi sâu sắc của xã hội Việt Nam. Trong thời kì trước, tiếng Việt văn hóa được
dùng chủ yếu trong thơ phú. Từ đầu thế kỉ XX về sau, tiếng việc được dùng trong mọi thể
loại văn chương, mọi địa hạt, văn hóa, khoa học.... Với chữ quốc ngữ, sách báo bằng tiếng


8


Việt được xuất bản khá nhiều. Các phong cách chức năng ngôn ngữ của tiếng Việt hình
thành đầy đủ. Thơ Mới lại càng mạnh dạn hơn, xích tới gần văn xuôi. Về từ ngữ, ngoài việc
tiếp nhận thêm những từ tiếng Hán, thông qua sự tiếp xúc với tiếng Pháp, nhiều từ gốc Âu
cũng được đưa vào. Những từ ngữ mới ấy đã góp phần làm cho tiếng Việt đáp ứng kịp nhu
cầu diễn đạt những tri thức mới về chính trị, khoa học, kĩ thuật...
d.

Tiếng Việt thời kì từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay

Cách mạng tháng Tám thành công. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Từ đó,
tiếng Việt càng có vị trí đầy vinh dự và quan trọng. Chức năng xã hội của tiếng Việt được
mở rộng và hoàn thiện. Tiếng Việt được dùng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, nghệ thuật; được dùng để giảng dạy ở nhà trường trong
tất cả cấp học, bậc học. Với vai trò là một ngôn ngữ văn hóa phát triển toàn diện, tiếng Việt
phát huy tác dụng to lớn trong sự nghiệp giành độc lập, tự do và thống nhất cho Tổ quốc.
1.2.

Đặc điểm loại hình tiếng Việt
Theo một cách phân loại được thừa nhận rộng rãi, tiếng Việt thuộc loại hình ngôn

ngữ đơn lập. Trong loại hình này còn có tiếng Hán và một số ngôn ngữ ở khu vực Đông
Nam Á, châu Úc, châu Phi....
Trong các ngôn ngữ đơn lập, đơn vị ngữ pháp cơ bản có hình thức là một âm tiết,
thường có nghĩa và có thể được dùng như một từ. trong câu, ý nghĩa ngữ pháp được biểu thị
chủ yếu bằng trật tự từ và hư từ, còn từ không biến đổi hình thái. Vì từ trong các ngôn ngữ
đơn lập không biến đổi hình thái nên các ngôn ngữ đơn lập còn được gọi là ngôn ngữ không
có hình thái, hay ngôn ngữ không biến hình...

Tiếng Việt được coi là một trong những ngôn ngữ tiêu biểu của loại hình đơn lập.
Những đặc trưng của tiếng Việt, với tư cách là một ngôn ngữ đơn lập, được thể hiện rõ nét
ở các đặc điểm về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của nó.
-

Đặc điểm ngữ âm: Trong tiếng Việt có một loại đơn vị đặc biệt gọi là "tiếng". Về

mặt ngữ âm, m i tiếng là một âm tiết. Hệ thống âm vị tiếng Việt phong phú và có tính cân

9


đối, tạo ra tiềm năng của ngữ âm tiếng Việt trong việc thể hiện các đơn vị có nghĩa. Nhiều
từ tượng hình, tượng thanh có giá trị gợi tả đặc sắc. Khi tạo câu, tạo lời, người Việt rất chú
ý đến sự hài hoà về ngữ âm, đến nhạc điệu của câu văn.
-

Đặc điểm từ vựng: M i tiếng, nói chung, là một yếu tố có nghĩa. Tiếng là đơn vị cơ

sở của hệ thống các đơn vị có nghĩa của tiếng Việt. Từ tiếng, người ta tạo ra các đơn vị từ
vựng khác để định danh sự vật, hiện tượng..., chủ yếu nhờ phương thức ghép và phương
thức láy.
Việc tạo ra các đơn vị từ vựng ở phương thức ghép luôn chịu sự chi phối của quy
luật kết hợp ngữ nghĩa, ví dụ: đất nước, máy bay, nhà lầu xe hơi, nhà tan cửa nát... Hiện
nay, đây là phương thức chủ yếu để sản sinh ra các đơn vị từ vựng. Theo phương thức này,
tiếng Việt triệt để sử dụng các yếu tố cấu tạo từ thuần Việt hay vay mượn từ các ngôn ngữ
khác để tạo ra các từ, ngữ mới, ví dụ: tiếp thị, karaoke, thư điện tử (e-mail), thư thoại (voice
mail), phiên bản (version), xa lộ thông tin, siêu liên kết văn bản, truy cập ngẫu nhiên, v.v.
Việc tạo ra các đơn vị từ vựng ở phương thức láy thì quy luật phối hợp ngữ âm chi
phối chủ yếu việc tạo ra các đơn vị từ vựng, chẳng hạn: chôm chỉa, chỏng chơ, đỏng đa

