Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Giáo trình giáo dục học 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.32 MB, 50 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA SP TIỂU HỌC – MẦM NON

GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)

GIÁO DỤC HỌC 1
(Dành cho sinh viên các ngành ĐHSP)

Tác giả: Nguyễn Thị Thuỳ Vân
Nguyễn Thị Xuân Hương
Hoàng Thị Tường Vi

Năm 2016

1


MỤC LỤC
Trang
Chương 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC ................................................ 5
1. GIÁO DỤC LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI ĐẶC BIỆT ..................................5
1.1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt.......................................................5
1.2. Tính quy định của xã hội đối với giáo dục ........................................................5
2. CHỨC NĂNG CỦA GIÁO DỤC...........................................................................6
2.1. Chức năng kinh tế - sản xuất ............................................................................6
2.2. Chức năng chính trị - xã hội .............................................................................7
2.3. Chức năng tư tưởng - văn hoá..........................................................................7
3. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA GIÁO DỤC
HỌC...............................................................................................................................7
3.1. Đối tượng nghiên cứu của giáo dục học............................................................7


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của giáo dục học ..........................................................10
3.3. Phương pháp nghiên cứu của giáo dục học ....................................................10
4. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO DỤC
HỌC.............................................................................................................................11
4.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của khoa học giáo dục..................11
4.2. Xu thế phát triển hiện nay của giáo dục học ở Việt Nam ................................13
4.3. Xu thế phát triển hiện nay của giáo dục học thế giới....................................... 13
5. HỆ THỐNG CÁC KHOA HỌC VỀ GIÁO DỤC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
GIÁO DỤC HỌC VỚI CÁC KHOA HỌC KHÁC.......................................................14
5.1. Các khoa học về giáo dục ...............................................................................14
5.2. Mối quan hệ giữa giáo dục học và các khoa học khác..................................... 15
6. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA GIÁO DỤC HỌC ...................................15
Chương 2. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH................................. 17
1. SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CỦA CON NGƯỜI ........................................17
1.1. Khái niệm con người, nhân cách trong giáo dục học.......................................17
1.2. Khái niệm về sự phát triển nhân cách ............................................................18
2. NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI....19
2.1. Con người Việt Nam truyền thống..................................................................19
2.2. Con người Việt Nam hiện đại .........................................................................19
3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH ...............20
3.1. Vai trò của di truyền trong sự phát triển nhân cách ......................................... 20
3.2. Vai trò của môi trường trong sự phát triển nhân cách .....................................21
3.3. Giáo dục và sự phát triển nhân cách ...............................................................23
3.4. Hoạt động cá nhân với sự phát triển nhân cách ............................................... 25
Chương 3. MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU GIÁO DỤC VÀ HỆ THỐNG......................... 25
GIÁO DỤC QUỐC DÂN.......................................................... 25
1. KHÁI NIỆM MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU GIÁO DỤC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU GIÁO DỤC. ........................................................................26
1.1. Khái niệm mục đích, mục tiêu giáo dục ..........................................................26
1.2. Mối quan hệ giữa mục đích, mục tiêu giáo dục............................................... 27

2. MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ...........27
2


2.1. Vài nét về sự phát triển mục đích giáo dục Việt nam trong lịch sử..................27
2.2. Mục đích giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ...................................27
2.3. Mục tiêu giáo dục chuyên biệt ........................................................................29
2.4. Mục tiêu giáo dục trung học ..........................................................................33
2.5. Các nhiệm vụ giáo dục nhằm thực hiện mục đích, mục tiêu giáo dục..............33
3. HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN ................................................................35
3.1. Khái niệm về hệ thống giáo dục quốc dân ..................................................... 35
3.2. Đặc điểm của hệ thống giáo dục quốc dân ...................................................... 35
3.3. Các nguyên tắc chỉ đạo xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân........................36
3.4. Cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam ...............................37
Chương 4. NGƯỜI GIÁO VIÊN TRUNG HỌC ................................................... 39
1. VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN TRUNG HỌC
.....................................................................................................................................39
1.1. Vai trò, chức năng và nhiệm vụ của nhà giáo..................................................39
1.2. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người giáo viên trung học .........................40
2. ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG SƯ PHẠM CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN TRUNG HỌC
.....................................................................................................................................42
2.1. Mục đích của lao động sư phạm .....................................................................42
2.2. Đối tượng của lao động sư phạm ....................................................................42
2.3. Công cụ của lao động sư phạm .......................................................................43
2.4. Sản phẩm của lao động sư phạm..................................................................... 44
2.5. Thời gian và không gian của lao động sư phạm ..............................................44
3. YÊU CẦU VỀ PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN TRUNG
HỌC............................................................................................................................. 45
3.1. Về phẩm chất của người giáo viên trung học .................................................45
3.2. Về năng lực của người giáo viên trung học ....................................................46

3.3. Mối quan hệ giữa phẩm chất và năng lực sư phạm..........................................46
4. CÁC MỐI QUAN HỆ CÔNG TÁC CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN TRUNG HỌC
TRONG HOẠT ĐỘNG SƯ PHẠM .............................................................................47
4.1. Quan hệ với tập thể sư phạm ..........................................................................47
4.2. Quan hệ với các tổ chức của học sinh .............................................................47
4.3. Quan hệ với cha mẹ học sinh..........................................................................48
4.4. Quan hệ với các tổ chức xã hội khác...............................................................48
5. VẤN ĐỀ BỒI DƯỠNG, HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI GIÁO
VIÊN TRUNG HỌC ....................................................................................................48
5.1. Quá trình hình thành nhân cách của người giáo viên.......................................48
5.2. Người giáo viên trung học cơ sở với việc bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề
nghiệp, hoàn thiện nhân cách .......................................................................................49
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 50

3


LỜI NÓI ĐẦU
Để đáp ứng yêu cầu giảng dạy và học tập học phần: Giáo dục học 1, tài liệu biên
soạn nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về khoa học giáo dục, các yếu
tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách, mục đích, mục tiêu giáo dục, hệ thống giáo
dục quốc dân và người giáo viên trung học; Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức của
học phần vào thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhà giáo nói chung và của người giáo viên
trung học nói riêng.
Nội dung tài liệu được thể hiện trong 4 chương
Chương 1. Giáo dục học là một khoa học
Chương 2. Giáo dục và sự phát triển nhân cách
Chương 3. Mục đích, mục tiêu giáo dục và hệ thống giáo dục quốc dân
Chương 4. Người giáo viên trung học
Trong quá trình biên soạn tài liệu không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính

mong đồng nghiệp và sinh viên góp ý để tài liệu hoàn thiện hơn.
Tác giả

4


Chương 1
GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
1. GIÁO DỤC LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI ĐẶC BIỆT
1.1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt
Từ khi xuất hiện xã hội loài người, để có thể tồn tại và phát triển, trong lao động và
trong cuộc sống hằng ngày con người không ngừng tìm tòi và khám phá thế giới, tích
luỹ kinh nghiệm lịch sử, xã hội. Nhờ đó loài người đã dần dần nắm vững ngày càng
nhiều quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan, tích luỹ, hệ thống hoá ngày càng
nhiều kinh nghiệm phong phú, đa dạng trên mọi lĩnh vực hoạt động.
Để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội, con người có nhu cầu truyền lại cho
nhau những kinh nghiệm đã tích luỹ được. Thế hệ trước truyền cho thế hệ sau vốn tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo, đến lượt mình thế hệ sau kế thừa và phát triển, tiếp thu có chọn
lọc, sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Chính nhu
cầu này là nguồn gốc phát sinh của hiện tượng giáo dục.
Ban đầu giáo dục diễn ra một cách tự phát theo lối quan sát, bắt chước nhưng về sau nó
được diễn ra một cách tự giác, có kế hoạch, có ý thức, có nội dung, có phương pháp…Giáo
dục được thực hiện một cách chuyên biệt- đây cũng chính là yêu cầu tất yếu của xã hội và
do sức mạnh to lớn của giáo dục thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Có thể khẳng định: Giáo dục là nhu cầu tất yếu của xã hội. Nó là một hiện tượng
nảy sinh, tồn tại và phát triển vĩnh hằng cùng với sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của xã
hội loài người. Việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm là nét đặc trưng cơ bản
của hoạt động giáo dục với tư cách là một thiết chế xã hội, là một hiện tượng xã hội đặc
biệt, là nhu cầu quan trọng của xã hội loài người.
Trong lịch sử phát triển của nhân loại đã có nhiều kiểu giáo dục liên tục phát triển.

Mỗi kiểu giáo dục đều phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội và hoàn cảnh lịch sử đã sản
sinh ra nó. Lịch sử giáo dục đã chứng minh giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt,
là thành phần trong cơ cấu, thiết chế xã hội, gắn liền với sự thoả mãn nhu cầu phát triển
và tiến bộ xã hội.
1.2. Tính quy định của xã hội đối với giáo dục
1.2.1. Tính lịch sử - xã hội của giáo dục
Sự ra đời và phát triển của giáo dục bao giờ cũng gắn liền với sự ra đời và phát
triển của xã hội. Mỗi chế độ xã hội khác nhau có mỗi nền giáo dục tương ứng. Mỗi nền
giáo dục phản ánh yêu cầu và trình độ phát triển của xã hội. Do đó, giáo dục bao giờ
cũng biến đổi không ngừng, bao giờ cũng mang tính lịch sử cụ thể.
Ở Việt Nam thời kỳ phong kiến, sản xuất nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế, giáo dục chủ yếu dành cho tầng lớp trên, đi học với mục đích thi cử làm quan.
Giáo dục Việt Nam hiện nay nhằm đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân, phát triển giáo
dục và đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện
đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Ở mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử đều có nền giáo dục tương ứng với đặc
trưng về mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức. Vì thế, không
nên sao chép, áp đặt nguyên bản mô hình giáo dục của các nước phương Tây cho nền
5


giáo dục Việt Nam hoặc cũng không nên giữ nguyên mô hình giáo dục đã hình thành
trước đây áp dụng cho nền giáo dục hiện đại. Đổi mới, cải cách giáo dục là yêu cầu cấp
thiết, tuy nhiên phải tính đến yếu tố phù hợp và hiệu quả.
1.2.2. Tính giai cấp của giáo dục
Trong xã hội có sự phân chia giai cấp thì giáo dục mang tính giai cấp vì giai cấp
thống trị sử dụng giáo dục làm công cụ bảo vệ quyền lợi của mình, sử dụng giáo dục để
truyền bá hệ tư tưởng, đường lối, quan điểm, chính sách… của giai cấp đó. Mặt khác,