đỏng đảnh, thơ thẩn, lúng lá lúng liếng, v.v.
Vốn từ vựng tối thiểu của tiếng Việt phần lớn là các từ đơn tiết (một âm tiết, một
tiếng). Sự linh hoạt trong sử dụng, việc tạo ra các từ ngữ mới một cách dễ dàng đã tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển vốn từ, vừa phong phú về số lượng, vừa đa dạng trong hoạt
động. Cùng một sự vật, hiện tượng, một hoạt động hay một đặc trưng, có thể có nhiều từ
ngữ khác nhau biểu thị. Tiềm năng của vốn từ ngữ tiếng Việt được phát huy cao độ trong
các phong cách chức năng ngôn ngữ, đặc biệt là trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
Hiện nay, do sự phát triển vượt bậc của khoa học-kĩ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin,
thì tiềm năng đó còn được phát huy mạnh mẽ hơn.
-

Đặc điểm ngữ pháp: Từ của tiếng Việt không biến đổi hình thái. Đặc điểm này sẽ chi

phối các đặc điểm ngữ pháp khác. Khi từ kết hợp từ thành các kết cấu như ngữ, câu, tiếng
Việt rất coi trọng phương thức trật tự từ và hư từ.

10


Việc sắp xếp các từ theo một trật tự nhất định là cách chủ yếu để biểu thị các quan
hệ cú pháp. Trong tiếng Việt khi nói "Anh ta lại đến" là khác với "Lại đến anh ta". Khi các
từ cùng loại kết hợp với nhau theo quan hệ chính phụ thì từ đứng trước giữ vai trò chính, từ
đứng sau giữ vai trò phụ. Nhờ trật tự kết hợp của từ mà "củ cải" khác với "cải củ", "tình
cảm" khác với "cảm tình". Trật tự chủ ngữ đứng trước, vị ngữ đứng sau là trật tự phổ biến
của kết cấu câu tiếng Việt.
Phương thức hư từ cũng là phương thức ngữ pháp chủ yếu của tiếng Việt. Nhờ hư từ
mà tổ hợp "anh của em" khác với ttổ hợp "anh và em", "anh vì em". Hư từ cùng với trật tự
từ cho phép tiếng Việt tạo ra nhiều câu cùng có nội dung thông báo cơ bản như nhau nhưng
khác nhau về sắc thái biểu cảm. Ví dụ, so sánh các câu sau đây:
- ng ấy không hút thuốc.

- Thuốc, ông ấy không hút.
- Thuốc, ông ấy cũng không hút.
Ngoài trật tự từ và hư từ, tiếng Việt còn sử dụng phương thức ngữ điệu. Ngữ điệu
giữ vai trò trong việc biểu hiện quan hệ cú pháp của các yếu tố trong câu, nhờ đó nhằm đưa
ra nội dung muốn thông báo. Trên văn bản, ngữ điệu thường được biểu hiện bằng dấu câu.
Chúng ta thử so sánh 2 câu sau để thấy sự khác nhau trong nội dung thông báo:
- Đêm hôm qua, cầu gãy.
- Đêm hôm, qua cầu gãy.
Qua một số đặc điểm nổi bật vừa nêu trên đây, chúng ta có thể hình dung được phần
nào bản sắc và tiềm năng của tiếng Việt.
2.

Ngữ âm tiếng Việt hiện
2.1.

Khái quát về ngữ âm học

Việc nghiên cứu ngôn ngữ âm thanh của con người thuộc cấp độ âm vị học. Đối tượng
âm thanh tiếng nói con người có thể được 2 ngành khác nhau nghiên cứu là ngữ âm học và

11


âm vị học. Cùng tìm hiểu về các đặc điểm âm thanh, tiếng nói con người nhưng chúng có
những điểm khác nhau cơ bản sau đây:
Tiêu chí
1. Đơn vị

2. Phương pháp


Ngữ âm học
- Âm tố

- Âm vị

- Vô hạn

- Hữu hạn & đếm được

Khoa học tự nhiên

Khoa học xã hội

3. Quan điểm lịch - Phi quan điểm lịch sử
sử

Âm vị học

- Quan điểm lịch sử

- Tính hợp lí & logic

- Cái tồn tại là cái có lí

Cơ chế tạo sản âm thanh mang tính

Hệ thống âm thanh của một tộc

nhân loại


người

(phương pháp
luận)
4. Phạm vi

Âm thanh tiếng nói con người, về bản chất là vô tận bởi tuỳ theo các đặc điểm cá
nhân khác nhau, các đặc điểm về hoàn cảnh phát âm khác nhau, mục đích phát âm khác
nhau mà tiếng nói phát ra có những phần khác nhau.
Ngữ âm học là ngành nghiên cứu về cơ chế tạo sản các âm thanh của tiếng nói con
người, cho nên, ngoài việc mô tả một cách chính xác cơ chế đó hoạt động như thế nào thì
cần phải đặc tả một cách chính xác các sự biểu hiện khác nhau của tiếng nói ấy, tức là các
kết quả của cơ chế tạo sản âm thanh tiếng nói con người. Chính vì thế, các dạng thể âm
thanh là vô hạn. Và đơn vị của ngữ âm học là các âm tố, tức là các âm thanh tự nhiên của
tiếng nói con người.
Ngược lại, bởi vì con người sống theo xã hội, theo cộng đòng nên muốn giao tiếp
được với nhau thì người ta phải có mã do cộng đồng quy định sử dụng. Dẫu người ta có thể
khác nhau về các đặc điểm tâm lí, sinh lí, trình độ học vấn, địa phương cư trú nhưng muốn