giai cấp thống trị biến giáo dục thành phương tiện để đào tạo lớp người phục vụ xã hội.
Tính giai cấp của giáo dục được thể hiện rõ nét ở mục đích, nội dung, nhiệm vụ,
phương pháp… giáo dục.
Còn trong xã hội ta, nền giáo dục mang tính chất giai cấp công nhân, được tiến
hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhằm mục tiêu chung là nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, tạo mọi cơ hội cho mọi
người đều được đi học, đều được phát triển mọi mặt về nhân cách và trở thành những
công dân, con người sáng tạo, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước.
1.2.3. Tính kế thừa của giáo dục
Giáo dục bao giờ cũng có tính kế thừa. Thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau, kế
thừa giữa các nền giáo dục vì đặc trưng của giáo dục là sự kế thừa kinh nghiệm, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đúc kết lại trong quá trình xây dựng và phát triển giáo
dục theo lịch sử phát triển xã hội.
Tính kế thừa của giáo dục đòi hỏi một mặt phải nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc,
phát triển những yếu tố tích cực, những kinh nghiệm quý báu của các nền giáo dục
trước, mặt khác phải biết phê phán, loại bỏ những yếu tố lạc hậu, không phù hợp với sự
phát triển mới của giáo dục, của xã hội để xây dựng và phát triển một nền giáo dục
mang tầm thời đại.
Giáo dục Việt Nam đang trong giai đoạn đổi mới để tạo ra bước phát triển đột phá,
vừa kế thừa, phát huy những thành tựu đã đạt được của nền giáo dục truyền thống, vừa
tiếp nhận những thành tựu tiên tiến, hiện đại của nền giáo dục các nước trên thế giới.
2. CHỨC NĂNG CỦA GIÁO DỤC
2.1. Chức năng kinh tế - sản xuất
Trong điều kiện phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, không chỉ tăng cường
mối liên hệ giữa khoa học với sản xuất để biến khoa học thành một lực lượng sản xuất
trực tiếp mà phải thực hiện sự tác động qua lại giữa khoa học giáo dục và sản xuất.
Hiệu quả của nền sản xuất vất chất phụ thuộc trực tiếp vào sự phát triển chung về
mặt nhận thức và trình độ chuyên môn của người lao động. Trình độ học vấn và chuyên
môn giúp cho người lao động có khả năng tiếp cận và vận dụng những thành tựu của

khoa học kỹ thuật vào lao động để tác động đến việc hoàn thiện công cụ lao động, biến
lao động thành hoạt động sáng tạo. Cho nên, quan hệ giữa trình độ của người lao động
với năng xuất lao động đã được coi là quy luật cơ bản của nền sản xuất hiện đại. Trình
độ chuyên môn của người lao động càng cao thì năng xuất lao động càng cao. Giáo dục
đào tạo nhân lực cho tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội đảm bảo cho
xã hội vận động và phát triển.
Như vậy, giáo dục trực tiếp tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo ra sức lao động
6


mới hơn, tinh vi hơn, khéo léo hơn để thay thế sức lao động cũ bằng cách phát triển
những năng lực chung và năng lực chuyên biệt của con người.
Để thực hiện tốt chức năng kinh tế- sản xuất, giáo dục phải thoả mãn một số yêu
cầu cơ bản sau:
- Giáo dục phải gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế- sản xuất và thoả mãn các
yêu cầu phát triển trong từng giai đoạn cụ thể.
- Xây dựng một hệ thống ngành nghề cân đối, đa dạng, phù hợp.
- Các loại hình cán bộ kỹ thuật và công nhân phải đảm bảo tính cân đối, tránh tình
trạng thừa thầy thiếu thợ, đồng thời phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có
phẩm chất tốt để thoả mãn các yêu cầu sản xuất hiện đại.
2.2. Chức năng chính trị - xã hội
Giáo dục không đứng ngoài chính trị, giáo dục là công cụ, phương thức truyền bá
hệ tư tưởng, quan điểm, đường lối… của giai cấp hay chính đảng cầm quyền để đảm
bảo sự ổn định chính trị.
Giáo dục trực tiếp tác động tới cấu trúc xã hội, làm phân hoá các tầng lớp xã hội.
Giáo dục xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc xã hội trở nên thuần nhất hơn
bằng cách xóa bỏ sự phân chia giai cấp, làm cho các tầng lớp trong xã hội xích lại gần
nhau qua quá trình nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, làm thay đổi vị trí xã
hội của mỗi người. Giáo dục góp phần thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu xã hội.
Thông qua việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực góp phần xoá đói, giảm nghèo,

góp phần chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thay đổi cấu trúc lao động xã hội và tạo ra sự bình
đẳng trong các tầng lớp dân cư. Góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý theo tinh
thần “do dân, vì dân”, tất cả cùng hướng tới để đạt mục tiêu chung: “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
2.3. Chức năng tư tưởng - văn hoá
Giáo dục có vai trò truyền bá hệ tư tưởng chính thống của xã hội, xây dựng lối
sống mới, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cho toàn xã hội. Mặt khác, giáo
dục phát huy truyền thống tư tưởng, văn hoá tốt đẹp của dân tộc, của xã hội, xây dựng
nền văn hoá mới, tư tưởng mới theo yêu cầu phát triển xã hội; đào tạo bồi dưỡng nhân
tài cho xã hội; góp phần hình thành hệ thống giá trị xã hội, xây dựng lối sống, đạo đức,
thế giới quan, ý thức hệ và chuẩn mực xã hội. Với chức năng này, giáo dục tiến hành
nâng cao dân trí, đồng thời xoá bỏ các tàn dư văn hoá lạc hậu, đấu tranh chống các tệ
nạn xã hội.
3. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA GIÁO
DỤC HỌC.
3.1. Đối tượng nghiên cứu của giáo dục học
Phần lớn các nhà giáo dục học đều xác định giáo dục học có đối tượng nghiên cứu
rất rõ ràng - đó là quá trình giáo dục với hàm nghĩa rộng, bao quát toàn bộ các tác động
giáo dục và dạy học được định hướng theo mục đích xác định, được tổ chức một cách
hợp lý, khoa học nhằm hình thành và phát triển nhân cách người học.
3.1.1. Đặc điểm của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục có những đặc điểm cơ bản sau:
- Là dạng vận động và phát triển liên tục của các hiện tượng, các tình huống giáo
7


dục và dạy học, được tổ chức thực hiện theo những quy trình xác định.
- Là một dạng vận động xã hội được tổ chức thực hiện liên quan (gián tiếp) với các
quá trình khác (kinh tế, chính trị, văn hoá...), được tổ chức một cách chuyên biệt (theo
quy luật của giáo dục)

- Trong quá trình giáo dục luôn luôn có sự tác động qua lại của các thành phần
tham gia tạo nên những quan hệ đặc biệt - quan hệ sư phạm, trong đó nhà giáo dục giữ
vai trò chủ đạo và học sinh là chủ thể hoạt động độc lập, sáng tạo.
3.1.2. Cấu trúc của quá trình sư phạm tổng thể
- Quá trình giáo dục (quá trình sư phạm tổng thể) là sự thống nhất của hai quá trình
bộ phận: dạy học và giáo dục (nghĩa hẹp). Chúng đều thực hiện các chức năng của giáo
dục và hình thành nhân cách con người toàn diện, nhưng mỗi quá trình có chức năng trội
khác nhau.
- Quá trình giáo dục tổng thể cũng như quá trình giáo dục bộ phận đều được tạo
thành bởi nhiều yếu tố: mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp và hình
thức tổ chức giáo dục, các phương tiện, thiết bị giáo dục và dạy học, hiệu quả và chất
lượng giáo dục... Để quá trình giáo dục vận hành được phải có các lực lượng: nhà sư
phạm với tư cách là chủ thể tác động giáo dục; người học với tư cách là chủ thể hoạt
động tích cực sáng tạo; các lực lượng này hoạt động trong mối tương quan biện chứng
và trong những điều kiện không gian, thời gian xác định.
* Mục đích, nhiệm vụ giáo dục: Mục đích giáo dục có thể được coi là “đơn dặt
hàng” của xã hôị đối với nền giáo dục về mẫu nhân cách con người được giáo dục, mà
giáo dục cần đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội về giáo dục con người lao động
trong từng giai đoạn phát triển lịch sử của xã hội.
Để thực hịên tốt mục đích này, giáo dục phải hoàn thành tốt các nhiệm vụ giáo
dục: giáo dục trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất và giáo dục
lao động. Những nhiệm vụ này liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau và thâm nhập
vào nhau.
Mục đích và nhiệm vụ giáo dục được coi là yêú tố hàng đầu của quá trình giáo dục
tổng thể hoặc bộ phận vì nó định hướng cho sự vận động và phát triển của toàn bộ quá
trình giáo dục này cũng như cho sự vận động và phát triển của các yếu tố khác.
* Nội dung giáo dục: Nội dung giáo dục bao gồm hệ thống những giá trị xã hội mà
người được giáo dục cần tiếp nhận để phát triển nhân cách theo những yêu cầu mà xã
hội đặt ra. Đó là hệ thống những giá trị nhân văn, đạo đức, văn hóa, khoa học, công
nghệ…được lựa chọn trong kho tàng giá trị của nhân loại.

Nội dung giáo dục, về cơ bản được phản ánh trong chương trình và sách giáo khoa.
Nó tạo nên nội dung hoạt động thống nhất cho nhà giáo dục và người được giáo dục
nhằm đạt mục đích giáo dục đã định.
* Phương pháp và phương tiện giáo dục: Phương pháp và phương tiện giáo dục quy
định những cách thức và những phương tiện hoạt động của nhà giáo dục và người được
giáo dục nhằm hoàn thành nhiệm vụ giáo dục và đạt được mục đích giáo dục đã định.
Phương pháp và phương tiện giáo dục là hai yếu tố độc lập nhưng trong thực tiễn
giáo dục, chúng luôn được thực hiện trong mối liên hệ biện chứng với nhau, thâm nhập
vào nhau, sinh thành ra nhau và tạo ra sức sống cho nhau.
* Nhà giáo dục: Nhà giáo dục cùng tập thể sư phạm của họ đóng vai trò định
8


hướng, tổ chức, điều khiển, điều chỉnh và đánh giá hoạt động nhận thức và tự giáo dục
của người được giáo dục. Nói gọn lại, đó là vai trò chủ đạo của nhà giáo dục. Nhà giáo
dục là tổng thể tổ chức các quá trình.
* Người được giáo dục: Người được giáo dục, cùng với tập thể của họ một mặt là
đối tượng giáo dục, tiếp nhận sự tác động có định hướng của nhà giáo dục; mặt khác là
chủ thể nhận thức, chủ thể tự giáo dục. Hai vai trò thống nhất với nhau, trong đó vai trò
chủ thể là cơ bản nhất.
* Kết quả giáo dục: Kết quả giáo dục là trình độ phát triển nhân cách của người
được giáo dục đạt được sau mỗi quá trình giáo dục nhất định và sau toàn bộ quá trình
giáo dục. Đồng thời kết quả này cũng được coi là kết quả sinh động của sự vận động và
phát triển của quá trình giáo dục bộ phận và của quá trình giáo dục tổng thể.
Toàn bộ các yếu tố trên vận động và phát triển, quan hệ biện chứng với nhau, thúc
đẩy lẫn nhau trong cùng một hệ thống và đều bị chi phối bởi các quá trình kinh tế - xã
hội, các nhân tố lịch sử - xã hội cụ thể. Tất cả các thành phần, các yếu tố kể trên "tham
gia" trong quá trình dạy học và giáo dục cũng đều là đối tượng nghiên cứu bộ phận của
giáo dục học.
- Quá trình dạy học và quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) trong thực tế luôn luôn gắn