12


để giao tiếp được, truyền được thông điệp, yêu cầu của mình tới người khác thì mã âm
thanh sử dụng phải có tính xã hội hoá. Chính vì vậy, sự khác nhau về dạng thể giữa các âm
thanh của có những hình thức, những biến thể của những đơn vị âm thanh mang chức năng
trong xã hội loài người. Những đơn vị âm thanh mang chức năng đó được ngôn ngữ học là
các âm vị. Theo nguyên tắc tối thiểu về đặc điểm cấu trúc, tối đa về khả năng sử dụng, các
đơn vị âm thanh của ngôn ngữ buộc phải là hữu hạn và đếm được.
Sự phân biệt giữa ngữ âm học và âm vị học về mặt đơn vị có nguồn gốc từ một lưỡng
phân nổi tiếng của F. de Saussure (1913) về sự phân biệt giữa ngôn ngữ và lời nói. Theo

ông, người ta không bao giờ lặp lại được lời nói của chính mình, cho nên, lời nói là vô hạn,
lời nói biến đổi theo hoàn cảnh, theo thời gian và theo không gian. Ngược lại là thiết chế
của xã hội, là một trong những đặc điểm để xác định tộc người của quốc gia nên tính ổn
định của nó rất cao, cao như hoặc cao hơn các thiết chế xã hội khác). Ổn định về ngôn ngữ
để nối tiếp được các thế hệ với nhau trong cả một truyền thống lịch sử; đồng thời, ổn định
về ngôn ngữ còn có tác dụng liên kết những nhóm người ở những vùng đất khác nhau thành
một quốc gia. Trong tính ổn định như vậy, ngôn ngữ được tao nên bằng các giá trị hữu hạn,
có tính hệ thống. Sự phản ánh mối quan hệ giữa lời nói và ngôn ngữ trong âm vị học trở
thành sự đối lập giữa ngữ âm học và âm vị học.
2.2.

Âm tiết tiếng Việt
2.2.1. Khái niệm âm tiết

Khi nói ra thành lời, người ta không nói ra từng âm tố kế tiếp nhau, hết âm này đến
âm kia (chẳng hạn như: a, b, c, e, t, u, k....) mà phải phát ra những tổ hợp âm được tổ chức
một cách có quy tắc, sao cho những tổ hợp ấy đúng là một đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ
nhất. Nói cách khác, các âm của ngôn ngữ phải được tổ chức thành các âm tiết, và đến lượt
mình, các âm tiết được tổ chức với nhau trong từ. M i từ có thể bao gồm một hoặc hơn một
âm tiết và m i âm tiết có thể bao gồm một hoặc hơn một âm tố.
 Vậy chu i lời nói mà con người phát ra gồm nhiều khúc đoạn dài ngắn khác
nhau. Đơn vị phát âm ngắn nhất là âm tiết (syllable).

13


2.2.2. Cấu tạo âm tiết
M i âm tiết tiếng Việt là một khối hoàn chỉnh trong phát âm. Trên thực tế không ai
phát âm tách nhỏ cái khối đó ra được trừ những người nói lắp. Trong ngữ cảm của người
Việt, âm tiết tuy được phát âm liền một hơi, nhưng không phải là một khối bất biến mà có

cấu tạo lắp ghép. Khối lắp ghép ấy có thể tháo rời từng bộ phận của âm tiết này để hoán vị
với bộ phận tương ứng của ở âm tiết khác. Ví dụ:

tiền đâu --- đầu
tiên
hiện đại --- hại
điện

đảo trật tự âm tiết và hoán vị thanh điệu "`"
hoán vị phần sau "iên" cho "ai"

nhỉ đay --- nhảy thanh điệu giữ nguyên vị trí cùng với phần đầu "nh"
đi

và "đ"

Quan sát ví dụ trên ta thấy âm tiết tiếng Việt có 3 bộ phận mà người bản ngữ nào
cũng nhận ra: thanh điệu, phần đầu và phần sau. Phần đầu của âm tiết được xác định là Âm
đầu, vì ở vị trí này chỉ có một âm vị tham gia cấu tạo. Phần sau của âm tiết được gọi là
phần Vần. Người Việt chưa biết chữ không cảm nhận được cấu tạo của phần vần. Vào lớp
1, tr em bắt đầu "đánh vần", tức là phân tích, tổng hợp các yếu tố tạo nên vần, rồi ghép với
âm đầu để nhận ra âm tiết. Ví dụ:
U + Â + N = UÂN, X + UÂN = XUÂN
Các âm đầu vần, giữa vần và cuối vần (U, Â, N) được gọi là Âm đệm, Âm chính và
Âm cuối. Có thể hình dung về cấu tạo âm tiết tiếng Việt trong một mô hình như sau:

14


Âm đầu

Tại vị trí thứ nhất trong âm tiết, âm đầu có chức năng mở đầu âm tiết. Những âm tiết
mà chính tả không ghi âm đầu như an, ấm, êm... được mở đầu bằng động tác khép kín khe
thanh, sau đó mở ra đột ngột, gây nên một tiếng bật. Động tác mở đầu ấy có giá trị như một
phụ âm và người ta gọi là âm tắc thanh hầu (kí hiệu:

). Như vậy, âm tiết trong tiếng Việt

luôn luôn có mặt âm đầu (phụ âm đầu). Với những âm tiết mang âm tắc thanh hầu như vừa
nêu trên thì trên chữ viết không được ghi lại, và như vậy vị trí xuất hiện của nó trong âm
tiết là zero, trên chữ viết nó thể hiện bằng sự vắng mặt của chữ viết. Sau đây là Bảng hệ
thống âm đầu (phụ âm đầu) trong tiếng Việt:

Trong bảng hệ thống trên, có ghi âm vị p , một âm vị không xuất hiện ở vị trí đầu
âm tiết trong các từ thuần Việt. Nhưng do sự tiếp xúc ngôn ngữ, do nhu cầu học tập cũng
như giao lưu văn hoá, khoa học-kĩ thuật... cần phải ghi lại các thuật ngữ, tên dịa đanh, nhân
danh nên bảng trên có đưa p vào trong hệ thống phụ âm đầu của tiếng Việt. Các âm vị phụ
âm đầu được thể hiện trên chữ viết như thế nào xin xem Bảng âm vị phụ âm.
Âm đệm
Âm đệm là yếu tố đứng ở vị trí thứ hai, sau âm đầu. Nó tạo nên sự đối lập tròn môi
(voan) và không tròn môi (van). Trong tiếng Việt, âm đệm được miêu tả gồm âm vị bán
nguyên âm u (xem Bảng âm vị nguyên âm) và âm vị "zero" (âm vị trống). Âm đệm "zero"

15


có thể tồn tại cùng tất cả các âm đầu, không có ngoại lệ. Âm đệm u không được phân bố
trong trường hợp sau:
- Nếu âm tiết có phụ âm đầu là âm môi.
- Nếu âm tiết có nguyên âm là âm tròn môi.
Ngoài ra, âm đệm u còn không được phân bố với "g" (trừ goá) và "ư", "ươ". Đó là

quy luật chung của tiếng Việt: các âm có cấu âm như nhau hoặc gần nhau không được phân
bố cùng nhau. Trên chữ viết, âm đệm "zero" thể hiện bằng sự vắng mặt của chữ viết, âm
đệm u thể hiện bằng chữ "u" và "o".
Âm chính
Âm chính đứng ở vị trí thứ ba trong âm tiết, là hạt nhân, là đỉnh của âm tiết, nó
mang âm sắc chủ yếu của âm tiết. Âm chính trong tiếng Việt do nguyên âm đảm nhiệm.
Nguyên âm của tiếng Việt chỉ có chức năng làm âm chính và nó không bao giờ vắng mặt
trong âm tiết. Vì mang âm sắc chủ yếu của âm tiết nên âm chính là âm mang thanh điệu.
Có nhiều ý kiến khác nhau về số lượng âm chính trong tiếng Việt. Nhưng nhìn
chung ý kiến cho rằng tiếng Việt có 16 nguyên âm chính (gồm 3 nguyên âm đôi, 13 nguyên
âm đơn, trong đó có 9 nguyên âm đơn dài và 4 nguyên âm đơn ngắn) là có cơ sở. Sau đây
là hệ thống nguyên âm chính (xem thêm Bảng âm vị nguyên âm):

Âm cuối
Âm cuối có vị trí cuối cùng của âm tiết, nó có chức năng kết thúc một âm tiết. Do
vậy khi có mặt của âm cuối thì âm tiết không có khả năng kết hợp thêm với âm (âm vị) nào

16


khác ở phần sau của nó. Ví dụ: trong "cúi", thì "i" là âm cuối kết thúc âm tiết nên sau nó
không thêm gì cho âm tiết lại. Trái lại, trong "quý", do "y" không phải là âm cuối vì có thể
thêm vào sau nó một âm cuối như "t" trong "quýt", "nh" trong "quýnh", v.v. Những âm tiết
còn có khả năng thêm vào âm cuối như "quý" ở trên, trong thực tế vẫn được kết thúc như
một âm tiết hoàn chỉnh. Bởi vì ở vị trí cuối (vị trí kết thúc âm tiết) lúc ấy có mặt một âm
cuối, được gọi là âm cuối zero đối lập với tất cả các âm cuối khác.
Âm cuối là bán nguyên âm u (ngắn) có âm sắc trầm chỉ được phân bố sau các
nguyên âm bổng và trung hoà, trừ nguyên âm "ơ" ngắn, ví dụ trong níu, áo, bêu diếu, cầu
cứu... Bán nguyên âm cuối i (ngắn) có âm sắc bổng chỉ được phân bố sau các nguyên âm
trầm và trung hoà, ví dụ trong tôi, chơi, túi, gửi, lấy...

Âm cuối zero là một âm vị trống nên không được biểu thị bằng chữ viết. Nó đối lập
với 6 âm cuối ở bảng trên, giống như âm đệm zero đối lập với âm đệm u , âm tắc thanh
hầu

đối lập với các phụ âm khác trong hệ thống các phụ âm đầu.
Sau đây là hệ thống các âm cuối trong tiếng Việt (xem thêm Bảng âm vị phụ âm):

Thanh điệu
Thanh điệu là một yếu tố thể hiện độ cao và sự chuyển biến của độ cao trong m i âm
tiết. M i âm tiết tiếng Việt nhất thiết phải được thể hiện với một thanh điệu. Thanh điệu có
chức năng phân biệt vỏ âm thanh, phân biệt nghĩa của từ.

17


Có nhiều ý kiến khác nhau về vị trí của thanh điệu trong âm tiết. Nhưng ý kiến cho
rằng thanh điệu nằm trong cả quá trình phát âm của âm tiết (nằm trên toàn bộ âm tiết) là
đáng tin cậy nhất về vị trí của thanh điệu.
2.3. Âm vị tiếng Việt
2.3.1.

Khái niệm âm vị

Theo lí luận đại cương về âm vị học, một đơn vị âm thanh được coi là âm vị khi nó
có khả năng trở thành thành tố của hình vị. Chẳng hạn trong tiếng Anh, âm [s] của từ
books (những quyển sách) là hình vị danh từ số nhiều. Như vậy, âm vị là đơn vị của bình
diện biểu đạt; và nếu thành tố nào của bình diện này không có khả năng kết hợp với thành
tố của bình diện nội dung để tạo thành hình vị thì thành tố đó không phải là âm vị. Do đó,
trong tiếng Việt, nếu vận dụng một cách cứng nhắc quan điểm trên, phải thừa nhận rằng
tương đồng với âm vị là âm tiết, vì âm tiết và chỉ có âm tiết mới có đủ “tư cách” làm đơn vị

tối thiểu cho thành phần của hình vị. Dưới âm tiết, âm đầu (phụ âm đầu) hay vần không
thực hiện được chức năng này.
Tuy nhiên, nếu coi trọng một phương diện khác của âm vị - phương diện là đơn vị
âm thanh nhỏ nhất không thể chia cắt, thì có thể thừa nhận trong tiếng Việt các yếu tố tham
gia cấu tạo âm tiết – các âm thanh – là âm vị (âm – âm vị, thanh – âm vị). Quan niệm như
vậy sẽ là hợp lí và thuận tiện cho việc giảng dạy tiếng Việt với tư cách là tiếng mẹ đ , hay
là một ngoại ngữ.
 Âm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất có giá trị khu biệt về nghĩa.
Ví dụ: {dan} và {tan} là hai từ tiếng Việt.
[d] ≠ [t] = Sdan ≠ Stan
d và t là hai âm vị của tiếng Việt.

18


2.3.2. Hệ thống âm vị tiếng Việt
a. Các loại âm vị: âm vị đoạn tính và âm vị siêu đoạn tính
Trong ngữ âm học, các đơn vị đoạn tính, hay có tên gọi khác: đơn vị âm đoạn, là
những đơn vị ngữ âm có thể phân đoạn trong chu i lời nói (theo tuyến tính). Các đơn vị âm
đoạn cụ thể là âm tố, âm tiết, âm tự, âm cú. Ngược lại, có những đơn vị ngữ âm không phân
đoạn được một cách độc lập; nó là những yếu tố đi kèm với những đơn vị âm đoạn. Những
đơn vị ngữ âm này được gọi là đơn vị siêu đoạn tính, hay tên khác: đơn vị siêu âm đoạn.
Các đơn vị siêu âm đoạn cụ thể là thanh điệu (gắn liền với âm tiết), trọng âm (gắn liền với
từ), ngữ điệu (gắn liền với câu). Nói chung các ngôn ngữ có thanh điệu thì không có trọng
âm từ (chỉ có trọng âm câu); trong khi đó, các nôn ngữ có trọng âm từ thì không có thanh
điệu. Ví dụ trong tiếng Việt từ “khí hậu” gồm có hai âm tiết, âm tiết thứ nhất mang thanh
sắc, âm tiết thứ hai mang thanh nặng; trong tiếng Anh, từ “climate” (khí hậu) gồm hai âm
tiết, trọng âm ở âm tiết thứ nhất.
b. Các hệ thống âm vị của tiếng Việt
Hệ thống âm đầu