bó chặt chẽ với nhau, rất ít trường hợp xảy ra một cách độc lập.
+ Quá trình dạy học không chỉ làm nhiệm vụ hình thành hệ thống tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo..., đồng thời khi người học đã nhận thức được vấn đề bao giờ cũng biểu hiện thái
độ với nó.
+ Thực tế dạy học hiện nay, nhà trường thường tập trung mọi nỗ lực vào quá trình
dạy học, ít chú ý đến quá trình giáo dục (nghĩa hẹp), điều đó làm giảm chất lượng giáo
dục hiện nay. Vì vậy, việc tách quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) ra khỏi quá trình dạy học
là để nhấn mạnh tầm quan trọng của nó trong đời sống nhà trường.
- So sánh quá trình dạy học và giáo dục:
DẠY HỌC
GIÁO DỤC
Về chức năng, nhiệm vụ
- Có thế mạnh trong hình thành
- Có thế mạnh trong việc hình thành
niềm tin, chuẩn mực, lý tưởng, động cơ,
các biểu tượng, khái niệm, định luật, lý
nguyên tắc hành vi đạo đức, lao động và
thuyết, các kỹ năng, kỹ xảo chung và
thẩm mĩ,... nghĩa là ảnh hưởng của nó
riêng, nghĩa là ảnh hưởng của nó thiên
thiên về tâm hồn.
về trí tuệ, nhận thức.
Về nội dung
- Chương trình, kế hoạch dạy học
- Nội dung giáo dục chỉ có tính chất
được quy định chặt chẽ
định hướng: có thể là sinh hoạt văn hoá,
chính trị xã hội, lao động nghệ thuật, thể
thao, du lịch... có tính chất quần chúng;
được xác định chủ yếu dựa theo nhu cầu

xã hội, nguyện vọng và hứng thú của tập
thể người học ở lứa tuổi khác nhau.
Nhà giáo dục kết hợp với người
học để lựa chọn các hoạt động giáo dục
nhằm đảm bảo yêu cầu giáo dục toàn
diện.
Về hình thức
9


- Khi dạy học, các hình thức thường
được sử dụng là giờ lên lớp, xêmina,
thực hành, thí nghiệm...

- Trong quá trình giáo dục, các hình
thức thường được sử dụng là sinh hoạt
tập thể, hoạt động xã hội, tham quan, lao
động xã hội - công ích...

Về quản lý
- Người lãnh đạo quá trình dạy học
- Người lãnh đạo là đại diện của tập
chủ yếu là giáo viên (giảng viên)
thể người học (lớp trưởng, cán bộ đoàn,
đội với sự giúp đỡ của nhà giáo dục, chủ
nhiệm lớp, văn phòng khoa...).
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của giáo dục học
Giáo dục học tập trung giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nghiên cứu và hoàn thiện các phạm trù phương pháp luận khoa học giáo dục, làm
cho giáo dục phát triển có định hướng, tiếp cận với xu thế và sự phát triển mới trong thế

kỷ XXI.
- Nghiên cứu góp phần giải quyết các "mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phải phát
triển nhanh quy mô giáo dục - đào tạo vừa phải gấp rút nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, trong khi khả năng và điều kiện đáp ứng yêu cầu còn nhiều hạn chế"
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục với nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức giáo dục trong điều kiện mới, phát hiện các nhân tố mới mang tính quy
luật trong sự phát triển giáo dục hiện nay (trong nội dung như: các vấn đề giáo dục quốc
tế, giáo dục môi trường; trong phương pháp như các vấn đề tự học, phát huy nội lực của
người học ...)
- Các vấn đề về hệ thống giáo dục quốc dân trong tiến trình đổi mới và phát triển,
những yêu cầu lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong công tác quản lý giáo dục
- Nghiên cứu làm rõ vấn đề giáo dục giá trị trong điều kiện xã hội hiện đại, đó là cách
tốt nhất góp phần hình thành nhân cách, giúp con người sáng tạo ra các giá trị mới.
Các nhiệm vụ trên vừa có tính định hướng cho mọi hoạt động nghiên cứu, sáng tạo
trong phạm vi giáo dục học, vừa có ý nghĩa thiết thực đối với quá trình điều chỉnh, hoàn
thiện quá trình giáo dục.
3.3. Phương pháp nghiên cứu của giáo dục học
- Cơ sở phương pháp luận của giáo dục học là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử áp dụng vào quá trình nghiên cứu các hiện tượng và qúa trình giáo
dục.
Nắm vững các quan điểm phương pháp luận nhà giáo dục có thể:
- Nghiên cứu, tìm tòi, phát hiện thông qua các nguồn tài liệu khác nhau.
- Lựa chọn các phương pháp, phương tiện nghiên cứu, tuỳ theo tính chất, yêu cầu của
vấn đề nghiên cứu: khảo sát, điều tra, tổng kết kinh nghiệm, thực nghiệm khoa học.
- Áp dụng các thao tác tư duy khoa học để phát hiện tính quy luật, các yếu tố mới
trong lý luận và thực tiễn giáo dục.
Các phương pháp nghiên cứu KHGD có 3 nhóm phương pháp:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận (phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái
quát hóa, giả thuyết...)
10



- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn (quan sát, đàm thoại, điều tra, trắc
nghiệm, thực nghiệm, tổng kết kinh nghiệm, lấy ý kiến chuyên gia...)
- Nhóm phương pháp thống kê toán học.
4. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO DỤC
HỌC
4.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của khoa học giáo dục
* Trong thời kỳ cổ đại, giáo dục được xem là một trong những mặt hoạt động xã hội
bình thường trong cuộc sống hàng ngày gắn với tiến trình phát triển chung của xã hội. Vào
thời kỳ này xuất hiện các nhà tư tưởng giáo dục nổi tiếng như: Khổng Tử (551 - 479
TCN); Xôcrát (469 - 399 TCN); Arixtôt (384 - 322 TCN); Platôn (427 - 347 TCN)...
- Xôcơrát (469 - 399 TCN): là nhà giáo dục thực hành, ông quan niệm giáo dục phải
giúp con người tìm thấy, tự khẳng định chính bản thân mình, vì thế tư tưởng của ông
mang giá trị nhân văn rất cao. Trong hoạt động giáo dục ông nổi tiếng là nhà sáng tạo. Bao
giờ ông cũng nêu câu hỏi để người học suy nghĩ, tự tìm lời giải đáp. Trong 40 năm hoạt
động, ông đã nêu cao tấm gương đức hạnh của mình, tình yêu chân lí và sự can đảm trong
việc bảo vệ chân lí…
- Platôn (427 - 347 TCN): là học trò của Xôcơrát, ông đã có công sưu tập, ghi lại và
xuất bản phần lớn các tác phẩm của Xôcơrát. Theo ông, việc giáo dục trước hết liên quan
tới đạo đức, tâm lí học, xã hội học. Ông cho rằng, sống đạo đức trước hết là sống công
bằng, một cá nhân được xem là công bằng khi nội tâm đảm bảo được sự thăng bằng giữa 3
yếu tố: dục vọng, sự can đảm và lý trí, nhưng “hành động của con người chỉ hợp lý nếu
cái bụng và trái tim chịu sự phục tùng cái đầu”. Ông cũng cho rằng, con người và xã hội
chỉ có thể đạt tới hạnh phúc bởi một nền giáo dục quốc gia. Mỗi con người phải được giáo
dục như nhau ngay từ ngày đầu. Đây là quan điểm tiến bộ, song không phù hợp với thể
chế của xã hội nô lệ
- Khổng Tử (551 – 479 TCN): là nhà giáo vĩ đại của Trung Hoa cổ đại và của nhân
loại. Ông quan niệm giáo dục con người phải nhằm mục đích đào tạo nên những người
nhân nghĩa, có phẩm hạnh. Trong quá trình hoạt động giáo dục, Khổng Tử đã sáng tạo và
vận dụng nhiều phương pháp giáo dục tiến bộ so với đương thời. Ông đã dùng cách gợi

mở, đi từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức tạp nhưng vẫn đòi hỏi người học phải tích cực
suy nghĩ để nắm vững vấn đề; ông đòi hỏi người phải luyện tập, nề nếp và thói quen trong
học tập, theo hướng “ôn cũ để biết cái mới”. Để gắn nội dung giáo dục với cuộc sống, ông
còn dùng phương pháp đối thoại, yêu cầu học sinh liên hệ những điều đã học vào thực tế
hàng ngày…
Vào thời cổ đại, nhiều nhà tư tưởng giáo dục đồng thời cũng là nhà khoa học, triết
học, do đó các tư tưởng giáo dục thường phát triển và được trình bày trong các tác phẩm
triết học và khoa học nói chung…
* Ở phương Tây, vào thời kỳ trung cổ, vai trò độc tôn của nhà thờ đã có ảnh hưởng
rất rõ nét đối với sự phát triển của nhà trường nói chung và về tư tưởng giáo dục nói riêng.
Giáo dục học chưa xuất hiện với tư cách là một khoa học độc lập.
Ở Tây Âu, vào thời kỳ Trung cổ, triết học cùng giáo dục chủ yếu phục vụ cho thần
học. Thời ấy chỉ có các trường của giáo hội, các nhà tôn giáo chủ trương kết hợp và dung
hòa lý trí, sự phát triển trí tuệ với niềm tin tôn giáo, chính đó là sự thể hiện nguồn gốc nảy
sinh ra triết học kinh viện, nhằm chứng minh rằng niềm tin bao giờ cũng định hướng và ở
vị trí cao hơn trí tuệ, có trước trí tuệ và khoa học.
Đến thế kỷ XII - XIII ở Tây Âu đã hình thành ba loại trường: Trường tu viện; trường
11


của nhà thờ và trường dòng. Lúc đầu ở các loại trường này chỉ dạy giáo lý, kinh bản. Sau
đó dạy thêm số học, hình học, thiên văn và âm nhạc. Bên cạnh trường tôn giáo có hệ thống
giáo dục kỵ sĩ, với nội dung giáo dục “Bảy đức tính của kỵ sĩ”: Cưỡi ngựa, bơi, dùng giáo,
đấu kiếm, đi săn, đánh cờ, làm thơ. Thực chất giáo dục tôn giáo và giáo dục kị sĩ ở Tây Âu
đều phục vụ cho chế độ phong kiến thần quyền đương thời.
* Đến cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV khi mầm mống của xã hội tư bản xuất hiện,
nhân loại bước vào thời đại Phục hưng. Các nhà tư tưởng nhân văn tiên tiến xuất hiện, tạo
nên nhu cầu, động lực mới thúc đẩy giáo dục phát triển với tư tưởng giáo dục tiến bộ:
Vượt ra khỏi khuôn khổ giáo dục kinh viện- tôn giáo, hướng về chủ nghĩa nhân văn. Các
nhà nhân văn chủ nghĩa chủ trương đề cao giá trị con người, cho rằng con người cần được