Tiếng Việt có 22 phụ âm đầu, bao gồm:
/b, m, f, v, t, t’, d, n, z, ʐ, s, ş, c, ʈ, ɲ, l, k, χ, ŋ, ɣ, h, ʔ/

Bảng hệ thống âm đầu tiếng Việt

19


Hệ thống âm đệm
Âm đệm /w/ có chức năng làm trầm hoá âm sắc của âm tiết.
Hệ thống âm chính
Tiếng Việt có 13 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi làm âm chính:
/i, e, ε, ɤ, ɤˇ, a, ɯ, ă, u, o, ɔ, ɔˇ, εˇ, ie, ɯɤ, uo/

Bảng hệ thống nguyên âm tiếng Việt
Hệ thống âm cuối
Ngoài âm cuối /rezo/, tiếng Việt còn có 8 âm cuối có nội dung tích cực, trong đó
có 6 phụ âm m, n, ŋ, p, t, k và hai bán nguyên âm -w, -j/.

Bảng hệ thống âm cuối tiếng Việt

20


Hệ thống thanh điệu
Tiếng Việt có 6 thanh điệu.

3. Vấn đề chính âm, chính tả tiếng Việt
3.1.


Vấn đề chính âm với tiếng Việt
M i ngôn ngữ khi đạt đến một trình độ phát triển nào đó được cộng đồng sử dụng áp

đặt cho những chuẩn nhất định về ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng. Tuy nhiên sự áp đặt đó
không thể dễ dàng và cũng không thể.
Chính âm là chuẩn mực phát âm 1 ngôn ngữ có giá trị và hiệu lực về mặt xã hội.
Chính âm sẽ quy định nội dung luyện phát âm ở TH. Yêu cầu cơ bản của chính âm là xây
dựng một cách phát âm chuẩn thống nhất trong phạm vi toàn dân để ngôn ngữ có thể thực
hiện thuận lợi chức năng làm công cụ giao tiếp của mình.
Thực trạng dạy đọc đúng chính âm ở TH và biện pháp khắc phục:
Hiện nay, cách phát âm chuẩn mực thống nhất trong toàn quốc vẫn còn chưa được
quy định .Ở các trường phổ thông vẫn có khuynh hướng dạy phát âm theo sự khu biệt âm vị
học tối đa của chữ viết khắc phục những âm đã mất trong phát âm của địa phươngvà cố
gắng tránh hiện tượng đống âm sinh ra do cách phát âm kém khu biệt.Vì vậy để luyện phất
âm đúng cho học sinh trước hết và thực chất phải giả quyết vấn đề phương ngữ . Mục tiêu
mà chúng ta đặt ra là luyện cho học sinh vươn đến một tiếng nói của dân tộc Việt thống
nhất, đẹp đẽ về mặt âm thanh.Muốn như vậy chúng ta phải luyện cho học sinh phát âm
đúng, hay trong phạm vi giao tiếp hẹp hơn phương ngữ của mình.Vì vậy với mọi giáo viên
tiểu học cần phải xem xét cách phát âm hợp chuẩn. Chữ viết là căn cứ đầu tiên để xem xét

21


cách phát âm hợp chuẩn của học sinh, giáo viên cần xác định rõ các trường hợp phát âm
lệch chuẩn chữ viết của học sinh vùng phương ngữ mình đang dạy học .Trong nhà trường
tiểu học chúng ta nên chỉ luyện cho các trường hợp được xem là mắc l i phát âm, vì phát
âm đúng chuẩn chữ viết sẽ được nhiều cái lợi :Trước hết nó giúp học sinh viết đúng chính
tả ,sau đó còn giúp học sinh phát âm dễ dàng hơn khi học ngoại ngữ , nội dung cần đọc
đúng âm vị ở với mọi vùng khác . Giáo viên chỉ gợi ý và biết lựa chọn từ ngữ cần thiết để
luyện phát âm cho học sinh lớp mình dạy học .Trước hết với mọi giáo viên phải tự chữa l i

cho mình (nếu có) rồi xây dựng kế hoạch chữa l i phát âm cho học sinh trong giờ tập đọc
và cả các giờ học khác.
Tóm lại: luyện chính âm nhằm nâng cao văn hóa cho học sinh và khi thực hiện cần
lưu ý không đ cho học sinh phát âm mất tự nhiên đồng thời cũng chấp nhận nhiều chuẩn
mực ở những trường hợp phát âm không xem là mắc l i, từ đó không gò ép học sinh phát
âm theo chữ viết một cách không tự nhiên.
3.2.

Vấn đề chính tả với tiếng Việt
Chính tả là sự chuẩn hoá hình thức chữ viết của ngôn ngữ. Đó là một hệ thống các

quy tắc về cách viết các âm vị, âm tiết, từ, cách dùng các dấu câu, lối viết hoa...
Chuẩn chính tả có những đặc điểm chính sau đây.
-

Đặc điểm đầu tiên của chuẩn chính tả là tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối của nó.