phát triển toàn diện. Chính bước quá độ từ chế độ phong kiến qua chủ nghĩa tư bản đã làm
xuất hiện những hệ thống tri thức mới ra đời, trong đó có nhiều khoa học tách ra khỏi triết
học. Giáo dục học từ đây cũng tồn tại và phát triển như là một khoa học độc lập do công
của nhà giáo dục học vĩ đại Tiệp Khắc Comenxki (1592 - 1670). Ông là nhà lý luận và là
nhà tư tưởng giáo dục đã đề cao giáo dục phổ cập, việc dạy tiếng mẹ đẻ trong các nhà
trường và nêu ra luận chứng chặt chẽ trong tác phẩm nổi tiếng: “Phép giảng dạy vĩ đại”.
Rất nhiều nguyên tắc dạy học vẫn được sử dụng đến ngày nay như: Nguyên tắc trực quan,
nguyên tắc tính khoa học và tính hệ thống trong dạy học vv… đã được nêu bật trong tác
phẩm ấy.
Sau Comenxki, xuất hiện nhiều nhà nghiên cứu giáo dục học, như Lốccơ (1632 1701), Rútxô (1712 - 1778),… trong đó phải kể đến Petxtalogi, ông đặc biệt nhấn mạnh tác
dụng của việc kết hợp lao động với học tập, nhấn mạnh tác dụng vai trò của trực quan trong
dạy học và giáo dục và vạch ra một hệ thống các phương pháp giáo dục chung.
Cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội tư bản, kinh tế - xã hội, văn hóa và
khoa học phát triển rất nhanh, giáo dục đã được nâng cao. Tuy vậy, mâu thuẫn xã hội cũng
đã xuất hiện và ngày càng gay gắt, tất cả đều được phản ánh rõ nét trong hệ tư tưởng,
trong đời sống xã hội.
* Vào nửa đầu thế kỷ XIX cùng với sự phát triển chung của khoa học, giáo dục học
cũng đã phát triển và thể hiện sự đấu tranh gay gắt giữa các quan điểm lí luận giáo dục của
giai cấp tư sản và lợi ích giáo dục của nhân dân. Nhiều nhà giáo dục tiến bộ, như A.
Dixtécvéc (1790 - 1866), A. XanhXimông (1760 - 1837)… đã tiếp tục phát triển quan điểm
giáo dục của Petxtalozi, họ không những kế thưa tư tưởng giáo dục tiến bộ của ông mà còn
phát triển, làm phong phú thêm, xây dựng cơ sở cho các quan điểm giáo dục xã hội chủ
nghĩa về sau, nâng cao tầm tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa trong giáo dục.
* Cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX, giáo
dục học tiếp tục phát triển với cơ sở phương pháp luận khoa học, làm cho giáo dục học
tiếp thu, kế thừa và phát huy được toàn bộ thành tựu của các tư tưởng giáo dục tiến bộ của
nhân loại, gắn liền với sự phát triển và tiến bộ của giáo dục với công cuộc đấu trành giải
phóng con người khỏi mọi ách áp bức bóc lột, mọi tệ nạn xã hội, góp phần tổ chức lại xã
hội theo hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển những giá trị tinh hoa trong di sản
giáo dục của nhân loại, học thuyết Mác - Lênin về giáo dục đã chứng minh một cách khoa

học các vấn đề có tính quy luật trong giáo dục như: Sự hình thành con người, tính quy
định của kinh tế - xã hội đối với giáo dục, tính lịch sử của giáo dục trong tiến trình phát
triển của xã hội và vai trò của giáo dục trong điều kiện xã hội có giai cấp.
Những luận điểm trên đã được xem là các quan điểm cơ bản, có vai trò định hướng
cho mọi quá trình nghiên cứu, ứng dụng các vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục, giúp
12


cho giáo dục học ngày càng phong phú và phát triển sâu rộng như ngày nay.
4.2. Xu thế phát triển hiện nay của giáo dục học ở Việt Nam
Dựa trên những thành tựu to lớn đã đạt được Đảng ta đã khẳng định: đẩy mạnh CNH HĐH đất nước nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững
bước đi lên CNXH. Để thực hiện mục tiêu trên, NQTW4 khoá VII, NQTW2 khoá VIII, NQ
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng CSVN, Chiến lược phát triển giáo dục giai
đoạn 2011- 2020 đã xác định các định hướng chỉ đạo sau:
- Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng
cao vai trò các tổ chức, đoàn thể chính trị, kinh tế, xã hội trong phát triển giáo dục. Đầu tư
cho giáo dục là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính sách ưu đãi đối với giáo dục, đặc
biệt là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương; ưu tiên ngân sách nhà nước dành cho
phát triển giáo dục phổ cập và các đối tượng đặc thù.
- Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, tiên tiến, hiện đại, xã hội chủ
nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công
bằng xã hội trong giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó để đạt được mặt bằng
chung, đồng thời tạo điều kiện để các địa phương và các cơ sở giáo dục có điều kiện bứt
phá nhanh, đi trước một bước, đạt trình độ ngang bằng với các nước có nền giáo dục phát
triển. Xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học, học suốt đời,
đặc biệt đối với người dân tộc thiểu số, người nghèo, con em diện chính sách.
- Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, phát triển giáo dục gắn với phát triển khoa học và công nghệ, tập trung vào

nâng cao chất lượng, đặc biệt chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ
năng thực hành để một mặt đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo an ninh quốc phòng; mặt khác phải chú trọng
thỏa mãn nhu cầu phát triển của mỗi người học, những người có năng khiếu được phát
triển tài năng.
- Hội nhập quốc tế sâu, rộng về giáo dục trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc dân
tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng giao lưu hợp tác với
các nền giáo dục trên thế giới, nhất là với các nền giáo dục tiên tiến hiện đại; phát hiện và
khai thác kịp thời các cơ hội thu hút nguồn lực có chất lượng.
Mặt khác, chúng ta đang sống trong thế kỷ mà tri thức của con người được coi là yếu
tố quyết định đến sự phát triển của xã hội. Để đáp ứng được sự phát triển ngày càng cao
của xã hội, nền giáo dục nước nhà cần có sự đổi mới mạnh mẽ về phương pháp dạy học
theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Đổi mới phương pháp dạy học
là vấn đề cấp bách không chỉ riêng nước ta mà của mọi quốc gia trên thế giới.
4.3. Xu thế phát triển hiện nay của giáo dục học thế giới
Hiện nay, giáo dục học trên thế giới phát triển theo năm xu hướng cơ bản sau:
- Ưu việt hoá cơ cấu tổng thể của giáo dục, bao gồm kết hợp giữa giáo dục toàn diện
và giáo dục trọng điểm một cách chặt chẽ, tăng cường tối đa hiệu quả kinh tế của giáo dục,
kết hợp xã hội hoá mọi khâu, mọi quá trình giáo dục, đào tạo.
- Phát triển hài hoà, cân đối, toàn diện cá tính, nhân cách.
- Tâm lí hoá lý luận dạy học: Vận dụng tối ưu các thành tựu mới về Tâm lí học vào
quá trình dạy học, giáo dục nhằm phát huy hiệu quả giáo dục, đào tạo.
- Nhất thể hoá giáo dục với sản xuất: Gắn giáo dục với lao động sản xuất, coi
13


trọng giáo dục lao động, giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị sẵn sàng cho học sinh tham
gia lao động sáng tạo, có hiệu quả.
- Coi trọng phát triển các xu hướng giáo dục nhân văn, giáo dục cộng đồng, giáo dục
thường xuyên

5. HỆ THỐNG CÁC KHOA HỌC VỀ GIÁO DỤC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
GIÁO DỤC HỌC VỚI CÁC KHOA HỌC KHÁC
5.1. Các khoa học về giáo dục
- Giáo dục học có những phân môn sau đây:
+ Lịch sử giáo dục học : Muốn phát triển đúng hướng, giáo dục học luôn phải vận
dụng “nguyên tắc lịch sử trong nội dung và phương pháp nghiên cứu”. Như vậy, lịch sử
giáo dục học có vai trò quan trọng trong hệ thống các khoa học giáo dục trước hết đối với
giáo dục học. Nhờ quán triệt quan điểm đối với các hiện tượng giáo dục (của các thời đại
khác nhau) nhà nghiên cứu sẽ phát hiện đúng đắn bản chất xã hội của giáo dục ở từng thời
đại và hiểu được tiến trình phát triển và đổi mới liên tục của giáo dục.
Lịch sử giáo dục cung cấp cho giáo dục học các tư tưởng giáo dục tiên tiến, kiệt xuất,
dựa trên sự kế thừa có chọn lọc có phê phán các thành tựu và lí luận giáo dục có giá trị
trong nước và trên thế giới, giúp cho giáo dục học luôn phát triển, luôn đổi mới, bắt kịp xu
thế của thời đại.
+ Những vấn đề chung của giáo dục học: nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất của
giáo dục học, cụ thể là: chứng minh giáo dục học là một khoa học; trình bày những lý
luận, những định luật cơ bản về sự hình thành và phát triển nhân cách; giới thiệu mục đích
giáo dục, những quan điểm, những nguyên tắc giáo dục cơ bản nhất; hệ thống giáo dục quốc
dân; giới thiệu về vai trò của người thầy giáo trong quá trình dạy học và giáo dục.
+ Lý luận dạy học: Nghiên cứu quá trình dạy học với tư cách là một quá trình sư
phạm bộ phận, một phương tiện để trau dồi học vấn, phát triển năng lực và giáo dục các
phẩm chất nhân cách thông qua hoạt động đồng thời giữa giáo viên và học sinh nhằm
truyền thụ tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xão, nhận thức và hành động cho học sinh. Lý
luận dạy học nghiên cứu bản chất và các quy luật của quá trình dạy học, nêu ra được các
nguyên tắc chỉ đạo, phương pháp thực hiện và nội dung cần thiết, hình thức và phương
pháp thích hợp và cuối cùng là đánh giá kết quả dạy học.
+ Lý luận giáo dục: Nghiên cứu quá trình sư phạm với tư cách là một quá trình sư
phạm bộ phận, nhằm hình thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, thái độ và thói quen hành vi
trong cuộc sống. Lý luận giáo dục nghiên cứu bản chất và tính quy luật của quá trình giáo
dục, thiết kế nội dung, xây dựng nguyên tắc, tìm ra các phương pháp và các hình thức tổ

chức giáo dục và đánh giá kết quả về mặt giáo dục các phẩm chất nhân cách của người
học.
+ Lý luận về quản lý nhà trường: Nghiên cứu quá trình tổ chức và điều khiển công
tác giáo dục nhà trường, các cấp học khác nhau. Nhiệm vụ của lý luận quản lý nhà trường
là nghiên cứu bản chất, cấu trúc, các tính quy luật vận hành quá trình đó, xác định nội
dung, nguyên tắc và triển vọng phát triển của nó nhằm hoàn thiện cái cũ, xây dựng cái mới
trong các hình thức tổ chức, phương pháp và biện pháp hoạt động quản lí. Nhân lõi của lý
luận quản lý nhà trường là những vấn đề quản lý nội bộ nhà trường, đặc biệt là những vấn
đề về tổ chức và lãnh đạo quá trình sư phạm trong nhà trường.
- Giáo dục học nằm trong hệ thống của khoa học giáo dục nhưng bản thân nó cũng
bao gồm nhiều phân môn khác nhau như: giáo dục học nhà trẻ, mẫu giáo, giáo dục học
cho lứa tuổi đi học ...
14


- Trong thực tế giáo dục học còn được nghiên cứu và giảng dạy ở từng ngành chuyên
môn – nghề nghiệp (giáo dục học y học, giáo dục học quân sự, giáo dục học kĩ thuật…).
- Ngành giáo dục học đặc biệt cũng là một bộ phận của giáo dục học có nhiệm vụ
chuyên nghiên cứu những vấn đề dạy học và giáo dục những trẻ khuyết tật về thị giác,
thính giác hoặc chậm phát triển về ngôn ngữ, trí tuệ.
- Đối với thực tiễn hoạt động ở nhà trường các bộ môn phương pháp dạy học bộ môn
có vai trò quan trọng như: Bộ môn phương pháp dạy học toán, văn, sử, địa, sinh, kĩ thuật,
v.v.. còn gọi là “lí luận dạy học bộ môn"
Tuy đối tượng nghiên cứu có khác nhau nhưng các phân môn giáo dục học đều có cơ
sở chung là lí luận giáo dục học đại cương, từ những kiến thức và kỹ năng này mà vận
dụng, đáp ứng cho việc giáo dục ở các lĩnh vực khác nhau.
5.2. Mối quan hệ giữa giáo dục học và các khoa học khác
Giáo dục là một hiện tượng xã hội. Giáo dục học là một khoa học xã hội, nó có liên
quan mật thiết với các khoa học, trước hết là với các khoa học xã hội.
Giáo dục học có liên quan mật thiết với nhiều ngành khoa học như đạo đức học, mỹ

học, kinh tế học, văn học…
* Với triết học Mác - Lê nin : Triết học Mác - Lê nin là nền tảng khoa học cho sự
phát triển của khoa học giáo dục. Đồng thời có một số vấn đề mà cả hai ngành khoa học
này cùng quan tâm nghiên cứu. Đó là các vấn đề :
- Sự hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa và mục đích giáo dục xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
- Mối liên hệ giữa quá trình giáo dục với các quá trình xã hội khác.
- Mối liên hệ giữa tập thể và cá nhân ...
* Với đạo đức học: Đạo đức học giúp cho giáo dục học giải quyết những vấn đề về
công tác giáo dục đạo đức, thế giới quan, tư tưởng chính trị cho học sinh.
* Với sinh lý học: Sinh lý học là cơ sở khoa học tự nhiên của giáo dục học. Việc
nghiên cứu giáo dục học phải dựa vào những thành tựu của sinh lý học đặc biệt là sinh lý
học thần kinh cấp cao, về hoạt động của hai hệ thống tín hiệu, về sự phát triển và vận hành
của các giác quan và hoạt động của chúng ...
* Với tâm lý học: Tâm lý học cung cấp cho giáo dục học những tri thức khoa học về
các cơ chế diễn biến và điều kiện tổ chức các quá trình bên trong của sự hình thành nhân
cách con người theo lứa tuổi trong từng hoạt động, làm cơ sở đáng tin cậy cho việc tổ
chức quá trình sư phạm.
* Trong giai đoạn hiện nay, nhiều ngành khoa học khác như điều khiển học, tin học
đang thâm nhập và được ứng dụng trong nghiên cứu về lí luận và thực tiễn giáo dục, tạo ra
những cách thức tổ chức mới, phương pháp và phương tiện mới trong lĩnh vực giáo dục và
dạy học.

6. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA GIÁO DỤC HỌC
6. 1. Giáo dục
6.1.1. Giáo dục (theo nghĩa rộng)
Giáo dục (theo nghĩa rộng) là hoạt động giáo dục tổng thể hình thành và phát triển
nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch nhằm phát triển tối đa những
tiềm năng (sức mạnh thể chất và tinh thần) của con người. Như vậy, giáo dục là một bộ
phận của quá trình xã hội hình thành cá nhân con người, bao gồm những nhân tố tác động

có mục đích, có tổ chức của xã hội, do những người có kinh nghiệm, có chuyên môn gọi là
nhà giáo dục, nhà sư phạm đảm nhận. Nơi tổ chức hoạt động giáo dục một cách có hệ
15


thống có kế hoạch chặt chẽ nhất là nhà trường.
Với nghĩa rộng như trên, giáo dục là một hoạt động tổng thể bao gồm giáo dục trí tuệ,
giáo dục đạo đức, giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục lao động do nhà trường
phụ trách trước xã hội.
6.1.2. Giáo dục (nghĩa hẹp)
Giáo dục (nghĩa hẹp) là một bộ phận của hoạt động giáo dục (nghĩa rộng), là hoạt
động giáo dục nhằm hình thành thế giới quan khoa học, tư tưởng chính trị, đạo đức, thẩm
mỹ, lao động, phát triển thể lực, những hành vi và thói quen ứng xử đúng đắn của cá nhân
trong các mối quan hệ xã hội. Theo nghĩa này giáo dục (nghĩa hẹp) bao gồm các bộ phận:
đức dục, mỹ dục, thể dục, giáo dục lao động.
6.2. Dạy học
Dạy học là một bộ phận của giáo dục (nghĩa rộng), là hoạt động tương tác, phối
hợp thống nhất giữa hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của người học nhằm
truyền thụ và lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo, phát triển năng lực
nhận thức và hành động, trên cơ sở đó hình thành thế giới quan khoa học, phẩm chất đạo
đức nói riêng và nhân cách nói chung cho người học…
Với nghĩa này, dạy học được coi là một hoạt động đặc trưng của nhà trường và là
một con đường cơ bản nhất để tiến hành giáo dục và giáo dưỡng.
6.3. Giáo dưỡng
Giáo dưỡng được hiểu là quá trình người học nắm vững hệ thống tri thức khoa học,
kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, hình thành phương pháp nhận thức và thực hành sáng tạo.
Nói cách khác, giáo dưỡng chính là quá trình bồi dưỡng học vấn cho người học (học vấn
là kết quả của việc nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng…).
Giáo dưỡng có thể được thực hiện thông qua con đường dạy học trong nhà trường
hoặc có thể thông qua con đường tự học, tự bồi dưỡng của cá nhân hoặc kết hợp cả hai

con đường.
6.4. Tự học
Tự học là hoạt động tự giác, có mục đích của cá nhân, là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp cùng các phẩm chất, động cơ, tình
cảm… để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành
sở hữu của mình. Cốt lõi của học là tự học. Tự học là nói đến nội lực của người học, chất
lượng của học tuỳ thuộc chủ yếu vào nội lực. Dù điều kiện tác động từ bên ngòai đối với
họat động học tốt đến mấy, nhưng nếu con người không có đủ nỗ lực bản thân để tự học,
tự biến đổi mình đến mức cần thiết thì không thể nào đạt được mục tiêu mong muốn.
6.5. Tự giáo dục
Tự giáo dục là một bộ phận của giáo dục, là hoạt động tự giác có ý thức, có mục
đích của cá nhân nhằm tự hoàn thiện những phẩm chất nhân cách của bản thân cho phù
hợp với yêu cầu chuẩn mực của xã hội. Bản chất của tự giáo dục là quá trình ý chí. Trong
tự giáo dục có sự nỗ lực tích cực hóa một hoạt động nào đó và song song với quá trình đó
là việc kìm hãm những ước muốn không hợp lý. Tự giáo dục là những biểu hiện có ý thức
của sự tự phát triển, của sự tự vận động cá nhân, là gia tốc của sự phát triển cá nhân, nó
thúc đẩy sự hình thành những phẩm chất quan trọng và cần thiết nhất đối với cá nhân.
6.6. Giáo dục học
Giáo dục học là một ngành khoa học nghiên cứu bản chất và các quan hệ có tính quy
luật của quá trình hình thành con người như một nhân cách, trên cơ sở đó thiết kế mục
tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức quá trình giáo dục nhằm đạt tới kết quả
tối ưu trong các điều kiện xã hội nhất định. Trong quá trình nghiên cứu đối tượng và giải
16


quyết nhiệm vụ của mình,giáo dục học ngày càng phát triển để đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn giáo dục.
Như vậy, GDH được coi là ngành khoa học nghiên cứu bản chất, quy luật, các
khuynh hướng và tương lai phát triển của quá trình giáo dục với các nhân tố và phương
tiện phát triển nhân cách con người. Trên cơ sở đó, GDH nghiên cứu lý luận và cách tổ

chứcquá trình đó, các phương pháp, hình thức hoàn thiện hoạt động của nhà giáo dục, các
hình thức hoạt động của người được giáo dục, đồng thời nghiên cứu sự phối hợp hành
động của nhà giáo dục với người được giáo dục
Câu hỏi ôn tập và thảo luận
1. Tại sao nói: Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt? Tính chất đặc biệt đó thể
hiện ở những khía cạnh cơ bản nào?
2. Phân tích các chức năng cơ bản của giáo dục học.
3. Phân tích đối tượng nghiên cứu của giáo dục học.
4. Phân biệt các khái niệm cơ bản của GDH và mối quan hệ giữa các khái niệm đó.
Thảo luận: Các chức năng của giáo dục học; xu hướng phát triển của Giáo dục học
hiện nay; các khái niệm cơ bản của giáo dục học. Liên hệ thực tiễn
Chương 2
GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
1. SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CỦA CON NGƯỜI
1.1. Khái niệm con người, nhân cách trong giáo dục học
1.1.1. Khái niệm con người trong giáo dục học
Con người là thực thể của tự nhiên (sinh vật sống có ý thức, có ngôn ngữ, có não và
vỏ não phát triển đến mức độ cao) và tuân theo những quy luật của tự nhiên.
Con người là một thực thể xã hội: sản phẩm của xã hội, mang bản chất xã hội; mọi
thuộc tính, phẩm chất của con người đều được hình thành thông qua sự tác động của xã
hội, thông qua mối quan hệ người- người (quy luật xã hội).
Cái tự nhiên và cái xã hội tồn tại trong con người không tách biệt nhau mà thống
nhất, hoà nhập, chi phối, chế ước lẫn nhau. C.Mác đã khẳng định: “... bản chất con người
không phải là cái gì chung chung trừu tượng, trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Nhận định này cho thấy:
- Con người tồn tại trong rất nhiều mối quan hệ, quan tâm đến các mối quan hệ của
con người chính là để hiểu rõ bản chất con người.
- Bản chất con người bao giờ cũng được bộc lộ, được thể hiện ra trong chính cuộc
sống, trong hoạt động đa dạng và phong phú của nó.
Vậy, con người là sản phẩm của lịch sử xã hội, là thực thể tự nhiên mang bản chất xã

hội bao gồm những phẩm chất, thuộc tính có ý nghĩa xã hội được hình thành trong quá
trình sống và do kết quả của sự tác động qua lại giữa con người với con người trong xã
hội. Con người là chủ thể hoạt động, là lực lượng sáng tạo ra hệ thống các giá trị vật chất
và tinh thần cho xã hội
Với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay, con người được coi là nhân tố quyết
định cho sự phát triển. Nhận thức sâu sắc về vai trò của con người trong sự phát triển kinh
tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã xác định:
17