Đặc điểm này đòi hỏi người viết bao giờ cũng phải viết đúng chính tả. Chữ viết có thể chưa
hợp lí nhưng khi đã được thừa nhận là chuẩn chính tả thì người cầm bút không được tự ý
viết khác đi. Ai cũng biết rằng viết "ghế", "ghen" không hợp lí và tiết kiệm bằng "gế",
"gen" nhưng chỉ có cách viết thứ nhất mới được coi là đúng chính tả. Vì vậy nói đến chuẩn
chính tả là nói đến tính chất pháp lệnh. Trong chính tả không có sự phân biệt hợp lí – không
hợp lí, hay – dở mà chỉ có sự phân biệt đúng – sai, không l i – l i. Đối với chính tả, yêu
cầu cao nhất là cách viết thống nhất, thống nhất trong mọi văn bản, mọi người, mọi địa
phương.
-

Do chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối cho nên nó ít bị thay đổi

như các chuẩn mực khác của ngôn ngữ (như chuẩn ngữ âm, chuẩn từ vựng, chuẩn ngữ

pháp). Nói cách khác, chuẩn chính tả có tính chất ổn định, tính chất cố hữu khá rõ. Sự tồn

22


tại nhất nhất hàng thế kỉ của nó đã tạo nên ấn tượng về một cái gì "bất di bất dịch", một tâm
lí rất bảo thủ. Chính vì thế mặc dù biết rằng cách viết "iên ngỉ" hợp lí hơn nhưng đối với
chúng ta nó rất "gai mắt", khó chịu vì trái với cách viết từ bao đời nay. Mặt khác, do tính
chất "trường tồn" này mà chính tả thường lạc hậu so với sự phát triển của ngữ âm. Sự mâu
thuẫn giữa ngữ âm "hiện đại" và chính tả "cổ hủ" là một trong những nguyên nhân chính
làm cho chính tả trở nên rắc rối.
-

Ngữ âm phát triển, chính tả không thể giữ mãi tính chất cố hữu của mình mà dần dần

cũng có một sự biến động nhất định. Do đó, bên cạnh chuẩn mực chính tả hiện có lại có thể
xuất hiện một cách viết mới tồn tại song song với nó, ví dụ: "phẩm zá", "anh zũng" bên
cạnh "phẩm giá", "anh dũng", "trau dồi" bên cạnh "trau giồi", "dòng nước" bên cạnh "giòng
nước", v.v... tình trạng có nhiều cách viết như vậy đòi hỏi phải tiến hành chuẩn hoá chính
tả.

Chƣơng 2: TỪ VỰNG NGỮ NGHĨA TIẾNG VIỆT
1.

Khái quát về từ vựng và từ vựng học

1.1.

Khái niệm về từ vựng


Nói tới từ vựng là nói tới hai khái niệm đơn vị từ vựng và hệ thống từ vựng. Đơn vị
từ vựng là các yếu tố của hệ thống từ vựng, gồm các từ (là loại đơn vị từ vựng chủ yếu,
điển hình của một ngôn ngữ) và các cụm từ cố định (là loại đơn vị từ vựng có tính chất thứ
yếu và không điển hình).
Hệ thống từ vựng là sự tập hợp các đơn vị từ vựng lại mà thành. Giống như các hệ
thống khác, hệ thống từ vựng cũng có tính tầng bậc, cấp bậc. Cụ thể, từ vựng của một ngôn
ngữ là một hệ thống lớn, bao hàm trong lòng nó những hệ thống nhỏ thuộc các tầng bậc,
cấp bậc khác nhau. Các từ đồng nghĩa, trái nghĩa...đều là những hệ thống. Các lớp từ như từ
toàn dân, từ địa phương, từ nghề nghiệp, thuật ngữ.... cũng đều là những hệ thống.
Từ vựng có vai trò quan trọng trong ngôn ngữ. Có thể hiểu rằng, m i từ biểu thị một
mảnh hiện thực và cả kho từ vựng chính là toàn bộ hiện thực khách quan được phản ánh
vào trong từ, trong ngôn ngữ. Như vậy, vai trò quan trọng trước hết của từ vựng là phản
ánh, biểu thị hiện thực khách quan, giúp con người nhận thức, khám phá hiện thực khách

23


quan một cách gián tiếp thông qua ngôn ngữ. Bên cạnh đó, từ vựng cung cấp các từ cho
người sử dụng ngôn ngữ để tổ chức thành các đơn vị ngôn ngữ lớn hơn (cụm từ, câu....)
phục vụ cho nhu cầu giao tiếp và tư duy (chức năng tạo câu của từ).
1.2.
-

Khái niệm về từ vựng học

Nói cho đơn giản thì từ vựng học (lexicology) là một bộ môn ngôn ngữ học nghiên

cứu từ vựng của ngôn ngữ. Vậy, đối tượng nghiên cứu của từ vựng học là từ vựng.
Từ vựng được hiểu là tập hợp tất cả các từ và đơn vị tương đương với từ trong ngôn
ngữ.