- Coi mục tiêu, động lực chính của sự phát triển là vì con người và do con người.
- Đặt con người vào vị trí trung tâm chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
- Khơi dậy tiềm năng của mọi cá nhân, tập thể lao động và cả cộng đồng dân tộc
trong việc thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước.
Quan điểm trên cần được quán triệt trong mọi hoạt động của đời sống xã hội ở nước
ta và trong chính quá trình học tập, tu dưỡng của học sinh, sinh viên hiện nay.
1.1.2. Khái niệm nhân cách trong giáo dục học
Khái niệm nhân cách được xem xét dưới nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau nhưng
nhìn chung đều thống nhất :
- Nhân cách là một hệ thống các thuộc tính ổn định của con người, những thuộc tính
này rất đa dạng, bao gồm các mặt: đức, trí, thể, mĩ ...
- Mỗi cá nhân có một nhân cách riêng.
- Nhân cách có ở con người đã phát triển, định hình về mặt xã hội, đã trở thành một
chủ thể xã hội.
- Bản chất nhân cách bao gồm hai mặt: mặt tự nhiên và mặt xã hội, trong đó mặt xã
hội có ý nghĩa quan trọng đặc biệt.
Theo truyền thống và trong đời sống, người Việt Nam xem nhân cách con người bao
gồm 2 mặt: phẩm chất (đức) và năng lực (tài). Nó được hình thành và phát triển trong quá
trình con người tham gia hoạt động, giao lưu và quá trình rèn luyện.
Như vậy, khi con người là một thành viên của xã hội, chủ thể của các mối quan hệ xã

hội và hoạt động ta nói đến nhân cách của họ. Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những
thuộc tính tâm lý của cá nhân thể hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người. Nói đến
nhân cách là nói đến mặt tâm lý, xã hội, văn hoá, đến giá trị và cốt cách làm người.
Xét dưới góc độ giáo dục học, khái niệm nhân cách bao gồm tất cả các nét, các mặt,
các phẩm chất có ý nghĩa xã hội trong một con người. Những thuộc tính này được hình
thành trong quá trình tác động qua lại giữa người đó và những người khác trong xã hội.
Cũng trong quá trình hình thành phát triển nhân cách của con người, hàng loạt đặc điểm,
thuộc tính, thái độ ... của họ được biến đổi và trở thành những đặc điểm, thuộc tính đích
thực - tính xã hội - đạo đức.
1.2. Khái niệm về sự phát triển nhân cách
Con người sinh ra chưa có nhân cách. Nhân cách con người hình thành và phát triển
khi con người (trực tiếp hay gián tiếp) tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền
văn hoá xã hội để hình thành, phát triển nhân cách của mình. Nói cách khác, chính trong
quá trình sống, học tập, lao động, giao lưu, vui chơi giải trí, con người đã tự hình thành và
phát triển nhân cách của mình
Sự phát triển nhân cách là quá trình biến đổi không ngừng của cá nhân về mặt số
lượng lẫn chất lượng, bao gồm: sự phát triển về mặt thể chất và sự phát triển về mặt tâm
lý, xã hội:
- Sự phát triển về mặt thể chất biểu hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, cân nặng, cơ
bắp, sự hoàn thiện của các giác quan, hệ thần kinh, não bộ...
- Sự phát triển về mặt tâm lý biểu hiện ở những biến đổi cơ bản trong quá trình nhận
thức, xúc cảm ý chí, ở sự hình thành các thuộc tính tâm lý mới của nhân cách.
- Sự phát triển về mặt xã hội biểu hiện rõ ở việc thiết lập và vận hành các mối quan
hệ xã hội.
18


2. NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
2.1. Con người Việt Nam truyền thống
Truyền thống là cái ổn định, tồn tại, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Qua

hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã trở thành một dân
tộc anh hùng. Chính truyền thống vẻ vang ấy đã in sâu vào trong máu thịt của bao thế hệ
con cháu.
- Lòng yêu nước: Được nhen nhóm lên từ lòng yêu gia đình, làng xóm, quê hương.
Nó được củng cố và phát triển do tính dân chủ, sinh hoạt tinh thần phong phú, mang đậm
tính nhân văn. Đất nước do người dân Việt Nam xây dựng nên bằng mồ hôi, nước mắt và
cả máu, vì vậy họ rất yêu quý, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ, giữ gìn nó.
- Tinh thần đoàn kết: Đoàn kết dân tộc là một nét đặc biệt của truyền thống Việt
Nam, đoàn kết trong Đảng, trong dân tộc thành một khối thống nhất, là vũ khí sắc bén
chống lại mọi thứ giặc. Trong giai đoạn hiện nay, truyền thống đoàn kết được nâng lên
một tầm cao mới.
- Lòng nhân ái: Trong mối quan hệ giữa người với người, lòng nhân ái là nét nổi bật
trong truyền thống con người Việt Nam. Ngày nay, lòng nhân ái được kết tinh thành một
khối, thành tư tưởng lớn, được nhân rộng lên rất nhiều.
- Hiếu học: Dân ta vốn nghèo nhưng rất hiếu học. Chính truyền thống quý báu này đã
tạo nên sức sống mãnh liệt đánh bại thứ giặc nguy hiểm là giặc dốt. Dân tộc Việt Nam tự
vươn lên để chiến thắng chính mình bởi họ ý thức rằng “Một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu" (Hồ Chí Minh). Trong điều kiện mở cửa, giao lưu, hội nhập truyền thống này có thể
xem là một di sản quý báu của dân tộc ta, một trong những tiềm năng quan trọng giúp
nước ta hội nhập thành công.
Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị cao đẹp của truyền thống dân tộc mà chúng ta đã,
đang và sẽ còn phải phát huy mạnh mẽ hơn nữa thì vẫn còn tồn tại không ít vấn đề đặt ra
từ di sản truyền thống, như: những thói quen và tập tính của một cư dân nông nghiệp khi
bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, nền kinh tế thị trường; khả năng hoạch toán kinh tế
kém; tâm lý bình quân, cào bằng; lối sống tự do, tuỳ tiện; thói quen trọng tập lệ hơn luật
pháp... Một vấn đề không thể không nhắc đến là đại bộ phận thanh thiếu niên có biểu hiện
sa sút về đạo đức, bị tiêm nhiễm bởi thói ăn chơi truỵ lạc. Do đó, mọi biểu hiện trên đây
cần được khắc phục và giáo dục.
2.2. Con người Việt Nam hiện đại
Trên đà phát triển hiện nay, diện mạo đất nước và con ngưòi Việt Nam đã có những

thay đổi lớn lao. Bên cạnh những thành tựu trong tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời
sống, chúng ta đang đứng trước thách thức lớn mà đáng lo ngại nhất là sự sa sút về đạo
đức của một bộ phận dân cư. Vì vậy, nghiên cứu, tìm hiểu con người Việt Nam hiện đại là
hết sức quan trọng.
Qua nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn, các nhà giáo dục học đã nêu lên một số
vấn đề đáng chú ý về con người Việt Nam hiện đại như sau:
- Về lòng yêu nước: Trước kia, lòng yêu nước của người Việt Nam thường thể hiện
qua tinh thần anh dũng trong cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Nhưng trong điều kiện
hiện nay, lòng yêu nước của người Việt Nam thể hiện trước hết ở việc nỗ lực thực hiện lý
tưởng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Lý tưởng này cụ thể hoá
trong các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Về tinh thần hiếu học: Nhìn chung, con người Việt Nam hiện đại đặc biệt là tầng
lớp thanh niên vẫn kế thừa và phát huy được truyền thống hiếu học của cha anh.
19


Trong thời đại tri thức như hiện nay, đó là thế mạnh mà chúng ta đang khai thác trong quá
trình hội nhập. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có một kế hoạch dài hơi trong việc đào tạo
và sử dụng nhân tài, một bộ phận nhân dân còn coi trọng bằng cấp, xem nhẹ học nghề,
nhất là các lĩnh vực trực tiếp sản xuất kinh doanh.
Thanh niên hiện nay rất nhạy bén, nhanh chóng tiếp nhận cái mới: chấp nhận cạnh
tranh, chấp nhận rủi ro, mạo hiểm... Tuy nhiên, nhiều vấn đề đặt ra như: các tệ nạn xã hội
ngày càng tăng, tư tưởng sùng ngoại, bắt chước lối sống xa hoa, hưởng lạc, đồi bại đang
lan rộng ...
3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
3.1. Vai trò của di truyền trong sự phát triển nhân cách
3.1.1. Khái niệm
Di truyền là sự tái tạo ở trẻ em những thuộc tính sinh học có ở thế hệ trước, là sự
truyền lại từ thế hệ trước đến thế hệ sau những phẩm chất và những đặc điểm nhất định đã
được ghi lại trong hệ thống gen.