-

Đơn vị tương đương với từ là những cụm từ cố định, cái mà người ta vẫn hay gọi là

các thành ngữ, quán ngữ. Ví dụ: ngã vào võng đào, múa tay trong bị, con gái rượu, tóc rễ
tre, của đáng tội,… trong tiếng Việt; hoặc wolf in sheep's clothing (sói đội lốt cừu), like a
bat out of hell (ba chân bốn cẳng)… trong tiếng Anh.
-

Nhiệm vụ và mục đích cơ bản của từ vựng học là phải giải đáp được những vấn đề

chính như:
Trong thực tế, nghiên cứu từ vựng có thể xuất phát từ những bình diện khác nhau và
dùng những phương pháp khác nhau. Nếu khảo sát những vấn đề chung cho mọi (hoặc
nhiều) từ vựng của nhiều ngôn ngữ, là ta nhìn ở bình diện của từ vựng học đại cương.
Ngược lại, nếu chỉ quan tâm đến những vấn đề của một từ vựng trong một ngôn ngữ nào
đó, là ta đứng trên bình diện nghiên cứu cụ thể. Ví dụ: từ vựng học tiếng Việt, từ vựng học
tiếng Hán, từ vựng học tiếng Anh,…
Khi nghiên cứu một từ vựng đương đại (hiện đại) nào đó, người ta phân tích, miêu tả
theo cách nhìn đồng đại, và thường gọi tên như: Từ vựng học (tiếng Việt tiếng Nga …)
hiện đại.
Ngược lại, nghiên cứu từ vựng với cách nhìn lịch đại sẽ xây dựng nên bộ môn từ vựng
học lịch sử, khảo sát sự diễn biến của từ vựng trong quá trình phát triển-lịch sử của nó. Ở
đây, phương pháp so sánh lịch sử, và các nhân tố ngoài ngôn ngữ, sẽ rất được chú ý khai
thác, sử dụng.

24


Như đã nói từ đầu, các bộ môn từ vựng học, ngữ âm học, và ngữ pháp học là những

bộ môn tương đối độc lập. Tuy vậy, chúng không tách biệt nhau hoàn toàn mà vẫn có liên
quan đến nhau.
Ngữ pháp học và từ vựng học đều có đối tượng nghiên cứu là từ; đặc biệt, vấn đề
cấu tạo từ như là một phần giao giữa hai bộ môn này, khiến cho cả hai đều phải cùng thảo
luận. Đối tượng nghiên cứu của ngữ âm học thì riêng hẳn: chỉ chú ý đến mặt âm thanh của
từ. Thế nhưng, ba bộ môn này nhiều khi đã phải sử dụng kết quả nghiên cứu của nhau. Việc
phân tích nghĩa của từ bằng phương pháp sử dụng ngữ cảnh, việc phân tích ranh giới từ,…
chẳng hạn, không thể bỏ qua việc dựa vào các dấu hiệu và quy tắc ngữ pháp, ngữ âm như:
nguyên tắc kết hợp từ, chức năng và trật tự ngữ pháp, hiện tượng chuyển đổi từ loại, các
hiện tượng trọng âm (nhất là trọng âm lực – dynamic accent), hiện tượng mất tính thanh của
âm cuối… Mặt khác, nghiên cứu các biến thể, biến dạng của từ, nhất là nghiên cứu từ vựng
lịch sử và từ nguyên, chắc chắn phải sử dụng những hiểu biết về ngữ âm học, âm vị học.
Ngược lại, không hiếm những hiểu biết về ngữ pháp và ngữ âm (nhất là ngữ âm lịch sử) chỉ
có thể giải quyết qua những phân tích "một cách từ vựng học" như phân tích về từ cổ, từ
lịch sử, từ ngữ địa phương…
Ngoài ra, các bộ môn khác, kể cả trong và ngoài ngôn ngữ học như: phong cách học,
từ điển học, lịch sử văn hoá văn minh,… cũng đều ít nhiều liên quan đến từ vựng học.
2. Từ tiếng Việt
2.1. Từ tiếng Việt
Vấn đề định nghĩa từ
M i chúng ta, đã tiếp thu và nhận ra cái gọi là từ thông qua thực tiễn học tập và sử
dụng ngôn ngữ.
Cái khó là ở ch phải nên ra một định nghĩa có tính lí thuyết về từ. Cho đến nay, trong
ngôn ngữ học, các định nghĩa về từ đã được đưa ra không ít. Các định nghĩa ấy, ở mặt này
hay mặt kia đều đúng, nhưng đều không đủ và không bao gồm hết được tất cả các sự kiện
được coi là từ trong ngôn ngữ và ngay cả trong một ngôn ngữ cũng vậy. Chẳng hạn:

25



×