Bẩm sinh là những thuộc tính sinh học mà đứa trẻ có được khi mới sinh ra.
3.1.2. Vai trò của di truyền đối với sự phát triển nhân cách
Vấn đề di truyền những tư chất và nhất là những năng lực về một lĩnh vực hoạt động
nào đó ở trẻ em là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục.
Di truyền tạo ra sức sống trong bản chất tự nhiên của con người, đảm bảo cho loài
người tiếp tục tồn tại, phát triển và thích ứng với những biến đổi của điều kiện sống, tạo
cho con người có khả năng hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực nhất định.
Di truyền đóng vai trò là cơ sở, tiền đề vật chất cho sự hình thành và phát triển nhân
cách, chúng không vạch ra xu hướng phát triển cũng như không giới hạn trình độ phát
triển. Bởi lẽ di truyền có trở thành hiện thực hay không, hoặc trở thành hiện thực ở mức độ
nào còn phụ thuộc vào sự đam mê, hứng thú học tập, hứng thú, tính tích cực, tự giác học
tập, tu dưỡng rèn luyện của mỗi cá nhân.
Những yếu tố di truyền không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách
của con người, trong một số trường hợp nó còn gây khó khăn, cản trở sự phát triển nhân
cách của mỗi cá nhân.
Như vậy, yếu tố di truyền có vai trò rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách của mỗi cá nhân. Di truyền có liên quan đến việc hình thành các năng lực hoạt
động trong lĩnh vực nhất định. Di truyền không quy định xu hướng phát triển nhân cách
của cá nhân, cũng không giới hạn trình độ phát triển nhân cách. Xu hướng và trình độ phát
triển nhân cách chủ yếu phụ thuộc vào giáo dục và ảnh hưởng của môi trường xã hội.
Vì vậy, các nhà giáo dục cần:
- Nhận thức được rằng: những yếu tố bẩm sinh, di truyền bộc lộ và phát triển trong
những điều kiện nhất định về chính trị, kinh tế, xã hội, những khả năng chỉ riêng con
người mới có như tư duy, năng khiếu không chỉ phụ thuộc vào yếu tố bẩm sinh, di truyền
mà còn phụ thuộc vào điều kiện xã hội và các quan hệ xã hội. Yếu tố bẩm sinh, di truyền
có được bảo tồn và thể hiện ở thế hệ sau hay không, thể hiện ở mức độ nào thì còn phụ
thuộc vào điều kiện sống. Vì vậy, bẩm sinh, di truyền là tiền đề vật chất cần thiết cho sự
phát triển nhân cách.
- Đánh giá đúng vai trò của yếu tố bẩm sinh, di truyền trong sự hình thành nhân cách.
Nếu xem nhẹ ảnh hưởng của nhân tố sinh học, di truyền thì có nghĩa là chúng ta đã bỏ qua

yếu tố tư chất- tiền đề thuận lợi cho sự phát triển. Ngược lại, nếu tuyệt đối hoá hoặc đánh
20


giá quá cao sẽ dẫn đến sai lầm về mặt nhận thức luận, phủ nhận khả năng biến đổi bản
chất con người cũng như hạ thấp vai trò của giáo dục và tự giáo dục.
- Phát hiện đúng và kịp thời những tư chất và tiềm năng vốn có ở học sinh để xây
dựng kế hoạch và phương hướng phát triển phù hợp.
- Bồi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng cho sự phát triển toàn diện của mọi
học sinh, góp phần tích cực vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
3.2. Vai trò của môi trường trong sự phát triển nhân cách
3.2.1. Khái niệm
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và xã hội
xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và sự phát triển của con người. Có hai loại môi
trường: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
- Môi trường tự nhiên: bao gồm các điều kiện tự nhiên - hệ sinh thái phục vụ cho
hoạt động học tập, lao động sản xuất, rèn luyện thể chất, vui chơi, giải trí của con người.
- Môi trường xã hội là hệ thống tất cả các mối quan hệ xã hội mà trong đó con người
sống và hoạt động như môi trường chính trị, môi trường kinh tế sản xuất, môi trường pháp
luật, môi trường gia đình, môi trường dòng họ, môi trưòng nhà trường...
3.2.2. Môi trường và sự phát triển nhân cách
- Vai trò của môi trường tự nhiên:
Hiện nay cùng tồn tại hai hệ thống quan điểm khác nhau về vai trò của yếu tố môi
trường tự nhiên:
+ Quan điểm của các học giả phi Macxit: “Trong yếu tố môi trường thì yếu tố môi
trường tự nhiên giữ vai trò quyết định. Có vùng dân cư thông minh và có vùng dân cư ngu
xuẩn” (quan điểm địa lý duy vật).
+ Quan điểm Macxit: Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng gián tiếp, là một yếu tố điều
kiện cho sự hình thành, phát triển nhân cách.
Lật lại quan điểm của các học giả phi Macxit, họ cho rằng yếu tố môi trường tự nhiên

quyết định sự phát triển nhân cách nên dẫn đến hiện tượng “có vùng dân cư thông minh và
có vùng dân cư ngu xuẩn”. Đứng trên lập trường quan điểm Macxit chúng ta nhận thấy
quan điểm trên là sai lầm bởi sự phát triển của môi trường tự nhiên bao giờ cũng diễn ra
chậm hơn so với sự phát triển của xã hội loài người. Môi trường tự nhiên muốn có sự thay
đổi đáng kể phải mất đến hàng nghìn, hàng vạn thậm chí hàng triệu năm nhưng sự phát
triển xã hội lại diễn ra nhanh hơn nhiều. Vì vậy, môi trường tự nhiên không thể là yếu tố
quyết định trực tiếp sự hình thành, phát triển nhân cách, ảnh hưởng của nó thể hiện ở chỗ
có thể tạo điều điều kiện thuận lợi hoặc không thuận lợi đối với sự hình thành, phát triển
nhân cách.
- Vai trò của môi trường xã hội:
Khi nói đến ảnh hưởng của môi trường đến sự hình thành và phát triển nhân cách,
giáo dục học chủ yếu nhấn mạnh đến môi trường xã hội. Vai trò đó được thể hiện ở các
mặt sau:
- Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể thực hiện trong một môi trường
nhất định.
- Môi trường đưa ra những yêu cầu khách quan đối với cá nhân con người trong
những giai đoạn lịch sử nhất định. Thực chất đó là mô hình, kiểu nhân cách con người mà
xã hội xem là mục tiêu phấn đấu phải xây dựng cho bằng được, đồng thời cũng phải xem
đó là nguồn động lực cho sự phát triển liên tục của xã hội. Mặt khác, mỗi thành viên xã
21


hội cũng phải coi đó là mẫu nhân cách. Là mục tiêu của bản thân để học tập, tu dưỡng, rèn
luyện theo mô hình nhân cách đó nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội.
- Môi trường tạo ra các phương tiện, điều kiện cho cho sự phát triển nhân cách theo
các yêu cầu khách quan đã xác định. Đó là những điều kiện, phương tiện giúp con người
tham gia vào các hoạt động và giao lưu với những nội dung và hình thức đa dạng, phong
phú, nhờ đó mà cá nhân có thể chiếm lĩnh được các kinh nghiệm xã hội, các giá trị văn
hóa của loại người để hình thành và hoàn thiện nhân cách của bản thân.
- Môi trường quan tâm đặc biệt đến khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả những

khả năng vốn có của con người với nhân cách đang phát triển, nhằm không ngừng thúc
đẩy bản thân nó phát triển theo những định hướng mà môi trường xã hội xác định.
- Môi trường ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách con người thông qua các mối
quan hệ xã hội đa dạng như: quan hệ giai cấp, dân tộc, gia đình; quan hệ sản xuất, quan hệ
tư tưởng… Nhờ có các quan hệ này mà môi trường và con người tác động qua lại với
nhau, trên cơ sở đó nhân cách con người được hình thành và phát triển.Vì thế mỗi người
đều cần phải tham gia vào các mối quan hệ cụ thể nhất định nhằm chiếm lĩnh những kinh
nghiệm xã hội, các giá trị đạo đức nhân văn…Để trên cơ sở đó có thể hình thành, phát
triển và hoàn thiện nhân cách phù hợp với những yêu cầu chung của xã hội.
- Môi trường ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách, song ảnh hưởng
đó theo chiều hướng và mức độ khác nhau đối với các loại thành phần xã hội khác nhau,
thậm chí ở các cá nhân khác nhau
Bởi vì trong cùng một môi trường xã hội, nhưng mỗi thành viên lại có vị trí xã hội,
điều kiện sống, học tập, lao động, lập trường, thái độ… khác nhau. Vì vậy ảnh hưởng của
môi trường đến sự phát triển nhân cách của các thành phần xã hội khác nhau sẽ không
hoàn toàn giống nhau. Tương tự như vậy, ảnh hưởng của các thành viên xã hội khác nhau
đối với môi trường cũng không hoàn toàn giống nhau.
Hơn nữa mỗi thành viên xã hội là một cá nhận riêng lẻ. Mỗi cá nhân có lập trường,
quan điểm, thái độ, năng lực…không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy, tính chất, mức độ ảnh
hưởng của môi trường đối với sự phát triển cá nhân còn phụ thuộc vào thái độ, lập trường,
quan điểm của cá nhân đối với ảnh hưởng đó. Cá nhân tiếp thu, chấp nhận hay phản đôí,
tùy thuộc vào xu hướng và năng lực của cá nhân tham gia cải tạo môi trường tích cực hay
tiêu cực, mạnh hay yếu.
- Môi trường không chỉ ảnh hưởng tích cực mà còn ảnh hưởng tiêu cực đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách. Bởi trong quan hệ với môi trường, một mặt cá nhân
tiếp nhận được những ảnh hưởng tốt. Song mặt khác, cá nhân cũng phải chịu ảnh hưởng
xấu do môi trường đem lại. Những ảnh hưởng tốt, tích cực, những ảnh hưởng xấu tiêu cực
đan xen vào nhau, ảnh hưởng đến sự phát triển không đồng đều, thậm chí trái ngược nhau
của các yếu tố môi trường
Nhiều khi trong một yếu tố ảnh hưởng lại có tính hai mặt: mặt tích cực và mặt tiêu

cực.
Trong môi trường xã hội nước ta hiện nay, các yếu tố tích cực rất nhiều, có tác dụng
định hướng và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người
Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ Việt Nam nói riêng
Môi trường kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay là môi trường kinh tế thị trường,
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Điều này kích thích, phát triển ở con người tính năng động hơn, linh hoạt
động, có chí tiến thủ, có khả năng tự lập cao hơn. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường cũng
22


có những mặt tiêu cực như: thái độ tôn sùng đồng tiền, coi thường đạo lý, muốn là giàu
nhanh chóng bất chấp pháp luật, tình trạng tham ô, hối lộ…cũng đã và đang tác động
không nhỏ đến sự phát triển nhân cách con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Nếu
không có sự định hướng đúng đúng đắn của nhà trường, gia đình và nếu không có ý thức
tự giáo dục, rèn luyện của bản thân thì các thành viên trong xã hội sẽ dễ bị tha hóa, biến
chất.
Tóm lại, môi trường và nhân cách có sự tác động qua lại lẫn nhau. Tác động của môi
trường ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách và được phản ánh vào nhân
cách. Mặt khác, tính tích cực của nhân cách cũng tác động đến môi trường nhằm góp phần
phát triển môi trường và cũng qua đó nhân cách lại có cơ hội ngày càng hoàn thiện hơn.
3.3. Giáo dục và sự phát triển nhân cách
3.3.1. Khái niệm chung về giáo dục
Giáo dục là hoạt động có mục đích, chương trình, kế hoạch, nội dung, phương pháp,
phương tiện nhằm điều khiển, tổ chức và hướng dẫn quá trình hình thành và phát triển
nhân cách học sinh phù hợp yêu cầu xã hội. Giáo dục được thực hiện trong các cơ quan
chức năng của giáo dục và được các nhà sư phạm tiến hành phù hợp với đặc điểm phát
triển nhân cách từng lứa tuổi học sinh.
3.3.2. Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
Trong các yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người, giáo

dục được xem là yếu tố chủ đạo. Bởi vì:
- Giáo dục là hoạt động có mục đích, có chương trình, có kế hoạch, có nội dung,
phương pháp, phương tiện nhằm định hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách.
Giáo dục diễn ra theo một quá trình được tổ chức chặt chẽ với một mục đích xác
định. Mục đích này thường phản ánh các yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn phát
triển của nó đối với mô hình nhân cách con người mà xã hội yêu cầu. Vì vậy nhà giáo dục
phải xem đó là cái đích cho họat động của mình, là kim chỉ nam cho hoạt động giáo dục
của bản thân, đồng thời phải lấy nó làm chuẩn để đánh giá các hoạt động giáo dục của
mình. Còn người được giáo dục cũng phải xem đó là cái đích để rèn luyện, phấn đấu, sao
cho đạt được với sự nổ lực cao nhất của bản thân, phải lấy nó làm chuẩn để tự đánh giá kết
quả phát triển nhân cách của bản thân.
- Giáo dục tổ chức, dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách theo mô hình được
xác định.
Giáo dục không những đưa ra mô hình nhân cách mong muốn, phù hợp với yêu cầu
của xã hội nhằm định hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách mà còn tổ chức các
hoạt động xã hội, sinh hoạt tập thể…Trong đó dưới sự hướng dẫn, tổ chức và điều khiển
của nhà giáo dục, người được giáo dục tự giác, tích cực tham gia để hình thành và phát
triển nhân cách theo định hướng xã định. Trong quá trình hoạt động, thường diễn ra sự
điều chỉnh của nhà giáo dục và sự tự điều chỉnh của người được giáo dục nhằm giúp cho
quá trình phát triển nhân cách của người được giáo dục không bị lệch hướng. Kết quả của
quá trình này sẽ được nhà giáo dục đánh giá và người được giáo dục tự đánh giá
- Giáo dục có khả năng tác động đến tất cả các mặt và làm phát triển toàn diện nhân
cách (thể chất, tâm lý, xã hôi…)
- Giáo dục diễn ra trong suốt cuộc đời. Ở vào môi trường giáo dục nhất định, giáo
dục thường có những tác động phù hợp với các đặc điểm của lứa tuổi và của mỗi cá nhân,
dó đó khả năng làm phát triển tối ưu cho nhân cách
- Giáo dục được thực hiện trong các cơ quan chức năng chuyên biệt do đội ngũ giáo
viên- những người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, hiểu biết đặc điểm tâm
sinh lý lứa tuổi và có khả năng tổ chức hoạt động phụ trách.
23



- Giáo dục không chỉ thích ứng mà còn có thể đi trước hiện thực và thúc đẩy nó phát
triển, đưa con người đến “vùng phát triển gần”. Điều đó có giá trị định hướng cho việc
xây dựng mô hình nhân cách của con người Việt Nam với tư cách là động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong các môi trường sư phạm, nhà giáo dục là
tấm gương cho người được giáo dục. Nhà giáo dục luôn khơi gợi và tạo điều kiện để
người được giáo dục phát huy cao nhất những tiềm năng sẵn có của mình, giúp cho quá
trình phát triển nhân cách của người được giáo dục đạt hiệu quả cao nhất.
- Giáo dục có thể điều khiển, điều chỉnh sự phát triển nhân cách thông qua ảnh hưởng
chi phối đến các yếu tố khác:
+ Đối với bẩm sinh- di truyền: Giáo dục tạo những điều kiện thuận lợi để các yếu tố
di truyền được bộc lộ và phát triển
Giáo dục có thể phát hiện những yếu tố di truyền có lợi cho một số lĩnh vực hoạt
động nào đó (thường gọi là năng khiếu), bồi dưỡng kịp thời, định hướng để phát triển tài
năng cho đất nước thông qua hệ thống lớp chọn, trường chuyên, lớp bồi dưỡng năng
khiếu, các cuộc thi… và hệ thống các trường chuyên biệt khác.
Giáo dục còn có khả năng cải tạo những yếu tố không thuận lợi do bẩm sinh- di
truyền đem lại cho con người. Thông qua các trung tâm phục hồi chức năng, trung tâm
nuôi dạy trẻ khuyết tật như: câm, mù, điếc, chậm phát triển trí tuệ với đội ngũ chuyên viên
được đào tạo chu đáo, cộng với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật, các trung tâm này
có thể giúp các em nắm được những kiến thức phổ thông, cơ bản, các kỹ năng cần thiết để
các em có thể hòa nhập với cuộc sống xung quanh, đặc biệt chương trình giáo dục hòa
nhập cộng đồng hiện nay đã và đang được xã hội ủng hộ nhiệt tình.
+ Đối với yếu tố môi trường: Môi trường không những tạo ra những yếu tố thuận lợi
mà con mang lại những yếu tố không thuận lợi cho sự hình thành và phát triển nhân cách
của người được giáo dục. Vì vậy giáo dục có thể:
Phát hiện những yếu tố thuận lợi của môi trường và sử dụng chúng phục vụ cho việc
giáo dục con người. Giáo dục đã biết kết hợp các môi trường như: nhà trường, gia đình và

xã hội để tạo ra sức mạnh tổng hợp, tạo điều kiện cho người học được giaó dục mọi nơi,
mọi chỗ, mọi lúc
Giáo dục có thể hạn chế, khắc phục những yếu tố không thuận lợi của môi trường đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách con người....
Ngày nay, một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm từng bước khắc phục những
hiểm hoạ do sự tăng quá nhanh về dân số gây ra là tăng cường giáo dục truyền thông,
trong đó đặc biệt chú ý đưa giáo dục dân số vào nhà trường. Giáo dục giúp thế hệ trẻ có
những định hướng giá trị nhân cách đúng đắn, có nhận thức đầy đủ, có thái độ và hành vi
hợp lí. Điều đó góp phần tích cực vào việc hạn chế bùng nổ dân số. Mặt khác, giáo dục
còn có tác dụng giáo dục học sinh có biện pháp hạn chế tai nạn giao thông và phòng chống
các tệ nạn xã hội.
Như vậy, giáo dục có vai trò rất quan trọng không thể thiếu được đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách, giáo dục đóng vai trò chủ đạo nhưng không phải là “vạn
năng”. Sự hình thành và phát triển nhân cách là kết quả phối hợp của nhiều nhân tố tác
động. Yếu tố giáo dục chỉ có thể phát huy tác dụng khi có sự hỗ trợ, phôí hợp với các yếu
tố khác. Mặt khác, sự hình thành và phát triển nhân cách thực chất là sự tác động của lại
giữa các nhân tố bên trong, bên ngoài, các nhân tố khách quan và chủ quan. Vì vậy, cần
phải có sự nỗ lực, tích cực tự giác, ý thức vươn lên, tự hoàn thiện mình của mỗi cá nhân.
3.3.3. Mối quan hệ giữa giáo dục và tính tích cực cá nhân trong sự phát triển
nhân cách
24


Không nên quan niệm giáo dục chỉ là sự tác động một chiều của các lực lượng giáo
dục đến nhân cách của người được giáo dục. Giáo dục bao gồm cả hoạt động tích cực, đa
dạng của ngưòi được giáo dục. Chính thông qua các loại hình hoạt động tích cực, tự giác
của người được giáo dục mà nhân cách được hình thành và phát triển. Như vậy, giáo dục
phải bao gồm cả sự tổ chức, điều khiển của người dạy và hoạt động tích cực, chủ động của
người được giáo dục, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục và tự giáo dục để hình thành và phát
triển nhân cách.

3.3.4. Điều kiện để giáo dục giữa vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách
- Để giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong việc hình thành và phát triển nhân cách, nhà
giáo dục phải tính đến việc phát huy sức sống tự nhiên vốn có của trẻ, những tư chất có ở
mỗi người.
- Trong sự phát triển “sức mạnh trí tuệ” và các “năng lực nhận thức” thì việc dạy học
có tác dụng to lớn. Đặc biệt giáo dục được tiến hành theo nguyên tắc hướng vào “vùng
phát triền gần”, “đón trước” sự phát triển.
- Để phát huy những điều kiện bên trong, cần làm cho người học ý thức được và
chấp nhận những yêu cầu của nhà giáo dục như là yêu cầu của chính mình, là nguyện vọng
của bản thân và mong muốn thực hiện các yêu cầu đó; giúp họ tự đề ra mục tiêu phấn đấu
trong các hoạt động và trong cuộc sống, tự thiết kế chương trình và kế hoạch tự học, tự bồi
dưỡng, tự rèn luyện phẩm chất và năng lực cho bản thân.
- Giáo dục trong nhà trường phải kết hợp với giáo dục trong gia đình và xã hội.
3.4. Hoạt động của cá nhân với sự phát triển nhân cách
Hoạt động của cá nhân được coi là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát
triển nhân cách. Hoạt động làm cho con người nhận thức được hiện thực, kích thích hứng
thú, niềm say mê, sáng tạo và làm nảy sinh những nhu cầu mới, thuộc tính tâm lí mới...
Nhờ đó mà nhân cách được hình thành và phát triển. Hoạt động là nguồn quan trọng cung
cấp cho học sinh hệ thống tri thức, kinh nghiệm và kỹ năng cần thiết.
Muốn tổ chức tốt các loại hình hoạt động cho học sinh cần chú ý:
- Có mục đích, kế hoạch rõ ràng, cụ thể.
- Nội dung và hình thức hoạt động phong phú, đa dạng.
- Các hoạt động phải vừa có giá trị xã hội, vừa mang ý nghĩa cá nhân đối với người
tham gia hoạt động.
- Cần coi trọng việc xây dựng nhu cầu, động cơ hoạt động và mục đích hành động
cho các em.
- Phát huy cao độ tính tích cực, tự giác của học sinh, đồng thời có sự kiểm tra, hướng
dẫn, khích lệ và điều chỉnh trong quá trình hoạt động của các em.
Câu hỏi ôn tập và thảo luận
1. Phân biệt các khái niệm: con người, nhân cách, sự phát triển nhân cách.

2. Sự hình thành, phát triển nhân cách chịu chi phối của những yếu tố nào? Hãy tìm
mối liên hệ giữa chúng và rút ra những kết luận sư phạm cần thiết.
3. Phân tích đặc điểm đặc trưng của con người Việt Nam truyền thống và hiện đại.
Thảo luận: Vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Tìm
những ví dụ cụ thể trong thực tiễn để minh hoạ.
Chương 3
MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU GIÁO DỤC VÀ HỆ THỐNG
GIÁO DỤC QUỐC DÂN
25


×